Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BẢN ĐỒ TƯ DUY VÀO DẠY HỌC PHÂN MÔN ĐỊA LÍ Ở CHƯƠNG TRÌNH LỚP 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 78 trang )

LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Vận dụng phương pháp Bản đồ tư duy vào dạy học phân môn Địa lí
lớp 5” đề cập đến một số vấn đề về sử dụng “Bản đồ tư duy” trong quá trình dạy
học Địa lí ở các trường tiểu học mà đa số giáo viên còn gặp nhiều khó khăn
trong khi thực hiện. Với mong muốn tháo gỡ một phần nào khó khăn trên, đem
lại hứng thú cho các em học sinh và nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí ở
tiểu học trong thời gian tới, chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu nghiên cứu phân tích
thực trạng vận dụng “Bản đồ tư duy” ở một số trường tiểu học với tinh thần tích
cực tiếp thu, tham khảo trao đổi ý kiến với các thầy, cô giáo có kinh nghiệm trong
nghề, thu thập xử lí các tài liệu, các nguồn thông tin liên quan từ đó xây dựng và
thử nghiệm hệ thống nguyên tắc, qui trình sử dụng “Bản đồ tư duy” trong dạy học
địa lí ở tiểu học để đưa ra đề tài này.
Trong quá trình thực hiện đề tài, ngoài sự cố gắng của bản thân tôi còn
nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo và có hiệu quả của các thầy, cô giáo
trong khoa Tiểu học - Mầm non, trường Đại học Tây Bắc. Với tấm lòng kính
trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn Th.S Lê Văn Đăng người đã
trực tiếp hướng dẫn đề tài, cùng thầy, cô giáo trong khoa; Giáo viên và học sinh
trường Tiểu học Hải Ninh bạn bè và gia đình.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng trong việc sưu tầm, nghiên cứu, bám
sát thực tiễn để đề tài có tính khả thi cao nhưng đây là đề tài nghiên cứu đầu
tiên, kinh nghiệm chưa nhiều nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót,
hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô
giáo và các bạn để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Sơn La, tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Thuý






Danh mục viết tắt

STT Chữ viết tắt Nghĩa
1 GD : Giáo dục
2 GV : Giáo viên
3 HS : Học sinh
4 HN : Hà Nội
5 NXB : Nhà xuất bản
6 ThS : Thạc sỹ
7 TS : Tiến sĩ
8 TW : Trung ương
9 TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh
10 TN-XH : Tự nhiên - xã hội





















MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3
4. Giả thuyết khoa học 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
6. Phương pháp nghiên cứu 3
7. Cấu trúc đề tài 5
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƢƠNG PHÁP BẢN ĐỒ TƢ DUY VÀO DẠY HỌC PHÂN MÔN ĐỊA LÍ
LỚP 5 6
1.1. Lịch sử nghiên cứu 6
1.2. Một số khái niệm cơ bản 7
1.2.1. Khái niệm về phương pháp, phương pháp dạy học 7
1.2.2. Khái niệm về tư duy 10
1.2.3. Khái niệm “Bản đồ tư duy” 11
1.3. Một số vấn đề về sử dụng phương pháp bản đồ tư duy trong dạy học Địa lí
lớp 5 12
1.3.1. Khái quát đặc điểm chương trình, sách giáo khoa phần Địa lí lớp 5 và
việc sử dụng phương pháp bản đồ tư duy 12
1.3.2. Vai trò của “Bản đồ tư duy” 13
1.3.3. Tác dụng của “Bản đồ tư duy” trong dạy học Địa lí ở tiểu học 16
1.3.4. Các nguyên tắc sử dụng "Bản đồ tư duy" 19
1.3.5. Cách lập một "Bản đồ tư duy" 21
1.4. Một số đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 5 23

1.4.1. Nhu cầu, hứng thú, động cơ học tập 23
1.4.2. Đặc điểm của quá trình nhận thức 24
1.5. Thực trạng sử dụng phương pháp bản đồ tư duy trong dạy học Địa lí ở tiểu
học 27
1.5.1. Tình hình dạy học phân môn Địa lí ở trường tiểu học 28
1.5.2. Nhận thức của giáo viên về vai trò "Bản đồ tư duy" trong quá trình dạy
học Địa lí 29
1.5.3. Thực trạng vận dụng phương pháp bản đồ tư duy trong quá trình dạy học
Địa lí 30
1.5.4. Đánh giá chung về thực trạng sử dụng phương pháp bản đồ tư duy trong
dạy học Địa lí ở tiểu học 32
Chƣơng 2. VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP BẢN ĐỒ TƢ DUY VÀO DẠY
HỌC ĐỊA LÍ LỚP 5 34
2.1. Qui trình vận dụng phương pháp bản đồ tư duy trong dạy học phân môn Địa
lí lớp 5 34
2.1.1. Các nguyên tắc xây dựng quy trình 34
2.1.2. Các nguyên tắc sử dụng 34
2.1.3. Quy trình sử dụng 35
2.1.4. Ví dụ minh họa 36
2.2. Một số phần mềm ứng dụng “Bản đồ tư duy” có thể sử dụng vào quá trình
dạy học Địa lý ở tiểu học 41
2.2.1. Phần mềm Free Mind 41
2.2.2. Phần mềm Mindomo 42
2.2.3. Phần mềm Buzan's iMindMap V4 44
2.2.4. Phần mềm Mindjet Mindmanager 45
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 47
3. Thực nghiệm sư phạm 47
3.1. Mục đích thực nghiệm 47
3.2. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm 47
3.3. Đối tượng thực nghiệm 47

3.4. Tổ chức thực nghiệm 47
3.5. Nội dung thực nghiệm 48
3.6. Kết quả thực nghiệm 48
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 52
1. Kết luận 52
2. Kiến nghị 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định: Giáo dục - Đào
tạo thực sự là quốc sách hàng đầu. Thông qua đổi mới toàn diện giáo dục và đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt
Nam. Với các biện pháp cụ thể là: Đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương
pháp dạy và học theo hướng “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, phát huy trí
sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học. Hội nghị lần thứ VI của
ban chấp hành TW Đảng khoá X, trong “chiến lược phát triển giáo dục 2001 -
2010” các văn kiện đều nhấn mạnh “đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo
dục chuyển từ truyền đạt trí thức thụ động thầy giảng trò ghi sang hướng dẫn
người đọc chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho người học
phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ thống và có tư duy phân
tích, tổng hợp, phát triển được năng lực của mỗi cá nhân, tăng cường tính chủ
động, tính tự học của học sinh…”(48, tr 30).
Giáo dục tiểu học là cơ sở ban đầu đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện
nhân cách con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và toàn bộ
giáo dục quốc dân. Cho nên, việc đổi mới phương pháp dạy học ở cấp học này
đang diễn ra mạnh mẽ.
Trong những thập kỉ gần đây, thế giới đã tiếp cận chuyển hoá các phương

