Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

LUẬN văn sư PHẠM NGỮ văn GIẢNG dạy TRUYỆN dân GIAN TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ văn 10 (bộ cơ bản) BẰNG bản đồ tư DUY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 86 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM

BỘ MÔN NGỮ VĂN

LÊ THỊ BÍCH TUYỀN

GIẢNG DẠY TRUYỆN DÂN GIAN TRONG
SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 (BỘ CƠ
BẢN) BẰNG BẢN ĐỒ TƯ DUY

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm ngữ văn

Cán bộ hướng dẫn: TRẦN NGUYÊN HƯƠNG THẢO

Cần Thơ, 5 - 2011

ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG CHÍNH



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CHO THIẾT KẾ BÀI
GIẢNG BẰNG BẢN ĐỒ TƯ DUY
1.1. Quan điểm lấy học sinh làm trung tâm
1.2. Dạy học bằng phương pháp trực quan
1.2.1. Tác giả Tony Buzan
1.2.2. Khái niệm phương pháp trực quan
1.2.3. Ưu, nhược điểm của phương pháp trực quan
1.3. Giới thiệu về bản đồ tư duy (Mindmap)
1.3.1. Tác giả Tony Buzan
1.3.2. Khái niệm về bản đồ tư duy
1.3.3. Kỹ thuật tư duy 5W1H
1.3.4. Ưu điểm của bản đồ tư duy so với ghi chú truyền thống
1.3.5. Các qui tắc trong bản đồ tư duy
1.3.5.1 Quy tắc kỹ thuật
1.3.5.2. Quy tắc bố trí
1.3.6. Ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy
1.3.6.1. Soạn bài giảng
1.3.6.2. Hoạch định kế hoạch cho năm
1.3.6.3 Hoạch định cho học kỳ
1.3.6.4. Hoạch định cho ngày
1.3.6.5.Thi cử
1.3.6.6. Giáo dục đặc biệt
2


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY THIẾT KẾ GIÁO
ÁN TRUYỆN DÂN GIAN SGK NGỮ VĂN 10
2.1. Thiết kế bản đồ tư duy
2.1.1. Thiết kế bản đồ tư duy bằng vẽ tay

2.1.2. Thiết kế bản đồ tư duy bằng phần mềm
2.1.2.1. Cài đặt chương trình
2.1.2.2. Giao diện chương trình
2.1.2.3. Thao tác cơ bản thiết kế bản đồ tư duy
2.2. Thiết kế giáo án
2.2.1. Bài dạy: Chiến thắng Mtao-Mxây
2.2.2. Bài dạy: Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy
2.2.3. Bài dạy: Tấm Cám
2.2.4. Bài dạy: Tam đại con gà
2.2.5. Bài dạy: Nhưng nó phải bằng hai mày

PHẦN KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Một nhà khoa học đã từng nói: “Dân tộc nào sớm đổi mới tư duy giáo dục thì
dân tộc đó sẽ đi đầu trong cuộc cạnh tranh của thời đại này”. Qua đó, ta thấy được
tầm quan trọng của Giáo dục và Đào tạo, giáo dục phải giúp cho học sinh có năng lực
tìm tòi biến “quá trình đào tạo thành tự đào tạo”. Dạy học văn là một “quá trình rèn
luyện toàn diện”. Tuy nhiên, thực tế những năm gần đây cho thấy chất lượng dạy học
Văn còn nhiều bất cập. Tình trạng học sinh chán học Văn, lạnh lùng, thờ ơ với các số
phận và vấn đề đặt ra trong tác phẩm ngày càng nhiều, nhất là với phần văn học dân
gian thì tình trạng trên càng thấy rõ vì ở lứa tuổi học sinh bậc Trung học phổ thông
3


“chưa lớn nhưng không nhỏ”, học sinh không còn thích thú, say mê đối với tác phẩm
văn học dân gian.

Mặt khác, Khổng Tử cũng đã từng nói “Nếu bạn cho anh ta một con cá, bạn chỉ
nuôi anh ta được một ngày. Nếu bạn dạy anh ta bắt cá, bạn nuôi anh ta cả đời”. Qua
câu nói trên Khổng Tử đã nhấn mạnh đến vai trò của phương pháp.
Hơn thế nữa, ngày nay mọi phương diện của đời sống xã hội đều có xu hướng
phát triển theo hướng hiện đại hóa, công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong
nhiều lĩnh vực có những điều hôm nay là mới nhưng ngày mai sẽ cũ. Đứng trước sự
đổi mới đó, nền giáo dục đòi hỏi người giáo viên phải có những sáng tạo và đổi mới
phương pháp trong quá trình dạy học. Đổi mới, sáng tạo như thế nào tất cả đều được
thể hiện qua hoạt động thiết kế bài giảng. Nhưng thiết kế như thế nào để đạt được hiệu
quả cao là một vấn đề khó. Người giáo viên phải tự hỏi “Tại sao cùng một tác phẩm
văn chương, giáo viên này có được tiết dạy thành công, hào hứng còn giáo viên khác
lại tạo nên không khí nặng nề, buồn chán?”. Do đó việc thiết kế giáo án là một thử
thách không nhỏ đối với người giáo viên. Chính vì những lí do trên mà người viết
quyết định chọn đề tài Giảng dạy truyện dân gian trong SGK Ngữ văn 10 (Bộ cơ bản)
bằng bản đồ tư duy .
Thêm vào đó người viết cũng hết sức thích thú đối với việc tìm hiểu về bản đồ
tư duy. Do đó, sau khi được cán bộ giảng dạy gợi ý đề tài người viết đã đi đến quyết
định chọn đề tài Giảng dạy truyện dân gian trong SGK Ngữ văn 10 (Bộ cơ bản) bằng
bản đồ tư duy .
Hơn thế nữa, tìm hiểu đề tài này cũng là cơ hội để người viết bước đầu có thể
tiếp cận được với một phương pháp ghi chú, dạy học mà hiện nay trên thế giới nhiều
quốc gia đã sử dụng và bước đầu mang lại nhiều hiệu quả.
Ngoài ra, thực hiện đề tài luận văn này cũng là cơ hội để người viết rèn luyện,
trau dồi khả năng vận dụng các kiến thức đã học, khả năng tiếp cận với các phương
pháp dạy học hiệu quả trong quá trình hiện đại hóa nền giáo dục vào việc thiết kế giáo
án phục vụ cho công việc giảng dạy sau này và làm quen dần với công việc nghiên cứu
khoa học dù mới chỉ ở một đề tài nhỏ.
Từ tất cả những lí do trên và nhu cầu tất yếu đổi mới phương pháp dạy học
cùng với những tác dụng, lợi ích thiết thực của việc nghiên cứu đề tài mang lại mà
người viết đã chọn Giảng dạy truyện dân gian trong SGK Ngữ văn 10 (Bộ cơ bản)

bằng bản đồ tư duy làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình. Với đề tài
này người viết hi vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc hiện đại hóa phương pháp giảng
dạy ở nhà trường phổ thông hiện nay, đồng thời cũng muốn thử thách khả năng bản
thân bước đầu chuẩn bị cho quá trình giảng dạy sau này.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

