Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Gợi ý trả lời câu hỏi ôn thi môn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.01 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Câu 1. Chứng minh rằng lịch sử triết học cũng là sự thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập...........................................................................2
Câu 2. Một trong những quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình đổi mới ở
nước ta là: Đổi mới toàn diện và đồng bộ. Hãy phân tích cơ sở triết học
và cơ sở thực tiễn của quan điểm trên........................................................7
Câu 3. Hãy phân tích luận điểm: "Bản chất linh hồn sống của phép biện
chứng duy vật là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể", cho ví dụ minh
họa? Ý nghĩa của luận điểm trên khi áp dụng vào quá trình đổi mới ở
nước ta như thế nào?.................................................................................10
Câu 4. Chứng minh rằng quan điểm lịch sử - cụ thể là bản chất và xuyên suốt
phép biện chứng duy vật..............................................................................23

GỢI Ý TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI


Câu 1. Chứng minh rằng lịch sử triết học cũng là sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
- Trước hết phải khẳng định lịch sử triết học (triết học cũng là một khoa học)
- Sau đó phân tích và chứng minh nó là khoa học ntn?
- Đề bài yêu cầu CM thì phải lấy ví dụ phân tích
===> chứng minh nó thống nhất ở chỗ nào?
===> Nó đối lập ở chỗ nào?
Trả lời:
Triết học là gì? TH là hệ thống tri thức lí luận chung nhất, của con người về thế giới,
về bản thân con người và về vị trí của con người trong thế giới ấy. TH ra đời từ thời
cổ đại, vào khoảng thế kỷ 8 – 6 TCN. Ở Phương Đông: Triết học = Trí (sự hiểu biết
sâu rộng), còn ở Phương Tây: Triết học = Philosophy (Yêu mến sự thông thái).
Lịch sử triết học là lịch sử hình thành và phát triển triết học nói chung cũng như của
các hệ thống triết học trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
TH trải qua các thời kì là sự pt và thay thế lẫn nhau giữa các hệ thống TH . Trong


LSTH, luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa các trường phái TH, mà điển hình là cuộc đt
giữa CN Duy vật và CN DT. Trong quá trình đấu tranh đó, các trường phái triết học
vừa gạt bỏ nhau (hay chính là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập), vưà kế thừa (thống
nhất với nhau) và mỗi trường phái đều không ngừng biến đổi, pt lên một trình độ
mới cao hơn. Chính sự đt giữa các TP TH làm cho TH không ngừng pt. Sự pt của TH
ko chỉ diễn ra quá trình thay thế lẫn nhau giữa các học thuyết TH, mà còn bao hàm
sự kế thừa lẫn nhau giữa chúng. Các HTTH giai đoạn sau thường kế thừa những tư
tg nhất định của TH giai đoạn trước và cải biến, phát triển cho phù hợp với yc của gđ
mới. Đó chính là sự phủ định biện chứng trong LS pt tư tg TH. Hay có thể nói rằng “
LS triết học cũng là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Vậy sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập của LS TH được thể hiện cụ thể
như thế nào, chúng ta cùng tìm hiểu về một trong những quy luật cơ bản của TH, đó
là qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Quy luật này nói lên nguồn
gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển, là hạt nhân của phép biện
chứng duy vật và nó có ý nghĩa thực tiễn quan trọng.
Như ta đã biết, mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều là sự thống nhất của các mặt đối
lập. Trong đó:
Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt tồn tại trong sự vật có mang những
đặc điểm, tính chất biến đối theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự tồn tại của các


mặt đối lập trong sự vật là khách quan và phổ biến. Bất kỳ sự vật nào cũng có hai
hoặc nhiều mặt đối lập; và cứ hai mặt đối lập có liên hệ, tác động lẫn nhau thì tạo
thành một mâu thuẫn biện chứng.
Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm triết học dùng để chỉ sự liên hệ, tác động qua
lại lẫn nhau, bài trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập biện chứng. Mâu thuẫn
biện chứng tồn tại khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu
thuẫn biện chứng trong tư duy là sự phản ánh mâu thuẫn biện chứng trong hiện thực
khách quan và là nguồn gốc phát triển của nhận thức. Hai mặt đối lập tạo thành mâu
thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất của các mặt đối lập.

Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời
nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm
tiền đề. Như vậy, cũng có thể xem sự thống nhất của hai mặt đối lập là tính không
thể tách rời của hai mặt đó.
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, đồng nhất với
nhau. Với ý nghĩa đó, "sự thống nhất của các mặt đối lập" còn bao hàm sự "đồng
nhất" của các mặt đó.
Sự thống nhất của mặt đối lập trong một sự vật còn biểu hiện là sự thẩm thấu vào
nhau, tạo điều kiện, tiền đề cho nhau phát triển. Trong tác phẩm Gia đình thần thánh,
C.Mác và Ph.Angghen viết rằng, giai cấp vô sản và sự giàu có là hai mặt đối lập. Hai
cái như vậy hợp thành một khối thống nhất. Cả hai đều là hình thức tồn tại của quyền
tư hữu.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của
chúng. Song, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển,
khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Khi nghiên cứu sự thống nhất của các mặt đối lập trong xã hội tư bản, C.Mác và
Ph.Angghen nói: Người tư hữu là mặt bảo thủ, người vô sản là mặt phá hoại. Người
thứ nhất có hành động nhằm duy trì mâu thuẫn, người thứ hai có hành động nhằm
tiêu diệt mâu thuẫn. Sau khi vạch rõ bản chất của mỗi một mặt đối lập của xã hội tư
bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã không những chỉ rõ trạng thái của xã hội ấy là thống
nhất, mà còn chỉ rõ trạng thái ấy là đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ
định lẫn nhau giữa các mặt đó. Không thể hiểu đấu tranh của các mặt đối lập chỉ là
sự thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đó. Sự thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đối lập chỉ là
một trong những hình thức đấu tranh của các mặt đối lập. Tính đa dạng của hình
thức đấu tranh của các mặt đối lập tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ, lĩnh vực tồn
tại của các mặt đối lập, cũng như điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa
chúng.



u tranh gia cỏc mt i lp l ng lc ca s phỏt trin; nhng khụng nờn hiu
u tranh gia cỏc khuynh hng khỏc nhau trong s vt, hin tng l mt cỏi gỡ
tnh, khụng bin i. Trờn thc t, ú l c mt quỏ trỡnh phỏt trin lch s ca cỏc
mt i lp, quỏ trỡnh vch rừ mõu thun. Trong giai on u ca quỏ trỡnh y, s
thng nht gia cỏc mt i lp cũn tng i bn vng; nhng s u tranh gia
cỏc mt i lp lm lung lay s thng nht y, lm cho nú kộm bn vng hn cho
n mt lỳc nht nh, mõu thun lm cho nú n tung ra v tiờu dit nú. Vỡ vy,
V.I.Lờnin cho quỏ trỡnh phỏt trin l s phõn chia vt thng nht lm ụi. Phõn chia
vt thng nht lm ụi cú ngha l m rng, rch rừ mõu thun ca hin tng, lm
cho nú gay gt v sõu sc hn. Nh vy, u tranh gia cỏc mt i lp l cỏi ng
lc, cỏi mói mói "khụng n" lm cho cỏc s vt v hin tng khụng c bt bin
hay trng thỏi ngng tr. Ch ngha duy vt bin chng cho rng bt c s thng
nht no gia cỏc mt i lp cng l tng i, tm thi; cũn u tranh gia cỏc
mt i lp l tuyt i. Khi xem xột mi quan h nh vy, V.I.Lờnin vit: "S thng
nht () ca cỏc mt i lp l cú iu kin, tm thi, thoỏng qua, tng i. S u
tranh ca cỏc mt i lp bi tr ln nhau l tuyt i, cng nh s phỏt trin, s vn
ng l tuyt i"1.
* Đấu tranh là hiện tợng khách quan và phổ biến.
- Khách quan: Phép biện chứng duy vật khẳng định mọi sự
vật, hiện tợng trong thế giới đều tồn tại đấu tranh bên trong.
Mỗi sự vật, hiện tợng đều là một thể thống nhất của các mặt,
các thuộc tính, các khuynh hớng đối lập nhau nhng lại ràng
buộc nhau và tạo thành đấu tranh.
- Mâu thuẫn là hiện tợng phổ biến: Đấu tranh tồn tại khách
quan trong mọi sự vật và hiện tợng của giới tự nhiên, đời sống
xã hội và t duy con ngời thể hiện:
+ Đấu tranh tồn tại phổ biến ở mọi sự vật hiện tợng, tồn tại
trong suốt quá trình phát triển của chúng ta.
+ Không có sự vật, hiện tợng nào lại không có đấu tranh và
không có một giai đoạn nào trong sự phát triển của mỗi sự vật,

hiện tợng lại không có đấu tranh. Đấu tranh này mất đi mâu
thuẫn khác lại hình thành.
2. Mõu thun bin chng ngun gc ca s vn ng v s phỏt trin
Nhng ngi theo ch ngha duy tõm tỡm ngun gc, ng lc ca s vn ng, phỏt
trin nhng lc lng siờu nhõn hay lý trớ, ý mun ch quan ca con ngi.