pháp khoa học, thành tựu của kỉ thuật, công nghệ mới thành phương pháp đặc
thù, trong đó việc tiếp cận và sử dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy
là một trong những hướng có nhiều triển vọng.
Phương pháp bản đồ tư duy không chỉ phù hợp ở các thành phố lớn mà
ngay cả sở giáo dục đào tạo tỉnh miền núi như Tuyên Quang cũng đã ban hành
công văn hướng dẫn để triển khai rộng rãi phương pháp này. Mặt khác, phương
pháp bản đồ tư duy giúp giảm tải mà không giảm yêu cầu của giờ học, môn học.
Nhiều nước trên thế giới đã ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy, học tập,
làm việc, kinh doanh… từ mười năm đến hai mươi năm nay. Nhưng tại Việt Nam,
bản đồ tư duy mới chỉ được biết đến vài năm nay. Trong ba năm gần đây, TS. Trần

2
Đình Châu và TS. Đặng Thị Thu Thuỷ cùng các cán bộ Viện nghiên cứu Giáo dục
Việt Nam, dự án phát triển giáo dục trung học cơ sở II kết hợp với Vụ giáo dục
trung học và Cục nhà giáo của Bộ giáo dục đào tạo đã tìm tòi nghiên cứu để cụ thể
hoá việc ứng dụng phương pháp này vào dạy học tại Việt Nam.
Phương pháp này cho phép giáo viên quy hoạch được quá trình dạy học một
cách tổng quát cũng như từng mặt của nó, thiết kế tối ưu hoạt động dạy - học và
điều khiển một cách hợp lí quá trình này tăng hiệu quả dạy học trong nhà trường
theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.
Địa lí là khoa học chú trọng đến nghiên cứu các quy luật, các mối liên hệ
giữa các thành phần, các hiện tượng và các mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên. Địa lí được phát triển theo hai hướng: Phân tích - nghiên cứu các thành
phần riêng biệt của tự nhiên hay những ngành kinh tế và tổng hợp - nghiên cứu
thể tổng hợp tự nhiên hay thể tổng hợp kinh tế - xã hội. Các mối quan hệ đó có
thể diễn đạt dưới dạng “Bản đồ tư duy” để mô hình hoá, hệ thống hoá kiến thức.
Địa lí là phân môn của môn Lịch sử và Địa lí, có mục tiêu cung cấp cho học sinh
các biểu tượng Địa lí, bước đầu hình thành một số khái niệm, xây dựng một số
quan hệ địa lí đơn giản và rèn luyện các kĩ năng địa lí như: Kĩ năng sử dụng bản
đồ, kĩ năng nhận xét, so sánh, phân tích các mối quan hệ địa lí đơn giản. Do đặc

điểm kiến thức của từng bài, từng chương có mối quan hệ chặt chẽ, lôgic, hệ
thống nên việc sử dụng “Bản đồ tư duy” sẽ có nhiều ưu thế trong việc “mã hoá”
hệ thống, mối quan hệ các kiến thức đó.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy giáo viên đã nhận thức được sự cần
thiết phải tiến hành đổi mới phương pháp dạy học, có ý thức cải tiến phương
pháp dạy học. Tuy nhiên, việc dạy và học các môn học nói chung và Địa lí nói
riêng chưa vượt qua quỹ đạo cũ. Đó là phương pháp dạy học theo kiểu truyền
thống, học sinh tiếp thu kiến thức một cách bị động. Mà kiến thức trong chương
trình Địa lí lớp 5 đã được đưa vào dạy học với nhiều phương pháp dạy học khác
nhau như phương pháp trực quan, phương pháp dùng lời, phương pháp tranh
ảnh… Trong khi đó, phương pháp bản đồ tư duy là một công cụ có ưu thế để
“mô hình hoá” các mối quan hệ, hệ thống các đối tượng địa lí lại hầu như không

3
được sử dụng. Một số giáo viên khi sử dụng cũng gặp nhiều khó khăn, lúng túng
trong thiết kế và hướng dẫn học sinh khai thác tri thức.
Chính vì những lí do này nên chúng tôi chọn đề tài “Vận dụng phương
pháp bản đồ tư duy vào dạy học Địa lí lớp 5” nhằm góp phần nâng cao chất
lượng dạy - học phân môn Địa lí ở tiểu học.
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng phương pháp bản đồ tư duy nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học
phân môn Địa lí lớp 5.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học Địa lí lớp 5.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Vận dụng phương pháp bản đồ tư duy vào dạy học phân môn Địa lí lớp 5.
4. Giả thuyết khoa học
Có thể nâng cao được chất lượng dạy học phân môn Địa lí lớp 5 nếu chúng
ta biết vận dụng phương pháp bản đồ tư duy một cách khoa học, phù hợp với đặc

điểm nhận thức của học sinh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài.
5.2. Tìm hiểu thực trạng phương pháp bản đồ tư duy trong dạy học phân
môn Địa lí ở trường tiểu học.
5.3. Thiết kế và thực nghiệm một số giáo án theo phương pháp bản đồ tư duy.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thu thập thông tin
Hiện nay, có rất nhiều quyển sách viết về các châu lục trên thế giới ở nhiều
mặt khác nhau. Vì vậy, người nghiên cứu phải có một lượng kiến thức nhất định
và có tư duy lôgíc để lựa chọn được những tài liệu thực sự hữu ích phục vụ cho
đề tài và phục vụ cho việc giảng dạy sau này. Có thể thu thập thông tin ở các
nguồn khác nhau như: sách giáo khoa, sách chuyên ngành, báo chí, internet, qua

