Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 24 36 THÁNG TUỔI THÔNG QUA GIỜ kể CHUYỆN ở TRƯỜNG mầm NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 16 trang )

PHÒNG GD VÀ ĐT THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
TRƯỜNG MẦM NON HẢI HƯNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI

PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 24 - 36 THÁNG TUỔI
THÔNG QUA GIỜ KỂ CHUYỆN Ở TRƯỜNG MẦM NON

Người thực hiện: Hoàng Thị Thái
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non HẢI HƯNG
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

Hải Phòng, tháng 03/2018


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
2. Mục đích nghiên cứu:
3. Đối tượng nghiên cứu:
4. Phương pháp nghiên cứu:
PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng
3. Những biện pháp
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận


2. Kiến nghị

Trang
2
2
2
2
2
3
3
4
6
12
13
13
13


PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 24 - 36 THÁNG TUỔI THÔNG
QUA GIỜ KỂ CHUYỆN Ở TRƯỜNG MẦM NON
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ em là niếm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của xã hội. Trẻ
em hôm nay là những công dân tương lai của đất nước, việc bảo vệ, chăm sóc,
giáo dục trẻ là trách nhiệm của nhà nước và toàn xã hội, của mỗi gia đình. Ngôn
ngữ là một công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện vọng của mình
từ khi cón rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển, giáo dục trẻ là một
điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình
thành nhân cách của trẻ. Ngôn ngữ phát triển làm cho tư duy phát triển, ngôn
ngữ phát triển toàn diện của trẻ bao gồm cả sự phát triển vế đạo đức, chuẩn mực

hành vi văn hóa, ngôn ngữ phát triển giúp trẻ sớm tiếp thu những giá trị thẩm mĩ
trong thơ ca, truyện kể, những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đầu tiên người lớn
có thể đem đến cho trẻ từ những ngày thơ ấu, sự tác động của lời nói nghệ thuật
như một phương tiện hữu hiệu giáo dục thẩm mĩ cho trẻ.
Hiện nay việc trẻ em của chúng ta nói trống không, không đủ câu, trọn
nghĩa chiếm một số lượng không nhỏ và rất khó cho việc tiếp cận với các tác
phẩm văn học bởi vì trẻ một phần nghèo nàn về vốn từ, một phần trẻ không biết
phải diễn đạt sao cho mạch lạc, cho nên chuyện được đưa vào trong chương
trình giáo dục mầm non rất quan trọng nhằm phát triển ngôn ngữ, bao gồm việc
làm giàu vốn từ, tập cho trẻ phát âm chính xác, diễn đạt rõ ràng có ngữ điệu,
đứng ngữ pháp, tạo điều kiện cho trẻ có khả năng sữ dụng ngôn ngữ để giao tiếp
và học tập với chức năng giáo dục bằng phương tiện văn học. Chuyện giúp cho
trẻ làm quen với lời hay ý đẹp, hình tượng trong sáng, tập cho trẻ tiếp xúc với
tác phẩm văn học, từng bước xây dựng cho trẻ lòng yêu thích văn học, phát triển
mạnh mẽ những tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mĩ…..góp phần làm phong
phú hiểu biết của trẻ và phát triển các năng lực trí tuệ cho trẻ. Vì vậy tôi chọn đề
tài “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thông qua giờ kể chuyện ở
trường mầm non " làm đề tài nghiên cứu.
2.Mục đích của đề tài
Tìm hiểu một số biện pháp để đổi mời phương pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ 24- 36 tháng, để từ đó đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng thông qua giớ kể chuyện.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng thông qua
giờ kể chuyện trong trường mầm non tại lớp D2 Mầm Non HẢI HƯNG
4. phương pháp nghiên cứa
- Nghiêm cứu kỹ các tài liệu liên quan đến đề tài
- Điếu tra thực trạng học sinh trong nhóm lớp
- Điều tra những biện pháp phù hợp với trẻ trong lớp để có thêm kinh
nghiệm