4


Có thể thấy rằng, phương pháp và đổi mới phương pháp giảng dạy luôn là một
vấn đề đặt ra đối với những người làm công tác giáo dục và hiện nay vấn đề đó càng
cần thiết hơn. Làm sao để có một bài giảng sinh động, truyền được cảm xúc đến học
sinh nhất là các bài giảng về tác phẩm văn học dân gian là một vấn đề không dễ dàng.
Trịnh Xuân Vũ cho rằng “người thầy tồi chỉ biết truyền đạt chân lí. Người thầy giỏi
chủ yếu dạy cách tìm ra chân lí” [16; 23]. Qua đó, ta càng thấy rõ hơn tầm quan trọng
của phương pháp dạy học. Trong quá trình tìm hiểu lịch sử vấn đề của đề tài người viết
đã gặp khó khăn khi tài liệu còn quá ít ỏi nhưng người viết cũng dẫn ra một vài công
trình đã được nghiên cứu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của người viết lần này.
Trước hết phải kể đến quyển “ Phương pháp giảng dạy văn học ở trường phổ
thông” tập 1 của tác giả V.A.Nhikonxki. Quyển sách gồm 5 chương:
- Chương I: Học sinh là độc giả của các tác phẩm văn chương
- Chương II: Mục đích và nhiệm vụ giảng dạy văn học trong nhà trường phổ
thông
- Chương III: Nội dung và kết cấu chương trình văn học của trường phổ thông
- Chương IV: Các nguyên tắc giảng dạy văn học ở nhà trường phổ thông
- Chương V: Các phương pháp và thủ thuật dạy văn học ở trường phổ thông
Ở chương V tác giả đã đưa ra một phương pháp khá tiêu biểu và gần gũi với vấn đề
được nêu lên trong luận văn của người viết đó là phương pháp minh họa tác phẩm
“muốn vẽ tranh minh họa, học sinh cần chú ý đến những tình tiết đã in đậm nét

trong trí tưởng tượng của mình sau đó các em mới quyết định thể hiện hình ảnh đã
đọc được đó lên giấy hay bằng một phương tiện nào khác [12; 82]. Học sinh thích
vẽ minh họa cho các chuyện cổ tích [12; 83]. Trong chừng mực nào đó tác giả đã
phác thảo sơ lược đến vấn đề nghiên cứu của người viết. Tuy nhiên, phần này
tương đối ngắn chỉ có một trang A4 chỉ nêu lên và dừng lại ở đấy mà không hề đi
vào phân tích làm rõ vấn đề.
Cũng với tác giả V.A.Nhikonxki trong cuốn “ Phương pháp giảng dạy văn học
ở trường phổ thông” tập 2. Quyển sách bao gồm 4 chương tiếp theo tập 1:
- Chương VI: Tính chất chung của các giờ văn học trong nhà trường phổ thông
- Chương VII: Giờ học văn học ở các lớp IV- VII ở nhà trường phổ thông
- Chương VIII: Giờ văn học ở các lớp VIII- X ở nhà trường phổ thông
- Chương IX: Công tác ngoại khóa văn học
Ở đây chúng tôi lưu tâm đến chương VIII, trong chương này tác giả đã đưa ra
một cách thiết kế giáo án cho việc giảng dạy mà tác giả gọi đó là “ Đề cương tổng
quát”. “Đề cương tổng quát chứa đựng tài liệu bao gồm một khối lượng lớn các sự
kiện, ý tưởng. Thầy giáo chỉ cần lựa chọn những kiến thức cần thiết nhất, hệ thống
hóa chúng rành mạch và truyền đạt cho các thính giả trẻ tuổi một cách hấp dẫn”
[13; 52]. “Thầy giáo dẫn dắt học sinh từ cái chung đến cái riêng, đồng thời luôn
nhấn mạnh tính chất logic khách quan… mối liên hệ lẫn nhau giữa chúng. Mỗi một
bài học đều phụ thuộc vào tư tưởng chủ đạo, như vậy học sinh dễ dàng nắm được
5


đề tài của nó” [13; 54], “những tài liệu tổng quát cần phải có tài liệu trực quan…
sự lắp ghép thành công những tài liệu trực quan cho phép xây dựng cả bài giảng
tổng quát như một bài thuyết trình sâu sắc” [13; 55]. Như vậy có thể thấy ở khía
cạnh nào đó, tác giả đã đề cập đến vấn đề có liên quan đến đề tài.
Trong “Phương pháp dạy học Văn ở bậc trung học” tác giả Trịnh Xuân Vũ đã
đưa ra nhiều phương pháp dạy học Văn. Sách có 4 chương:
- Chương I: Các phương pháp trong lịch sử nhà trường

- Chương II: Những tiền đề khoa học của một hệ phương pháp dạy học Văn theo
hướng tích cực- hiện đại ở nhà trường phổ thông trung học
- Chương III: Cấu trúc lại hệ phương pháp riêng cho môn văn chương ở nhà
trường phổ thông theo hướng tích cực, hiện đại
- Chương IV: Ứng dụng và thực nghiệm hệ phương pháp riêng theo hướng tích
cực hiện đại ở nhà trường Trung học phổ thông
Ở chương IV tác giả ứng dụng các lí thuyết nêu ở những phần trước vào việc xây
dựng giáo án cụ thể cho bài “ Mỵ Châu- Trọng Thủy” ở thể loại truyền thuyết.
Trong giáo án, ở giai đoạn đầu tác giả đã sủ dụng phương pháp mô hình tác phẩm
“mô tả cấu trúc tác phẩm Mỵ Châu- Trọng Thủy bằng phương pháp đặc thù của
môn văn chương là để tạo ra trực quan và cảm tính cho mỗi bạn đọc- trò. Nó là
cơ sở của mọi tìm tòi, sáng tạo. Bởi vì, thiếu những mô hình cụ thể - cảm tính như
thế để bắc cầu, người ta dễ mất phương hướng khi lí giải các cấu trúc trừu tượng
thuần túy [16; 208].
Trong quyển sách tác giả đã chú ý đến việc thay đổi giáo án truyền thống và bắt
đầu sử dụng phương pháp sơ đồ vào giáo án giảng dạy theo hướng hiện đại. Tuy
nhiên nó còn ở mức đơn giản, tác giả chưa cho nó là một phương pháp trọng tâm
xây dựng nên một giáo án nhưng trong chừng mực nào đó tác giả đã đề cập đến
những vấn đề cơ bản nhất của việc Giảng dạy truyện dân gian trong SGK Ngữ văn
10 (Bộ cơ bản) bằng bản đồ tư duy.
Tiếp theo, có thể kể đến quyển “Các phương pháp dạy học hiệu quả” của
nhóm tác giả Robert J.Marzano – Debra J.Pickering – Jane E.Pollock. Trong 6
chương nhóm tác giả đã đề cập đến một phương pháp dạy học có hiệu quả mà
người viết cảm thấy ít nhiều có liên quan đến đến đề tài đang thực hiện đó là sử
dụng phương pháp thể hiện phi ngôn ngữ: tạo ra các cách biểu hiện hình họa, sơ
đồ, vẽ ra các bức tranh các hình tượng … có thể thêm chú thích cho bài học dễ nhớ.
Theo tác giả “Việc tạo ra các diễn đạt phi ngôn ngữ giúp học sinh hiểu nội dung
bài dưới ánh sáng mới mẻ” [10; 113]. Trên đây chỉ là những công trình mà ở mức
độ cơ bản đã chỉ ra việc vận dụng các sơ đồ vào việc giảng dạy môn Văn trong nhà
trường.

