Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

LUẬN văn sư PHẠM địa vấn đề XUNG đột CHÍNH TRỊ ISRAEL và PALESTINE – NGUYÊN NHÂN và hệ QUẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 75 trang )

Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM ĐỊA LÝ

PHAN HOÀNG TOÁN

VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT CHÍNH TRỊ ISRAEL VÀ
PALESTINE – NGUYÊN NHÂN VÀ HỆ QUẢ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM ĐỊA LÝ
MÃ SỐ: 16

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
HUỲNH TƯƠNG ÁI

Cần Thơ, tháng 05/ 2011

GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 1

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả

LỜI CÁM ƠN
Thắm thoát thì cũng đã gần bốn năm tôi được học tại Trường Đại học Cần Thơ.
Đã đến lúc tôi phải ra trường, chỉ còn lại một học phần mà tôi phải hoàn thành, đó là


Luận văn tốt nghiệp.
Để hoàn thành được bài viết này, ngoài nổ lực của bản thân, tôi còn nhận được
sự hổ trợ, giúp đở của gia đình, quý thầy cô và các bạn cùng lớp.
Tôi xin chân thành cám ơn thầy Huỳnh Tương Ái cùng quý thầy cô trong bộ môn
Địa Lí đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, cung cấp tài liệu để tôi hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cám ơn thư viện Trung tâm học liệu Đại học Cần Thơ, thư viện
thành phố Cần Thơ, thư viện khoa Sư Phạm đã nhiệt tình giúp đỡ trong quá trình sưu
tầm tài liệu.
Tôi cám ơn các bạn học cùng lớp đã đóng góp ý kiến để tôi hoàn thành bài viết.
Xin chân thành cám ơn!
Sinh viên thực hiện
Phan Hoàng Toán

GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 2

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả

MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI............................................................................1
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.....................................................................1

3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU................................................................. .1
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ......................................................................... 2
5. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................... 2
6. QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨU ................................................................... 2
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................. 3
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT ISRAEL VÀ PALESTINE
1.1. Sơ lược lịch sử Israel – Palestine...................................................................3
1.2. Đất nước Israel............................................................................................5
1.3. Đất nước Palestine.......................................................................... ............6
TÓM TẮT CHƯƠNG

Chương 2: LỊCH SỬ VÀ NGUYÊN NHÂN XUNG ĐỘT CHÍNH TRỊ CỦA
VẤN ĐỀ ISRAEL VÀ PALESTINE
2.1. Lịch sử xung đột Israel – Palestine...............................................................7
2.1.1. Thời cổ đại.......................................................................... ................8
2.1.1.1. Thời đại kinh thánh ........................................................................8
2.1.1.2. Thời đại cổ điển.......................................................................... ...8
2.1.2. Thời cận đại........................................................................................9
2.1.2.1. Năm 1897 – Đại hội phục quốc Do Thái...........................................9
2.1.2.1. Năm 1917 – Tuyên ngôn Balfour.................................................... 9
2.1.3. Thời hiện đại.......................................................................... ...........10
2.1.3.1. Từ năm 1929 – 1936: Sự bất bình của người Ả Rập..........................10
2.1.3.2. Từ năm 1936 – 1964: Thế giới bỏ quên Palestine.............................10
2.1.3.3. Từ năm 1964 – 1988: Hoạt động của Tổ chức giải phóng Palestine.....12
2.1.3.4. Từ năm 1988 đến nay: Thế giới và cả hai nước đều muốn giải quyết cuộc
xung đột bằng hòa bình.......................................................................... ........15
2.2. Nguyên nhân xung đột chính trị Israel – Palestine........................................20
2.2.1. Quan hệ Israel – Mĩ.......................................................................... .20
2.2.1.1. Mĩ công khai việc ủng hộ Israel.....................................................21

2.2.1.2. Mĩ muốn khống chế Trung Đông...................................................23
2.2.1.3. Sự vận động hành lang của người Jews ở Mĩ...................................25
GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 3

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
2.2.1.4. Ảnh hưởng lên chính sách của Mĩ.................................................25
2.2.1.5. Ảnh hưởng lên dư luận Mĩ...........................................................27
2.2.2. Jerusalem .......................................................................... ..............31
2.2.3. Các vùng đất Thánh........................................................................ .31
2.2.4. Biên giới.......................................................................... ...............31
2.2.5. Các khu định cư Do Thái................................................................. .32
2.2.6. Người tị nạn....................................................................................32
2.2.7. Nhà nước Palestine......................................................................... .32
TÓM TẮT CHƯƠNG

Chương 3: TIẾN TRÌNH HÒA BÌNH VÀ HỆ QUẢ CỦA VẤN ĐỀ XUNG
ĐỘT CHÍNH TRỊ ISRAEL VÀ PALESTINE
3.1. Tiến trình hòa bình Israel – Palestine....................................................... .33
3.1.1. Những điểm nổi bật trong tiến trình hòa bình Israel – Palestin................33
3.1.1.1. Thỏa thuận Israel – Palestine về thực thi Hiệp định Oai Rivơ............33
3.1.1.2. Quyền kiểm soát không chủ quyền của Palestine.............................35
3.1.1.3. Chưa có khả năng đạt được hiệp định hòa bình Israel – Palestin.........35
3.1.1.4. Đàm phán Israel – Palestine sẽ được nối lại.....................................38
3.1.1.5. Hội đàm an ninh Israel – Palestin...................................................41
3.1.1.6. Israel sẽ không nới lỏng lệnh phong tỏa tại các lãnh thỗ Palestine.......42

3.1.1.7. Israel – Palestine sẽ có đàm phán lại sau các cuộc khủng bố ở Mĩ.......43
3.1.1.8. Israel cắt đứt mọi cuộc tiếp xúc với Tổng thống Palestine..................45
3.1.1.9. Những tiến triển tích cực từ hai phía...............................................47
3.1.2. Dư luận quốc tế xung quanh vấn đề hòa bình Israel – Palestine................48
3.1.2.1. Ủy ban hòa bình và Ủy ban đoàn kết hợp tác Á, Phi, Mĩ Latinh của Việt
Nam tuyên bố về tình hình Trung Đông...........................................................48
3.1.2.2. Thế giới lên án Israel tiến công vào các vùng lãnh thổ Palestine.........48
3.1.2.3. Châu Âu ép Israel nới lỏng lệnh phong tỏa Palestine........................49
3.1.2.4. EU kêu gọi Palestine giải tán Hamas và Djihad...............................51
3.1.2.5. Mĩ phản đối sự ủng của Liên Hợp Quốc đối với Palestine................51
3.1.2.6. Thế giới lên án Israel tiếp tục chính sách thù địch chống Palestine......52
3.2. Hệ quả xung đột chính trị Israel – Palestine.................................................56
3.2.1. Đối với Israel................................................................................... .56
3.2.2. Đối với Palestine.......................................................................... .....56
3.2.3. Đối với Trung Đông.......................................................................... .56
3.2.4. Đối với thế giới.................................................................................57
GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 4

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
TÓM TẮT CHƯƠNG

PHẦN KẾT LUẬN
1. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC............................................................................59
2. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT...................................................................................59
3. HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO.......................................................60


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 5

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả

DANH SÁCH GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ
-

Trung Cận Đông: Middle East
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc: Security Council-UNSC
Liên Hợp Quốc: United Nations-UN
Bờ Tây: West Bank
Do Thái: Jews
Hồi giáo: Islam
Thần: God

GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 6

SVTH: Phan Hoàng Toán



Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả

LỜI NÓI ĐẦU
Nghiên cứu khoa học là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình
đào tạo sinh viên bậc đại học, công việc này giúp cho sinh viên bước đầu làm quen với
công tác nghiên cứu khoa học và tạo cho sinh viên tinh thần tự lập, tự học, tự nghiên
cứu để từ đó tạo nền tản cho quá trình học tập, nghiên cứu sau này.
Sau gần bốn năm học đại học chuyên ngành sư phạm địa lý, chúng em đã được
trang bị một lượng kiến thức tương đối rộng rãi về chuyên môn cũng như về nghiệp vụ
sư phạm. Để vận dụng những kiến thức thu nhận được vào nghiên cứu một số vấn đề
cụ thể trong chương trình học. Được sự cho phép của Bộ môn sư phạm địa lý chúng
em được thực hiện một học phần nghiên cứu khoa học có tính chất chuyên sâu hơn đó
là Luận văn tốt nghiệp.
Luận văn tốt nghiệp là học phần nghiên cứu khoa học có tính chất khảo nghiệm và
kiểm tra lại một số kiến thức và kỹ năng mà sinh viên được lĩnh hội trong suốt quá
trình học tập, rèn luyện của mình.
Trong bài viết này do thời gian có hạn, hơn nữa kiến thức bản thân còn nhiều hạn
chế do đó không thể tránh khỏi những sai sót trong quá trình lập luận và giải quyết vấn
đề, rất mong được sự đóng góp tận tình của quý thầy cô và các bạn.

GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 7

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chiến tranh, một khái niệm kinh hoàng gắn với những đau thương của nhân loại.
Hai cuộc chiến tranh thế giới khốc liệt đã đi qua. Kết thúc chiến tranh nhân dân yêu
chuộng hòa bình thế giới ao ước rằng từ đây thế giới sẽ được hòa bình, sẽ không còn
cảnh bom rơi, đạn nổ. Tuy nhiên, luôn có những mối nguy hiểm đang đe dọa nền an
ninh toàn nhân loại. Ở nhiều nơi trên thế giới, hiện nay vẫn còn những “điểm nóng”, ở
đó các xung đột với nhiều nguyên nhân đã và đang diễn ra, có nơi lại xung đột chủ
quyền lãnh thổ,…Tuy mỗi cuộc xung đột có đặc điểm khác nhau nhưng có một điểm
chung là những cuộc chiến ấy đều gây thiệt hại về người và của, làm cho tình hình
chính trị trong khu vực và trên thế giới bất ổn. Với xu thế Quốc tế hóa đời sống kinh tế
- chính trị trên thế giới hiện nay, những cuộc xung đột lẻ tẻ cũng có thể bùng phát
thành mâu thuẫn giữa các cường quốc, các phe phái chính trị lớn trên thế giới và nó có
thể lan rộng ra qui mô toàn cầu.
Với đặc điểm như trên, việc tìm hiểu và lí giải những xung đột trên thế giới là
điều cần thiết, cấp thiết và cũng thật sự lý thú, bởi vì thông qua đó chúng ta có thể hiểu
hơn và tìm ra những phương pháp để giải quyết và khắc phục những xung đột một
cách tối ưu nhất.
Cũng trên nội dung đó, trong phạm vi bài nghiên cứu này tôi sẽ tìm hiểu những
cuộc xung đột chính trị giữa hai quốc gia Israel – Palestine để thấy được những
nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến này, diễn biến và hệ quả của nó để lại, đồng thời
cũng lí giải một số vấn đề đang ở trong tình trạng nghi vấn, so sánh đối chiếu cuộc
xung đột với góc nhìn địa – chính trị. Từ đó giúp tôi hiểu rõ hơn cuộc chiến này và có
thể giải đáp được lí do tại sao đây lại là nơi có tình hình chính trị và xã hội bất ổn nhất
thế giới.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Do khả năng cùng với nguồn tài liệu tìm được có hạn nên đề tài chỉ giải quyết
những vấn đề sau:
- Diễn biến và nguyên nhân xung đột chính trị giữa Israel và Palestine.
- Tiến trình hòa bình và dư luận quốc tế về xung đột chính trị giữa hai nước Israel

và Palestine.
- Hệ quả để lại của cuộc xung đột đối với hai nước Israel và Palestine, đối với khu
vực Trung Cận Đông và đối với thế giới.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Với tên đề tài: “Xung đột chính trị Israel và Palestine – Nguyên nhân và hệ
quả”, ta có đối tượng nghiên cứu là Israel, Palestine và những vấn đề xung quanh cuộc
xung đột giữa hai quốc gia này. Đối tượng cụ thể là điều kiện tự nhiên, đất nước, con
người Israel và Palestin, những nguyên nhân, những động lực dẫn đến xung đột giữa
Israel và Palestine, hệ quả của cuộc xung đột để lại. Đối tượng nghiên cứu còn là
những sự kiện, những số liệu, những nghi vấn xung quanh cuộc xung đột này.

GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 8

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Với nội dung “Xung đột chính trị Israel và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả”,
đề tài được giới hạn trong việc tìm hiểu về Israel và Palestine, lí giải một số vấn đề
liên quan đến cuộc xung đột chính trị giữa hai quốc gia như: diễn biến, nguyên nhân,
hệ quả, vấn đề giải quyết xung đột của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đối với cuộc
xung đột chính trị này.
5. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về xung đột chính trị Israel và Palestine là một đề tài rất nóng bỏng,
nó đã và đang được nhiều chuyên gia quan tâm và bàn đến. Có thể nói các nhà nghiên
cứu đã tốn rất nhiều giấy mực cho vấn đề xung đột chính trị Israel và Palestine. Hiện
nay vấn đề này đã được mổ xẻ với nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, đặt biệt là

có sự can thiệp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Nhưng vẫn chưa giải quyết được
cuộc xung đột này. Ở nước ta cũng đã có một số sách được xuất bản viết về vấn đề
này, tuy nhiên nội dung của các quyển sách này phần lớn tập trung vào Trung Cận
Đông hay ở dưới dạng các bài luận trên cơ sở phân tích các sự kiện và nhìn nhận dưới
góc độ lịch sử, còn các tài liệu viết về cuộc xung đột chính trị Israel và Palestine là
tương đối ít.
6. QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Trong bài viết này tôi đã sử dụng hệ thống các quan điểm sau đây:
Quan điểm lãnh thổ: Quan điểm “lãnh thổ” còn gọi là quan điểm “vùng” là
quan điểm đặc thù của địa lý. Trong thực tế mỗi sự vật hiện tượng địa lý luôn có sự
phân hóa trong không gian làm cho chúng có sự khác nhau giữa nơi này với nơi khác.
Sự khác biệt này gọi là sự sai biệt lãnh thổ. Quán triệt quan điểm này khi nghiên cứu
về Xung đột chính trị Israel và Palestine sẽ giúp tôi nghiên cứu tốt hơn.
Quan điểm lịch sử - logic: Mọi sự vật, sự việc đều tồn tại trong diễn biến của
thời gian. Vì vậy, khi xem xét nó phải xem xét trong mối liên hệ với thời gian và theo
trình tự nhất quán của thời gian. Áp dụng vào cuộc Xung đột chính trị Israel và
Palestine khi xem xét vấn đề ta phải xem xét chúng trong trình tự thời gian nhất định.
Quan điểm hệ thống – cấu trúc: Xuất phát từ yêu cầu: Bản chất của sự kiện
hiện tượng là không riêng lẽ mà nó là bộ phận của toàn thể. Vì vậy, khi xem xét một
vấn đề cần xem xét nó trong mối liên hệ với tất cả các vấn đề khác. Cuộc Xung đột
chính trị Israel và Palestine cũng thế, các biến cố diễn ra trong cuộc xung đột đều có
liên hệ với nhau và sự kiện nào cũng có nguyên nhân bản chất của nó.
Quan điểm thực tiễn: Xuất phát từ nguyên lý: Mọi khoa học đều xuất phát từ
thực tiễn và quay lại phục vụ thực tiễn, nghiên cứu cuộc Xung đột chính trị Israel và
Palestine cũng phải dựa trên nguyên lý này.
Quan điểm viễn cảnh: Nghiên cứu sự vật hiện tượng phải thấy được khả năng
phát triển của chúng. Áp dụng quan điểm này qua nghiên cứu cuộc Xung đột chính trị
Israel và Palestine ta có thể rút ra dự báo về tình hình Xung đột chính trị Israel và
Palestine trong tương lai.


GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 9

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành Luận văn tôi đã sữ dụng các phương pháp sau đây:
Phương pháp thu thập tài liệu: Nhằm thu thập được những tài liệu có liên
quan đến nội dung bài viết.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Từ những kiến thức đã học kết hợp với
những dữ liệu thu thập được từ đó chúng ta đưa ra những nhận định hoặc kết luận
riêng.
Phương pháp phân tích: Là việc phân tích chọn lọc những số liệu, sự kiện để
rút ra bản chất của vấn đề.
Phương pháp sử dụng các công cụ tin học: Sữ dụng một số phần mềm đã học
như: En carta, Word, Powerpoint, Mapinfo,… và trang Wed: www.google.com.vn,
www.vdiet.com,…
Ngoài ra tôi sử dụng nhiều phương pháp khác bổ trợ cho các phương pháp trên.

GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 10

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả


GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 11

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT ISRAEL VÀ PALESTINE
1.1. Sơ lược lịch sử Israel – Palestine
Các thư tịch khảo cổ cho thấy rằng tổ tiên người Do Thái (Hebrews, Jews, hay
Israelis) đã hiện diện trên vùng đất có tên là Canaan (gồm Israel, West Bank và một
phần Jordan ngày nay) từ khoảng 1800 năm trước Công Nguyên. Cực thịnh là vương
quốc Do Thái (Israelite kingdom) dưới thời vua David khoảng 1000 năm trước Công
nguyên với Jerusalem là thủ đô.
Nhưng rồi sau đó, vương quốc Do Thái lần lượt bị các đế quốc Assyrians (720
trước Công Nguyên), Babylonians (khoảng năm 580 trước Công Nguyên), Ba-Tư và
Hy-Lạp (khoảng năm 320 trước Công Nguyên) xâm chiếm. Nhiều người Do Thái bị
lưu đày ra khỏi vùng đất Canaan.
Đến khoảng năm 200 trước Công Nguyên, người Do Thái lại phục hồi được
vương quốc quanh vùng Palestine ngày nay với Jerusalem làm thủ phủ. Sự tự trị này
chấm dứt năm 61 trước Công Nguyên khi đế quốc Roma đến xâm chiếm, trục xuất
người Do Thái ra khỏi Jerusalem. Đế quốc Roma cai trị vùng này cho đến khoảng năm
320 sau Công Nguyên. Chính dưới thời cai trị của Roma mà tên Palestine ra đời. Sau
đế quốc Roman, đến lượt đế quốc Byzantine của Syrian chiếm cứ và cai trị vùng
Palestine cho đến khi bị Hồi giáo đánh đuổi.

Qua thế kỷ thứ 7 sau Công Nguyên thì các đế quốc Hồi giáo bắt đầu làm chủ
phần lớn Trung Đông và các bản đảo Arabs, trong đó có cả vùng Palestine. Trong
hàng chục thế kỷ tiếp theo, Hồi giáo và Thập Tự Quân (Crusaders) thay nhau làm chủ
khu vực. Jerusalem trở thành vừa là thánh địa của Do Thái giáo (Judaism), Kitô giáo,
và cả của Hồi giáo (Islam).
Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhỉ Kỳ chinh phục toàn bộ Trung Đông năm
1517 và tồn tại cho đến khi Đệ Nhất Thế Chiến kết thúc năm 1918.
Như vậy, kể từ năm 61 sau Công Nguyên trở đi vương quốc Do Thái đã biến mất
trên bản đồ Trung Đông, dân Do Thái lưu tán ra khắp nơi và không còn là cư dân
chính của vùng Palestine trong hàng ngàn năm. Đến cuối thời đế quốc Ottoman, năm
1918, số lượng người Jews sinh sống ở vùng Palestine còn lại rất ít, chừng khoảng
30,000 trên tổng số gần 500,000 dân cư.
Người Palestinians xuất hiện cùng thời với người DoThái, nhưng ở dọc theo
duyên hải giữa Địa Trung Hải và vùng sông Jordan. Thời xưa họ còn được gọi là
người Philistine, không thờ cùng God với người Do Thái, nhưng thờ các thần khác.
Người Palestinians là một trong những chiến sĩ đầu tiên biết sử dụng binh khí bằng sắt
trong những cuộc chiến chống lại King David của người Do Thái. Thời La Mã cai trị,
Kitô giáo được truyền bá rộng rãi và có nhiều người Palestinians theo. Sau đó, dưới sự
cai trị của đế quốc Ottoman, Hồi giáo lại là tôn giáo chính của đa số người
Palestinians.
GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 12

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ, Thổ đứng về phe Tam cường Liên Minh Đức-ÁoThổ (Triple Alliances) chống lại phe Tam Cường Đồng Minh Anh-Pháp-Nga (Triple
Entente). Anh Quốc rất quan tâm đến vùng Trung Đông, xem đó là vùng chiến lược vì

là nguồn dầu hỏa, là đầu cầu dẩn vào Ấn Độ, thuộc địa quan trọng và béo bỡ nhất của
đế quốc Anh, và kênh đào Suez. Để củng cố lực lượng của mình trong Vùng, Anh
Quốc bèn hứa với dân Arabs là sẽ giúp họ thoát khỏi sự cai trị của đế quốc Ottoman
của Thổ để được độc lập một khi chiến tranh kết thúc. Một mặt khác Anh Quốc, do nổ
lực vận động của Zionist Organization, một tổ chức của người Jews (DoThái) có
khuynh hướng bài Nga thân Đức, cũng hứa với người Jews (Do Thái), qua tuyên bố
Balfour (Balfour Declaration) năm 1917, sẽ giúp họ thành lập một quốc gia trên vùng
Palestine.
Khi Đệ Nhất Thế Chiến kết thúc, Anh quốc không giữ lời hứa trao trả độc lập
cho người Arabs. Trái lại, Anh - Pháp trước đó đã ký mật ước Sykes - Picot chia phần
với nhau, theo đó Pháp kiểm soát một phần Turkey, Syria, Bắc Iraq, và Lebanon; trong
khi Anh cai quản Nam Iraq, Jordan và vùng phía Bắc Israel ngày nay. Ngoài ra, trên
danh nghĩa, Anh được Hội Quốc Liên (League of Nations) trao quyền ủy trị vùng
Palestine. Kể từ đó người Jews (Do Thái) từ các nơi trên thế giới, với sự che chở của
Anh quốc, bắt đầu về định cư ở vùng Palestine. Ngay ở giai đoạn này, sự định cư của
người Do Thái đã gây ra nhiều sự chống đối từ người Palestinians là dân cư ngụ ở đó
từ lâu đời. Năm 1922 khi người Anh làm thống kê dân số vùng Palestine thì có khoảng
84,000 người Do Thái, chừng 670,000 người Palestinians trong đó có hơn 70,000
người theo Kitô giáo.
Năm 1947, Liên Hợp Quốc phân chia vùng Palestine, trao cho người Do Thái
hơn một nửa lãnh thổ Palestine để lập quốc; chừa lại hai vùng West Bank, nằm gần
sông Jordan và Gaza, nằm dọc biển Địa Trung Hải, cho người Palestinians. Hai vùng
West Bank và Gaza nằm hai bên lãnh thổ của Israel, cách nhau chừng hơn 40 km.
Nguồn: />1.2. Đất nước Israel.
Israel nằm ở Cận Đông; giáp Palestine, Giócđani, Ai Cập, Xiri, Địa Trung Hải.
Diện tích: 14.100 km2 (theo đường biên giới do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc qui định
năm 1947; không tính những vùng Israel chiếm của nhân dân Palestine). Dân số:
4.612.000 người (1993), đại bộ phận là người Do Thái (83%). Tiếng Hébron và tiếng
Ả Rập được coi là ngôn ngữ chính thức. Hầu hết người dân ở đây đều theo đạo Do
Thái (82%). Thủ đô: Tel Aviv có 327.000 dân (1983).

Ngày 29-11-1947, Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết xóa bỏ quyền ủy trị của
Anh ở Palestine và chia cắt đất Palestine thành hai quốc gia độc lập: Một của người Ả
Rập (Palestine) và một của người Do Thái. Ngày 14-5-1948, Nhà nước Do Thái được
thành lập lấy tên Israel. Từ khi thành lập tới nay, Israel luôn luôn theo đuổi chính sách
bành trướng xâm lược đối với các nước láng giềng. Được sự tiếp tay của các nước đế
quốc trước hết là Mĩ, họ liên tiếp gây ra các cuộc chiến tranh và xung đột nhằm chống
GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 13