2


PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân, có nhiệm vụ đặt nềm móng cơ sở cho việc hình thành và phát triển nhân
cách con người mới Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của thời kỳ đổi mới công
nghiệp hóa và hiện đại hóa của đất nước và xu hướng phát triển của thời đại, là
bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có
ích, thành những con người mới. Một trong ba mục tiêu của cải cách giáo dục
của nước ta là: Làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu
nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao động làm
chủ tập thể, phát triển toàn diện nhân cách. Giáo dục mầm non đã góp phần thực
hiện mục tiêu trên. Ngày nay chúng ta không chỉ đào tạo những con người có trí
thức có khoa học có tình yêu thiên nhiên, yêu Tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo
nên những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giầu mơ ước và sáng tạo.
Những phẩm chất ấy con người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non, lứa
tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp trong tương lai.
Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới,
chương trình giáo dục trẻ mầm non trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các
hoạt động phù hợp sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động
một cách chủ động tích cực, hồn nhiên vui tươi, đồng thời tạo điều kiện cho giáo
viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động
chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm “Học mà
chơi - Chơi mà học” Đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách toàn diện về
mọi mặt.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ có vai trò là một
phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh.
Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh,

thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng
có trong môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng
của các sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết
ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống
hàng ngày.
Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm
mĩ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ
nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh
hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với
cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn
của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng
mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể
dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của mình với các thành
viên trong cộng đồng điều đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người.
Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ, thông qua các câu chuyện trẻ dể dàng tiếp
nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Trẻ
từ 12 tháng trở đi, bên cạnh những âm bập bẹ xuất hiện các từ chủ động đầu
tiên, Ở trẻ 18 tháng trẻ bắt chước người lớn lặp lại một số từ đơn gần gũi: Mẹ,
3


bà, bố đến 3 tuổi có số lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ từ 22 tháng tuổi và
30 tháng tuổi vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại khác
như tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ
thể mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và các mối
quan hệ. Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ từ 2 đến 3 tuổi còn
rất hạn chế và có nét đặc trưng riêng, trẻ sử dụng các từ biểu thị thời gian chưa
chính xác trẻ nhận thức về công cụ ngữ pháp và sử dụng nó còn rất hạn chế. Đối
với trẻ mầm non nói chung và trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi nói riêng, chúng ta cần

phải giúp trẻ phát triển mở rộng các từ loại trong các từ, biết sử dụng nhiều loại
câu, bằng cách thường xuyên trò chuyện với trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn
thấy trong sinh hoạt hàng ngày, nói cho trẻ biết các từ biểu thị về các đặc điểm,
tính chất, công dụng của chúng. Cho trẻ xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu
chuyện đơn giản qua tranh. Đặt các câu hỏi cho trẻ giúp trẻ biết kể chuyện theo
tranh bằng ngôn ngữ của trẻ.
2.Thực Trạng
Bản thân tôi năm học 2017 – 2018 được phân công dạy nhóm trẻ 24 – 36
tháng, tôi nhận thấy trẻ quá nhỏ, ngôn ngữ của trẻ còn rất nghèo nàn về vốn từ,
nói không đủ câu tròn nghĩa có những trẻ phát âm chưa rõ, trẻ hay nói cộc lốc,
thiếu lễ phép với người lớn, nên tôi thấy rất lo lắng và quan tâm đến việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, vì vậy trong thời gian giảng dạy tôi luôn tím tói, học hỏi
đúc rút kinh nghiệm, nâng cao chất lượng giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc,
làm giàu vốn từ cho trẻ.
a. Thuận lợi
Phòng học được lát gạch hoa.
Nhà trường tạo điều kiện mua sắm đầy đủ bàn ghế cho học sinh ngồi, mua
đồ dùng đồ chơi phục vụ cho công tác dạy và học, đặc biệt là đồ dùng, đồ chơi,
tranh minh họa thơ, chuyện theo chủ đề để phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ thông qua giờ học kể chuyện.
Huy động trẻ nhà trẻ ra lớp đạt chỉ tiêu quy định.
Lớp tôi phụ trách có 20 trẻ, trẻ cùng độ tuổi từ 24- 36 tháng tuổi, nên việc
phát triển ngôn ngữ cho trẻ khá thuận tiện.
Tất cả phụ huynh rất quan tâm đến con em mình, thường xuyên đưa đón
trẻ đi học chuyên cần và trao đổi tình hình sức khỏe, học tập, vui chơi của trẻ khi
ở nhà cũng như ở trường với giáo viên phụ trách lớp.
Bản thân tôi đã được đào tạo đạt trình độ Đại học, luôn có tinh thần nhiệt
tình, học hỏi, yêu nghề mếm trẻ, luôn tìm tói vận dụng các phương pháp, hình
thức đổi mới vào các hoạt động nhằm thu hút trẻ tham gia tích cực vào các hoạt
động.