Công trình gần đây nhất mà người viết đặc biệt quan tâm là cuốn “Bản đồ tư
duy đổi mới dạy học”, nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, năm 2009
của tác giả Hoàng Đức Huy viết. Trong quyển sách tác giả trình bày 3 phần:
6


- Phần 1: Bản đồ tư duy
- Phần 2: Thực hiện bản đồ tư duy trong giảng dạy các bậc học
- Phần 3: Tham khảo
Người viết nhận thấy trong phần 2 của quyển sách tác giả đã đưa ra những ưu điểm
khi sử dụng bản đồ tư duy ở từng lứa tuổi cũng như cách thiết kế bản đồ tư duy và
một vài bản đồ đã được thiết kế. Dù đã được trình bày khá chi tiết về cách thức
thiết kế bản đồ tư duy nhưng ở đây tác giả chưa đi sâu vào phương pháp xây dựng
một giáo án chi tiết, tất cả đều chỉ ở bước cơ bản.
Ngoài ra cũng có thể kể đến “ Sử dụng trí tuệ của bạn” và “Sơ đồ tư duy” của
Tony Buzan hay “Tôi tài giỏi bạn cũng thế” do Adam Koo viết đã được dịch ra
tiếng Việt. Các công trình này ít hoặc nhiều đều có nhắc đến việc sử dụng bản đồ
tư duy trong dạy học và thực tế đã thu được nhiều thành công. Nhưng nhìn chung
các công trình chỉ mới ở mức độ nêu ra hoặc áp dụng chung chung chứ chưa đi sâu
vào việc ứng dụng sơ đồ tư duy vào thiết kế giáo án để giảng dạy nhất là giảng dạy
phần văn học dân gian.
Như vậy, Giảng dạy truyện dân gian trong SGK Ngữ văn 10 (Bộ cơ bản) bằng
bản đồ tư duy là một vấn đề còn khá mới mẻ cần được nghiên cứu thêm. Tuy
nhiên, với những công trình nghiên cứu của các tác giả nói trên người viết đã có
những gợi ý ban đầu để bắt tay vào nghiên cứu vấn đề.

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Với đề tài, Giảng dạy truyện dân gian trong SGK Ngữ văn 10 (Bộ cơ bản) bằng
bản đồ tư duy - một đề tài nghiêng về phương pháp, người viết đặt ra một số mục
đích, yêu cầu riêng:

Đến với đề tài này chúng tôi muốn tìm ra cho bản thân những cách thiết kế bài
giảng truyện văn học dân gian nói riêng và các bài giảng văn khác nói chung có
chất lượng và hiệu quả cao theo quan điểm dạy học tích cực hiện đại bằng cách vận
dụng bản đồ tư duy (Mindmap) để chuẩn bị cho công tác giảng dạy sau này. Bên
cạnh đó có thể góp một phần công sức vào việc nghiên cứu và thiết kế bài giảng.
Để đạt được những mục đích trên, chúng tôi đặt ra một số yêu cầu cơ bản.
Người viết phải tìm hiểu và biết được những nét cơ bản của quan điểm dạy học
hiện đại, xu hướng vận dụng công nghệ thông tin cũng như cách thức sử dụng bản
đồ tư duy trong việc xây dựng giáo án giảng dạy. Mặt khác cũng phải nắm vững
nội dung, kiến thức truyện dân gian trong SGK Ngữ văn 10, tập một. Từ đó thiết kế
được các bài dạy truyện văn học dân gian Việt Nam trong sách giáo khoa 10, bộ cơ
bản bằng bản đồ tư duy.

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Với đề tài, Giảng dạy truyện dân gian trong SGK Ngữ văn 10 (Bộ cơ bản) bằng
bản đồ tư duy ở mức độ một luận văn tốt nghiệp chúng tôi không thiết kế hết
7


những bài dạy trong SGK Ngữ văn 10 mà chỉ thiết kế những bài dạy thuộc thể loại
truyện dân gian. Cụ thể là những bài dạy:
- Chiến thắng Mtao-Mxây
- Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy
- Tấm Cám
- Tam đại con gà
- Nhưng nó phải bằng hai mày

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành luận văn này người viết sử dụng một số phương pháp cơ bản
như:

- Đọc tác phẩm truyện.
- Tìm, thu thập các tài liệu và thông tin có liên quan đến đề tài.
- Khảo sát các tài liệu đã tìm được.
- Phân tích, so sánh, đối chiếu giữa các tài liệu để rút ra những điểm cần thiết cho
luận văn.
- Nhận xét, đánh giá.
- Tổng hợp thông tin đã rút ra từ các tài liệu cùng với kiến thức của bản thân để
tiến hành thiết kế một số bài giảng trong phạm vi của đề tài.

PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
CH

NG 1: C

b ng b n

t

s

lý lu N chung cho thI T k

bài gi ng

duy (Mindmap)

1.1. Quan điểm lấy học sinh làm trung tâm
Từ năm 1973, đồng chí Phạm Văn Đồng đã nhắc nhở chúng ta “Phải suy nghĩ,
phải tìm tòi, phải sáng tạo, phải xây dựng một phương pháp giảng dạy Văn thích hợp
đem lại những hiệu quả tốt… chúng ta phải xem lại cách dạy Văn trong nhà trường

8


phổ thông của ta, không nên dạy như cũ vì dạy như cũ thì không những chỉ việc dạy
Văn không hay mà sự đào tạo cũng không hay” [ 8; 160]. Đó như một yêu cầu cấp
thiết của việc đổi mới phương pháp dạy học Văn nói riêng và của nền giáo dục nước ta
nói chung. Thật vậy, trong những thập niên gần đây việc đổi mới giáo dục của nước ta
được xem là quốc sách hàng đầu và đã có những bước chuyển mình thật đáng kể. Nét
mới đầu tiên có thể kể đến là đó là xác định quan điểm lấy học sinh làm trung tâm
trong quá trình dạy học. Việc phát huy vai trò chủ thể của học sinh là một trong những
nguyên tắc cơ bản và quyết định hiệu quả của việc dạy và học.
Trong dạy học truyền thống, người ta thường chú trọng đến vai trò của người
thầy, thầy làm tất cả các công việc còn học sinh là “bình chứa” để giáo viên rót kiến
thức vào. Nhưng theo quan điểm mới thì “Giáo viên là nhạc trưởng điều khiển cho
mọi nhạc công sử dụng hài hòa nhạc cụ của mình” [8; 60]. Phải phát huy được vai trò
chủ thể của học sinh trong mối quan hệ trò – lớp – thầy trong quá trình dạy học. Điều
đó có nghĩa học sinh là trung tâm, giáo viên chỉ là người tổ chức, dẫn dắt các hoạt
động để học sinh có thể làm việc một cách chủ động, tích cực.
Mục đích cuối cùng của việc đổi mới trong quan điểm dạy học lấy học sinh làm
trung tâm là phải phát huy được vai trò chủ thể của học sinh trong giờ giảng Văn, vai
trò của học sinh phải được phát huy tối đa. Bởi vì, tiếp nhận một tác phẩm văn chương
là một hoạt động đầy sáng tạo, mỗi người có cách cảm nhận riêng của mình chứ không
thể gò ép, rập khuôn “sao y bản chính” một cách máy móc.
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, người thầy có vai trò tổ chức hoạt động
nhận thức cho học sinh, dạy cho học sinh cách tìm ra chân lý. Chú trọng hình thành
các năng lực: năng lực tự học, sáng tạo, hợp tác.
Ta có thể so sánh đặc trưng của dạy học lấy học sinh làm trung tâm và dạy học
lấy giáo viên làm trung tâm (quan điểm truyền thống) như sau:
Giáo viên làm trung tâm
(truyền thống)

Quan niệm

Bản chất

Mục tiêu

Học sinh làm trung tâm
(hiện đại)

Học là quá trình tiếp thu và lĩnh Học là quá trình kiến tạo, học
hội, qua đó hình thành kiến thức, sinh tìm tòi, khám phá, xử lý
tư tưởng…
thông tin… tự hình thành
hiểu biết, năng lực, phẩm
chất.
Truyền thụ tri thức, chứng minh Tổ chức hoạt động nhận thức
chân lý.
cho học sinh. Dạy học sinh
cách tìm ra chân lý.
Chú trọng cung cấp tri thức, kĩ Chú trọng hình thành các
năng. Học để đối phó với thi cử. năng lực (sáng tạo, hợp
Sau khi thi những điều đã học tác…) dạy phương pháp, dạy
9


thường bị quên hoặc ít dùng đến.

cách học. Những điều đã học
cần cho học sinh, cho sự phát
triển của xã hội.