1

V.I.Lờnin. Ton tp, T.29, Nxb Tin b, Mỏtxcva, 1981, tr. 379-380.


Những người theo quan điểm siêu hình tìm nguồn gốc của sự vận động, phát triển ở
sự tác động bên ngoài đối với sự vật. Rốt cuộc, họ đã phải nhờ đến "Cái hích đầu
tiên" (Newton) hay cầu viện tới Thượng đế (Aristote). Như vậy, bằng cách này hay
cách khác, quan điểm siêu hình về nguồn gốc vận động và phát triển sớm hay muộn
sẽ dẫn tới chủ nghĩa duy tâm.
Dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng tìm
thấy nguồn gốc của vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự đấu tranh giữa các
khuynh hướng, các mặt đối lập tồn tại trong các sư vật và hiện tượng.
Trong lịch sử, tư tưởng này đã được Héraclite đề cập đến và được Hêghen phát triển.
Hêghen viết: “Mâu thuẫn, thực tế là cái thúc đẩy thế giới, là cội nguồn của tất cả vận
động và sự sống”2.
C.Mác và Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã luận chứng và phát triển hơn nữa những luận
điểm đó trên cơ sở biện chứng duy vật. C.Mác viết: "Cái cấu thành bản chất của sự
vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu
tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới" 3.
Nhấn mạnh thêm tư tưởng đó, V.I.Lênin viết: "Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh"
giữa các mặt đối lập"4.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động lẫn nhau
của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao gồm cả

sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập không tách rời nhau trong quá trình vận động và phát triển của sự
vật. Sự thống nhất là tạm thời, có điều kiện vì sự vật chỉ tồn tại trong một thời gian.
Khi mâu thuẫn của sự vật được giải quyết thì sự thống nhất bị phá vỡ làm cho sự vật
cũ mất đi, sự vật mới xuất hiện (điều này biểu hiện sự đứng im tương đối). Sự đấu
tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, vì sự đấu tranh diễn ra từ đầu đến cuối, trong
suốt quá trình tồn tại và phát triển của sự vật. Chính đấu tranh của các mặt đối lập
làm cho sự thống nhất của các mặt đối lập bị phá vỡ, làm cho sự vật cũ mất đi, sự vật
mới xuất hiện, mang lại sự đấu tranh của các mặt đối lập mới (điều này thể hiện sự
vận động tuyệt đối).
Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác biệt căn bản, nhưng theo khuynh
hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển và đi đến đối lập.
Hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau,
mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể
thống nhất mới; sự vật cũ mất đi, sự vật mới xuất hiện. Do đó, mâu thuẫn chính là
nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.

2

Xem: Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 325.

3

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, T.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 191.

4

V.I.Lênin, Toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1981, tr. 379.



3. Ý nghĩa phương pháp luận
+ Phân tích mâu thuẫn phải xem xét mâu thuẫn một cách toàn diện và cụ thể.
Bởi vì, khi sự vật khác nhau thì mâu thuẫn của chúng cũng khác nhau; phải tìm cho
ra mâu thuẫn cụ thể của từng sự vật để có biện pháp giải quyết phù hợp. Trong cùng
một sự vật có nhiều mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn có đặc điểm riêng; cho nên phải phân
loại các mâu thuẫn của sự vật để có biện pháp giải quyết phù hợp với từng loại mâu
thuẫn. Quá trình phát triển mâu thuẫn có nhiều giai đoạn; mỗi giai đoạn, bản thân
mâu thuẫn và từng mặt của nó có đặc điểm riêng và cách giải quyết cũng khác
nhau… Thực hiện tốt yêu cầu này sẽ giúp chúng ta hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật,
hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
+ Giải quyết mâu thuẫn phải giải quyết đúng lúc, đúng chỗ và đủ điều kiện. Bởi
vì mâu thuẫn thường trải qua 3 giai đoạn: trong giai đoạn đầu chỉ mới xuất hiện sự
khác nhau, hai mặt đối lập bắt đầu hình thành, đấu tranh thấp; trong giai đoạn thứ
hai, xuất hiện mâu thuẫn và thể hiện rõ sự đối lập, đấu tranh giữa hai mặt đối lập trở
nên gay gắt; giai đoạn thứ ba là giai đoạn chuyển hóa, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra
đời.
Mỗi thời đại lịch sử đều có mâu thuẫn cơ bản - mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản
trong xã hội. Sự đấu tranh giữa các giai cấp ấy quyết định chiều hướng của sự phát
triển. Tuy nhiên, bên cạnh mâu thuẫn của những giai cấp cơ bản còn có nhiều mâu
thuẫn của các tầng lớp khác, thậm chí ngay trong giai cấp vô sản cũng có sự khác
nhau… Tất cả những cái đó cần phải được tính đến khi lựa chọn phương pháp và
hình thức đấu tranh giai cấp, khi định ra chính sách. Trong cuộc đấu tranh thực tế,
nếu không nhìn thấy tất cả cái lưới mâu thuẫn phức tạp ấy, tức là giản đơn hóa bức
tranh đúng đắn về đấu tranh của các mặt đối lập. Việc hiểu đúng tính chất phức tạp
và nhiều vẻ đó của các mâu thuẫn xã hội, có ý nghĩa to lớn đối với sự hoạt động thực
tiễn của Đảng giai cấp vô sản.
KL, qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện
chứng duy vật; chỉ rõ nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của các sự
vật, hiện tượng.



Câu 2. Một trong những quan điểm cơ bản chỉ đạo quá
trình đổi mới ở nước ta là: Đổi mới toàn diện và đồng
bộ. Hãy phân tích cơ sở triết học và cơ sở thực tiễn
của quan điểm trên.
- Trước hết phải chí ra hoàn cảnh cụ thể( nguyên nhân; tính thời điểm lịch sử) của
quá trình đổi mới ( từng thời điểm lịch sử ví dụ như trước ĐH Đảng 6 1986, ĐH
Đảng 7 1991 và dự thảo ĐH Đảng 10 2010)
- Ví dụ ( số liệu chứng minh) và phân tích trên những quan điểm triết học ( tham
kháo những bài viết và số liệu bên dưới)
Tra loi:
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện và đồng bộ là nội dung nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến:
- Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới ñều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ
ràng buộc lẫn nhau.
- Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ
phổ biến
- Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng
quát quá trình vận ñộng, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế
giới.
Ðổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù
hợp
Trong thực tiễn đổi mới, cải cách, cải tổ ở các nước xã hội chủ nghĩa đã cho thấy nếu
xác định đúng mục tiêu song không xác định đúng phương thức tiến hành, cách làm,
lộ trình và bước đi phù hợp thì cũng không thể thành công.
Ðối với Ðảng ta, đổi mới là một sự nghiệp có tính chất cách mạng sâu sắc, toàn diện,
tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến mọi cấp, mọi ngành, mọi
người, do đó phải đổi mới toàn diện từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn;
từ kinh tế, chính trị, quan hệ đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ
hoạt động lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ

phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp Trung ương đến hoạt động của cấp
địa phương và cơ sở.