4
các phương tiện thông tin đại chúng… những thông tin thu được sẽ là tư liệu để
giúp ta hiểu sâu sắc hơn về địa lí các châu lục trên thế giới.
Thu thập tài liệu, đọc và phân tích nội dung có liên quan một cách đầy đủ,
chi tiết để tổng hợp thành tài liệu tham khảo, sau đó tiến hành chọn lọc và tổng
hợp theo từng nội dung cụ thể.
Hệ thống hóa, sắp xếp các tài liệu, thông tin thu được có liên quan đến nội
dung nghiên cứu theo hệ thống cấu trúc khoa học. Các nguồn tài liệu, thông tin
thu được được chọn lọc theo từng nội dung, cung cấp kiến thức giúp ta hiểu hơn
về địa lí các châu lục trên thế giới.
6.2. Phương pháp sử dụng bản đồ, lược đồ, biểu đồ, tranh ảnh
Bản đồ, lược đồ, biểu đồ, tranh ảnh là nguồn tài liệu vô cùng phong phú và
quan trọng trong việc khai thác thông tin về địa lí thế giới và các vấn đề về địa
lí các châu lục trên thế giới ở lớp 5. Đây là nguồn tài liệu quan trọng đối với
sinh viên sư phạm, với giáo viên giảng dạy môn Địa lí và với những ai quan
tâm đến vấn đề địa lí. Thông qua bản đồ, lược đồ, biểu đồ, tranh ảnh ta có thể

rút ra được những nội dung kiến thức cơ bản.
Các bản đồ như: bản đồ địa lí thế giới, bản đồ khí hậu thế giới, bản đồ dân
cư thế giới… Các lược đồ như: lược đồ tự nhiên, lược đồ kinh tế, lược đồ dân
cư… của lớp 5. Các tranh ảnh có liên quan như: tranh ảnh về con người, cảnh
quan thiên nhiên, hoạt động kinh tế…
Thông qua nghiên cứu bản đồ, lược đồ, biểu đồ, tranh ảnh sẽ giúp người
nghiên cứu tìm hiểu được những nội dung kiến thức về đặc điểm địa lí châu Âu.
Từ đó vận dụng vào trong giảng dạy để đạt hiệu quả cao hơn. Trong phần thực
nghiệm, những kết quả xử lí, tính toán trong khi kiểm tra được tác giả xây dựng
thành các biểu đồ cột. Các biểu đồ thể hiện được chính xác và mang tính trực
quan hơn.
6.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Đề tài được thực nghiệm ở trường Tiểu học Hải Ninh, trước khi thực
nghiệm, người nghiên cứu trao đổi với cô giáo hiệu trưởng trường Tiểu học
Hải Ninh về đặc điểm tâm lý, nhận thức của các em học sinh, những em học

5
sinh học tốt, những em học không tốt để có thể chuẩn bị tâm lí vững vàng khi
lên lớp.
Người nghiên cứu xin ý kiến giáo viên chỉ đạo góp ý cho giáo án để phù
hợp với đối tượng học sinh tại trường.
6.4. Phương pháp thực nghiệm
Đây là phương pháp rất quan trọng trong quá trình thực hiện đề tài. Để
kiểm nghiệm các giáo án đã soạn xem có thực sự phù hợp, chúng tôi tiến hành
thực nghiệm tại trường tiểu học Hải Ninh. Trên cơ sở những kết quả thu được
sẽ khẳng định kết quả của đề tài. Phương pháp này được tiến hành qua việc
kiểm tra đánh giá sau khi học và qua việc thăm dò qua phiếu điều tra.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, cấu trúc đề tài gồm ba
chƣơng:

Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vân dụng phương pháp bản đồ
tư duy vào dạy học phân môn Địa lí lớp 5.
Chương 2. Vận dụng phương pháp bản đồ tư duy vào dạy học phân môn
Địa lí lớp 5.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.






6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƢƠNG
PHÁP BẢN ĐỒ TƢ DUY VÀO DẠY HỌC
PHÂN MÔN ĐỊA LÍ LỚP 5

1.1. Lịch sử nghiên cứu
Trong lịch sử giáo dục, từ lâu vấn đề dạy học bằng phương pháp bản đồ tư
duy đã được quan tâm nghiên cứu.
Người phát minh ra “Bản đồ tư duy” là giáo sư Tony Buzan (sinh năm
1942 tại London – Anh). Khi ông 13 tuổi, trong một lần lớp tổ chức kiểm tra
đọc nhanh, ông chỉ đứng thứ 2, sau một bạn gái. Lập tức ông hỏi cô giáo cách
để có thể đọc được nhanh và nhận được câu trả lời là không thể. Lí do, là ông
đã có thế mạnh để phát triển về cơ bắp và thể chất thì khả năng tư duy và đọc
nhanh sẽ chậm hơn bạn. Không chấp nhận điều này, Tony Buzan đã tìm cách
rèn luyện trí nhớ của mình bằng “Bản đồ tư duy” (mindmap) nhờ đó mà sau này
ông đạt danh hiệu một trong những người có trí nhớ thông minh và sáng tạo
nhất thế giới. Tờ báo London sau đó viết rằng: “…những gì Buzan làm cho tư
duy nhân loại cũng giống như Stephen Hawkinh đã làm cho vũ trụ”.

Đến giữa thập niên 70, Peter Russell đã làm việc chung với Tony và họ đã
truyền bá kĩ xảo về bản đồ ý cho nhiều cơ quan quốc tế cũng như các học viện
giáo dục.
Ở Việt Nam, TS. Trần Đình Châu cùng với TS. Đặng Thị Thu Thuỷ là hai
tác giả đầu tiên phổ biến “Bản đồ tư duy” tới hệ thống các trường phổ thông ở
Việt Nam.
TS. Trần Đình Châu đã chủ trì nhóm nghiên cứu một cách kĩ lưỡng và
tham mưu được với Bộ Giáo dục - Đào tạo được thành chuyên đề ứng dụng
“Bản đồ tư duy” hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học tới các bộ quản lí và giáo
viên trung học cơ sở.
Trong ba năm gần đây, TS. Trần Đình Châu cùng các cán bộ nghiên cứu
thuộc Viện nghiên cứu giáo dục Việt Nam, dự án phát triển giáo dục trung học sơ

7
sở II kết hợp với Vụ giáo dục trung học và Cục nhà giáo của Bộ Giáo dục - Đào
tạo và Sở Giáo dục - Đào tạo các tỉnh đến các vùng miền của đất nước để nghiên
cứu và nhân rộng dần phương pháp mới này với hi vọng sẽ giúp học sinh thoát
khỏi lối học vẹt, đóng góp phần mình vào công việc chung của ngành giáo dục.
Năm 2010, ứng dụng “Bản đồ tư duy” trong dạy và học đã được triển khai thí
điểm tại 355 trường trên toàn quốc và được cả giáo viên cũng như học sinh các
trường hồ hởi tiếp nhận.
Năm 2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định đưa chuyên đề phương
pháp dạy học bằng bản đồ tư duy thành một trong năm chuyên đề tập huấn cho
giáo viên trung học cơ sở trên toàn quốc. Tuy nhiên, việc đi sâu vào nghiên cứu
ứng dụng “Bản đồ tư duy” vào dạy học phân môn Địa lí ở tiểu học vẫn chưa được
quan tâm đúng mức.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm về phương pháp, phương pháp dạy học
Con người sống và tồn tại bao giờ cũng gắn liền với hoạt động, hoạt động của
con người muôn hình muôn vẻ. Cùng với việc hiểu xem cần làm gì, thì bao giờ