Luôn học tập đúc rút kinh nghiệm khi thăm lớp dự giờ đồng nghiệp.
Tham gia học tập đầy đủ các nghị quyết, chuyên đề mà ngành cũng như
nhà trường đề ra để đúc rút kinh nghiệm cho bản thân, nâng cao trình độ chuyên
môn.
Trên đây là những mặt thuận lợi rất cần thiết cho việc chăm sóc – giáo
dục trẻ. Bên cạnh những thuận lợi, còn không ít mặt khó khăn.
4


b. Khó khăn
- Phòng học hẹp không đủ diện tích cho trẻ hoạt động học cũng như vui
chơi.
- Đồ dùng đồ chơi theo TT 02 còn thiếu nhiều chưa đáp ứng được nhu cầu
học tập, vui chơi, khám phà của trẻ
Một số cháu phát âm chưa chuẩn, diễn đạt câu chưa mạch lạc, cháu nhận
biết chậm, chưa mạnh dạn, tự tin trong các hoạt động.
Là một xã thuộc miền núi, hầu hết phụ huynh là nông dân, làm ruông, vì
vậy điều kiện kinh tế khó khăn nên việc đóng góp mua đồ dùng, đồ chơi theo TT
02 để phục vụ cho viêc dạy và học còn hạn chế, cũng như cho trẻ ăn bán trú tại
trường, nhận thức của phụ huynh về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua
giờ kể chuyện còn nhiều hạn chế, họ cho rằng điều đó không cần thiết.
Thời gian đầu năm học trẻ mới bắt đầu đến trường chưa quen với môi
trường mới và phải xa bố mẹ, người thân trong gia đình nên trẻ đang còn hay
khóc và chưa chịu học, chịu chơi. Vì thế việc cho trẻ phát triển vốn từ đang còn
hạn chế.
c. Kết quả khảo sát
Khảo sát kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2017 - 2018 tại tôi phụ
trách:
Bảng phân loại trẻ thể hiện ngôn ngữ đầu năm
Thể hiện vốn từ,

Thể hiện vốn từ,
Thể hiện vốn từ,
cách diễn đạt ở
cách diễn đạt ở
cách diễn đạt tốt
mức độ khá,
mức hạn chế
thông qua hoạt
trung bình thông
Mức độ đánh giá
thông qua hoạt
động đọc kể tác
qua hoạt động
động đọc kể tác
phẩm văn học,
đọc kể tác phẩm
phẩm văn học,
nhận biết tập nói.
văn học, nhận
nhận biết tập nói.
biết tập nói.
Số lượng trẻ
11/39
16/39
12/39
Đạt %
28, 2%
41, 02%
30, 76%
Việc rèn kỹ năng diễn đạt của trẻ 24 - 36 tháng tuổi qua việc đọc và kể