Từ sách giáo khoa, giáo viên.

Từ nhiều nguồn: Sách giáo
khoa, giáo viên, thực tế, các
tài liệu khoa học phù hợp…
gắn với:

Nội dung

- Vốn hiểu biết, kinh ngiệm,
nhu cầu của học sinh.
- Tình huống thực tế, bối
cảnh, môi trường địa phương.
- Những vấn đề học sinh quan
tâm.

Phương pháp Các phương pháp truyền thụ kiến Các phương pháp giải quyết
vấn đề.
thức một chiều.

Hình thức tổ
chức

Phương tiện
dạy học
Kiểm tra –
Đánh giá

Cơ động, linh hoạt: Học cá

Cố định, cứng nhắc, giáo viên đối nhân, học đôi bạn, học sinh
đối diện với giáo viên, học
diện với cả lớp.
sinh đối diện với nhau.

Chưa được quan tâm đúng mức.

Giáo viên là người độc quyền
đánh giá kết quả học tập của học
sinh, chú ý khả năng ghi nhớ và
tái hiện các thông tin giáo viên đã
cung cấp.

Các thiết bị hiện đại, đặc biệt
là ứng dụng công nghệ thông
tin vào giảng dạy.

Học sinh tự giác chịu trách
nhiệm về kết quả học tập của
mình, được tham gia đánh giá
lẫn nhau.

Dạy học theo truyền thống lấy giáo viên làm trung tâm là cách truyền thụ một
chiều từ thầy đến trò. Việc đánh giá chủ yếu nhằm xem trò nắm được bao nhiêu thông
tin và những thông tin ấy chính xác ở mức độ nào điều đó quan trọng hơn là xem trò
hiểu như thế nào.
Dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm là mối quan hệ hai chiều giữa
thầy và trò. Thầy huy động vốn kiến thức đã có ở trò để giúp trò xây dựng kiến thức
mới. Việc đánh giá chủ yếu là xem xét sự hứng thú, lợi ích của trò, xem trò hiểu đến
10



đâu và hiểu như thế nào. Thầy sử dụng kiến thức, sự hiểu biết đang có ở học sinh làm
điểm xuất phát của việc dạy sau đó dẫn dắt trò tự xây dựng kiến thức cho mình, hiểu
theo cách hiểu của mình. Mục đích của việc dạy học này là làm cho trò biết cách học,
học phải hiểu.
Để làm rõ quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm, Marzano – một nhà
giáo dục người Mĩ đã đưa ra năm định hướng trong quá trình dạy học:
Định hướng 1: Thái độ và sự nhận thức tích cực về việc học
Đây là định hướng nền tảng giúp học sinh thực hiện tốt quá trình học. Không
khí lớp học và nhiệm vụ học tập được giao là hai yếu tố quan trọng chi phối thái độ và
sự nhận thức tích cực của việc học. Giáo viên phải có sự quan tâm thích hợp để tạo
bầu không khí học tập thoải mái, trật tự, nhiệm vụ học tập giao cho học sinh phải có
vấn đề và phù hợp với năng lực của học sinh.
Định hướng 2: Thu nhận và tổng hợp kiến thức
Biết cách thu nhận và tổng hợp kiến thức là một điều vô cùng quan trọng trong
việc tiếp cận với đại dương kiến thức của nhân loại. Mục đích của định hướng này là:
cung cấp kiến thức cho học sinh, tìm ra phương pháp giúp học sinh thu nhận và tổng
hợp kiến thức có hiệu quả. Theo đó, Marzano đã phân chia như sau:
Nội dung kiến thức

Kiến thức quy trình
(KTQT)

Kiến thức thông báo

Ghi nhớ
Xây
Định
Thu nhận

kiến
dựng mô
hình
kiến thức
thức
hình
KTQT
Định hướng 3: Mở rộng và tinh lọc kiến thức
Trong quá trình dạy học, giáo viên phải giúp học sinh thu nhận, mở rộng và tinh
lọc kiến thức. Nếu không thì những kiến thức của học sinh sẽ nhanh chóng trở nên lạc
hậu. Giáo viên phải đưa ra những tình huống có vấn đề yêu cầu học sinh thực hiện các
thao tác so sánh, khái quát hóa… để rèn luyện năng lực tư duy, sáng tạo, tự học.
Định hướng 4: Sử dụng kiến thức có hiệu quả
Mục đích cuối cùng của quá trình dạy học là học sinh phải sử dụng các kiến
thức tiếp thu được một cách hiệu quả. Do đó giáo viên phải hướng dẫn học sinh làm
điều này bằng cách đưa ra các bài tập đòi hỏi học sinh phải vận dụng tư duy sáng tạo
Xây
dựng ý

Sắp xếp
ý

11


mới giải quyết được. Mục đích là rèn luyện cho học sinh vận dụng kiến thức để xem
xét, giải quyết vấn đề.
Định hướng 5: Rèn luyện thói quen tư duy
Những kiến thức, kĩ năng học được nếu không thường xuyên sử dụng thì sau
một thời gian có thể quên đi. Do đó rèn luyện thói quen tư duy cho học sinh là một

điều cần thiết trong quá trình dạy học. Giáo viên cần rèn luyện cho học sinh thói quen
sáng tạo, chỉ cho học sinh thấy được hiệu quả cũng như sự cần thiết rèn luyện thói
quen tư duy.
Năm định hướng trên có tác dụng phát huy vai trò chủ đạo của học sinh. Trong
quá trình dạy học, giáo viên nên sử dụng kết hợp các định hướng với nhau.
Như vậy, có thể nói với quan điểm học sinh là trung tâm trong quá trình dạy
học thì người học không còn là khán giả của những trận đấu nữa mà họ là những vận
động viên phải tham gia trực tiếp, tích cực.

1.2. Dạy học bằng phương pháp trực quan
Cùng với sự phát triển chung của xã hội, chúng ta đang tìm kiếm và vận dụng
sáng tạo các phương pháp dạy học cho phù hợp với điều kiện giảng dạy ở nhà trường.
Một số nhà lí luận dạy học đã chia các phương pháp dạy học thành ba nhóm:
Phương pháp dạy học
Phương pháp dùng lời
Đàm thoại

Thuyết trình
Làm việc với SGK

Phương pháp trực quan
Trình bày trực quan

Quan sát

Phương pháp thực tiễn
Luyện tập, ôn tập

Làm thực nghiệm


Tuy nhiên môn Văn là môn khoa học xã hội vì thế trong một giờ dạy, ta có thể
sử dụng nhiều phương pháp như: đọc tác phẩm, thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề,
thảo luận nhóm… Mỗi phương pháp đều có những ưu, nhược điểm riêng tùy theo từng
trường hợp và hoàn cảnh mà người giáo viên sử dụng sao cho thích hợp để mang lại
hiệu quả cao cho giờ dạy của mình. Hiện nay phương pháp được áp dụng phổ biến và
mang lại nhiều hiệu quả tích cực cho việc dạy và học đó là phương pháp trực quan.
Phương pháp này đã thể hiện tích cực nguyên tắc dạy học “Trăm nghe không bằng
một thấy”.