cũng phải xác định xem nên làm cái đó như thế nào? Hay nói cách khác phải
hướng tới mục đích nhất định bằng cách nào? Đó là phương pháp. Danh từ
phương pháp được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người. Với
ý nghĩa như vậy, phương pháp tồn tại và gắn bó với mọi mặt hoạt động của con
người. Phương pháp quyết định khả năng đi đến mục đích nhanh hay chậm, quyết
định sự thành công hay không thành công.
Các nhà triết học đã đưa ra định nghĩa một cách chung nhất về khái niệm
phương pháp như sau: Phương pháp là phương tiện, cách thức, con đường để đạt tới
mục đích nhất định.
Qua nghiên cứu, người ta đã đi đến kết luận rằng phương pháp có bốn đặc
điểm chính sau [6]:
a. Tính mục đích: Kết quả cuối cùng là con đường bằng những phương tiện,
cách thức, con đường để để đạt được mục đích đề ra, phương pháp giúp con người

8
nhận thức thế giới và cải tạo thế giới trong quá trình sống tự cải tạo bản thân mình.
b. Tính cấu trúc của hệ thống: Phương pháp chỉ ra hàng loạt các thao tác,
các thao tác đó được sắp xếp theo một trình tự nhất định, con người phải thực
hiện một số chương trình đã định sẵn bằng chế độ nghiêm ngặt. Vì vậy, mà
phương pháp có ý nghĩa điều khiển, phương pháp là sự tiến triển theo nhiều
bước, là chuỗi những thao tác nhất định.
c. Phương pháp gắn liền với nội dung: Phương pháp bao giờ cũng gắn bó
với nội dung và cơ sở lí luận nhất định trên một số đối tượng nhất định. Phương
pháp luận chịu sự chi phối của nội dung và thay đổi tuỳ thuộc vào nó. Phương
pháp là hình thức tự vận động bên trong của nội dung. Mỗi một khoa học phát
triển lại có những phương pháp đặc trưng riêng. Ta có thể nói: Nội dung quy
định phương pháp, phương pháp gắn liền với đối tượng, đối tượng nào - phương
pháp ấy.
d. Cơ sở của phương pháp là lí thuyết: Phương pháp bao giờ cũng được xây
dựng trên cơ sở của một lí thuyết nhất định. Khi đã có lí thuyết, lúc đó mới có

một phương pháp hoàn chỉnh. Lí thuyết bao giờ cũng có trước, phương pháp có
sau. Nhưng ngược lại, khi đã có được hệ thống phương pháp hoàn chỉnh nó sẽ
tác động lại lí thuyết, làm cho lí thuyết phát triển lên những bước mới có chất
lượng cao hơn.
Như vậy, phương pháp có mối liên hệ mật thiết với mục đích và nội dung
của hoạt động.
Trên cơ sở khái niệm phương pháp nói chung, người ta đã xây dựng khái
niệm phương pháp dạy học trên cơ sở mục đích và nội dung dạy học. Phương
pháp dạy học được xây dựng vào một quá trình cụ thể, quá trình dạy học là một
phạm trù cơ bản của khoa học giáo dục.
Phương pháp dạy học được các nhà nghiên cứu đưa ra với nhiều định nghĩa:
IuK Babanxki cho rằng: “Phương pháp dạy học là một cách thức tương tác
giữa thầy và trò nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát
triển trong quá trình dạy học” [9].

9
I.Ia Leene quan niệm: “Phương pháp dạy học một hệ thống những hoạt
động có mục đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành
của học sinh, đảm bảo các em lĩnh hội nội dung học vấn” [9].
Theo I.D.Dverep thì: "Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động tương
hỗ giữa thầy và trò nhằm đạt được mục đích. Hoạt động này được thể hiện trong
việc sử dụng các nguồn nhận thức, các thủ thuật logic, các dạng hoạt động độc
lập của học sinh và cách thức điều chỉnh quá trình nhận thức của giáo viên” [9].
Theo V.K.Điachenco cho rằng: “Phương pháp dạy học là cấu trúc tổ chức
của quá trình dạy học”.
Còn rất nhiều quan niệm khác về phương pháp dạy học nhưng nhìn chung
các tác giả đều nhận xét trên nhiều mặt khác nhau của quá trình dạy học.
Mặc dù chưa đi đến một ý kiến thống nhất về định nghĩa phương pháp dạy
học, song các tác giả đều thừa nhận phương pháp dạy học có những dấu hiệu đặc
trưng sau đây:

- Nó phản ánh sự vận động của quá trình nhận thức của học sinh nhằm đạt
được mục đích đề ra.
- Phản ánh sự vận động của nội dung học vấn đã được nhà trường quy định.
- Phản ánh cách thức trao đổi thông tin giữa thầy và trò.
- Phản ánh cách thức điều khiển nhận thức, kích thích và xây dựng động cơ,
tổ chức hoạt động nhận thức và kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động.
Từ sự phân tích trên, phương pháp dạy học trong thực tiễn cũng như trong lí
luận là một hoạt động phức tạp đòi hỏi sự sáng tạo cải tiến không ngừng hoạt
động của thầy và trò. Vì vậy xét về mặt nào đó, phương pháp dạy học không chỉ
là khoa học mà còn là nghệ thuật với yêu cầu cao về thủ pháp sư phạm. Qua đây,
chúng tôi vận dụng khái niệm phương pháp dạy học sau vào luận văn của mình:
Phương pháp dạy học là con đường, cách thức hoạt động tương tác thống
nhất giữa thầy và trò. Trong đó, thầy là người tổ chức hướng dẫn trong
phương pháp dạy học, trò là “người thợ trực tiếp thi công” trong phương
pháp dạy học, nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập.