Ðổi mới toàn diện phải tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt, các bộ phận, các khâu
của đời sống xã hội, để tạo điều kiện cho chúng phát huy vai trò nhân-quả của nhau,
thúc đẩy nhau cùng đổi mới, làm cho toàn bộ cơ thể xã hội chuyển động.
Tuy nhiên, đổi mới toàn diện và đồng bộ không có nghĩa là làm đồng loạt, dàn đều,
rải mành mành ra mà phải có trọng tâm, trọng điểm, có sự tính toán cẩn thận các
bước đi, hình thức, cách làm phù hợp, phải nắm lấy khâu then chốt, nắm lấy "mắt
xích" chủ yếu trong mỗi thời kỳ. Ðể xác định đúng bước đi và cách làm phù hợp,
điều quan trọng là phải nắm vững các mối quan hệ biện chứng chủ yếu trong đời
sống xã hội, đó là quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế
và chính trị, giữa kinh tế và văn hóa - xã hội, giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh...
trong đó xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Thất bại của công cuộc cải tổ ở Liên Xô có một phần nguyên nhân từ giải quyết
không đúng mối quan hệ này. Không xác định đúng bước đi; nóng vội, hấp tấp sẽ
gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá
công cuộc đổi mới; ngược lại quá chậm chạp trong việc đổi mới hệ thống chính trị sẽ
cản trở sự phát triển kinh tế cũng như toàn bộ công cuộc đổi mới. Vì vậy, lúc đầu
chúng ta tập trung vào đổi mới kinh tế và từng bước đổi mới hệ thống chính trị; tiếp
theo phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị; đổi mới
hệ thống chính trị song phải bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, đổi mới vì mục tiêu
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phải coi đổi mới là động lực;
ổn định là điều kiện tiền đề; phát triển nhanh và bền vững là mục đích.
Trong những năm qua, cùng với đổi mới kinh tế và trên cơ sở đổi mới kinh tế, chúng
ta đã từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị:
đổi mới và chỉnh đốn Ðảng, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, mở rộng dân chủ
trong Ðảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và xã hội;

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, cải cách các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, đổi mới hệ thống chính
quyền địa phương; đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội; mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội, đẩy mạnh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí...
Trong quá trình đổi mới, chúng ta không phủ định sạch trơn thành tựu của quá khứ,
mà trân trọng và kế thừa những kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của cha ông,
những thành tựu của cách mạng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng
thời kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những thành quả của văn minh nhân loại, trong đó
có mặt tích cực của kinh tế thị trường, những giá trị trong tư tưởng về Nhà nước
pháp quyền - những thứ trước đây bị coi là riêng có của chủ nghĩa tư bản. Những
thành tựu của đổi mới hệ thống chính trị trong 20 năm qua đã khẳng định rằng chúng
ta không chỉ đổi mới kinh tế mà còn đổi mới cả chính trị, chứ không phải như luận


điệu xuyên tạc của các phần tử phản động và cơ hội chính trị cho rằng "Việt Nam chỉ
đối mới kinh tế mà không đổi mới chính trị".
Ngày nay để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, chúng ta phải bảo đảm tốt hơn
sự gắn kết, đồng bộ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là
then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Cần đổi mới hệ
thống chính trị đồng bộ hơn với đổi mới kinh tế; gắn kết chặt chẽ kinh tế với văn hóa
- xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; gắn kết chặt chẽ
phát triển kinh tế với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và đối ngoại.
Trong hoạt ñộng thực tiễn chủ thể phải:
- Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những ñặc ñiểm,
tính chất, yếu tố, mặt,…) chi phối sự vật.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện,
biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp
vật chất) ñể biến ñổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những ñặc ñiểm, tính chất,
yếu tố, mặt,…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ, quan hệ bên

trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…của nó.
- Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những ñặc ñiểm, tính
chất, yếu tố, mặt,…) của bản thân sự vật; kịp thời sử dụng các công cụ,
phươtiện, biện pháp bổ sung ñể phát huy hay hạn chế sự tác động của chúng,
nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo ñúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.
Ý nghĩa phương pháp luận - Quan điểm (nguyên tắc) toàn diện
Nếu nắm vững nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chúng ta có thể xây dựng
quan điểm (nguyên tắc) toàn diện để đẩy mạnh hoạt động nhận thức đúng đắn và
hoạt động thực tiễn hiệu quả. Nguyên tắc này yêu cầu:
+ Trong hoạt động nhận thức, chủ thể cần phải khách quan:
Một là, tìm hiểu để phát hiện càng nhiều càng tốt những mối liên hệ chi phối đối
tượng nhận thức.
Hai là, phân loại để xác định trong các mối liên hệ đã được phát hiện ra thì mối liên
hệ nào là liên hệ bên trong, liên hệ cơ bản, liên hệ tất nhiên, liên hệ ổn định… Dựa
trên những mối liên hệ bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định… đó để lý giải được
những mối liên hệ còn lại.
Ba là, xây dựng được hình ảnh chỉnh thể trong tư duy về đối tượng nhận thức như sự
thống nhất các mối liên hệ trên. Từ đó phát hiện ra đặc điểm, tính chất, quy luật,
nghĩa là bản chất của đối tượng nhận thức.


+ Trong hoạt động thực tiễn, khi biến đổi đối tượng chủ thể phải:
Một là, chú trọng đến mọi mối liên hệ, và đánh giá đúng vai trò vị trí của từng mối
liên hệ đang chi phối đối tượng.
Hai là, thông qua hoạt động thực tiễn sử dụng nhiều biện pháp, phương tiện thích
hợp để biến đổi những mối liên hệ đó, đặc biệt là những mối liên hệ bên trong, cơ
bản, tất nhiên, quan trọng…
Ba là, nắm vững sự chuyển hóa của các mối liên hệ để kịp thời đưa ra các biện pháp
bổ sung nhằm phát huy hay hạn chế sự tác động của chúng, và lèo lái sự vận động,
phát triển của đối tượng đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta.

Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện nhưng nó cũng xa lạ
với cách xem xét dàn trải, liệt kê chung chung. Nó đòi hỏi phải biết kết hợp nhuần
nhuyễn “chính sách dàn đều” với “chính sách có trọng điểm”. Quan điểm toàn diện
cũng khác với chủ nghĩa chiết trung và chủ nghĩa nguỵ biện.

Câu 3. Hãy phân tích luận điểm: "Bản chất linh hồn sống
của phép biện chứng duy vật là phân tích cụ thể mỗi
tình hình cụ thể", cho ví dụ minh họa? Ý nghĩa của
luận điểm trên khi áp dụng vào quá trình đổi mới ở
nước ta như thế nào?
- "Bản chất linh hồn sống của phép biện chứng duy vật là phân tích cụ thể mỗi
tình hình cụ thể"
Giải thích thuật ngữ : Bản chất linh hồn sống là gì?
Từ đó phân tích cụ thể trong mỗi tình hình cụ thể …. Ví dụ cụ thể trong quá trình đổi
mới ở VN (những kỳ ĐH Đảng 6 1986, ĐH Đảng 7 1991 và dự thảo ĐH Đảng 10
2010)
Gần giống với câu 4 nhưng lấy ví dụ áp dụng vào vn là ok
:PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT – PHƯƠNG PHÁP LUẬN NHẬN THỨC
KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PBC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA PBC DV
1.1 Khái niệm PBC và khái quát lịch sử phát triển của PBC
1.1.1 Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức đối tượng có 2 nội dung:
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi chỉnh thể khác
và giữa các mặt đối lập có một ranh giới tuyệt đối.


- Phương pháp nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại, nếu có sự biến đổi thì chỉ là
sự biến đổi về lượng còn nguyên nhân của sự biến đổi nằm bên ngoài đối tượng.
Phương pháp siêu hình làm cho con người nhận thức thế giới đi đến những sai lầm

sau:
+ Chỉ nhìn thấy SV, HT mà không thấy mối liên hệ qua lại giữa các SV, HT ấy. Ví dụ
nhận thức về một thành phần kinh tế ấy mà không thấy mối liên hệ giữa thành phần
kinh tế ấy với các thành phần kinh tế khác.
+ Chỉ thấy sự tồn tại của những SV mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong
của chúng.
+ Chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của SV ấy mà quên mất sự vận động của SV ấy, dễ bị
động trước sự biến đổi của SV.
+ Chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng. Chỉ thấy một mà không thấy nhiều,
chỉ thấy cá thể mà không thấy toàn bộ.
Phương pháp siêu hình như vậy tất yếu sẽ mang đến cho con người một lối tư
duy cứng nhắc, bảo thủ theo kiểu “A đồng nhất tuyệt đối với A, A là chính nó”.
Trên thế giới không có cái gì là chính nó.
1.1.2 Phương pháp BC: 2 nội dung
- Là phương pháp nhận thức đối tượng trong các mối liên quan với nhau, ảnh hưởng
nhau, ràng buộc nhau.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi nằm trong khuynh hướng
chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các SV HT mà nguồn gốc
của sự thay đổi này là do sự đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẩn
nội tại của chúng.
Phương pháp BC giúp con người nhận thức SV ở 4 nội dung sau:
+ Không chỉ thấy SV cá biệt mà còn thấy được mối liên hệ qua lại giữa chúng.
+ Không chỉ thấy sự tồn tại mà còn thấy sự hình thành và tiêu vong của SV.
+ Không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái vận động biến đổi của SV.
+ Không chỉ thấy cây mà còn thấy rừng.
Nếu phương pháp siêu hình mang đến cho con người sự nhận thức sai lầm về
SV. Với bản chất của phương pháp BC như vậy đã mang đến cho con người một
thứ tư duy mềm dẻo linh hoạt, một thứ tư duy thừa nhận trong những trường
hợp cần thiết bên cạnh cái “hoặc là” còn là cái “vừa là”, cái khẳng định và cái
phủ định không chỉ loại trừ nhau mà có liên hệ BC với nhau. SV vừa nó vừa là

cái khác nó. Ví dụ Đảng viên có thề làm kinh tế tư nhân.
1.1.3 Lịch sử của PBC: có 3 hình thức