12


1.2.1. Khái niệm phương pháp trực quan
Phương pháp trực quan là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan
như: tranh ảnh, vật thật… có liên quan đến vấn đề để giúp học sinh hiểu được bài học
và khắc sâu kiến thức. Thực tế, con người tiếp nhận thông tin bằng nhiều kênh: thị
giác, thính giác, xúc giác…, tầm quan trọng của phương pháp này được thể hiện cụ thể
qua thống kê sau:
Mức độ ảnh hưởng của các giác quan trong quá trình tiếp nhận kiến thức.
Nếm

Sờ

Ngửi

Nghe

Nhìn

1%


1,5%

3,5%

11%

83%

Tỉ lệ kiến thức nhớ được sau khi học.
Nghe

Nhìn

Nghe, nhìn

Nói được

Nói, làm được

20%

30%

50%

80%

90%


Và chúng ta cũng có câu nói rất hay rằng:
Tôi nghe – Tôi quên
Tôi nhìn – Tôi hiểu
Tôi làm – Tôi nhớ
Có nhiều loại phương tiện trực quan và ở mức độ khái quát ta có thể phân loại
như sau:

Phương tiện trực quan

Tranh
ảnh,
vật
thật

Biểu bảng, mô hình


hình


đồ



Kịch (đóng vai)

13

Thiết bị, hỗ trợ


Băng đĩa,
phim ảnh

Over
head,
máy


Tranh ảnh, vật thật:
Hình thức này được sử dụng nhiều trong giờ dạy Văn. Vì văn chương vốn là
nghệ thuật của ngôn từ. Thế giới trong nghệ thuật văn chương có một khoảng cách với
thực tại, nó không hiển hiện một cách trực tiếp. Để hiểu được, để tiếp cận được với tác
phẩm, người đọc cần có khả năng liên tưởng. Các phương tiện này giáo viên, học sinh
có thể tự làm, sưu tầm từ sách báo… để cho tiết học được sinh động hơn.
Sử dụng biểu bảng, mô hình:
Đây cũng là một hình thức của phương pháp trực quan. Các loại biểu bảng, mô
hình, sơ đồ do giáo viên trình bày trong quá trình giảng dạy cũng làm cho học sinh chú
ý, lĩnh hội tri thức tích cực hơn. Các loại biểu bảng như:
- Sơ đồ: Giúp học sinh nhìn thấy mối quan hệ giữa các thành phần trong vấn đề một
cách khái quát, tổng thể hơn.
- Bảng tổng kết: Thường dùng để tóm tắt những kiến thức chính trong một chương,
một phần.
- Bảng so sánh: So sánh những điểm giống nhau và khác nhau của vấn đề.
- Mô hình: Được sử dụng nhiều trong giờ dạy ngữ pháp giúp học sinh dễ tiếp thu hơn.
Các thiết bị hỗ trợ, phương tiện nghe nhìn:
Việc áp dụng các loại máy chiếu, over head, băng đĩa, phim kết hợp với sự trình
bày kiến thức của giáo viên sẽ làm cho giờ học sinh động, đạt hiệu quả cao hơn.
Ngoài ra, còn có đóng vai để diễn kịch phục vụ cho việc học tác phẩm văn
chương.
Tham quan, thực tế cũng là một trong những hình thức khác của phương pháp

trực quan.
Phương tiện trực quan là cần thiết nhưng không nên lạm dụng nó để dẫn đến
tình trạng một bài dạy chỉ có hình thức mà mất đi tính hàm súc, cô đọng, tính cảm là
đặc thù của văn chương. Điều đó vô tình làm cho việc tìm hiểu một tác phẩm văn
chương là quá trình trưng bày, minh họa các hình ảnh trong tác phẩm đó.

1.2.2. Ưu, nhược điểm của phương pháp trực quan
Phương pháp này có nhiều ưu điểm:
- Phát huy được vai trò của nhận thức cảm tính trong dạy học.
- Học sinh dễ hiểu bài, nhớ bài lâu hơn, giảm mệt nhọc khi học. Học sinh có thể
tri giác tiếp cận đối tượng bằng các giác quan.
- Phương tiện trực quan giúp cụ thể hóa những cái trừu tượng, giúp trừu tượng
hóa, đơn giản hóa những vấn đề phức tạp giúp học sinh thu nhận thông tin một
cách sinh động, đầy đủ, chính xác, dễ dàng.
14


-

Phát triển năng lực quan sát, tư duy, óc tò mò, hứng thú của học sinh trong học
tập. Phương pháp này làm cho nội dung bài học sinh động hơn, nâng cao lòng
tin của học sinh đối với khoa học.
- Tạo điều kiện cho học sinh liên hệ với cuộc sống, gần gũi với thực tế cuộc sống.
- Giáo viên tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi tiết học. Do đó, giáo viên
có thêm nhiều thời gian để truyền tải kiến thức làm rõ các nội dung khác. Giáo
viên điều khiển được hoạt động nhận thức của học sinh, kiểm tra và đánh giá
kết quả học tập của các em được thuận lợi, hiệu suất cao hơn.
Bên cạnh đó, phương pháp này vẫn có những nhược điểm nếu không khéo sử dụng
sẽ dẫn đến những hạn chế:
- Học sinh dễ phân tán chú ý không tập trung vào bài học mà chỉ tập trung vào

các hình ảnh từ phương tiện trực quan.
- Hạn chế phát triển tư duy trừu tượng của học sinh.
Do đó, để phát huy hiệu quả khi sử dụng phương pháp dạy học trực quan giáo
viên cần lựa chọn các phương tiện trực quan, kỹ thuật cho phù hợp với mục đích, nội
dung của từng bài dạy. Giải thích rõ mục đích trình bày, phải đảm bảo tất cả các học
sinh được quan sát rõ ràng, đầy đủ khi sử dụng trực quan. Giáo viên sử dụng trực
quan thì phải đảm bảo chúng có tác dụng tích cực đến quá trình nhận thức, hoạt động
độc lập của học sinh nên nhớ rằng bản thân các phương tiện trực quan chưa thể phát
huy tác dụng tích cực đối với học sinh nếu giáo viên không biết cách sử dụng chúng.
Các phương tiện đó cần phải được đảm bảo về kỹ thuật, thẩm mĩ, vệ sinh… Và đặc
biệt, sử dụng phải đúng lúc, đúng chỗ, đúng cường độ, có thể phối hợp với các
phương pháp dạy học khác để cho quá trình dạy học đạt hiệu quả cao.

1.3. Giới thiệu chung về bản đồ tư duy (Mindmap)
1.3.1. Tác giả Tony Buzan

15


Hình 1.1. Tác giả Tony Buzan và một trong những cuốn sách của ông
Tony Buzan sinh năm 1942 tại London, là nhà “Ảo thuật gia tư duy”, nhà phát
minh bản đồ tư duy công cụ tư duy được mô tả là “Công cụ vạn năng của bộ não”.
Tony Buzan từng nhận bằng danh dự về tâm lí học, văn chương Anh, toán học và
nhiều môn khoa học tự nhiên của trường Đại học British Columbia năm 1964. Tony
Buzan là tác giả hàng đầu thế giới về não bộ.
Ông là tác giả và đồng tác giả của hơn 92 cuốn sách và được dịch ra hơn 30 thứ
tiếng với hơn 3 triệu bản, đang được bán tại hơn 100 quốc gia trên thế giới.
Tony Buzan được biết đến nhiều nhất qua cuốn “Use your head”- Sử dụng trí
tuệ của bạn. Trong đó, ông trình bày cách thức ghi nhớ tự nhiên của não bộ cùng với
các phương pháp Mind Map. Ngoài ra, ông còn có một số sách nổi tiếng khác như:

“Mind Map Book”, “Use your memory”. Tony Buzan là nhân vật nổi tiếng của truyền
thông toàn cầu đã xuất hiện trên hơn 100 giờ trên đài truyền hình quốc gia, quốc tế, có
khoảng hơn ba tỷ lượt người đã nghe và xem ông phát biểu.
Phương pháp tư duy của ông được dạy và sử dụng ở khoảng 500 tập đoàn, công
ty hàng đầu thế giới. Tạp chí Forbes từng bình luận: “Buzan chỉ ra cho các nhà lãnh
đạo doanh nghiệp cách thức giải phóng năng lực sáng tạo bản thân”. Hơn 250 triệu
người đang sử dụng bản đồ tư duy của Tony Buzan.
Tony Buzan cho rằng muốn độc lập trong tư duy, hãy vận dụng trí não để giải
quyết các vấn đề xung quanh. Không nên để người khác áp đặt hay ỷ lại vào họ, chỉ có
bạn mới có thể giải quyết vấn đề của mình. Bằng cách tư duy có phương pháp, sẽ gỡ
dần những gì phức tạp sang đơn giản. Tony Buzan đã chuyển đến mọi người một
thông điệp: “Tôi muốn chia sẻ cùng các bạn bí quyết để tư duy nhanh chóng, linh
hoạt, qua đó bạn có thể sáng tạo và đổi mới không ngừng trong công việc và cuộc
sống”.