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
lại phong trào giải phóng Palestine và nhân dân các nước Ả Rập khác. Tháng 4-1980,
bất chấp sự phản đối của các nước Ả Rập và thế giới, Israel ngang nhiên tuyên bố
Jerusalem là thủ đô của mình. Ngày 30-10-1991, Hội nghị hòa bình Trung Đông diễn
ra tại Madrid. Tháng 5-1993, Israel đàm phán bí mật với Tổ chức giải phóng Palestine
(PLO) tại Oslo (Na Uy). Ngày 10-9-1993, tại Washington, Chủ tịch PLO Y. Arafat và
Thủ tướng Israel Y. Rabin kí văn kiện công nhận lẫn nhau và thỏa thuận vấn đề lãnh
thổ bằng biện pháp hòa bình. Israel lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam chính thức
vào ngày 12-7-1993.
Về chính trị: Israel là nước Cộng hòa. Cơ quan lập pháp tối cao là Quốc hội, Cơ
quan hành pháp là Chính phủ.
Các đảng phái chính: Đảng Dân tộc tự do Likud, Đảng Lao động Israel, Đảng
Công nhân thống nhất, Đảng Tôn giáo dân tộc, Phong trào quyền công dân, Mặt trận
dân chủ vì hòa bình và bình đẳng, Phong trào phục hưng Sionít…
Về kinh tế: Israel là nước công – nông nghiệp, khoảng 24% số người lao động
làm công nghiệp và 6,3% làm nông nghiệp.
Tài nguyên thiên nhiên: Đồng, phốt phát, crôm, kali, cácbonát, đất sét, cát,

sunfua, mangan, khí đốt, dầu mỏ,…
Sản phẩm nông nghiệp chính: Cam, quít, rau quả, khoai tây, cà chua, táo, chuối,
nho, lê, lúa mì, bông, ôliu, sản phẩm bơ sữa; Gia súc có bò,cừu, dê.
Sản phẩm công nghiệp chính: Ximăng, bột mì, axít sunfuric, polietilen, giấy,
bông, rượu, thực phẩm, hàng dệt, phương tiện giao thông, sản phẩm kim loại, đồ điện
tử,…
Nhập khẩu: Hàng tiêu dùng, nhiên liệu, dầu nhớt, sắt và thép, phương tiện giao
thông, tàu biển, máy bay, hóa chất.
Xuất khẩu: Máy móc, khoáng sản, kim cương, hóa chất, cao su, chất dẻo, đồ điện
tử, hàng dệt, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, hoa quả,…
Nguồn: Cuộc xung đột Israel & Ả Rập
1.3. Đất nước Palestine.
Palestin vốn là một quốc gia lâu đời ở Tây Á, nằm trên bờ phía Đông Địa Trung
Hải, giáp Libăng, Xiri, Giócđani, Ai Cập, vịnh Acaba. Diện tích: 27.000 km 2 (trước
khi bị chia cắt và bị Israel xâm chiếm). Dân số: khoảng 2,5 triệu người (1947). Tuyệt
đại bộ phận là người Ả Rập, tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính thức. Đạo Hồi được coi
như quốc giáo.
Hơn 3.000 năm trước đây, vùng đất Palestine hiện có nhiều bộ tộc sinh sống.
Trước hết là người Canaan, rồi sau đó đến người Hébron (tổ tiên của người Do Thái),
người Palestine,…Những bộ tộc này đã từng xây dựng nên các quốc gia hùng mạnh
một thời.
Năm 64 trước Công Nguyên, đế quốc La Mã chiếm vùng Palestine và từ năm
132 sau Công Nguyên, người Do Thái bị người La Mã tàn sát hết sức dã man. Họ phải

GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 14

SVTH: Phan Hoàng Toán



Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
rời bỏ quê hương, phiêu bạt tới nhiều nước trên thế giới. Những người Do Thái còn ở
lại trở thành một bộ phận dân cư của nước Palestine.
Từ năm 1516 đến năm 1919, Palestin bị đế quốc Oman (Thổ Nhĩ Kì) thống trị.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Thổ Nhĩ Kì bại trận, Palestine bị Anh đô hộ dưới
hình thức ủy trị.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, kế hoạch đưa người Do Thái ở các nơi về thành
lập một Nhà nước Do Thái trên đất Palestine được các nước đế quốc xúc tiến mạnh mẽ
nhằm chống phá phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Ả Rập.
Ngày 29-1-1947, Liên Hợp Quốc ra nghị quyết chấm dứt quyền ủy trị của Anh ở
Palestine và chia Palestine thành hai quốc gia: Một quốc gia của người Ả Rập
(Palestine), một quốc gia của người Do Thái. Nhưng ngày 14-5-1948, trước khi chấm
dứt quyền ủy trị của Anh, bọn theo chủ nghĩa Sion được Mĩ giúp đở, lập ra Nhà nước
Israel và ngay sau đó, chúng dùng vũ lực xâm chiếm hơn một nửa vùng đất mà Liên
Hợp Quốc qui định để quốc gia Ả Rập Palestine. Phần còn lại của Palestine bị
Giócđani và Ai Cập xác nhập vào lãnh thổ của họ. Nhưng hai vùng này lại bị Israel
chiếm nốt bằng cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ ba năm 1967.
Nhân dân Palestine từ đó bị đuổi khỏi tổ quốc mình, sống lưu vong ở nhiều nước
Ả Rập. Họ đã lập ra nhiều tổ chức quân sự và chính trị nhằm đấu tranh và khôi phục
quyền dân tộc cơ bản của mình.
Tháng 6-1964, các tổ chức yêu nước Palestine đã thống nhất lại trong Tổ chức
Giải phóng Palestine (PLO). Các cơ quan của PLO gồm có:
- Hội đồng dân tộc Palestine hoạt động như một quốc hội, với cơ quan thường vụ
là Hội đồng Trung ương Palestine do một Chủ tịch đứng đầu.
- Ban chấp hành Tổ chức Giải phóng Palestine hoạt động như một chính phủ.
Chủ tịch Ban chấp hành Tổ chức Giải phóng Palestine: Yasser Arafat.
Trong những năm gần đây, mặc dù gặp nhiều khó khăn, phức tạp, nhân dân
Palestine vẫn anh dũng đấu tranh nhằm giành lại những quyền dân tộc cơ bản của
mình. PLO đã được hơn 100 nước công nhận là đại diện chân chính cho toàn thể nhân

dân Palestine; PLO còn là thành viên của Phong trào không liên kết, của Liên đoàn các
nước Ả Rập, các cơ quan đại diện ở hàng chục nước trên thế giới và nhiều tổ chức
quốc tế.
Ngày cách mạng Palestine: 1-1-1965.
Cơ quan đại diện của PLO ở Việt Nam được nâng lên hàng đại sứ quán từ ngày
8-4-1982.
Nguồn: Cuộc xung đột Israel & Ả Rập
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
- Giới thiệu sơ lược về lịch sử của hai quốc gia Israel và Palestine có tổ tiên đã
hiện diện đầu tiên trên vùng đất có tên là Canaan từ khoảng 1800 năm trước Công
Nguyên. Sau đó nhiều người Do Thái bị lưu đày ra khỏi vùng đất Canaan, rồi lại quay
trở về xây dựng nhà nước trên vùng đất của người Palestine.
GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 15

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
- Israel là quốc gia nằm ở Cận Đông, được thành lập năm 1948 và luôn theo đuổi
chính sách bành trướng lãnh thổ của mình. Israel là nước Cộng hòa, được sự tiếp tay
của Mĩ họ liên tiếp gây ra các cuộc chiến tranh và xung đột nhằm chống lại phong trào
giải phóng của Palestine và nhân dân các nước Ả Rập.
- Palestine là một quốc gia lâu đời ở Tây Á, nằm ở phía Đông Địa Trung Hải.
Đạo Hồi được coi là quốc giáo. Sau đó bị Israel chiếm đóng, người dân Palestine bị
đuổi khỏi tổ quốc mình sống lưu vong ở nhiều nước Ả Rập. Năm 1964 các tổ chức yêu
nước Palestine đã thống nhất lại trong Tổ chức Giải phóng Palestine và đấu tranh cho
tới ngày nay.


Chương 2
LỊCH SỬ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT CHÍNH TRỊ
ISRAEL – PALESTINE
2.1. Lịch sử xung đột Israel – Palestine
Cuộc xung đột giữa người Do Thái và người Palestine được coi là dai dẳng nhất
và dễ bùng phát nhất thế giới. Căn nguyên của cuộc xung đột bắt nguồn từ sự tranh
chấp dải đất nằm giữa Bờ đông Địa Trung Hải và sông Jordan.
Đối với người Palestine, trong suốt hơn 100 năm qua, họ đã phải gánh chịu hành
động đánh chiếm thuộc địa, trục xuất và chiếm đóng quân sự, đồng thời cũng gian nan
trong công cuộc kháng chiến giành quyền tự quyết và đồng tồn với chính nhà nước
phải chịu trách nhiệm cho những đau thương mất mát của họ là Israel.
Đối với người Do Thái, sự trở lại miền đất của tổ tiên sau nhiều thế kỷ phiêu bạt
và bị ngược đãi trên khắp thế giới không mang lại hoà bình, an ninh. Người Do Thái
cũng đã phải đối mặt với vô số cuộc khủng hoảng, xung đột khi các nước lân bang
muốn xoá bỏ mảnh đất của họ trên bản đồ thế giới.
Sau đây tôi muốn đưa ra một số mốc thời gian được đánh giá là quan trọng trong
dòng lịch sử xung đột giữa Israel và Palestine.

GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 16

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
2.1.1. Thời cổ đại
Miền đất bao quanh Israel và các vùng lãnh thổ của Palestine đã nhiều lần bị
đánh chiếm rồi lại tái chiếm. Những chi tiết về các nhà nước Do Thái thời cổ đại hết
sức thô sơ, chủ yếu thông qua các ghi chép trong kinh thánh và lịch sử cổ điển. Một số

sự kiện quan trọng:
2.1.1.1. Thời đại kinh thánh
Năm 1250 trước Công Nguyên: Người Do Thái bắt đầu chiếm đóng và định cư
vùng đất Canaan bên bờ đông Địa Trung Hải.
Năm 961-922 trước Công Nguyên: Thời vua Solomon cai trị và xây dựng đền
thờ tại Jerusalem. Trong thời kỳ Solomon trị vì, miền đất này được chia làm 2 vương
quốc.
Năm 586 trước Công Nguyên: Vương quốc phía nam Judah đã bị người Babylon
chiếm đóng. Người Do Thái bị đày ải và đền thờ Solomon bị tàn phá. 70 năm sau,
người Do Thái mới trở về mảnh đất này và dần dần xây cất lại đền thờ.
Nguồn: />2.1.1.2. Thời đại cổ điển
Năm 333 trước Công Nguyên: Alexander Đại Đế đã phát động chiến tranh
chiếm đóng miền đất và đặt dưới sự cai trị của Hy Lạp.
Năm 165 trước Công Nguyên: Cuộc nổi dậy tại Judea đã dẫn tới sự thành lập
nhà nước Do Thái độc lập cuối cùng trong thời cổ đại.
Năm 63 trước Công Nguyên: Nhà nước Do Thái, hay còn gọi là Judea, đã được
hợp nhất với tỉnh Palestine do đế chế La Mã cai trị.
Năm 70 sau Công Nguyên: Một cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của đế chế La
Mã đã bị Hoàng đế Titus đàn áp. Một lần nữa, đền thờ thứ hai bị tàn phá. Sự kiện này
đánh dấu sự bắt đầu của Cộng đồng người Do Thái (Jewish Diaspora) hay còn gọi là
sự phân tán.
Từ năm 118 - 138 sau Công Nguyên: Trong suốt thời cai trị của Hoàng đế La
Mã Hadrian, người Do Thái mới đầu được phép trở lại Jerusalem. Tuy nhiên, cuộc nổi
dậy của người Do Thái năm 133 đã khiến thành phố Jerusalem hoàn toàn bị tàn phá và
người Do Thái trong thành đã bị trục xuất và bán làm nô lệ.
Năm 638 sau Công Nguyên: Người Hồi giáo Ả Rập đã nổi dậy lật đổ sự thống
trị của Byzantine (Chế độ trị vì miền Đông sau sự thống trị của La Mã). Quốc vương
Hồi giáo đệ nhị Omar đã xây dựng 1 ngôi đền Hồi giáo, nay gọi là đền Al-Aqsa tại
Jerusalem vào những năm đầu của thế kỷ 8. Ngoài thời kỳ Thập tự chinh (từ những
năm 1099 - 1187), khu vực trên vẫn đặt dưới sự thống trị của người Hồi giáo cho đến

khi Đế chế Ottoman bị sụp đổ trong thế kỷ 20.
Nguồn: />2.1.2. Thời cận đại
2.1.2.1. Năm 1897 - Đại hội phục quốc Do Thái thứ nhất
Đại hội phục quốc Do Thái lần thứ nhất được tổ chức tại Basle, Thụy Sĩ nhằm
thảo luận các ý tưởng đặt ra trong cuốn sách của Theodor Herzl xuất bản năm 1896 có
GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 17

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
nhan đề Der Judenstaat (Nhà nước Do Thái). Herzl, một nhà báo người Do Thái, và là
một nhà văn sinh sống tại Vienna (Áo). Ông Herzl muốn tất cả người Do Thái có một
nhà nước riêng - chủ yếu nhằm đối phó với chủ nghĩa bài Do Thái tại châu Âu.
Đại hội đã đưa ra chương trình Basle nhằm thiết lập một cái gọi là ngôi nhà cho
người Do Thái tại Palestine được bảo vệ bằng công luật, đồng thời thành lập Tổ chức
Phục quốc Do Thái thế giới để thực hiện mục tiêu và hoài bão trên.
Trước năm 1897, một số người Do Thái đã trở lại mảnh đất trên. Cho đến năm
1903, ước tính có khoảng 25.000 người Do Thái trở về, phần lớn từ Đông Âu. Người
Do Thái sinh sống cùng với khoảng nửa triệu người Ả Rập trong một phần khu vực
sau đó thành đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ. Làn sóng thứ hai có khoảng 40.000 nhập
cư Do Thái vào khu vực trên trong giai đoạn từ 1904 đến 1914.
Nguồn: />2.1.2.2. Năm 1917 - Tuyên ngôn Balfour
Vào thời kỳ thế chiến thứ nhất, đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ đã thống trị khu
vực này. Sự cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ kết thúc khi các lực lượng Ả Rập được sự ủng hộ
của vương quốc Anh đánh bật người Ottoman ra khỏi khu vực.
Anh đã chiếm khu vực vào giai đoạn cuối thế chiến thứ nhất, năm 1918 và trao
quyền thống trị cho Liên đoàn các quốc gia vào 25/4/1920.

Năm 1916, Cao uỷ của Anh quốc tại Ai Cập, ngài Henry McMahon đã cam kết
với lãnh đạo Ả Rập sẽ trao độc lập cho các tỉnh Ả Rập Ottoman cũ ngay sau khi thế
chiến thứ nhất kết thúc.
Tuy nhiên, cùng thời điểm đó Hiệp định mật Sykes - Picot giữa Anh và Pháp đã
chia cắt khu vực và đặt dưới sự kiểm soát chung của hai nước.
Năm 1917, Ngoại trưởng Anh Arthur Balfour đã tích cực xúc tiến thành lập
Palestine cho người Do Thái. Ông A. Balfour đã gửi bức thư vạch kế hoạch trên cho
lãnh đạo phong trào phục quốc Do Thái Rothschild. Bức thư trên được coi là Tuyên
ngôn Balfour.
Nguồn: />2.1.3. Thời hiện đại
2.1.3.1. Từ năm 1929 - 1936: Sự bất bình của người Ả Rập
Trong khuôn khổ Chương trình phục quốc Do Thái trong thập kỷ 20 và 30, hàng
trăm nghìn người Do Thái đã từ Anh trở về nhà nước Palestine do Anh uỷ nhiệm dành
cho người Do Thái. Chương trình này đã làm cộng động người Ả Rập hết sức bất bình.
Năm 1922, một cuộc điều tra dân số do Anh tiến hành cho thấy, số người Do
Thái đã chiếm tới 11% trong tổng số 750.000 cư dân sống trong Palestine. Trong vòng
15 năm, đã có có tới hơn 300.000 người nhập cư Do Thái vào Palestine.
Sự xung đột giữa người Ả Rập và Do Thái bắt đầu bằng các cuộc đụng độ xảy ra
vào tháng 8-1929. Khoảng 133 người Do Thái bị người Palestine sát hại và 110 người
Palestine bị cảnh sát Anh bắn chết.
Sự bất bình của người Ả Rập một lần nữa đã làm dấy lên một cuộc biến động
dân sự rộng khắp thông qua cuộc tổng đình công năm 1936. Vào thời điểm đó, nhóm
GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 18