- PBC chất phác thời cổ đại. Khi nói tới BC cổ đại thì người ta thường đề cập đến
BC DT của Socate Hecralit và Platon nhưng chỉ dừng lại ở nghệ thuật tranh luận để
tìm ra chân lý. Tức là trong quá trình tranh luận chỉ ra cái mâu thuẫn trong lập luận
của đối phương và chỉ ra cách giải quyết những mâu thuẫn đó. BC cổ đại mà điển
hình là của Hecalite mới dừng lại ở trực kiến thiên tài của ông chứ chưa phải là kết
quả nghiên cứu của lý thuyết khoa học. Về cơ bản là đúng nhưng chưa có giá trị cao
về mặt khoa học vì vậy sau này nó bị tư duy siêu hình TK15 phủ định.
- PBC DT trong P cổ điển Đức: bắt đầu từ Kant và kết thúc với Feurbach. Tính duy
tâm thể hiện ở chỗ coi BC là sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Trong quá trình phát
triển này ý niệm tuyệt đối tự tha hóa, chuyển hóa thành giới tự nhiên, sau đó trở về
với chính bản thân mình. Theo Hegel sự phát triển BC của thế giới chỉ là sự thể hiện
sự tự vận động của ý niệm tuyệt đối mà thôi.
→ Có thể nhận xét đối với PBC DT trong P cổ điển Đức ngoài giá trị học thuật
nó không có giá trị trong vấn đề nhận thức và mặt thực tiễn. Giá trị về mặt học
thuật thể hiện ở chỗ cống hiến quan trọng nhất của PBC DT trong P cổ điển
Đức là phương pháp xem xét SV đối lập với phương pháp siêu hình thế kỷ 1718, đấy là thành công của nó. Và lần đầu tiên PBC thể hiện với tư cách là logic
BCđể khắc phục hạn chế của logic hình thức.
- PBC DV ra đời vào những năm 40 của thế kỷ 19 do Mác và Ănghen sáng lập.
Theo Ănghen “PBC là khoa học về sự liên hệ phổ biến hoặc là môn khoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và
tư duy”
PBC DV là sự thống nhất hữu cơ giữa W duy vật với phương pháp BC, giữa lý luận
nhận thức với logic BC. Sự ra đời của PBC DV là một cuộc cách mạng trong phương
pháp tư duy P, là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những SV và những
phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng, trong sự
ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng.

1.2 Nội dung cơ bản của PBC DV - Tính khoa học và tính cách mạng của nó
Nội dung cơ bản của PBC DV gồm 2 nguyên lý, 3 quy luật, 6 cặp phạm trù. Trong
đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát có nội dung khái quát
nhất. Còn 3 quy luật, 6 cặp phạm trù là sự cụ thể hóa nội dung của 2 nguyên lý.
1.2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
- Xem xét các SV HT của thế giới, bản thân chúng không tồn tại độc lập một cách
tuyệt đối bên cạnh nhau. Mà trái lại tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau.
- Mối liên hệ là một phạm trù P khái quát về mối liên hệ, quan hệ của các SV HT
nghĩa là có sự ràng buộc, phụ thuộc có sự sự quy định, tác động qua lại sự chuyển
hóa lẫn nhau giữa các SV, HT.


- Các tính chất của mối liên hệ: có 3 tính chất.
+ Tính KQ: là cái vốn có của SV HT, không phụ thuộc vào ý chí KQ của con người.
+ Tính phổ biến: Bất cứ SV, HT nào cũng có liên hệ với SV, HT khác, không có SV
HT nào nằm ngoài mối liên hệ. Biểu hiện dưới hình thức riêng biệt cụ thể, tùy theo
những điều kiện nhất định. Cho dù dưới hình thức nào chúng chỉ biểu hiện ở mối
liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
+ Tính đa dạng, nhiều vẻ của mối liên hệ: Chúng đa dạng về tinh chất về trình độ và
hình thức biểu hiện ở chỗ là có mối liên hệ chung, tác động đến mọi lĩnh vực của thế
giới. Có mối liên hệ riêng chỉ liên quan đến từng SV HT cụ thể. Có mối liên hệ bên
trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu - thứ yếu, tất nhiên - ngẫu nhiên ..
→ các mối liên hệ có vai trò khác đối với sự vận động phát triển của SV.
* Những phạm trù của PBC DV là sự cụ thể hóa nguyên lý về sự liên hệ phổ
biến
Nguyên lý là sự khái quát chung về tính chất sự liên hệ BC của thế giới, đó là sự liên
hệ và sự phát triển được biểu hiện ở 2 nguyên lý. Phạm trù và quy luật là lý luận
nghiên cứu các mối liên hệ về sự phát triển của thế giới. Vì vậy các phạm trù cũng
như quy luật của PBC DV mang đến cho chúng ta phương pháp luận để thực
hiện các quan điểm được rút ra từ các nguyên lý. VD: quan điểm toàn diện, quan

điểm phát triển, quan điểm lịch sử.
Cụ thể đối với các phạm trù cái chung - cái riêng, tất nhiên - ngẫu nhiên, bản chất
– hiện tượng là cơ sở phương pháp luận trực tiếp của các phương pháp như phân
tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, khái quát hóa, trừu tượng hóa. Trên cơ sở đó nó
giúp chúng ta rút ra được mối liên hệ bản chất để từ đó hiểu được toàn bộ các mối
liên hệ theo một hệ thống nhất định. Các phạm trù như nguyên nhân - kết quả, khả
năng - hiện thực là cơ sở phương pháp luận để chỉ rõ trình tự kế tiếp nhau của các
mối liên hệ và sự phát triển như là một quá trình tự nhiên. Phạm trù nội dung và
hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ
thuộc vào nội dung và khả năng sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để đạt được
mục đích.
1.2.2 Nguyên lý về sự phát triển
1.2.2.1 Khái niệm về sự phát triển: Phát triển được coi là một phạm trù P khái quát
về sự vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện. Rõ ràng khái niệm phát triển và vận động không đồng nhất với nhau.
Vận động là sự biến đổi nói chung, có thể đi lên hay đi xuống. Còn phát về sự vận
động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện. Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nghĩa với vận động.
PBC DV không chỉ thừa nhận sự phát triển của thế giới mà còn chỉ ra những nội
dung sau đây:


- Chỉ ra cách thức của sự phát triển là quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc.
- Chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là nằm trong bản thân các SV HT, đó là do quá
trình giải quyết mâu thuẫn.
- Chỉ ra khuynh hướng & kết quả của sự phát triển là quá trình diễn ra theo đường
xoáy ốc với kết quả là dường như SV trở lại với điểm xuất phát ban đầu nhưng trên
cơ sở cao hơn.
PBC DV còn chỉ ra rằng sự phát triển của thế giới không phải lúc nào cũng diễn ra

theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí nó có thể có những bước thụt
lùi tạm thời. Hơn nữa sự phát triển còn thể hiện sự khác nhau trong thế giới hiện
thực. Sự phát triển của xã hội thể hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên và cải tạo các
quan hệ xã hội của con người. Trong khi đó sự phát triển của tư duy thể hiện ở khả
năng nhận thức của con người ngày càng sâu sắc, ngày càng đầy đủ và chính xác về
thế giới hiện thực. Sự phát triển của mỗi con người biểu hiện ở khả năng tự hoàn
thiện về thể chất và tinh thần để phù hợp với sự vận động và phát triển của xã hội.
Nếu không có sự hoàn thiện mình về thể chất và tinh thần thì không thể tồn tại.
1.2.2.2 Tính chất của sự phát triển: 3 tính chất KQ, phổ biến và đa dạng.
- Tính KQ của sự phát triển: nguồn gốc của sự phát triển nằm bên trong mỗi SV. Đó
là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại, vận động
của SV.
- Tính phổ biến của sự phát triển: nó diễn ra ở mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy
cũng như ở bất cứ SV, HT nào của thế giới KQ.
- Tính đa dạng và phong phú: phát triển là khuynh hướng chung của thế giới. Tuy
nhiên ở mỗi SV HT thì quá trình phát triển diễn ra không giống nhau. Do chúng tồn
tại trong những điều kiện không gian, thời gian khác nhau; trong quá trình phát triển
của bản thân các SV HT thì các SVHT chịu sự tác động của rất nhiều SV HT khác,
của rất nhiều các yếu tố, các điều kiện. Chính vì những tác động như vậy, nó có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của SV. Đôi khi nó làm thay đổi chiều hướng
phát triển, thậm chí làm cho SV thụt lùi. VD: Trình độ nhận thức của thế hệ cha mẹ
không giống với thế hệ con cái vì các thế hệ sinh ra và lớn lên trong những điều kiện
không gian, thời gian khác nhau; bản thân các SVHT bị chi phối bởi các yếu tố khác
nhau.
1.2.2.3 Những quy luật cơ bản của PBC DV là sự cụ thể hóa nguyên lý về sự
phát triển: 3 quy luật cơ bản của PBC DV đều có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo
mọi hoạt động của con người, chỉ đạo các quan niệm toàn diện, phát triển, lịch sử cụ
thể. Nó vạch ra cách thức, nguồn gốc, động lực và xu hướng phát triển tiến lên của
các SV HT trong thế giới. Cụ thể:



- Quy luật lượng – chất: chỉ ra cách thức, cơ chế của sự phát triển là đi từ những biến
đổi nhỏ nhặt dần dần về lượng đến giới hạn độ thì gây ra những biến đổi căn bản về
chất thông qua những bước nhảy vọt. Mọi sự biến đổi về lượng không tức khắc dẫn
đến sự thay đổi về chất tuy nhiên có ảnh hưởng đến chất của SV HT. Trong bất kỳ
SV HT nào cũng đều thống nhất của hai mặt đối lập chất và lượng. PBC DV chỉ ra
rằng nó thống nhất trong một độ. Độ là giới hạn mà ở giới hạn đó lượng thay đổi
chất vẫn chưa thay đổi vì SV vẫn còn là nó chưa trở thành SVHT khác. Mọi sự thay
đổi về lượng không tức khắc dẫn đến sự thay đổi về chất. Tuy nhiên, có ảnh hưởng
đến chất của SV HT. Chỉ khi lượng vượt qua giới hạn độ và cùng với những điều
kiện nhất định thì lúc này chất của SV sẽ thay đổi. Khi chất mới ra đời thì nó quy
định, ảnh hưởng tới lượng mới về quy mô, tốc độ khuynh hướng vận động của
lượng. Quy luật lượng - chất là cơ sở phương pháp luận chung cho mọi cơ chế phát
triển với 3 yêu cầu sau:
+ Bước nhảy làm chất mới thay thế chất cũ là tất yếu KQ trong quá trình phát triển.
Song sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi lượng thay đổi đến điểm nút. Vì vậy trong
hoạt động thực tiễn của con người, muốn tạo ra bước nhảy thì phải quan tâm đến
việc tích lũy về lượng. Khi lượng thay đổi đến điểm nút thì phải thực hiện bước
nhảy. Do đó, cần chống tư tưởng nóng vội, chủ quan duy ý chí cũng như chống tư
tưởng không dám thực hiện bước nhảy để tạo ra sự thay đổi về chất.
+ Sự thay đổi về chất của SV còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết các
yếu tố tạo nên SV. Chính vì vậy trong hoạt động thực tiễn của mình, con người cần
phải biết tạo ra sự tác động vào phương thức liên kết các yếu tố tạo nên SV. Ví dụ
một đội bóng cò những cầu thủ trung bình nhưng HLV biết liên kết họ tạo thành một
sức mạnh tập thể.
+ Quy luật của tự nhiên và quy luật xã hội đều KQ như nhau. Trái với quy luật tự
nhiên thì tự nó giải quyết. Quy luật xã hội là quy luật có sự tham gia của con người
do đó để bước nhảy trong xã hội được thực hiện thì con người không chỉ tôn trọng
điều kiện KQ mà cần nỗ lực chủ quan.
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay quy luật mâu thuẫn: vạch

ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển và phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết
mâu thuẫn bên trong SV. Vì vậy, quy luật này là cơ sở phương pháp luận chung nhất
cho việc phân tích mâu thuẫn và quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn với 3 yêu
cầu cơ bản sau:
+ Do bất kỳ SV HT nào cũng tồn tại mâu thuẫn nhưng muốn phát hiện mâu thuẫn thì
phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau.
Tức là phải tìm ra được những mặt đối lập, đồng thời tìm ra mối liên hệ, tác động lẫn
nhau giữa các mặt đối lập được. Khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét quá trình
phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vị trí, vai trò và mối quan hệ lẫn
nhau của các mâu thuẫn. Đồng thời phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị


trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển
hóa lẫn nhau giữa chúng. Có như thế mới hiểu đúng mâu thuẫn của SV và hiểu đúng
xu hướng vận động phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
+ Để thúc đẩy SV phát triển thì phải tôn trọng nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn đó là
đấu tranh của các mặt đối lập. Khi đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn thì phải phù
hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn đồng thời phải tìm ra phương thức,
phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn.
+ Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện chín muồi.
→ Phải chống những thái độ sai lầm sau: Chống thái độ chủ quan, nóng vội trong
việc giải quyết mâu thuẫn, tích cực thúc đẩy những điều kiện KQ làm cho các điều
kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải được giải
quyết bằng các phương pháp khác nhau.
- Quy luật phủ định của phủ định: vạch ra khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình
thức xoáy ốc, thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển. Vì vậy quy luật này
là cơ sở phương pháp luận để:
+ Giúp chúng ta hiểu được xu hướng của sự phát triển đó là quá trình diễn ra không
thẳng tắp mà quanh co, phức tạp, được diễn tả bằng hình xoáy ốc. Song phát triển là
khuynh hướng chung, tất yếu của sự vận động.

+ Giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn về cái mới, cái mới ra đời là hợp quy luật là cái tất
thắng. Song trong một lúc nào đó cái mới vừa nảy sinh thì trong một thời gian nào
đó cái cũ còn mạnh hơn cái mới. Vì vậy, một quan điểm chân chính về sự phát triển
là con người phải biết ủng hộ, bảo vệ, nuôi dưỡng phát triển cái mới để cái mới
nhanh chóng khẳng định vị trí của nó trong hiện thực.
+ Phủ định BC đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa nhưng kế thừa phải có chọn lọc,
có phê phán, cần chống xu hướng kế thừa nguyên xi, máy móc. Đồng thời cũng
chống xu hướng phủ định sạch trơn, CN hư vô quá khứ. Đây là đặc trưng của phủ
định BC khác với đặc trưng của phủ định siêu hình. Ví dụ Feurbach xóa bỏ toàn bộ P
của Hegel mà không thấy được PBC của Hegel và Mác đã nói “khi Feurbach phê
phán Hegel giống như người ta bê chậu nước hắt đi tất cả mà không biết giữ lại đứa
trẻ đang tắm trong đó”.
Trong tự nhiên, quá trình kế thừa là quá trình chọn lọc tự nhiên, cái gì mạnh, tốt thì
giữ lại, cái xấu cái yếu thì bỏ đi. Trong xã hội thì khác, liên quan đến con người, địa
vị, lợi ích, quyền lợi bởi vậy người ta mang yếu tố chủ quan vào nên phải bình
tĩnh, KQ để chọn cái cần giữ.
1.2.3 Tính khoa học và tính cách mạng của PBC DV
- Bản chất cách mạng của PBC DV thể hiện ở chỗ trong khi nó đưa ra quan niệm về
tính hợp lý của các hiện tồn tại thì đồng thời cũng bao hàm trong đó quan niệm về sự


diệt vong tất yếu của cái đang tồn tại đó. Vì vậy, đối với PBC DV thì không có cái gì
được coi là tuyệt đối, và luôn luôn chỉ ra tính quá độ của mọi SV. Đối với PBC DV
thì không có gì tồn tại ngoài quá trình phát triển, vô cùng vô tận từ thấp đến cao. Với
bản chất cách mạng như vậy, PBC DV đã chống lại mọi quan điểm bảo thủ, trì trệ.
- Ý nghĩa phương pháp luận của PBC với thực tiễn cách mạng của thời đại hiện nay.
Chưa bao giờ tình hình thế giới lại diễn ra phức tạp như hiện nay. Trong tình hình
này đòi hỏi chúng ta phải nắm vững PBC DV để nhận thức đúng những biến đổi sâu
sắc của tình hình thế giới và trong nước; để đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của sự
nghiệp đối mới đất nước trong giai đoạn hiện nay. Từ đó giúp chúng ta xác định