1.3.2. Khái niệm về bản đồ tư duy
Theo quan điểm y học, bộ não người được phân thành não trái và não phải. Mỗi
bán cầu não có công dụng khác nhau:
Não trái mang tính học thuật

Não phải mang tính sáng tạo

(Trừu tượng)

(Hình tượng)

Ngôn ngữ

Âm nhạc


Logic

Hình ảnh

16


Số học

Tưởng tượng

Từ vựng

Mơ mộng

Theo truyền thống, cách dạy học kiểu nhồi nhét, thuộc lòng chỉ sử dụng não trái
tức chỉ tận dụng được 50% chức năng của não mà chưa hề sử dụng tiềm năng của não
phải. Điều này gây trở ngại cho sự phát triển toàn diện trí tuệ con người. Thiên tài
Edison đã từng nói: “Lúc ta suy nghĩ một vấn đề, thì không phải dùng ngôn ngữ tiến
hành suy nghĩ mà là dùng hình tượng mạnh mẽ của hoạt động mà tiến hành tư duy”.
Tư duy sáng tạo là tài nguyên cơ bản nhất của mỗi con người. Vì vậy, năng lực tư duy
sáng tạo của con người cần được khai phá.
Dựa trên nhiều nghiên cứu chuyên sâu về não bộ và trí nhớ, Tony Buzan đã chỉ
ra cách ghi chép thú vị, tận dụng sở trường của bán cầu não phải và bán cầu não trái để
ghi nhớ chi tiết, tổng hợp hay phân tích một vấn đề ra thành nhiều vấn đề nhỏ như một
dạng của lược đồ phân nhánh. Với cách thức đó, các dữ liệu được ghi nhớ dễ dàng,
nhanh chóng hơn. Thay vì dùng chữ viết để mô tả, bản đồ tư duy sẽ trình bày đối
tượng bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra hình ảnh cụ thể của đối tượng, mối quan hệ
giữa chúng với nhau trong cùng một vấn đề lớn.


Hình 1.2. Hình ảnh hai bán cầu não
Bản đồ tư duy (Mindmap) là một công cụ tổ chức tư duy, một hình thức ghi chép sử
dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nó có tác dụng sắp xếp,
phân loại ý nghĩ rất hiệu quả đồng thời nó cũng là công cụ phát triển tư duy.
Đây là phương tiện hữu hiệu để chuyển tải thông tin vào bộ não và đưa thông
tin đó ra ngoài.
Ta có thể khái
quát điều này
qua sơ đồ sau:

17


Bản đồ tư duy có 4 đặc điểm chính như sau:
- Đối tượng được quan tâm là hình ảnh ở trung tâm.
- Từ hình ảnh trung tâm, các ý chính của đối tượng tỏa rộng ra thành các nhánh.
- Các nhánh đều được tạo thành từ một hình ảnh chủ đạo hoặc một từ khóa trên
một dòng liên kết. Các ý phụ cũng được biểu thị bởi các nhánh và được gắn với các
nhánh có thứ bậc cao hơn.
- Tất cả các ý tạo thành một cấu trúc liên hệ với nhau.
Để cho bản đồ tư duy được thu hút, hấp dẫn, đẩy mạnh sáng tạo, khả năng ghi
nhớ đặc biệt là sức gợi thông tin thì màu sắc, hình ảnh, kích thước cũng là điều quan
trọng.

Hình 1.3. Sơ đồ tư duy của Tony Buzan

1.3.3. Kỹ thuật tư duy 5W1H
Trước khi bắt đầu viết hoặc nghiên cứu một vấn đề nào đó, ta thường cảm thấy
lúng túng không biết bắt đầu từ đâu? Làm như thế nào? Nó có ích lợi gì không? Và kỹ
thuật tư duy 5W1H giúp ta trả lời những câu hỏi đó. Khi sử dụng kỹ thuật tư duy

5W1H ta sẽ tiếp cận vấn đề từng bước có cơ sở khoa học mà không cảm thấy rối rắm,
lung tung.

18


5W1H được viết tắt từ:
What? (Cái gì?)
Where? (Ở đâu?)
When? (Khi nào?)
Why? (Tại sao?)
How? (Như thế nào?)
Who? (Ai?)
Trước khi bắt đầu một vấn đề gì hoặc
trình bày ý tưởng nào, hãy tự đặt cho mình
những câu hỏi:
What? (Cái gì?)
- Cái đó là cái gì?
- Nó đề cập đến vấn đề gì?
- Kế tiếp sự kiện này thì cái gì khác xảy ra?
- Nó trình bày vấn đề gì?
- Những câu hỏi phụ của vấn đề này là gì?
- ……..
Where? (Ở đâu?)
- Vấn đề trình bày thuộc lĩnh vực nào?
- Nó xảy ra ở đâu?
- Vấn đề này còn liên quan đến những lĩnh vực khác không?
- Vấn đề này đã được nghiên cứu và đăng trên tạp chí nào?
- ………
When? (Khi nào?)

- Sự kiện này xảy ra khi nào?
- Trước đây, vấn đề đã được nghiên cứu chưa, khi nào?
- Các bước nghiên cứu này được thực hiện theo thời gian nào?
- ………
Why? (Tại sao)
- Tại sao phải nghiên cứu vấn đề này?
- Tại sao nhà văn lại lựa chon cách sắp xếp như thế?
- Tại sao điều đó không xảy ra?
- …….
How? (Như thế nào?)
- Công việc này nên bắt đầu như thế nào?
- Các sự kiện, nhân vật trong tác phẩm này có quan hệ với nhau như thế nào?
- Nếu công việc này thất bại sẽ có ảnh hưởng như thế nào?
Who? (Ai?)
- Ai đã nghiên cứu vấn đề này?
19


-

Bài văn này hướng tới đối tượng nào?
Ai có lợi và ai sẽ bị thiệt hại trong vấn đề này?
……..

Hình 1.4. Kỹ thuật tư duy 5W1H vẽ bằng hình ảnh 6 chiếc nón tư duy (Six
Thinking Hats)

1.3.4. Ưu điểm của bản đồ tư duy so với ghi chú truyền thống
Từ trước đến nay, chúng ta đã quen với cách ghi chép bằng ký tự, con số. Với
cách ghi chép này chúng ta chỉ mới sử dụng bán cầu não trái, bán cầu não phải nơi

giúp chúng ta xử lý thông tin về màu sắc, khả năng tưởng tượng chưa được khai thác
đúng mức. Cách ghi chú truyền thống này có một số bất lợi:
- Từ khóa bị chìm khuất:
Các từ khóa thể hiện các ý tưởng quan trọng bị che khuất. Theo lối ghi chú
thông thường này, những từ khóa sẽ nằm rải rác trên nhiều trang giấy, bị lẫn trong
những thông tin không quan trọng. Điều này sẽ làm cho ta khó nắm bắt được mối liên
kết giữa các khái niệm.
- Khó nhớ nội dung:
Ghi chú chỉ bằng một màu đơn điệu dễ gây nhàm chán cho thị giác, không có gì
đặc biệt dễ làm cho não cảm thấy “buồn ngủ” khó tiếp thu.
- Lãng phí thời gian:
Cách ghi chú truyền thống thường làm mất thời gian vì nó:
- Ghi chú cái không cần thiết
- Buộc ta đọc những ghi chú không cần thiết đó
- Làm ta mất nhiều thời gian để truy tìm từ khóa
- Không kích thích não sáng tạo:
20