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả

vũ trang phục quốc Do Thái Irgun Zvai Leumi đã bắt đầu phát động các đợt tấn công
nhằm vào các mục tiêu Palestine và Anh nhằm giải phóng Palestine và Transjordan
(ngày nay là Jordan).
Tháng 7-1937, Đặc phái viên Hoàng gia Anh do Huân tước Peel đã đề xuất chia
cắt miền đất trên thành một nhà nước Do Thái (khoảng 1/3 nhà nước Palestine, trong
đó gồm đồng bằng Galilee và vùng duyên hải) và một nhà nước Ả Rập.
Đại diện của Palestine và Ả Rập đã bác bỏ đề xuất trên và chấm dứt các đợt nhập
cư, đồng thời bảo vệ tính thống nhất của một nhà nước duy nhất trên cơ sở tôn trọng
người thiểu số. Tuy nhiên, các cuộc xung đột vẫn liên tiếp xảy ra cho đến năm 1938,
thời điểm Anh tăng cường điều động quân đội tới Palestine.
Nguồn: />2.1.3.2. Từ năm 1936 – 1964: Thế giới bỏ quên Palestine
Năm 1947 – Liên Hợp Quốc phân tích Palestine
Anh, nước thống trị Palestine kể từ năm 1920, đã trao trách nhiệm giải quyết vấn
đề tranh chấp giữa người Do Thái và Ả Rập cho Liên hợp quốc (LHQ) năm 1947.
Trong nhiều năm trước đó, vùng lãnh thổ này đã trải qua vô vàn biến động và
bạo lực khi người Ả Rập phản đối người nhập cư Do Thái (cộng đồng chiếm 1/3 dân
số và 6% lãnh thổ Palestine). Tình hình ngày càng trở nên xấu đi khi hàng trăm nghìn
người Do Thái ồ ạt tràn vào Palestine nhằm trốn chạy sự đàn áp của Đức quốc xã tại
châu Âu. Theo thống kê, khoảng 6 triệu người Do Thái bị sát hại do nạn tàn sát người
Do Thái dưới thời Hitler trong Đại chiến thứ hai.
LHQ đã quyết định thành lập Uỷ ban đặc biệt đề xuất chia lãnh thổ làm 2 nhà
nước Palestine và Do Thái. Tuy nhiên, đại diện Palestine - Uỷ ban cao cấp Ả Rập - đã
bác bỏ đề xuất trên. Trong khi đó, Cơ quan Do Thái đã chấp nhận.
Kế hoạch chia lãnh thổ của LHQ như sau: trao 56,47% lãnh thổ Palestine thành
lập nhà nước Do Thái và 43,53% để thành lập nhà nước Ả Rập với một khu vực quốc
tế bao quanh thành Jerusalem. Ngày 29/11/1947, 33 quốc gia thành viên Đại hội đồng
LHQ đã bỏ phiếu thông qua kế hoạch trên. Trong khi đó, 13 nước bỏ phiếu chống và
10 nước bỏ phiếu trắng. Tuy nhiên, người Palestine đã bác bỏ kế hoạch trên và kế
hoạch này không được thực hiện.
Anh đã công bố dự định chấm dứt sự cai trị của nước này đối với Palestine vào

15-5-1948. Tuy nhiên, bạo lực liên tiếp xảy ra trước thời điểm quyết định có hiệu lực.
Nhiều binh sĩ Anh đã thiệt mạng trong cuộc xung đột buộc chính phủ nước này
quyết định tiếp tục duy trì sự hiện diện quân đội của mình tại Palestine. Ngoài ra, Anh
hết sức tức giận khi Mỹ gây sức ép đòi cho phép người tị nạn Do Thái vào Palestine.
Mỹ đã tỏ thái độ công khai ủng hộ chủ nghĩa phục quốc Do Thái.
Cả phía Ả Rập và Do Thái đều ráo riết chuẩn bị lực lượng đối phó nhau. Tháng
12-1947 quân đội Do Thái đã thực hiện các chiến dịch “quét sạch” làng mạc của người
Palestine.
Nguồn: />GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 19

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
Năm 1948 - Thành lập nhà nước Israel
Nhà nước Israel, nhà nước Do Thái đầu tiên sau gần 2.000 năm, đã chính thức
tuyên bố độc lập vào 16h (giờ GMT) ngày 14-5-1948 tại Tel Aviv. Bản tuyên ngôn
trên có hiệu lực ngay ngày hôm sau khi số binh sĩ Anh cuối cùng rút khỏi. Còn người
Palestine gọi ngày 15-5 là al-Nakba, nghĩa là thảm họa.
Trong năm 1948, lực lượng vũ trang Do Thái và Ả Rập liên tục phát động các
cuộc tấn công nhằm vào mục tiêu của nhau. Quân đội Do Thái, do nhóm vũ trang
Irgun và Lehi đóng vai trò nòng cốt, đã giành được nhiều thắng lợi, chiếm cứ được
thêm nhiều vùng đất mở rộng lãnh thổ nhà nước Do Thái, đồng thời chiếm cứ nhiều
lãnh thổ của Palestine.
Ngày 9-4-1948, các tay súng Irgun và Lehi đã thảm sát rất nhiều người Palestine
tại làng Deir Yassin, gần Jerusalem. Hàng trăm nghìn người Ả Rập đã phải trốn chạy
sang Lebanon, Ai Cập và khu vực Bờ Tây hiện nay.
Quân đội Do Thái đã liên tiếp giành được chiến thắng tại Negev, Galilee, Tây

Jerusalem và phần lớn đồng bằng duyên hải.
Chỉ một ngày sau khi Israel tuyên bố độc lập, quân đội 5 quốc gia là Jordan, Ai
Cập, Lebanon, Syria và Iraq đã phát động tấn công Israel, song đều bị đẩy lùi. Trong
giai đoạn đình chiến, lãnh thổ của Israel đã trải rộng gần phủ kín Palestine dưới thời
Uỷ trị của Anh trước đó.
Ai Cập giữ Dải Gaza. Trong khi đó, Jordan thôn tính khu vực xung quanh Đông
Jerusalem và dải đất Bờ Tây hiện nay. Tất cả các khu vực trên chiếm khoảng 25% tổng
diện tích Palestine dưới sự uỷ trị của Anh.
Nguồn: />2.1.3.3. Từ năm 1964 – 1988: Hoạt động của Tổ chức giải phóng Palestine
(PLO)
Năm 1964 - Thành lập Tổ chức giải phóng Palestine (PLO)
Kể từ năm 1948, các nước Ả Rập liên tục cạnh tranh nhau trong thế dẫn đầu các
cuộc phản đối sự ra đời của nhà nước Israel. Chính điều đó đã biến chính người
Palestine trở thành “kẻ bàng quan”.
Tháng 1-1964, các chính phủ Ả Rập đã chính thức bỏ phiếu thông qua kế hoạch
thành lập Tổ chức giải phóng Palestine. Tổ chức của người Palestine này được tạo ra
dưới sự kiểm soát chặt chẽ của các nước trên.
Tuy nhiên, người Palestine muốn một tổ chức độc lập thực sự. Ông Yasser
Arafat được tín nhiệm bầu giữ chức chủ tịch PLO năm 1969. Tổ chức Hồi giáo vũ
trang Fatah của ông Arafat (được thành lập bí mật năm 1964) đã được quyền tiến hành
các chiến dịch quân sự tấn công Israel.
Lực lượng Fatah đã giáng nhiều đòn nặng nề cho quân đội nhà nước Do Thái tại
Karameh ở Jordan năm 1968.
Nguồn: />
GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 20

SVTH: Phan Hoàng Toán



Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
Chiến tranh 1967
Căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Israel và các nước Ả Rập đã leo thang thành
một cuộc chiến kéo dài 6 ngày, bắt đầu từ 5-6 và kết thúc vào 11-6-1967. Cuộc xung
đột leo thang này đã hoàn toàn làm thay đổi cục diện xung đột Trung Đông.
Quân đội Israel đã chiếm đóng Gaza và vùng Sinai kéo dài từ miền Nam Ai Cập
đến miền Bắc cao nguyên Golan của Syria. Ngoài ra, Israel còn đẩy lùi được lực lượng
vũ trang Jordan ra khỏi Bờ Tây và Đông Jerusalem.
Không lực Ai Cập bị tê liệt hoàn toàn vào ngay ngày đầu tiên của cuộc chiến khi
máy bay Israel tập trung ném bom phủ đầu. Lãnh thổ Israel chiếm được đã gấp đôi
diện tích nhà nước Do Thái. Chiến thắng trên đã mở ra một kỷ nguyên mới và tăng
cường lòng tin và lạc quan của Israel và các thế lực ủng hộ.
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã ban hành nghị quyết 242 nhấn mạnh thái độ
“không thể công nhận các vùng lãnh thổ chiếm được thông qua kênh chiến tranh” và
kêu gọi “Israel rút quân đội khỏi các vùng đất chiếm đóng” trong cuộc xung đột gần
đây.
Theo thống kê của LHQ, cuộc xung đột đã buộc khoảng 500.000 người Palestine
phải di tản sang Ai Cập, Syria, Lebanon và Jordan.
Nguồn: />Năm 1973 - Chiến tranh Yom Kippur
Không thể lấy lại các vùng đất mất trong cuộc xung đột năm 1967 thông qua
kênh ngoại giao, Ai Cập và Syria đã phối hợp phát động tấn công tổng lực vào Israel
đúng ngày Sám hối hay Yom Kippur. Cuộc chiến này được gọi là chiến tranh
Ramadan.
Ban đầu, Ai Cập và Syria đã giành nhiều thắng lợi ở Sinai và cao nguyên Golan.
Mặc dù đã chiếm đóng được nhiều khu vực tại cao nguyên Golan, quân đội Israel sau
đó buộc phải từ bỏ. Tại Ai Cập, binh sĩ nhà nước Do Thái đã tái chiếm được một vùng
lãnh thổ lớn và tiến dần tới mặt tây của Kênh đào Suez.
Trong giai đoạn này, Mỹ, LHQ và Liên Xô đã quyết định can thiệp ngoại giao
nhằm tiến tới hiệp định ngừng bắn giữa các bên tham chiến. Kế quả thống kê cho thấy,