10
Phương pháp dạy học là cấu trúc vận hành có hệ thống của giáo viên và học
sinh, trong đó, phương pháp học là hàng đầu còn phương pháp giảng dạy là tổ
chức học tập.
1.2.2. Khái niệm về tư duy
Tư duy là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh thần
đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới thông qua hoạt
động vật chất, làm cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật và ứng xử
tích cực với nó.
Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 4 (NXB Từ điển bách khoa
Hà Nội - 2005): Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một
cách đặc biệt - bộ não người - tư duy phản ánh tích cực hiện thực khách quan
dưới dạng các khái niệm, sự phán đoán, lí luận v.v…
Theo triết học duy tâm khách quan, tư duy là sản phẩm của “ý niệm tuyệt

đối” với tư cách là bản năng siêu tự nhiên, độc lập, không phụ thuộc vào vật
chất. Theo Gearge Wilhemr Fridrick Heghen: “Ý niệm tuyệt đối là bản nguyên
của hoạt động và nó chỉ có thể biểu hiện trong tư duy, trong nhận thức tư biện
mà thôi”[1]. Karl Marx nhận xét: “Đối với Heghen, vận động của tư duy được
ông nhân cách hoá dưới tên gọi “ý niệm” là chúa sáng tạo ra hiện thực, hiện thực
chỉ là hình thức bề ngoài của ý niệm” [2].
Theo triết học duy vật biện chứng, tư duy là một trong các đặc tính của vật
chất phát triển đến trình độ tổ chức cao. Về lí thuyết, Karl Marx cho rằng: “Vận
động kiểu tư duy chỉ là sự vận động của hiện thực khách quan được di chuyển vào
và được cải tạo/ tái tạo trong đầu óc con người dưới dạng một sự phản ánh” [3].
Theo tâm lí học, tư duy là một quá trình phản ánh những thuộc tính bản
chất, những mối liên hệ vào quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật hiện
tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết [92].
Những luận cứ này còn dựa trên những nghiên cứu thực nghiệm của Ivan
Petrovich Pavlov nhà sinh lí học, nhà tư tưởng người Nga. Bằng các thí nghiệm tâm
– sinh lí áp dụng trên động vật và con người, ông đi đến kết luận: “Hoạt động tâm lí
là kết quả của hoạt động sinh lí của một bộ phận nhất định của bộ óc” [4].

11
Như vậy ở đề tài này, chúng tôi xin được theo khái niệm: Tư duy trước hết
là sự phản ánh ở trình độ cao bằng con đường khái quát hoá, hướng sâu vào
nhận thức bản chất, quy luật của đối tượng. Phản ánh ở đây hiểu theo quan
niệm của chủ nghĩa Mác là phản ánh biện chứng “là một quá trình phức tạp
và mâu thuẫn của sự tác động qua lại giữa nhận thức cảm tính và nhận thức
lí tính, giữa hoạt động tư duy và hoạt động thực tiễn, như là một quá trình
trong đó con người không thích nghi một cách thụ động với thế giới bên
ngoài, mà tác động tới nó, cải tạo nó và bắt nó phải phục tùng những mục
đích của mình” [2]. Đó là phản ánh tâm lí, là sự phản ánh một cách trọn vẹn các
thuộc tính, các mối quan hệ, liên hệ bản chất, quy luật vận động và phát triển của
các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan [3].

1.2.3. Khái niệm “Bản đồ tư duy”
“Bản đồ tư duy” (mindmap) là phương pháp được đưa ra để tận dụng khả
năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp
hay phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với
máy tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính thì não bộ còn có khả năng tạo
sự liên kết giữa các dữ liệu với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai khả năng
này của bộ não.
Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép bằng cách dùng “Bản đồ tư
duy” tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình vẽ, trong đó các đối
tượng liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách biểu diễn như vậy, các dữ
liệu được ghi nhớ, hấp thụ dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Thay vì dùng chữ viết để miêu tả một chiều, “Bản đồ tư duy” biểu thị toàn
bộ cấu trúc chi tiết của một đối tượng bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra dạng
thức của đối tượng, sự quan hệ tương hỗ giữa các khái niệm có liên quan và cách
liên hệ giữa chúng với nhau bên trong của một vấn đề lớn.
Theo định nghĩa của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Bản đồ tư duy là hình thức
ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Bản đồ
tư duy - một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật
hình hoạ với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với

12
cấu trúc hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm
năng vô tận của bộ não.
1.3. Một số vấn đề về sử dụng phƣơng pháp bản đồ tƣ duy trong dạy
học Địa lí lớp 5
1.3.1. Khái quát đặc điểm chương trình, sách giáo khoa phần Địa lí lớp 5
và việc sử dụng phương pháp bản đồ tư duy
- Chương trình:
Các kiến thức của địa lí được lựa chọn và sắp xếp theo nguyên tắc phù hợp
với đặc điểm nhận thức của trẻ, từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, từ xa

đến gần.
Trên cơ sở vận dụng những khái niệm, mối quan hệ địa lí đơn giản của
chương trình lớp 4, địa lí lớp 5 trình bày kiến thức theo hai phần gồm: Địa lí
Việt Nam và Địa lí thế giới.
Về phần Địa lí Việt Nam: Nội dung được sắp xếp theo một cách tương đối
hệ thống theo trật tự từ đặc điểm tự nhiên, dân cư tới đặc điểm kinh tế Việt Nam.
Về phần Địa lí thế giới: Giới thiệu tất cả các châu lục, đại dương và một số
quốc gia ở châu lục đó nhưng không đề cập toàn diện đến các yếu tố tự nhiên,
kinh tế xã hội mà chỉ cho học sinh có tính chất "chấm phá" nghĩa là chọn những
nội dung nêu bật được một vài nét tiêu biểu của từng châu lục, đai dương và một
số quốc gia. Chương trình cũng giành thời lượng để dạy về Châu Á nhiều hơn
các châu lục khác.
So với chương trình cũ, chương trình mới tăng thời lượng phần Địa lí Việt
Nam và bỏ bớt một số nội dung địa lí thế giới. Đã có sự giảm tải về mức độ yêu
cầu, thiên về mô tả sự vật, hiên tượng hơn là giải thích chúng. Tăng cường tìm
hiểu về địa lí đất nước, nét tiêu biểu của châu lục, quốc gia.
- Sách giáo khoa:
Các kiến thức Địa lí lớp 5 được thể hiện trong sách giáo khoa trên cả hai
kênh: Kênh chữ và kênh hình.
+ Kênh chữ: Diễn giải nội dung chứa đựng trong đề mục và là nguồn kiến
thức quan trọng đối với học sinh trong quá trình học tập. Nội dung trọng tâm của