đúng những phương pháp nhận thức và hành động đúng đắn để thực hiện nhiệm vụ
xây dựng đất nước.
- Đối với Việt Nam phải xác định chúng ta là xã hội tiền tư bản, đi lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN có nghĩa là con đường chúng ta đi lên CNXH là quá độ lâu dài. Cho
dù với bất cứ tính đặc thù như thế nào thì phải đảm bảo yêu cầu của tính lịch sử tự
nhiên trong quá trình vận động của cách mạng Việt Nam phải
+ Giải quyết đúng đắn mâu thuẫn cơ bản của xã hội chúng ta trong thời kỳ quá độ
(Mâu thuẫn giữa xu hướng tự phát TBCN và xu hướng tự giác XHCN).
+ Quá trình đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn cơ bản ấy phải
. Tuân theo sự phát triển tiến hóa dần dần về lượng, tranh thủ những bước phát triển
nhảy vọt về chất.
. Vừa kế thừa tất cả mặt cần thiết hợp lý của CNTB, vừa đấu tranh tích cực để loại
bỏ những mặt phi nhân bản của CNTB.
. Vừa tích lũy nội dung vừa nhạy bén cải thiện hình thức cho phù hợp
. Kết hợp những giá trị truyền thống của dân tộc với những tiến bộ của nền văn minh
nhân loại.
2. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN. CÁC NGUYÊN TẮC PHƯƠNG
PHÁP LUẬN CƠ BẢN CỦA PBC DV
2.1 Phương pháp và phương pháp luận
2.1.1 Phương pháp có 2 cách hiểu là cách hiểu thông thường và theo nghĩa khoa
học
- Phương pháp là cách thức, là thủ đoạn nhất định được chủ thể hành động sử dụng
để thực hiện mục đích nào đó.
- Phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật
KQ để điều chỉnh nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện một mục đích
nhất định (theo nghĩa khoa học)


* Nguồn gốc của phương pháp: CNDT coi phương pháp là những nguyên tắc do lý
trí của con người tự đặt ra để tiện cho vấn đề nhận thức và hoạt động của mình.

CNDV BC cho rằng phương pháp được hình thành không phải một cách chủ quan,
tùy tiện; cũng không phải là những phương pháp có sẵn , bất biến mà bản thân
phương pháp phụ thuộc vào đối tượng nghiên cứu.
* Các loại phương pháp: do đối tượng nghiên cứu rất đa dạng nên các phương pháp
nghiên cứu cũng rất đa dạng. Tùy theo các tiêu chí khác mà người ta có thể xác định
các loại phương pháp khác nhau.
- Dựa vào mức độ phổ biến, phạm vi ứng dụng thì phương pháp chia làm 3 loại:
+ Phương pháp riêng là phương pháp chỉ áp dụng cho từng bộ môn khoa học cụ thể
như phương pháp hóa học, sinh học…
+ Phương pháp chung là phương pháp được áp dụng cho một số ngành khoa học
khác như phương pháp quan sát, phương pháp thực nghiệm, phương pháp mô hình
hóa.
+ Phương pháp phổ biến là phương pháp được ứng dụng cho tất cả các ngành khoa
học, đó chính là phương pháp P Mác Lênin hay phương pháp DV BC.
- Dựa vào mục đích và chức năng của phương pháp:
+ Phương pháp nhận thức: là phương pháp mà người ta sử dụng các giác quan và tư
duy để nắm bắt bản chất quy luật vận động và phát triển của đối tượng như phương
pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể…
+ Phương pháp hoạt động thực tiễn: là phương pháp mà người ta sử dụng các
phương tiện vật chất để tác động trực tiếp vào đối tượng nhằm biến đổi các đối
tượng đó theo nhu cầu của con người như phương pháp xác suất, phương pháp thực
nghiệm.
→ Mỗi loại phương pháp có chức năng nhiệm vụ khác nhau vì vậy nó không thể
thay thế cho nhau. Nhưng các phương pháp liên hệ BC & hổ trợ nhau trong vấn đề
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn con người phải sử dụng tổng hợp các phương pháp.
2.1.2 Phương pháp luận
Khi con người nghiên cứu các đối tượng bao gồm tự nhiên, xã hội, con người phải
xác định những vấn đề sau: 1 Sử dụng phương pháp gì? 2 Do đâu mà mình sử dụng
phương pháp đó? 3. Làm thế nào để sử dụng các phương pháp cho đúng đắn? Từ đó

xuất hiện nhu cầu là ra đời phương pháp luận. Phương pháp luận là lý luận về
phương pháp. Cụ thể phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những
nguyên tắc xuất phát để chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng
như việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng 1 cách hợp lý, 1 cách có
hiệu quả.


Phương pháp luận giải quyết những vấn đề sau:
- Trả lời câu hỏi phương pháp là gì?
- Bản chất, hình thức của phương pháp như thế nào?
- Vai trò của phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con
người như thế nào?
* Sự thống nhất và khác biệt giữa phương pháp và phương pháp luận
- Sự khác biệt:
+ Phương pháp luận là lý luận về phương pháp.
+ Phương pháp luận là cách thức, thủ đoạn hoạt động cụ thể của chủ thể.
- Sự thống nhất: phương pháp luận là cơ sở nghiên cứu các phương pháp cụ thể, còn
bản thân các phương pháp cụ thể xuất phát từ quan điểm, từ nguyên tắc của phương
pháp luận.
* Các cấp độ của phương pháp luận: 3 cấp độ
- Phương pháp luận bộ môn: là những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát để xác
định các phương pháp cụ thể nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể của các bộ môn
khoa học như phương pháp toán học, phương pháp kinh tế học.
- Phương pháp luận khoa học chung: là những quan điểm, những nguyên tắc chung
để chỉ đạo việc xác định phương pháp luận bộ môn hay phương pháp luận của một
nhóm các ngành của các bộ môn khoa học có những quan điểm chung nào đó như
phương pháp luận của các ngành khoa học tự nhiên, phương pháp luận của các
ngành khoa học xã hội…
- Phương pháp luận chung nhất: là phương pháp luận P. Phương pháp này khái quát
những quan điểm, những nguyên tắc chung nhất làm xuất phát điểm cho việc xác

định các phương pháp luận khoa học chung, phương pháp luận bộ môn và các
phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn.
→ Các phương pháp trên vừa độc lập với nhau vừa có thể bổ sung, thâm nhập vào
nhau nhưng không thể thay thế nhau. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng
ta phải sử dụng tổng hợp các phương pháp luận trong đó PBC DV là phương pháp
luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn.
2.2 Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của PBC DV
2.2.1 Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn của con người, để đạt được kết quả tốt
nhất thì phải coi trọng nguyên tắc toàn diện. Các SV HT trong thế giới không tồn tại
độc lập bên cạnh nhau mà bản thân SV HT tồn tại trong mối liên hệ mật thiết nhau.