Ai Cập và Syria đã mất tổng cộng 8.500 quân. Trong khi đó, riêng Israel cũng mất
khoảng 6.000 quân.
Cuộc chiến này đã đẩy Israel ngày càng phụ thuộc hơn vào các nguồn tài trợ
quân sự, kinh tế và ngoại giao của Mỹ. Ngay sau cuộc chiến, Ả Rập Xêút đã quyết
định áp đặt lệnh cấm vận dầu mỏ đối với các quốc gia đã từng ủng hộ Israel. Lệnh cấm
vận dầu mỏ đã khiến giá dầu thế giới tăng đột biến vào kéo dài đến tận tháng 3/1974.
Tháng 10/1973, Hội đồng Bảo an LHQ đã thông qua nghị quyết 338 yêu cầu các bên
tham chiến ngừng bắn và chấm dứt ngay lập tức các hoạt động quân sự, đồng thời bắt
đầu các cuộc đàm phán giữa các bên quan tâm nhằm đưa ra giải pháp kiến tạo hoà
bình dài lâu tại Trung Đông.
Nguồn: />GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 21

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
Năm 1974 - Ông Arafat xuất hiện lần đầu tại Liên Hợp Quốc
Trong những năm 70, dưới sự lãnh đạo của ông Yasser Arafat, các đơn vị PLO và
nhiều nhóm vũ trang Palestine khác đã phát động hàng loạt vụ tấn công nhằm vào các
mục tiêu của Israel và nhiều mục tiêu khác.
Tại Đại hội thể thao Olympic được tổ chức tại Munich năm 1972, 11 vận động
viên Israel đã bị bắn chết.
Trong bối cảnh PLO tiếp tục theo đuổi cuộc chiến giải phóng hoàn toàn
Palestine. Năm 1974, ông Arafat đã có bước nhảy vọt về ngoại giao khi tham gia vào
LHQ thảo luận về giải pháp hoà bình Trung Đông.
Một năm sau đó, nhân viên Bộ Ngoại giao Mỹ Harold Saunders lần đầu tiên thừa
nhận “những lợi ích chính đáng của người Ả Rập Palestine cần được đưa ra thảo thuận
trong quá trình đàm phán hoà bình”.

Nguồn: />Năm 1977 - Sự trỗi dậy của phe cánh hữu tại Israel
Các nhóm theo đường lối cứng rắn Irgun và Lehi có thể được coi là nhân tố quan
trọng trong việc hình thành nhà nước Israel năm 1948. Tuy nhiên, chính đảng đại diện
cho họ sau này là Herut (Likud) đã thất bại thảm hại trong cuộc bầu cử và mãi đến
năm 1977 mới giành thắng lợi.
Kết quả bầu cử năm 1977 đã chấm dứt sự thống trị của Công đảng trên chính
trường Israel. Tư tưởng Likud đã tập trung vào nỗ lực mở rộng chủ quyền của Israel,
bao trùm toàn bộ nhà nước Palestine do Anh uỷ trị trước đó, đồng thời tuyên bố lãnh
thổ Jordan là một bộ phận thuộc nhà nước “Đại Israel” trong thời kỳ kinh thánh.
Dưới sự lãnh đạo của cựu thủ lĩnh Irgun, Menachem Begin, Israel đã gia tăng các
hoạt động định cư tại Bờ Tây và Dải Gaza. Bộ trưởng Nông nghiệp Israel Ariel Sharon
được coi là người tiên phong với tư cách là Chủ tịch Uỷ ban định cư cho đến năm
1981.
Nguồn: />Năm 1979 - Hiệp định hoà bình Israel - Ai Cập
Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat đã có chuyến thăm lịch sử tới Israel và phát
biểu trước nghị viện nước này tại Jerusalem vào ngày 19-11-1977.
Sadat đã trở thành nhà lãnh đạo Ả Rập đầu tiên công nhận Israel, chỉ 4 năm sau
cuộc chiến Yom Kippur tháng 10-1973. Quân đội Ai Cập và Syria đã phát động tấn
công lực lượng vũ trang nhà nước Do Thái đang chiếm đóng tại Sinai và cao nguyên
Golan. Cuộc chiến đã kết thúc sau khi LHQ ban hành nghị quyết 338 yêu cầu các bên
tham chiến hợp tác thiết lập hoà bình lâu dài tại Trung Đông.
Ai Cập và Israel đã chính thức ký kết Hiệp định Camp David tháng 9-1978. Hiệp
định này đã vạch cơ sở cho hoà bình Trung Đông, trong đó bao gồm cả khu vực tự trị
giới hạn của người Palestine. Hiệp định hoà bình song phương giữa Ai Cập và Israel
được ông Sadat và Thủ tướng Israel Menachem Begin chính thức ký kết vào 3-1979.
Bán đảo Sinai vốn bị Israel chiếm đóng từ cuộc chiến 1967 đã được trao trả cho
Ai Cập. Các quốc gia Ả Rập khác lập tức tẩy chay Ai Cập vì đã ký hiệp định riêng với
GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 22


SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
Israel.
Ông Sadat bị các phần tử Hồi giáo trong quân đội ám sát năm 1981 trong buổi lễ
kỷ niệm ngày giải phóng Ai Cập.
Nguồn: />Năm 1982 - Israel tấn công Lebanon
Lực lượng quân đội Israel đã phát động chiến dịch quân sự quy mô lớn tấn công
Lebanon vào mùa hè năm 1982. Chiến dịch “Hoà bình cho Galilee” nhằm quét sạch
các căn cứ của lực lượng du kích Palestine đóng gần biên giới phía bắc Israel. Bộ
trưởng Quốc phòng Ariel Sharon đã ra lệnh cho quân đội chặn mọi ngả đường tới
Beirut và trục xuất PLO khỏi đất nước.
Cuộc tấn công bắt đầu ngày 6-6, chưa đầy 2 tháng sau khi quân đội Israel và
thường dân nước này phải rời khỏi Sinai theo Hiệp định hoà bình năm 1979. Binh lính
Israel đã tiến vào Beirut trong tháng 8-1982. Hiệp định ngừng bắn giữa Lebanon và
Israel đã buộc các tay súng PLO phải rời Lebanon và khiến các trại tị nạn của Palestine
không có khả năng tự vệ.
Trong khi quân đội Israel bao vây Beirut, vào ngày 14-9 Bashir Gemayel, lãnh
đạo nhóm vũ trang Christian Phalange đã bị thiệt mạng trong một vụ đánh bom ngay
tại trụ sở ở Beirut. Ngay ngày hôm sau, quân đội Israel đã chiếm được Tây Beirut.
Từ ngày 16 đến 18-9, lực lượng Christian Phalange đã liên minh với Israel và
phát động các chiến dịch tàn sát hành trăm người Palestine tại hai trại tị nạn Sabra và
Shatila. Ông Sharon đã phải từ chức khi cuộc điều tra do Israel tiến hành quyết định
ông này đã không đưa ra hành động ngăn chặn vụ thảm sát được coi là tồi tệ nhất trong
lịch sử Trung Đông trên.
Nguồn: />Năm 1987 - Phong trào Intifada của Palestine
Cuộc nổi dậy rộng khắp của người Palestine - hay còn gọi chiến tranh ném đá
Intifada - chống lại sự chiếm đóng của quân đội nhà nước Do Thái bắt đầu bùng phát

tại Gaza và nhanh chóng lan rộng khắp Bờ Tây.
Người Palestine phát động tổng đình công, tẩy chay các sản phẩm của Israel,…
Trong các cuộc bạo động, người biểu tình chủ yếu ném đá vào lực lượng quân đội
Israel được trang bị tận răng. Chiến tranh Intifada đã thu hút được sự chú ý của cộng
đồng quốc tế.
Lực lượng quốc phòng Israel đã nã đạn vào dòng người biểu tình Palestine. Ước
tính cho đến năm 1993, có tới hơn 1.000 thường dân Palestine thiệt mạng trong các
cuộc đụng độ.
Nguồn: />
GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 23

SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
2.1.3.4. Từ năm 1988 đến nay: Thế giới và cả hai nước đều muốn giải quyết
cuộc xung đột bằng hòa bình
Năm 1988 - PLO mở cánh cửa hướng tới hoà bình
Mặc dù nắm trong tay sức mạnh quân sự, Israel không thể dập tắt phong trào
Intifada bùng phát năm 1987. Đại bộ phận người Palestine sống tại các khu vực do
Israel chiếm đóng đều tham gia phong trào này.
Đối với PLO - đóng đại bản doanh tại Tunis kể từ khi bị đẩy khỏi Lebanon năm
1982 - cuộc nổi dậy đã đe doạ nghiêm trọng tới vai trò của tổ chức này trong cuộc
cách mạng của người Palestine nhằm lấy lại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng và đẩy
lùi được các khu định cư của người Do Thái.
Hội đồng dân tộc Palestine PLC (Chính phủ lưu vong của Palestine) đã triệu tập
tại Algeria vào 11-1988 và bỏ phiếu thông qua giải pháp “2 nhà nước” dựa trên cơ sở
Nghị quyết 181 của LHQ ban hành năm 1947. Ngoài ra, PLC còn tuyên bố từ bỏ các

hoạt động bạo lực vào đề nghị tổ chức các cuộc đàm phán về các khu định cư lấy Nghị
quyết 242 làm cơ sở. Nghị quyết này đã đề nghị Israel rút toàn bộ quân khỏi các khu
vực chiếm đóng trong chiến tranh năm 1967.
Mỹ đã bắt đầu đối thoại với PLO. Trong khi đó, Israel vẫn coi PLO là một tổ
chức khủng bố và không thể thương lượng. Tuy nhiên, Thủ tướng Israel Yitzhak
Shamir đã đề xuất tổ chức bầu cử tại các khu vực chiếm đóng trước khi tiến hành đàm
phán về hiệp định tự trị.
Nguồn: />Năm 1991 - Hội nghị thượng đỉnh Madrid
Cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991 được coi là đại thảm hoạ đối với PLO và nhà
lãnh đạo Yasser Arafat. Đối với PLO, Iraq là quốc gia vùng Vịnh ủng hộ mạnh mẽ
phong trào giải phóng dân tộc của người Palestine.
Sau cuộc chiến vùng Vịnh, Chính quyền Mỹ đã gia tăng các nỗ lực trung gian
hoà giải trong tiến trình hoà bình tại Trung Đông. Ngoại trưởng Mỹ James Baker đã có
nhiều chuyến công du tới Trung Đông nhằm chuẩn bị cho Hội nghị quốc tế Madrid.
Syria đã đồng ý tham dự hội nghị và hy vọng sẽ đưa ra giải pháp cho vấn đề cao
nguyên Golan. Jordan cũng đã chấp nhận lời mời.
Tuy nhiên, Thủ tướng Israel Shamir đã từ chối đàm phán trực tiếp với PLO. Do
vậy, chỉ có phái đoàn phối hợp Jordan - Palestine tham gia. Chỉ vài ngày trước khi
diễn ra hội nghị, Mỹ đã quyết định rút khoản bảo lãnh cho Israel vay khoảng 10 tỷ
USD.
Hội nghị khai mạc vào ngày 30-10. Mỗi bên tham chiến được 45 phút trình bày ý
định của mình. Đại biểu Palestine nói về hy vọng về tương lai chung giữa người
Palestine và Ả Rập. Ông Shamir đã lên tiếng biện hộ cho sự tồn tại của nhà nước Do
Thái. Trong khi đó, Ngoại trưởng Syria Farouq al-Shara đã lên án hành động khủng bố
trong quá khứ của ông Shamir.
Sau khi hội nghị kết thúc, Mỹ đã tổ chức hai cuộc gặp song phương tại
Washington giữa Israel - Syria, và Jordan - Palestine.
GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 24


SVTH: Phan Hoàng Toán


Xung đột giữaIsrael và Palestine – Nguyên nhân và hệ quả
Nguồn: />Năm 1993 - Tiến trình hoà bình Oslo
Chính quyền Rabin đã tiến hành nhiều cuộc đàm phán hoà bình với đại diện từ
phía Palestine. Trong khi đó, PLO mong muốn tiến trình đàm phán cần được đẩy mạnh
thêm nữa. Nguyên nhân chủ yếu do tổ chức này ngày càng yếu thế do ảnh hưởng của
cuộc chiến vùng Vịnh.
Ngay lâp tức, Israel đã quyết định dỡ bỏ lệnh cấm đối với phái đoàn PLO tham
dự các cuộc đàm phán song phương tại Washington. Quan trọng hơn, Ngoại trưởng
Peres và Thứ trưởng Ngoại giao Israel Beilin đã tham dự một diễn đàn mật để tạo
bước đệm cho các cuộc hòa đàm do Na Uy đóng vai trò trung gian hoà giải.
Trong khi các cuộc đàm phán song phương Washington không mang lại kết quả
mong muốn, Diễn đàn mật Oslo đã khai mạc vào ngày 20-1-1993 tại thành phố
Sarpsborg, Na Uy. Diễn đàn này đã mang lại thành công ngoài mong đợi. Phía
Palestine đã đồng ý công nhận Israel. Đổi lại, phía nhà nước Do Thái bắt đầu tiến hành
rút quân khỏi các khu vực chiếm đóng.
Nguồn: />Năm 1994 - Sự ra đời của Chính quyền Palestine
Ngày 4-5-1994, Israel và Tổ chức giải phóng Palestine (PLO) đã tiến tới một thỏa
thuận tại Cairo xung quanh việc tiến hành bước đầu các nguyên tắc trong tuyên bố
năm 1993. Theo thoả thuận, Israel phải rút quân khỏi Dải Gaza, trừ các khu vực định
cư Do Thái và các khu vực xung quanh. Ngoài ra, Israel cũng phải rút quân khỏi thị
trấn Jericho của người Palestine tại Bờ Tây. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán đã bị gián
đoạn do người định cư Do Thái tại thành phố Bờ Tây Hebron bắn chết 29 người Hồi
giáo vào ngày 25-2.
Theo hiệp định, Israel buộc phải rút quân khỏi các khu vực chiếm đóng trong
thời hạn tạm thời 5 năm nhằm tạo điều kiện cho các cuộc đàm phán về việc thành lập
nhà nước Paslestine, số phận của thành phố Jerusalem, khu định cư Do Thái trong các

khu vực bị chiếm đóng và vận mệnh của hơn 3,5 triệu người tị nạn Palestine.
Ngày 1-7-1994, hàng trăm người vui mừng chào đón ông Yasser Arafat trở lại
khu vực do người Palestine kiểm soát. Lực lượng quân đội giải phóng Palestine được
triển khai vào các khu vực trước đó do Israel chiếm đóng. Ông Arafat đã trở thành
người đứng đầu Chính quyền Palestine (PA) trong khu vực tự trị. Tháng 1-1996, ông
Arafat được bầu làm Chủ tịch PA.
Nguồn: />Năm 1995 - Hiệp định Oslo II và vụ ám sát ông Rabin
Những năm đầu tự trị của người Palestine tại Dải Gaza và Jericho gặp rất nhiều
khó khăn. Trả đũa các vụ đánh bom liều chết khiến hàng chục người Israel thiệt mạng,
quân đội nhà nước Do Thái đã phong toả toàn bộ khu vực tự trị và tiến hành sát hại các
tay súng Palestine. Trong khi đó, các hoạt động định cư vẫn được tiếp tục. Làn sóng
phản đối tiến trình hoà bình ngày càng dâng cao trong giới chính khách theo đường lối
hữu khuynh và những người theo chủ nghĩa dân tộc tôn giáo ở Israel.
GVHD: Huỳnh Tương Ái

Trang 25

SVTH: Phan Hoàng Toán


×