tác phẩm và nhận biết tập núi ở trường Mầm non cho thấy: khả năng nhận thức
của trẻ khụng đồng đều. Trẻ đi học và ăn bán trú tại trường chưa đạt 100%, một
số trẻ không đi học đều. Các cháu ít được sự phối hợp chăm sóc giữa gia đình và
nhà trường dẫn đến việc phát triển kỹ năng diễn đạt cho trẻ cũng bị hạn chế. Nên
cần rèn luyện khả năng diễn đạt cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi qua việc đọc và kể lại
tác phẩm văn học và nhận biết tập núi ở trường Mầm non là một nhiệm vụ cơ bản.
Ngoài ra còn tác động toàn bộ tới quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ. Song điều
kiện và thời gian có hạn nên tôi chỉ đi sâu vào vấn đề nghiên cứu đến việc phát
triển ngôn ngữ thông qua việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho trẻ trẻ 24 - 36 tháng
tuổi
Trong đó có 12/39 trẻ còn hạn chế về ngôn ngữ chiếm 30, 7%.
5


* Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên
Qua điều tra thực trạng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 26 tháng thông
qua giờ kể chuyện nhìn chung trẻ chú ý, song việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
chưa hiệu quả, chưa gây được hứng thú cho trẻ. Vì vậy trong việc giải dạy thì tôi
phải biết tận dụng phương pháp một cách linh hoạt để gây hứng thú cho trẻ.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các môn học, các hoạt động trong
trường mầm non là một việc làm vô cùng quan trọng. Trong những năm qua đội
ngũ giáo viên mầm non đã từng bước khẳng định về chuyên môn nghiệp vụ của
mình, đã đầu tư vào bài dạy, các hoạt động một cách tích cực. Song đối với việc
thực hiện chương trình nhà trẻ vẫn còn nhiều lúng túng nhất là độ tuổi 24 - 36
tháng tuổi giáo viên vẫn còn xem nhẹ việc tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động,
giao tiếp để phát triển ngôn ngữ. Có đầu tư vào bài dạy, nhưng phương pháp và
biện pháp để cho trẻ được tham gia vào các hoạt động ngôn ngữ là rất ít. Khi tổ
chức giờ kể chuyện cho trẻ môn học mà cô có thể khai thác nhiều biện pháp
giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, giáo viên chưa biết linh hoạt tạo cơ hội cho trẻ hệ
thống câu hỏi đàm thoại, giáo viên đưa ra hầu như toàn câu hỏi đóng, trẻ không

thể tư duy và ít sử dụng hệ thống câu đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ, từ đó dẫn đến
việc trẻ hay nói cộc lốc, thiếu lễ phép nếu giáo viên không kịp thời uốn nắn cho
trẻ.
Trong quá trình dạy trẻ, bản thân tôi thấy rất lo lắng đến vấn đề này, nếu
như không kịp thời nghiêm túc thực hiện đúng chương trình quy định sẽ dẫn đến
hậu quả rất lớn đối với trẻ, bởi trẻ từ 2 đến 3 tuổi ở gia đình đang ở thời kì cần
cung cấp nhiều vốn từ giúp cho ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt hơn.
- Vì chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ cho nên trong quá trình chăm sóc giáo dục hầu như giáo viên chưa chú ý đến
việc thay đổi nội dung và cách thức trò chuyện, tạo các tình huống cho trẻ thể
hiện những tình cảm và yêu cầu của mình bằng các âm các từ. Khi nói chuyện
với trẻ cô hay nói nhanh và không chú ý tới việc sửa sai lỗi về từ, âm, câu cho
trẻ.
- Giáo viên chưa chú ý luyện câu, từ cho trẻ, nhiều trẻ nói thiếu, nói lặp cô
không kịp thời điều chỉnh và sửa sai.
- Quá trình tổ chức giờ học cô chưa chú ý đến hệ thống câu hỏi để giúp trẻ
được tư duy và phát triển ngôn ngữ.
- Đối với trẻ thì hệ thống ngôn ngữ không được mở rộng do cô đưa hệ
thống câu hỏi đóng, trẻ hay nói câu thiếu các thành phần.
- Khả năng lĩnh hội thông tin của trẻ rất hạn chế nếu cô truyền đạt một câu
dài hoặc một sự việc có nội dung truyền tải nhiều.
3. Những biện pháp
3.1. Nghiên cứu kĩ yêu cầu của giờ kể chuyện kể cả về kiến thức, kĩ năng
và giáo dục đạo đức. Từ đó đưa ra phương pháp, hệ thống câu hỏi, đồ dùng phục
vụ giờ dạy đạt hiệu quả cao.
6