Mối liên hệ đó tồn tại phổ biến, KQ, đa dạng. Do đó, phải tôn trọng nguyên tắc toàn
diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Những yêu cầu:
- Khi nhận thức về SV thì phải nhận thức mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa
các yếu tố, giữa các mặt của chính SV đó trong sự tác động qua lại giữa các SV HT
đó với các SV HT khác. VD: một chính sách kinh tế không thể thành công nếu tách
rời với quá trình cạnh tranh toàn cầu. Muốn có một chính sách kinh tế đúng và hiệu
quả phải đặt trong tính cạnh tranh toàn cầu.
- Phải biết phân biệt từng mối liên hệ, lưu ý đến những mối liên hệ bên trong, bản
chất, chủ yếu, tất nhiên để hiểu rõ bản chất của SV và có phương pháp tác động phù
hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của chủ thể.
- Trong hoạt động thực tiễn khi tác động vào SV HT thì không chỉ chú ý đến những
mối liên hệ nội tại của chúng mà phải chú ý đến mối liên hệ của SV HT này với SV
HT khác. Đồng thời phải sử dụng đồng bộ các phương pháp, biện pháp, các phương
tiện khác để tác động vào SV HT nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. VD: để thực hiện
mục tiêu “dân giàu nước mạnh” phải phát huy nội lực và tận dụng ngoại lực.
2.2.2 Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn

Mọi SV HT đều nằm trong quá trình vận động và phát triển. Vì vậy trong nhận thức
và trong hoạt động thực tiễn của mình chúng ta cần phải có quan điểm phát triển.
Yêu cầu:
- Khi xem xét bất kỳ SV HT nào thì không chỉ nhìn nhận, nắm bắt cái hiện đang tồn
tại mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy
cả những biến đổi đi lên và những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song cái cơ bản là
phải khái quát được quá trình biến đổi của SV diễn ra như thế nào để vạch ra khuynh
hướng biến đổi chính của SV. VD: Khi bước vào cơ chế thị trường sẽ là sai lầm nếu
hài lòng với những thành quả của cơ chế thị trường phải nhìn ra xu hướng biến đổi
của cơ chế thị trường để đưa ra đường lối, chủ trương chính xác.
- Phải chia quá trình phát triển của SV thành những giai đoạn trên cơ sở đó để tìm ra
những phương pháp nhận thức và cách thức tác động cho phù hợp để thúc đẩy SV
tiến nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó tùy theo sự phát triển đó có lợi
hay có hại đối với đời sống của con người. VD tăng trưởng chiều cao của con người
chia làm 3 giai đoạn: gđ trong bào thai, gđ hết tuổi mẫu giáo, gđ 15 – 25 tuổi và yếu
tố di truyền không quyết định chiều cao mà phải chia thành các giai đoạn phát triển
và có tác động dinh dưỡng vào từng thời kỳ cho thích hợp.
2.2.3 Nguyên tắc lịch sử cụ thể
Bản thân các SV luôn luôn tồn tại trong những điều kiện không gian, thời gian khác
nhau do đó khi nhận thức chúng thì chúng ta phải chú ý đến những điều kiện, hoàn


cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó SV sinh ra, tồn tại và phát triển. VD:
quan điểm thủy chung cách đây 30 năm không đúng với thời điểm hiện nay. Hay một
luận điểm nào đó là đúng trong hoàn cảnh lịch sử này nhưng không đúng trong hoàn
cảnh lịch sử khác.
3. LOGIC HỌC, KHOA HỌC VỀ TƯ DUY:
Đối tượng của logic học là tư duy. Nghiên cứu về tư duy là đối tượng của nhiều khoa
học như P, tâm lý học, logic học… Logic học nghiên cứu hình thức & quy luật của tư
duy. Có 2 loại logic là logic hình thức và logic BC. Logic hình thức là khoa học

nghiên cứu các hình thức và quy luật tư duy đúng đắn để đảm bảo tính xác định, tính
chặt chẽ, nhất quán cho tư duy trong suốt quá trình suy luận. Logic hình thức chia
làm 2 lọai là Logic học hình thức cổ điển (tiêu biểu là Aristot) và Logic học hình
thức ký hiệu: thay những phán đoán thông thường bằng những ký hiệu.
Logic hình thức nghiên cứu các quy luật như:
- Quy luật đồng nhất: trong cuộc sống mỗi SV đều là chính nó (A là A). Trong nhận
thức, trong suy luận quy luật này được phát biểu “mỗi một ý nghĩ về một SV nào đó
khi được lặp lại trong một quá trình suy luận đều phải đồng nhất”. Phát biểu đó được
triển khai làm 2 yêu cầu:
+ Những ý nghĩ, tư tưởng khác nói về các đối tượng khác nhau hay nói về cùng đối
tượng nhưng theo những khía cạnh khác nhau thậm chí chúng được dùng bằng
những từ ngữ giống nhau cũng không được đồng nhất với nhau. Vi phạm yêu cầu
này trong logic học gọi là đánh tráo khái niệm còn theo dân gian là “ông nói gà bà
nói vịt”
+ Những ý nghĩ, tư tưởng giống nhau nhưng được diễn đạt bằng những từ ngữ khác
nhau không được coi là khác nhau. Người ta thường hay vi phạm nguyên tắc này vì
hai lý do thiếu hiểu biết về đối tượng mà ta đang lập luận do không hiểu nội hàm và
ngoại diên của khái niệm (ví dụ đứa trẻ thường hiểm nhầm 1 kg sắt nặng hơn 1 kg
bông); thứ hai là do có sự đồng âm khác nghĩa trong ngôn ngữ. Để tránh sai lầm thì
trước khi trình bày về một đối tượng nào đó cần tìm hiểu kỹ 2 khía cạnh của một
khái niệm đó là mặt chất của khái niệm (nội hàm của khái niệm cho ta biết SV ta nói
tới là SV gì, ntn ) và mặt lượng của khái niệm (ngoại diên cho ta biết khái niệm mà
ta nói tới nó cùng loại với bao nhiêu SVHT). Đồng thời trong tranh luận nếu 1 khái
niệm có lặp lại nhiều lần thì phải dùng theo 1 nghĩa nhất định cụ thể trong các hợp
đồng kinh tế. Tác dụng của quy luật này là đảm bảo tư duy chính xác, đúng đắn,
có nội dụng rõ rệt, xác định. Vì vậy không cho phép ý tưởng lờ mờ, lưỡng nghĩa.
Tính xác định của tư duy do tính xác định của VC quy định, thể hiện ở 3 điểm:
. Mỗi SV bao giờ cũng liên hệ với các SV HT khác nhưng SV nào vẫn riêng SV đó.



. Các SV HT luôn luôn biến đổi, luôn luôn phát triển nhưng khi nó chưa thay đổi về
chất thì nó vẫn là chính nó. Ví dụ xã hội VN có biến đổi nhưng vẫn trong TKQĐ lên
CNXH.
. Mỗi SV đều có mâu thuẫn của hai mặt đối lập nhưng SV ấy cũng chỉ là một chứ
không phải là hai.
- Quy luật phi mâu thuẫn: là hình thức phủ định của luật đồng nhất và cơ sở của phép
bác bỏ gián tiếp. Trong cuộc sống quy luật này biểu hiện là hai tư tưởng trái ngược
nhau thì không thể cùng đúng. Trong nhận thức, trong suy luận thì quy luật được
phát triển “Hai ý nghĩ, hai tư tưởng hay hai mệnh đề tương phản hay trái ngược nhau
thì không thể đồng thời cũng đúng. Nếu mệnh đề này đúng thì mệnh đề kia sẽ sai và
ngược lại”. Nội dung trên được triển khai làm 3 yêu cầu sau:
+ Trong suy nghĩ, trong lập luận không đươc đồng thời vừa khẳng định một điều gì
đó lại vừa phủ định chính điều ấy khi SV vẫn còn là nó, chưa thay đổi. VD: số
nguyên vừa chẵn vừa lẻ.
+ Trong suy nghĩ, lập luận không được đồng thời khẳng định điều gì đó, lại phủ định
chính hệ quả tất yếu được rút ra từ điều khẳng định ấy. VD nói Đảng viên được phép
tham gia các thành phần kinh tế kể cả kinh tế tư nhân nhưng không được phép bó lột.
Vì kinh tế tư nhân là có quan hệ chủ tớ thì đã có bóc lột. như vậy là vi phạm yêu cầu
thứ hai.
+ Không được đồng thời khẳng định cho đối tượng tư tưởng 2 đặc tính mà trong hiện
thực chúng loại trừ nhau.
Tác dụng của quy luật phi mâu thuẫn:
+ Phải tôn trọng luật mâu thuẫn mới tránh được mâu thuẫn trong tư duy.
+ Không được làm lớn mâu thuẫn trong thực tế và mâu thuẫn logic.
- Quy luật loại trừ cái thứ ba: hai ý nghĩ, hai tư tưởng mâu thuẫn nhau không thể
đồng thời cùng đúng và cùng sai. Nghĩa là có một mệnh đề đúng, mệnh đề còn lại
phải sai và ngược lại.
Yêu cầu:
+ Phải ghi nhận là đúng hoặc sai một trong hai tư tưởng trái ngược nhau khi chúng
phản ánh về một đối tượng ở cùng một phẩm chất được xem xét.