Cách ghi chú liệt kê, tuần tự của ghi chép truyền thống làm cản trở não tìm mối
liên kết giữa các ý trọng tâm của vấn đề làm cho não mệt mỏi, kìm hãm quá trình
tư duy. Phương pháp ghi chú này tỷ lệ nghịch với công sức ta đã bỏ ra.
Và tất yếu lối ghi chú này sẽ gây nhiều hậu quả không tốt cho não:
- Mất khả năng tập trung.
- Tạo thành thói quen tốn thời gian để ghi chép những điều không cần thiết.
- Mất tự tin vào trí năng của bản thân.
- Đánh mất sự ham muốn học hỏi.
- Gây cảm giác buồn chán, thất vọng trong học tập.
- Càng nỗ lực thì càng kém tiến bộ.
Ngược lại, với việc ghi chú bằng bản đồ tư duy đã thể hiện nhiều ưu diểm nổi

trội:
- Ý chính ở trung tâm và được xác định rõ ràng.
- Mối quan hệ giữa các ý được thể hiện rõ ràng, ý càng quan trọng thì nằm càng
gần ý chính, ý trung tâm. Tạo mối liên kết mạch lạc, tối ưu giữa các từ khóa.
- Tăng cường khả năng tập trung vào từ khóa.
- Kích thích thị giác làm cho quá trình tiếp thu dễ dàng hơn, đa chiều hơn. Phát
hiện thêm nhiều vấn đề từ đó dễ dàng tìm ra được nhiều giải pháp sáng tạo.
- Cải thiện sức sáng tạo, trí nhớ, tạo điều kiện cho dòng chảy tư duy liên tục.
- Chỉ cần đọc những từ liên quan tiết kiệm 90% thời gian.
- Chỉ cần ghi chú những từ liên quan tiết kiệm được khoảng 50-95% thời gian.
- Tiết kiệm được thời gian ôn bài.
- Tránh lãng phí thời gian để dò kiếm từ khóa trong một rừng chữ.
- Nhờ liên tục vận dụng các kỹ năng của vỏ não mà não ngày càng linh hoạt.
Khôi phục khả năng ham học hỏi.
- Chỉnh sửa, cập nhật thông tin dễ dàng.
- Tận dụng, khai thác sự hỗ trợ của các phầm mềm vi tính triệt để.
Ghi chép bằng bản đồ tư duy sẽ đem lại sự logic, mạch lạc mà tư duy rất cần
điều này. Trực quan, thể hiện rõ mối liên hệ giữa các vấn đề nhìn vấn đề một cách
tổng thể hơn.
Như vậy, ghi chú bằng bản đồ tư duy có tác dụng tích cực trong ghi chú, gợi
nhớ, sáng tạo, giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, trình bày.
- Ghi chú: Khi thông tin được gợi ra, bản đồ tư duy giúp tổ chức thông tin theo
một hình thức dễ dàng xuất hiện và ghi nhớ. Nó được dùng để ghi chú tất cả các
loại như bài giảng, hội họp, kế hoạch…
- Gợi nhớ: Bất cứ khi nào thông tin được xuất hiện từ trong bộ não, bản đồ tư
duy cho phép ghi lại các ý tưởng rất nhanh vào một hệ thống tổ chức. Vì thế ta
không cần phải viết lại cả câu mà các thông tin vẫn được giữ lại và khi cần thì
các thông tin này được truy xuất ra rất nhanh.

21



Sáng tạo: Bất cứ khi nào muốn khuyến khích sự sáng tạo, bản đồ tư duy sẽ giúp
bạn loại bỏ cách suy nghĩ cổ điển theo phương thức ghi chép sự kiện, liệt kê
theo dòng, nó cho phép các ý tưởng mới được hình thành nhanh chóng theo
luồng tư duy xuất hiện.
- Giải quyết vấn đề: Bản đồ tư duy giúp liên kết các vấn đề nhanh chóng để giải
quyết trở ngại. Nó còn giúp ta có được cái nhìn tổng quát, nhìn nhận vấn đề
dưới những góc độ quan trọng khác nhau.
- Lập kế hoạch: Bản đồ tư duy giúp liên kết các thông tin liên quan với nhau vào
một nơi, tổ chức nó một cách đơn giản.
- Trình bày: Bản đồ tư duy không chỉ giúp ta tổ chức các vấn đề hợp lý, dễ hiểu
mà còn giúp ta trình bày một cách độc lập không quá phụ thuộc vào câu chữ
trong một văn bản sẵn có.
Bản đồ tư duy là phương pháp tư duy mới lạ, có nhiều ưu điểm nên nó
ngày càng được nhiều người sử dụng và áp dụng trong nhiều lĩnh vực.
-

1.3.5. Quy tắc trong bản đồ tư duy
Trong bản đồ tư duy, tự do tư duy là mục tiêu quan trọng chứ không phải là kìm
hãm tư duy. Như vậy điều quan trọng là không nên nhầm lẫn giữa trật tụ và cứng
nhắc, tự do và hỗn độn. Lâu nay chúng ta vẫn thường có quan niệm xem trật tự là
cứng nhắc, kìm hãm, khô khan. Tương tự, chúng ta nghĩ tự do là thiếu cấu trúc,
hỗn độn. Thực sự, tự do tư duy chính là khả năng xây dựng trật tự từ sự hỗn độn.
Làm việc gì cũng có quy tắc của nó và bản đồ tư duy cũng vậy, những quy tắc
trong bản đồ tư duy sẽ giúp ta làm điều này. Quy tắc trong bản đồ tư duy được chia
thành 2 nhóm: Quy tắc kỹ thuật và quy tắc bố trí.

1.3.5.1.Quy tắc kỹ thuật
Nhấn mạnh

- Luôn dùng hình ảnh trung tâm vì một hình ảnh có giá trị bằng ngàn từ.
Hình ảnh thu hút sự chú ý tập trung, gây sự thích thú đối với mắt và não, kích
thích sự liên kết giúp cho não ghi nhớ tốt hơn.
Nếu buộc phải dùng từ thay thế cho hình ảnh làm trung tâm thì hãy tìm cách
biến nó thành hình ảnh bằng cách dùng kích cỡ, màu sắc, hình thức lôi cuốn.
- Dùng hình ảnh ở mọi nơi trong bản đồ tư duy.
Nhằm tận dụng những lợi thế của hình ảnh hãy cố gắng dùng nó trong mọi
trường hợp có thể. Thói quen dùng hình ảnh trong bản đồ tư duy giúp ta quan sát
thế giới xung quanh tường tận hơn.
- Kích cỡ ảnh và từ ngữ
Kích cỡ có tác dụng dễ ghi nhớ, làm nổi bật, tăng hiệu quả giao tiếp. Mặt khác,
kích cỡ cũng có tác dụng giúp ta dễ phân biệt mức độ quan trọng giữa các ý.
- Sử dụng sự tương tác ngũ quan