Ví dụ: Kết quả mong đợi của giờ kể chuyện “Cây táo”
* Về kiến thức:

- Trẻ biết tên câu chuyện, biết tên nhân vật và hành động của các nhân vật
trong chuyện.
- Đọc được các từ: “ông”, “bé”, “gà trống”, “mặt trời”, “bươm bướm”,
“sưởi nắng”, “bật ra”.
- Biết lắng nghe và trả lời các câu hỏi của cô.

* Kỹ năng:
- Trẻ nhận biết và phân biệt được quả to, quả nhỏ.
- Nhận biết và phân được ba màu: đỏ, vàng, xanh và đọc chính xác các từ:
“màu đỏ”, “màu vàng”, “màu xanh”.
* Thái độ.
- Trẻ biết “Ăn quả nhớ phải nhớ ơn người trồng cây”
- Biết lợi ích của việc ăn quả: Cung cấp vitamin và khoáng chất.
- Biết giữ gìn vệ sinh rửa quả, rữa tay trước khi ăn, Biết bỏ hạt và thùng rác,
- Biết chăm sóc bảo vệ cây (Tưới nước, bắt sâu không vin lá, bẻ cành)

7


3.2. Chuẩn bị giáo án
- Giáo án cho giờ kể chuyện phải soạn một cách chu đáo, đầy đủ các
bước, đảm bảo nội dung với hệ thống câu hỏi mở và nội dung tích hợp phù hợp.
- Giáo án phải trình bày sạch sẽ, khoa học.
- Hệ thống câu hỏi phải phù hợp với độ tuổi, kích thích trẻ nhận biết, phân
biệt sự vật hiện tượng tình huống mà trẻ đang trực tiếp tri giác.
3.3: Chuẩn bị đồ dùng.
- Để giờ kể chuyện đạt hiệu quả cao thì đồ dùng phục vụ giờ dạy phải
đảm bảo:
- Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn (Không có
cạnh sắc nhọn) và vệ sinh cho trẻ (Không có bụi bẩn).

- Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu chuyện, phía dưới có chữ to
giúp cho việc phát triển từ của trẻ được thuận lợi.
- Đồ vật thật có liên quan đến câu chuyện
Ví dụ: trong câu chuyện “Cây táo”.
+ Chuẩn bị:
- Quả táo xanh, quả táo vàng, phải to, tròn, đẹp, màu sắc rõ nét, với nhiều
kích thước khác nhau.
- Cành táo phải nhiều lá, nhiều quả, được cắm vào một chậu đẹp.
- Tranh vẽ phải đẹp và sinh động, kích thước phù hợp không được to hoặc
nhỏ quá.

8


Cây Táo
3.4. Nội dung tích hợp.
- Sau khi xác định được mục đích yêu cầu của giờ kể chuyện. Tôi suy
nghĩ để tích hợp các môn học khác vào giờ kể chuyện sao cho hợp lý, logíc phù
hợp với giờ học.
Ví dụ: Trong câu chuyện cây táo tôi có thể tích hợp thêm các môn:
- Nhận biết tập nói.
- Vận động.
- Âm nhạc.
- Dinh dưỡng và vệ sinh chăm sóc.
3.5. Mọi lúc, mọi nơi.
- Cho trẻ xem tranh liên quan đến câu chuyện.
Ví dụ: Tranh cây táo trong chuyện cây táo:
- Tôi có thể cho trẻ tiếp xúc với vật thật trong sinh hoạt hàng ngày.
Ví dụ: Cho trẻ quan sát và tiếp xúc với cây táo, quả táo.
- Nói chuyện âu yếm, trò chuyện đàm thoại cùng với trẻ.