+ Phải thể hiện rõ giá trị logic của một tư tưởng khi trình bày tư tưởng đó.
Tác dụng:
+ Chỉ ra phương hướng trong việc tìm kiếm chân ý chỉ có một trong hai phán đoán là
chân thực.
+ Luật triệt tam không xem xét bản thân mâu thuẫn mà chỉ cấm không được coi một
cặp phán đoán mâu thuẫn nhau đồng thời cùng đúng hay đồng thời cùng sai.


- Quy luật lý do đầy đủ: quy luật này nói lên tính có căn cứ, tính được chứng minh
của tư duy và phát biểu “mối tư tương, mỗi ý nghĩ chỉ được công nhận là đúng khi
nó được chứng minh hoặc có đầy đủ lý do (căn cứ xác đáng)”. Có 3 căn cứ sau
+ Những sự kiện thực tế
+ Những điều đã được khoa học chứng minh được thực tế xác nhận.
+ Bằng con đường logic
Để tránh sai lầm cần lưu ý những yêu cầu sau:
+ Chỉ được sử dụng các sự kiện có thật và có quan hệ nhân quả với sự kiện đang
được xem xét làm căn cứ cho việc lý giải vấn đề.
+ Chỉ được sử dụng các tri thức mà tính đúng đắn của nó được khoa học chứng minh
hay đã được thực tiễn kiểm nhận là đúng làm căn cứ cho việc lý giải vấn đề. Thường
rơi vào 3 dạng sau:
. Dùng tri thức sai hoặc tính đúng đắn của nó còn đang tranh cãi.
. Dùng tri thức mà tính đúng đắn của nó không còn phù hợp.
. Dùng địa vị xã hội, dùng uy tín cá nhân, dùng bằng cấp làm căn cứ
Tác dụng:
+ Giúp chống lại những tư duy phi logic của các thứ mê tín dị đoan …
+ Nó không chỉ là quy luật của tư duy mà còn là quy luật của thế giới KQ.

Câu 4. Chứng minh rằng quan điểm lịch sử - cụ thể là
bản chất và xuyên suốt phép biện chứng duy vật.
Phép BC là gì:” Phép BC chẳng qua là môn KH về những QL phổ biến của sự vận

động và phát triển của tự nhiên, của XH loài người và của tư duy.”
Phép BCDV ko nghiên cứu tất cả các QL vận đg phát triển của TG mà chỉ nghiên
cứu những QL chung nhất, phổ biến nhất của TN, XH và tư duy
Phép BCDV cs sự thống nhất giữa TGQ DV và PP BC.
Các hình thức LS của phép BC: (trang 39)
THời cổ đại
Triết học cổ điển Đức:
Phép BCDV: kế thừa có chọn lọc những thành quả của các nhà TH tiền bối mà trực
tiếp nhất là phép BC của Heghen và quan điểm duy vật của Phoiơbach, dựa vào việc
kq những thành quả mới nhất của KH đương thời cũng như thực tiễn LS loài ng, vào
giữa tky XIX C.Mac và Angghen đã sáng lập ra THDVBC và phép BCDV mà về sau
được Lenin pt.


Phép BCDV bao gồm các nội dung:
Ngun lý về MLH phổ biến và ngun lý về sự phát triển
Sáu cặp ptrù cơ bản của phép BCDV
Ba QL cơ bản của phép BCDV
Và cơ sở LL của quan điểm tòan diện, lịch sử cụ thể đó là nội dung nguyên lý mối
liên hệ phổ biến. Quan điểm này chính là bản chất và xun suốt phép BCDV
Như chúng ta đã biết đối lập phép biện chứng, quan điểm siêu hình coi sự tồn tại
của các sự vật và hiện tượng trong thế giới là những cái tách rời nhau, giữa
chúng không có sự liên hệ tác động qua lại, không có sự chuyển hóa lẫn
nhau và nếu có chỉ là sự liên hệ có tính ngẫu nhiên, gián tiếp....
Phương pháp siêu hình được phổ biến rộng rãi trước hết trong khoa học tự nhiên
và sau đó trong triết học và nổi bật hơn cả là ở thế kỷ 17 – 18 . Đối với khoa học
tự nhiên thời kỳ này do phương pháp sưu tầm tài liệu, cho nên việc tách rời các
bộ phận riêng của sự vật có ý nghóa đối với nghiên cứu khoa học. Nhưng sẽ sai
lầm khi phương pháp này thể hiện ở trong triết học, vì nó không có khả năng
nhận thức cái chung, cái bản chất và qui luật của hiện thực khách quan.

Trên cơ sở kế thừa và phát triển những tư tưởng biện chứng trong lòch sử và
đồng thời khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX. Mác
đã nêu lên nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho rằng, trong sự tồn tại của
các sự vật và hiện tượng của thế giới không phải là sự tồn tại tách rời và cô lập
lẫn nhau, mà chúng là một thể thống nhất. Trong thể thống nhất đó nó có những
mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc và phụ thuộc, qui đònh lẫn
nhau, chuyển hóa cho nhau...
Xét về mặt hình thức mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng thể
hiện mang tính đa dạng và phong phú như:
*Mối liên hệ bên trong bản chất các sự vật và hiện tượng, là mối liên hệ giữa
các thuộc tính, các yếu tố bên trong (mâu thuẫn bên trong) qui đònh sự tồn tại,
vận động và phát triển của các sự vật.
*Mối liên hệ bên ngoài của các sự vật và hiện tượng.
*Mối liên hệ về không gian, thời gian; mối liên hệ bản chất và hiện tượng;
nguyên nhân và kết quả; nội dung và hình thức...
Dù thể hiện dưới hình thức nào thì mối liên hệ đều mang tính phổ biến, tính
khách quan và tính qui luật


Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghóa đối với hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người:
*Về nguyên tắc phải thừa nhận tính khách quan, tính qui luật của mối liên hệ phổ biến
ở trong hiện thực.
*Vì phải có quan điểm toàn diện, quan điểm này đòi hỏi chúng ta phải phân tích về
sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật khác. Đồng thời phải nghiên cứu tất
cả những mặt, những yếu tố, những mối liên hệ vốn có của nó. Qua đó để xác đònh
được mối liên hệ bên trong, bản chất...để từ đó có thể nắm bắt được bản chất, qui
luật của sự vật và hiện tượng (nên lấy ví dụ minh họa thêm thì càng tốt).
Ví dụ: khi nhận xét một người nào đó không thể chỉ nhìn bề ngoài của người đó mà

đưa ra nhận xét, phải xét đến những yếu tố khác như bản chất tính tình, họ đối xử
với mình có thật lòng hay không, những mối liên hệ của người đó với những người
xung quanh như với người thân hay với những người bạn của người đó có tốt hay
không.
Vì phải có quan điểm cụ thể, bởi vì trong quá trình tồn tại vận động và phát triển
của bản thân các sự vật và hiện tượng là một quá trình có tính giai đoạn. Cho nên khi
phân tích tính toàn diện về các mối liên hệ của sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ
cụ thể, với những điều kiện lòch sử cụ thể của các mối quan hệ đó (nên lấy ví dụ minh
họa thêm thì càng tốt).
Khi xem xét và giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng
mức tới hồn cảnh lịch sử - cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra đời và phát triển của
nó,
tới bối cảnh hiện thực - cả khách quan lẫn chủ quan. Khi quan sát một quan điểm, một luận
thuyết
cũng phải đặt nó trong những mối quan hệ như vậy. Chân lý sẽ trở thành sai lầm, nếu nó bị
đẩy ra ngồi giới hạn tồn tại của nó. Khái qt ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ
ngun lý về mối liên hệ phổ biến và ngun lý về sự phát triển, tức là phương pháp biện
chứng trong việc nhận thức và hoạt động thực tiễn, Ph.Ăngghen viết: “Phép biện chứng là
phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng
trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận
động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”2 . Trong cùng một cách xem xét vấn đề tương
tự như vậy, V.I.Lênin cho rằng, để có tri thức đúng về sự vật, “bản thân sự vật phải được xem
xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát triển của nó”3 .
KẾT LUẬN

25


×