13
bài đặt trong phần đóng khung và hệ thống câu hỏi cuối bài. Những câu hỏi và
lệnh ở giữa bài được in nghiêng, nhằm yêu cầu học sinh phải động não suy nghĩ
và làm việc với kênh hình để tìm tòi kiến thức.
+ Kênh hình bao gồm: Tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, bảng số liệu, sơ đồ
Chúng không chỉ là phương tiện minh họa cho bài học mà còn là một bộ phận
gắn bó hữu cơ với kênh chữ, là phần kiến thức không thể thiếu được của nội
dung học tập. Trong một số trường hợp, kênh hình là nguồn cung cấp thông tin

cơ bản của bài học. Việc tăng cường kênh hình tạo điều kiện để giáo viên tổ
chức các hoạt động tìm tòi, phát hiện kiến thức mới của học sinh thông qua làm
việc với bản đồ (lược đồ), biểu đồ, tranh ảnh, hình vẽ và đồng thời phát triển kĩ
năng địa lí ở học sinh như: kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng địa lí, kĩ năng sử
dụng bản đồ, quả địa cầu, kĩ năng nhận xét, so sánh, phân tích biểu đồ
Từ đặc điểm chương trình sách giáo khoa Địa lí lớp 5, chúng ta thấy việc
vận dụng phương pháp bản đồ tư duy có vai trò rất lớn trong dạy học Địa lí. Đó
là nguồn cung cấp kiến thức vô cùng quan trọng.
1.3.2. Vai trò của “Bản đồ tư duy”
Bản đồ tư duy còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép
nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hoá một chủ đề hay một
mạch kiến thức… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường
nét, màu sắc, chữ viết với tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một sơ đồ mở, không
yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các
nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có
thể thể hiện nó dưới dạng “Bản đồ tư duy” theo một cách riêng. Do đó, việc lập
“Bản đồ tư duy” phát huy được năng lực tối đa sáng tạo của mỗi người.
“Bản đồ tư duy” chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên
tưởng (các nhánh), có thể vận dụng “Bản đồ tư duy” vào dạy học kiến thức mới,
củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hoá kiến thức sau mỗi
chương, mỗi học kì, tóm lược một cuốn sách, …cũng như lập kế hoạch công tác.
“Bản đồ tư duy” là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó
là một kĩ thuật hình hoạ với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu

14
sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não giúp con người
khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Nó được coi là sự lựa chọn cho toàn bộ
trí óc hướng tới lối suy nghĩ mạch lạc. Tony Buzan là người đi đầu trong lĩnh
vực nghiên cứu tìm ra hoạt động của bộ não. Theo Tony Buzan thì “một hình
ảnh có giá trị hơn cả ngàn từ” và “màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như

hình ảnh. Màu sắc mang đến cho “Bản đồ tư duy” những rung động công hưởng,
mang lại sức sống và năng lượng vô tận cho tư duy sáng tạo”.
Ở vị trí trung tâm, “Bản đồ tư duy” là một hình ảnh hay một từ khoá thể
hiện một ý tưởng hay khái niệm chủ đạo. Từ ý trung tâm hay hình ảnh trung tâm
toả ra các nhánh chính, ta gọi là nhánh cấp 1, từ các nhánh chính lại có sự phân
nhánh đến các nhánh phụ, gọi là nhánh cấp 2 để nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế, sự
phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh luôn được kết nối với
nhau. Chính sự liên kết này, sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về ý trung
tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.
Theo một số kết quả nghiên cứu, “Bản đồ tư duy” giúp thể hiện ra bên
ngoài cách thức mà não bộ chúng ta hoạt động: Khi có một thông tin mới được
đưa vào, để được lưu trữ và tồn tại, chúng ta cần kết nối với các thông tin cũ đã
tồn tại trước đó.
Việc sử dụng các từ khoá, chữ số, màu sắc và hình ảnh sẽ đem lại một công
cụ lớn vì huy động được cả bán cầu não phải và trái cùng hoạt động. Sự kết hợp
này, sẽ tăng cường các liên kết giữa hai bán cầu não và kết quả là tăng cường trí
tuệ và tính sáng tạo của chủ nhân bộ não. “Bản đồ tư duy” là một công cụ hữu
ích trong học tập và giảng dạy ở trường phổ thông cũng như các bậc học cao hơn
vì chúng giúp học sinh và giáo viên trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ
ràng, suy nghĩ, sáng tạo, học tập thông qua biểu đồ, tóm tắt thông tin của bài học
hay một cuốn sách, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ,
đưa ra ý tưởng mới. Do sự kết hớp giữa đường nét, màu sắc, chữ viết và hình
ảnh liên tưởng nên “Bản đồ tư duy” như một “bức tranh hội hoạ - kiến thức”.
Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi học mà chơi, chơi mà học, tò mò, hiếu

15
động. Sự hứng thú, khả năng tập trung chú ý của học sinh thường được kích
thích bởi những hình ảnh đẹp mắt - “Bản đồ tư duy” phát huy được thế mạnh đó.
Kiểu ghi chép của “Bản đồ tư duy” thể hiện bằng hình ảnh, đường nét, màu
sắc được tuân theo các hướng không có tính tuần tự và có độ thoáng, giúp dễ

dàng phát triển ý tưởng và không bỏ sót ý tưởng. Việc xây dựng được một hình
ảnh thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan
tâm về các mặt: Ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả
năng sáng tạo… “Bản đồ tư duy” vừa giúp nhìn được khái quát toàn bộ vấn đề,
vừa giúp nhìn được cái cụ thể trong cái tổng thể đó.
Có thể khái quát lại vai trò của “Bản đồ tư duy” với ba ý chính sau:
a. “Bản đồ tư duy” giúp học sinh học được phương pháp học.
Việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện
pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy
một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn Toán, các em
này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không
biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước
đó và những phần sau này. Phần lớn học số sinh này khi đọc sách hoặc nghe
giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng
tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo “Bản đồ tư duy” trong dạy học,
học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và
phát triển tư duy.
b. “Bản đồ tư duy” - giúp học sinh học tập một cách tích cực
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ
lâu và in đậm cái mà do chính mình suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của
mình. Vì vậy, việc sử dung “Bản đồ tư duy” giúp học sinh học tập một cách tích
cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
Việc học sinh tự vẽ “Bản đồ tư duy” có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng
tạo của học sinh, phát triển năng khiếu hội hoạ, sở thích của học sinh, các em tự
do chọn màu sắc, đường nét, các em tự “sáng tác” nên trên mỗi “Bản đồ tư duy”
thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và “Bản đồ tư
duy” do các em tự thiết kế nên các em yêu quý, trân trọng “tác phẩm” của mình.