3.6. Tiến trình hoạt động.
9


- Để có một giờ dạy tốt trước hết phải rèn luyện cho trẻ nề nếp trong học
tập đó là cơ sở ban đầu hỗ trợ cho giờ dạy đạt kết quả cao. Trong lớp học tôi
chia ra từng tổ, trong mỗi tổ đều có các cháu có khả năng tiếp thu bài khác nhau:
Giỏi có, khá có, trung bình và yếu cũng có. Đối với những cháu khuyết tật như
khiếm thị, khiếm thính tôi sắp xếp cho trẻ ngồi ở gần cô, thuận lợi cho việc
nghe, nhìn của trẻ.
- Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 đến 36 tháng tuổi trong giờ kể chuyện
đạt kết quả cao tôi đã tiến hành như sau:
Hoạt động 1. Gây hứng thú cho trẻ.
- Bằng các thủ thuật: Câu đố, thơ, bài hát, bài vận động có nội dung thích
hợp tôi nhẹ nhàng gây hứng thú cho trẻ tập trung vào giờ kể chuyện.
Ví dụ: Trong giờ kể chuyện “Cây táo” tôi cho trẻ vận động bài “Cây cao –
cây thấp”
Hoạt động 2. Nội dung chính.
- Trong giờ kể chuyện tôi luôn luôn chú ý cho trẻ đọc và phát triển từ, chú ý
sửa sai cho trẻ khi trẻ đọc chưa đúng, khi đó theo tôi thì có thể thực hiện như sau:
+ Cô kể cho trẻ nghe toàn bộ câu chuyện lần 1 bằng cử chỉ, điệu bộ.
+ Sau đó cô kể cho trẻ nghe câu chuyện lần 2 bằng tranh minh hoạ.

Ví dụ: Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện “Cây táo” câu chuyện sẽ
hay hơn khi có tranh minh hoạ. Trong tranh có từ “Cây táo” các con đọc từ “Cây
táo” (Cả lớp đọc hai lần, sau đó hai trẻ đọc lại).
+ Cô sử dụng hệ thống câu hỏi mở để trẻ tư duy và trẻ lời được câu hỏi
của cô.
10



- Sau đó tôi giảng nội dung câu chuyện, giải thích các từ khó và cho trẻ
đọc các từ khó.
Ví dụ: Trong chuyện cây táo có từ “sưởi nắng”, “bật ra”, cô cho trẻ đọc
các từ này.
- Cuối cùng tôi kể cho trẻ cho trẻ nghe câu chuyện lần 3 bằng sa bàn.
Hoạt động 3. Kết thúc giờ học.
- Bằng nhiều cách khác nhau tôi cho trẻ kết thúc giờ học một cách nhẹ
nhàng thoải mái.
Ví dụ: - Kết thúc giờ học tôi cho trẻ tôi cho trẻ cùng hát bài “Đố quả” và
cho trẻ thăm vườn cây ăn quả.
- Trong các giờ kể chuyện tôi cho trẻ tự kể lại câu chuyệnDùng thủ thuật
câu đố, thủ thuật để gợi mở cho trẻ, để trẻ hướng vào bài sắp học
3.7. Biểu dương, tuyên truyền
Do vốn từ và cách diễn đạt của trẻ trong lớp không đồng đều, có những
trẻ hạn chế về ngôn ngữ như ngọng, diễn đạt còn hạn chế.
Đối với những trẻ ngọng: Tôi cho trẻ nhắc lại những từ khó phát âm.
Ví dụ: Trẻ thường phát âm ngọng chữ “l” và “n” tôi phát âm trước cho trẻ
phát âm sau và yêu cầu trẻ phát âm lại cho chuẩn. Ngoài các hoạt động học tôi
rèn cho trẻ phát âm đúng ở mọi lúc mọi nơi
Ví dụ: Trong giờ đón và trả trẻ tôi khi hay trò chuyện với trẻ nói ngọng
nhiều hơn và nhẹ nhàng cho trẻ nhắc lại những câu trẻ nói ngọng dưới hình thức
trò chuyện cùng cô.
Đối với trẻ diễn đạt còn hạn chế:
- Tôi trò chuyện, quan tâm nhiều hơn đến những trẻ còn hạn chế về ngôn
ngữ, tôi thường xuyên đặt câu hỏi ở trong hoạt động học và ở mọi lúc mọi nơi để
cho trẻ trả lời qua đó trẻ phát triển ngôn ngữ nhiều hơn cho trẻ.
Ví dụ: Trong hoạt động làm quen với văn học: Bài thơ: “Hoa nở”, tôi hỏi
trẻ bài thơ có tên là gì? Trong bài thơ có những hoa gì?....Nếu trẻ diễn đạt không
trọn vẹn câu thì tôi sẽ gợi ý giúp trẻ trả lời đầy đủ nội dung của câu.