22


Hãy cố gắng vận dụng tối đa các giác quan cũng như cảm giác vận động thân
thể trong các từ và hình ảnh dùng trong bản đồ tư duy.
- Nên dùng chữ in
Chữ in tạo cảm giác rõ ràng, dễ đọc
- Cách dòng có tổ chúc, thích hợp
Cách dòng có tổ chức làm nổi rõ hình ảnh giúp bạn tổ chức phân cấp các ý hiệu
quả nhờ vậy bản đồ tư duy trông đẹp mắt, dễ dàng khai triển các ý. Khoảng trống
giữa các thành phần cũng rất quan trọng.
Liên kết
Liên kết cũng là điều quan trọng có tác dụng làm tăng trí nhớ, khả năng sáng
tạo. Liên kết chính là công cụ giúp chúng ta nắm bắt những cảm nghiệm trong thế
giới vật chất. Đối với trí nhớ và sự hiểu biết, liên kết là vấn đề then chốt.
Nếu đã xác định được hình ảnh trung tâm và ý chủ đạo thì khả năng liên kết của

não sẽ đi sâu vào thế giới ý tưởng.
- Dùng mũi tên để biểu thị các mối liên hệ cùng nhánh hoặc khác nhánh.
Nhờ sự chỉ dẫn của các mũi tên, ta nhanh chóng nhìn thấy sự liên hệ giữa các ý.
Những mũi tên này có thể có hình dạng, kích cỡ khác nhau nhờ đó mà tư duy của
chúng ta có định hướng không gian.
- Dùng màu sắc
Màu sắc là một trong những công cụ tăng cường trí nhớ và sáng tạo hiệu quả.
Dùng màu sắc làm ký hiệu hoặc phân vùng trong bản đồ tư duy làm cho tốc độ tiếp
cận thông tin và khả năng nhớ thông tin tăng lên.
- Dùng ký hiệu
Dùng ký hiệu ta sẽ dễ dàng tìm thấy mối liên hệ giữa các bộ phận trong bản đồ
tư duy dù chúng ở xa hay gần.
Mạch lạc
- Mỗi dòng chỉ nên có một từ khóa
Mỗi dòng có một từ khóa và nếu từ khóa đó càng cô đọng, sức chứa thông tin
lớn thì càng tốt.
- Viết in từ khóa trên vạch liên kết
Vạch liên kết chính là giá đỡ ý tưởng cho từ. Vạch liên kết không những có tác
dụng tăng tính mạch lạc mà còn tạo điều kiện mở rộng liên kết.
- Vạch liên kết và các từ khóa luôn cùng độ dài
Như thế sẽ dành được nhiều khoảng trống để bổ sung thông tin cho bản đồ tư
duy. Các vạch liên kết nối liền nhau, các nhánh chính nối liền với các hình ảnh
trung tâm.
- Bản đồ tư duy luôn nằm theo chiều ngang
Bản đồ tư duy theo hướng nằm ngang vẽ sẽ thoải mái hơn, dễ đọc hơn.
Tạo phong cách riêng
Bản đồ tư duy càng mang đậm dấu ấn cá nhân thì sẽ dễ dàng lưu nhớ thông tin.
23



1.3.5.2. Quy tắc bố trí
Trình tự phân cấp
Việc phân cấp các ý chủ đạo trong bản đồ tư duy có hiệu quả đẩy mạnh năng
lực tư duy của não rất lớn.
Trình tự đánh số
Nếu bản đồ tư duy sử dụng để soạn bài diễn văn, kế hoạch… cần truyền đạt ý
tưởng theo một trình tự, theo thời gian, theo mức độ quan trọng thì ta có thể đánh
số cho các nhánh của bản đồ tư duy theo ý muốn mà không gặp khó khăn gì.
Trong cách ghi chép sáng tạo như thế này nên để tư duy càng “tự do” càng tốt.
Những suy nghĩ về việc phải đặt các chi tiết ở đâu, sắp xếp chúng như thế nào, có
nên đưa chúng vào hay không… sẽ làm cho quá trình tư duy bị gián đoạn, dòng
chảy tư tưởng không liền mạch.
Tư duy, suy nghĩ diễn ra nhanh hơn việc thể hiện chúng ra giấy nhưng đừng để
chúng bị gián đoạn. Ta đừng nên quá chú trọng đến bố cục, vị trí của các ý tưởng
vì trong nhiều trường hợp tự chúng sẽ hình thành bố cục. Nếu không ta sẽ sắp xếp
chúng lại sau khi quá trình hình thành ý tưởng hoàn tất.
Đừng quá bận tâm, mất nhiều thời gian vào việc sửa chữa, sắp xếp thứ tự, trang
trí bản đồ tư duy cho đẹp. Nếu như thế ta đã làm mất đi công dụng của bản đồ tư
duy, nó là công cụ ghi chú nhanh chóng, tiết kiệm thời gian.

1.3.6. Ứng dụng của bản đồ tư duy trong giảng dạy
Ngày nay, bản đồ tư duy được ứng dụng trong nhiều công việc như: học tập,
giảng dạy, hội họp, lập kế hoạch kinh doanh…
Có thể nói dạy học là một trong những nghề cao quý nhất của xã hội và người
giáo viên lúc nào cũng đóng một vai trò nhất định. Giáo viên chịu trách nhiệm
cung cấp, hướng dẫn cho học sinh cách làm chủ nguồn tài nguyên quý giá nhất của
con người – tài nguyên trí thức. Nhưng kiến thức của nhân loại luôn phát triển theo
cấp số nhân vì thế vai trò người thầy càng quan trọng. Điều đó đòi hỏi giáo viên
phải dạy cho học sinh cách học. Và bản đồ tư duy là công cụ thích hợp nhất.


1.3.6.1. Soạn bài giảng
Một trong những ứng dụng hiệu quả nhất của bản đồ tư duy là làm ghi chú cho
bài giảng. So với việc phải viết ra như cách ghi chép cũ thì việc soạn bài giảng theo
hình thức bản đồ tư duy sẽ nhanh hơn. Một trong những ưu điểm lớn của nó là làm
cho cả giáo viên lẫn học sinh lúc nào cũng có cái nhìn tổng thể về vấn đề mình
đang tìm hiểu.
Một bài giảng bằng bản đồ tư duy dễ dàng cập nhật theo thời gian mà các chi
tiết trong bài giảng không hề bị xáo trộn.
Hơn nữa, nhờ có các đặc tính hỗ trợ trí nhớ, giáo viên chỉ cần xem lướt qua bài
giảng trước khi lên lớp là có thể nhanh chóng nắm được trọng tâm của bài giảng.
Kiến thức của giáo viên ngày càng phong phú nên cùng một bài giảng bằng bản đồ
24


tư duy sẽ hình thành nhiều bài giảng mới khác nhau nếu nó được sử dụng trong
thời gian dài, liên tục. Điều này làm cho giáo viên tránh được sự tẻ nhạt của các ghi
chú đã cũ mà không mất nhiều thời gian, công sức cho việc soạn bài giảng. Mặt
khác, nó cũng làm cho cả giáo viên lẫn học sinh cảm thấy giờ học hấp dẫn, sinh
động hơn.
Giáo viên sẽ không còn vất vả chạy theo khung thời gian quy định của chương
trình để kịp tiến độ công việc. Bản đồ tư duy cho phép giảng dạy theo đúng thời
gian quy định, nếu thời gian quy định thay đổi vì lí do nào đó thì giáo viên có thể
chỉnh sửa bài giảng cho dài hoặc ngắn theo yêu cầu cụ thể. Chức năng chỉnh sửa
này rất hữu ích cho việc cập nhật thông tin mới của giáo viên trong quá trình giảng
dạy. Giáo viên không còn cảm thấy quá áp lực với thời gian.

Hình 1.5 Bản đồ tư duy cho tác phẩm “Nhật ký trong tù”

1.3.6.2.Hoạch định kế hoạch cho năm
Giáo viên có thể dùng bản đồ tư duy hoạch định kế hoạch công việc cho năm để

có được cái nhìn tổng quát về chương trình học của cả năm bao gồm các học kỳ và
hình thức bài học phải dạy. Đây là công cụ lý tưởng để hoạch định, theo dõi công
việc giúp cho cả thầy lẫn trò có thể theo dõi tiến độ công việc.

25


×