16
“Bản đồ tư duy” giúp học sinh ghi chép có hiệu quả. Do đặc điểm của “Bản đồ

tư duy” nên người thiết kế “Bản đồ tư duy” phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp
xếp bố cục để “ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic. Vì vậy, sử dụng “Bản đồ tư
duy” sẽ giúp học sinh dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả.
c. Sử dụng “Bản đồ tư duy” giúp giáo viên chủ nhiệm, cán bộ quản lí nhà
trường lập kế hoạch công tác và có cái nhìn tổng quát toàn bộ kế hoạch từ chỉ
tiêu, phương pháp, biện pháp và dễ theo dõi quá trình thực hiện, đồng thời có thể
bổ sung thêm các chỉ tiêu, biện pháp một cách rất dễ dàng so với việc viết kế
hoạch theo cách thông thường thành các dòng chữ. “Bản đồ tư duy” có thể vận
dụng được bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có
thể thiết kế “Bản đồ tư duy” trên giấy, bìa, bảng phụ… hoặc cũng có thể thiết kế
trên phần mềm “Bản đồ tư duy”.
Việc sử dụng “Bản đồ tư duy” giúp cán bộ quản lí có cái nhìn tổng quát
toàn bộ vấn đề, giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh tích
cực học tập. Đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai nội dung
dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của phong
trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo
dục và Đào tạo phát động.
1.3.3. Tác dụng của “Bản đồ tư duy” trong dạy học Địa lí ở tiểu học
Địa lí là môn học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, cần thiết
về trái đất và những hoạt động của con người trên bình diện quốc gia và quốc tế,
làm cơ sở để hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục tư tưởng tình cảm
đúng đắn. Đồng thời rèn luyện cho học sinh các kĩ năng hành động, ứng xử phù
hợp với môi trường tự nhiên, xã hội, phù hợp với yêu cầu của đất nước và xu thế
của thời đại. Cùng với các môn học khác, Địa lí góp phần bồi dưỡng cho học
sinh ý thức trách nhiệm, lòng ham hiểu biết khoa học, tình yêu thiên nhiên, con
người và đất nước. Theo đó mục tiêu của phân môn Địa lí chú trọng đến việc
hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng cần thiết con người lao động
mới. Để đạt được mục tiêu này thì cần thiết phải có sự đổi mới sách giáo khoa và
phương pháp dạy học một cách phù hợp, tương xướng.


17
Quán triệt những đổi mới về mục tiêu, chương trình Địa lí lớp 5 được thiết
kế thành hai mảng lớn có quan hệ chặt chẽ với nhau. Các bộ phận cơ bản này
của chương trình có mục đích cung cấp cho học sinh các kiến thức cơ bản về:
- Địa lí Việt Nam, bao gồm: Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân
cư, kinh tế và những vấn đề đặt ra đối với tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội của
đất nước.
- Địa lí thế giới, bao gồm: Tìm hiểu về các châu lục như châu Á, châu Âu,
châu Mĩ, châu Đại Dương, châu Nam Cực (vị trí địa lí và giới hạn, đặc điểm tự
nhiên, dân cư, hoạt động kinh tế).
Tất cả những kiến thức này đều có mối liên hệ qua lại và tác động lẫn nhau,
đòi hỏi ở người học không chỉ khả năng tiếp nhận thông tin đơn thuần mà cần biết
cách phân tích, so sánh, liên kết các vấn đề để tìm ra kiến thức phù hợp với
chương trình mới, sách giáo khoa được biên soạn theo hướng tạo điều kiện để
giáo viên tổ chức cho học sinh học tập một cách tự giác và tích cực. Nếu như sách
giáo khoa cũ được trình bày theo lối thông báo - giải thích - minh hoạ thì cách
trình bày sách giáo khoa mới đòi hỏi giáo viên phải tổ chức các hoạt động nhận
thức cho học sinh, phải khai thác kênh hình, kênh chữ để có thêm kiến thức mới.
Khi chương trình và sách giáo khoa đã đổi mới, tất yếu phương pháp dạy
học bộ môn cũng phải đổi mới theo. Do đó, phương pháp dạy học Địa lí theo
định hướng mới, sách giáo khoa mới không chỉ buộc học sinh phải “mới” trong
cách học mà còn buộc giáo viên phải “mới” trong cách dạy. Theo đó, giáo viên
cần đầu tư nhiều hơn về thời gian và trí tuệ trong bài dạy, vừa để làm rõ nội
dung kiến thức ẩn chứa ở kênh hình, kênh chữ, cũng như tìm ra cách thức và
phương pháp nhằm hướng dẫn cho học sinh cách tự khai thác và lĩnh hội kiến
thức. Bên cạnh việc chú ý phát triển ở học sinh các kĩ năng bộ môn ( kĩ năng làm
việc với các thiết bị dạy học, các nguồn tư liệu địa lí…), việc rèn luyện kĩ năng
làm việc độc lập, làm việc nhóm, kĩ năng trình bày, giải quyết vấn đề… cũng hết
sức quan trọng và đặc biệt là kĩ năng phát triển tư duy.
Việc phát triển tư duy cho học sinh luôn là một trong những ưu tiên hàng

đầu của mục tiêu giáo dục. Để hướng học sinh có cách thức học tập tích cực và

18
tự chủ, chúng ta không chỉ cần giúp các em khám phá các kiến thức mới mà còn
phải giúp các em hệ thống được những kiến thức đó. Việc xây dựng được một
“hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích
đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng
và khả năng sáng tạo…Một trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các
“hình ảnh liên kết” là “Bản đồ tư duy”.
Vì thế, “Bản đồ tư duy” có tác dụng rất lớn trong dạy học Địa lí ở tiểu học.
Qua quá trình nghiên cứu, thử nghiệm chúng tôi thấy rằng việc vận dụng “Bản
đồ tư duy” vào dạy học Địa lí lớp 5 là rất cần thiết và có hiệu quả tốt. Bên cạnh
giúp học sinh hiểu và ghi nhớ bài học tốt hơn thì việc vận dụng “Bản đồ tư duy”
vào dạy học Địa lí lớp 5 còn rèn luyện cho các em kĩ năng làm việc cũng như
sắp xếp cuộc sống một cách khoa học hơn, tập luyện sự kiên trì và phát triển trí
tưởng tượng, sáng tạo hiệu quả, khai thác tối đa ý đồ của sách giáo khoa, đồng
thời giảm sự nhàm chán trong cách học.
Với phương pháp bản đồ tư duy trong giảng dạy từng bước giáo viên sẽ
giúp học sinh tự mình phát hiện dần dần toàn bộ kiến thức bài học. Bắt đầu bằng
những kiến thức tổng quát nhất - trọng tâm bài học - trung tâm bản đồ. Giáo viên
giúp học sinh tái hiện những kiến thức lớn xoay quanh trọng tâm bài học, những
ý nhỏ trong từng ý lớn cứ như vậy đến khi giờ học kết thúc cũng là lúc kiến thức
tổng quát của bài học được trình bày một cách sáng tạo, sinh động trên bản đồ.
Không những cung cấp cho học sinh kiến thức tổng thể, bản đồ tư duy còn giúp
cho học sinh nhìn nhận đa chiều mọi mặt của vấn đề, từ đó đưa ra các ý tưởng
mới, phát hiện mới, tìm ra sự liên kết, ràng buộc các ý tưởng trong bài tức tìm ra
mạch lôgic của bài học. Sau khi hoàn thiện, học sinh nhìn vào bản đồ là có thể
tái hiện, thuyết trình lại được toàn bộ nội dung kiến thức bài học. Đồng thời, học
sinh cũng có thể khẳng định được toàn bộ dung lượng kiến thức của bài, xác
định ý chính, ý phụ và lên kế hoạch học tập hiệu quả.