Đối với những trẻ nhanh nhẹn diễn đạt tốt:
- Tôi sẽ đưa ra câu hỏi “Vì sao”; “Tại sao”... để phát triển tư duy cho trẻ
đồng thời phát triển ngôn ngữ cho trẻ khi trẻ trả lời câu hỏi của cô.
- Đối với những trẻ nhanh nhẹn diễn đạt tốt tôi cho trẻ tự kể lại câu
truyện mà trẻ đã được học, ở mọi lúc mọi nơi tôi cũng hay trò chuyện đàm thoại
với trẻ những câu hỏi đòi hỏi trẻ phải tư duy để phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt
hơn.
- Ví dụ: Sau khi học xong câu chuyện “Chiếc ô của thỏ trắng” đến cuối
bài tôi yêu cầu trẻ kể lại câu truyện từ đầu đến cuối, hoặc cho trẻ vừa kể vừa
diễn đạt bằng hành động…

11


Hình ảnh cô gọi trẻ nói ngọng lên trả lời
3.8. Khuyến khích bằng vật chất
Để nâng cao hoạt động phỏt triển ngụn ngữ cho trẻ và để có sự giáo dục
đồng bộ giữa gia đình và nhà trường là 1 việc làm hết sức cần thiết bởi tôi nhận
thấy rằng tất cả mọi khó khăn trong học tập không thể thiếu được vai trò giải
quyết khó khăn của phụ huynh. Vì vậy ngay từ đầu năm học để phụ huynh hiểu
thêm về hoạt động phỏt triển ngụn ngữ tôi đã tổ chức 1 số tiết học mẫu để giúp
phụ huynh có nhận thức sâu sắc hơn về hoạt động phỏt triển ngụn ngữ, đồng
thời tôi thường xuyên gặp gỡ trao đổi với các bậc phụ huynh về tầm quan trọng
của hoạt động phỏt triển ngụn ngữ của trẻ nói chung và đối với trẻ 24 – 36 tháng
tuổi nói riêng.
Giới thiệu cho phụ huynh xem những đồ dùng, đồ chơi cần thiết để phục
vụ hoạt động này. Từ đó phụ huynh sẽ thấy được vị trí quan trọng của từng hoạt
động đặc biệt là hoạt động phát triển ngôn ngữ. Cần có những đồ dùng đồ chơi
phục vụ việc dạy học cho trẻ để cho việc phát triển ngôn ngữ của trẻ được tốt
hơn.