Chúng ta có thể khái quát tác dụng của “Bản đồ tư duy” trong dạy học địa lí
qua các ý sau:
- Tiết kiệm thời gian, công sức.

19
- Cung cấp bức tranh tổng thể của bài học.
- Tổ chức và phân loại suy nghĩ.
- Kích thích tiềm năng sáng tạo của học sinh.
- Sử dụng rộng rãi, hiệu quả và dễ dàng.
- Tạo hứng thú trong giờ học.
1.3.4. Các nguyên tắc sử dụng "Bản đồ tư duy"
Chúng ta đang sống trong thời kì phát triển mạnh mẽ, thế giới vận động và
thay đổi đến từng giây.
Do đó, việc học tập chăm chỉ chưa hẳn là giải pháp tối ưu, bởi khi đó có
nhiều sự lựa chọn thì vấn đề không chỉ là học cái gì mà là học như thế nào và sử
dụng công nghệ gì. Thông tin đa chiều và thực tế yêu cầu không chỉ có kiến thức
mà còn có khả năng tạo ra giá trị gia tăng từ kiến thức. Nghiên cứu về hoạt động
của bộ não con người, người ta chỉ ra rằng bộ não hoạt động gồm hai nhánh:
- Não phải nhạy cảm với các thông tin về màu sắc, nhịp điệu, hình dạng,
tưởng tượng sẽ tác động kích thích não trái.
- Não trái thích hợp với các từ ngữ, con số, tư duy, phân tích cho ra sản phẩm.
Do đó, người ta tìm cách kích thích não phải tốt nhất. Trình bày vấn đề theo
sơ đồ, biểu đồ bao giờ cũng gây hứng thú. Trong các hình thức ấy, sơ đồ mà
Tony Buzan đưa ra được đánh giá cao nhất và đã trở thành công cụ làm việc hiệu
quả của hàng triệu người trên thế giới.
"Bản đồ tư duy" hoạt động trên nguyên tắc sử dụng sức mạnh về khả năng
nhớ hình ảnh của não. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, não trái và não phải của con
người có chức năng khác nhau. Trong khi não trái phù hợp với các hoạt động
lôgic thì não phải lại phù hợp với các hoạt động có tính tưởng tượng như vẽ và
âm nhạc.

"Bản đồ tư duy" sử dụng công cụ hình ảnh, màu sắc, từ khóa, liên kết để thể
hiện vấn đề, làm cho vấn đề trở nên trực quan và có tổ chức. Nguyên tắc cơ bản
của "Bản đồ tư duy" là sử dụng hình vẽ, màu sắc, thứ tự dạng cây để thể hiện ý
tưởng. Ở trung tâm hình vẽ là chủ đề chính, các chủ đề con được phát triển từ
chủ đề chính bằng các đường dạng cây, các chủ đề được phát triển theo chiều

20
kim đồng hồ, bắt đầu từ bên trái và mở rộng dần ra. Các ý lớn gồm chủ đề trung
tâm, các ý nhỏ được phát triển ra từ các ý lớn. Các chủ đề được viết dưới dạng từ
khóa. Khuyến khích sử dụng màu sắc và hình ảnh để thể hiện ý tưởng.
"Bản đồ tư duy" có nguyên lí hoạt động theo nguyên tắc liên tưởng "ý này
gợi ý kia" của bộ não. Chúng ta có thể tạo ra một "Bản đồ tư duy" ở dạng đơn
giản theo nguyên tắc phát triển ý: Từ một chủ đề tạo ra nhiều nhánh lớn, từ mỗi
nhánh lớn lại tỏa ra nhiều nhánh nhỏ và cứ thế mở rộng ra vô tận. Ví dụ, như
chúng ta muốn lập bản đồ tư duy cho một tuần làm việc, hãy vẽ chủ đề trung tâm
tuần sau vào giữa trang giấy trắng. Từ chủ đề chúng ta vẽ 7 nhánh lớn là thứ 2,
thứ 3 cho đến chủ nhật, mỗi nhánh một màu. Rồi từ mỗi thứ, chúng ta lại vẽ ra
các nhánh nhỏ là các công việc chúng ta định làm trong thứ đó, mỗi công việc lại
triển khai ra các ý chi tiết hơn như chúng ta định làm công việc đó với ai (who),
ở đâu (where), bao giờ (when), bằng cách nào (how)
Cứ như vậy, chúng ta sẽ có trên cùng một trang giấy các công việc mà mình
định làm trong một tuần và cái hay của bản đồ tư duy ở chổ là nó giúp cho chúng ta
có cái nhìn tổng thể, không bỏ sót các ý tưởng, từ đó chúng ta có thể dễ dàng đánh
số thứ tự ưu tiên các công việc trong tuần để sắp xếp và quản lí thời gian một cách
hiệu quả và hợp lí hơn so với một quyển sổ liệt kê các công việc thông thường.
Mặc dù, nguyên tắc cơ bản của "Bản đồ tư duy" là sử dụng hình vẽ, màu
sắc, thứ tự dạng cây để thể hiện các ý tưởng nhưng chúng ta cần lưu ý:
Màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. Tuy nhiên, chúng ta
cũng không cần phải sử dụng quá nhiều màu sắc. Chúng ta có thể sử dụng hai
đến ba màu nếu thích và muốn tiết kiệm thời gian. Nếu chúng ta thấy mất quá

nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh thì chúng ta nên gạch chéo, đánh
dấu cộng (+) hay chấm bi trong đó.
Nên vẽ nhiều nhánh cong hơn là đường thẳng để tránh sự buồn tẻ, tạo sự
mềm mại cuốn hút.
Khi chúng ta sử dụng những từ khóa riêng lẽ, mỗi từ khóa đều không bị
ràng buộc, do đó nó có khả năng khơi dậy các ý tưởng mới, cách suy nghĩ mới.

×