Từ đó tôi kêu gọi phụ huynh hỗ trợ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương
để làm ra nhiều đồ dùng đồ chơi phục vụ cho chuyên đề và góp một phần kinh
phí để mua sắm thêm đồ dùng đồ chơi.
Tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh về việc học tập của từng trẻ. Đối với
những cháu yếu, ngoài việc học ở lớp, tôi còn tranh thủ nhờ phụ huynh giúp đỡ
thêm cho cháu ở nhà.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
4.1.Kết quả: Áp dụng những kinh nghiệm giảng dạy như trên đối với
môn kể chuyện. Qua các giờ học tôi thấy các cháu rất hứng thú, rất thích nghe
kể chuyện. Thông qua đó mà việc phát triển ngôn ngữ đạt hiệu quả cao.
Trong khi nghe kể chuyện, kể lại chuyện và trả lời các câu hỏi của cô.
Vốn từ của trẻ được tăng lên rất nhiều đồng thời trẻ biết sử dụng các loại câu
12


phong phú và đa dạng.
Sau khi áp dụng phương pháp mới này kết quả giảng dạy của tôi đã được
nâng lên rõ rệt, cụ thể như sau: Kết quả sau khi đánh giá.
Bảng phân loại trẻ thể hiện ngôn ngữ cuối năm
Thể hiện vốn từ,
Thể hiện vốn từ,
Thể hiện vốn từ,
cách diễn đạt ở
cách diễn đạt ở
cách diễn đạt tốt
mức độ khá,
mức hạn chế
thông qua hoạt
trung bình thông
Mức độ đánh giá

thông qua hoạt
động đọc kể tác
qua hoạt động
động đọc kể tác
phẩm văn học,
đọc kể tác phẩm
phẩm văn học,
nhận biết tập nói.
văn học, nhận
nhận biết tập nói.
biết tập nói.
Số lượng trẻ
19/39
16/39
4/39
Đạt %
48, 72%
41, 02%
10, 26%
Trên 85% trẻ nói trọn câu:
Ví dụ: Trẻ đọc thơ diễn cảm, kể chuyện lưu loát - Con mời cô ăn cơm, và
nói rõ ràng không nói ngọng, không nói lắp, có nhiều cháu trả lời lưu loát trọn ý,
trọn câu, các cháu đọc thơ đã hay hơn, các giờ âm nhạc cháu đã hát được đúng
giai điệu, rõ lời và nhịp nhàng.
Trong giao tiếp với cô trẻ đã trả lời rõ nghĩa, khi tham gia các trò chơi tập
thể trẻ trò chuyện với bạn rất vui Trẻ có yêu cầu gì trẻ đều thể hiện qua lời nói
rất rõ ràng. Tôi cảm thấy rất vui mừng và các bậc phụ huynh cũng tỏ ra hài lòng
và mến phục
Đặc biệt nổi bật lên có 30% số trẻ trong số các trẻ đạt loại khá có khả
năng ngôn ngữ rất tốt, hiểu được lời nói của mọi người, biết trả lời các câu hỏi,

biết kể lại các câu truyện đã được nghe. Vốn từ phong phú và dần dần hoàn
thiện theo độ tuổi.
4.2. Bài học kinh nghiệm.
- Muốn giúp trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua giờ kể
chuyện tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ để có biện pháp giáo dục
phù hợp. Vận dụng các biện pháp giáo dục mọi lúc, mọi nơi. Chú ý đến trẻ cá
biệt, luôn tạo ra niềm tin, sự hứng thú cho trẻ. Cần phát huy tính tích cực, thu
hút sự chú ý và tạo hứng thú cho trẻ bằng các thủ thuật như trò chơi, câu đố, thơ,
hát, hò, vè....
Đầu tư thời gian để nghiên cứu kĩ đề tài để có các phương pháp dạy học
cụ thể, phù hợp và đạt hiệu quả tốt nhất.
Trước khi thực hiện một đề tài phải chuẩn bị chu đáo đồ dùng trực quan
cũng như gợi mở kiến thức cho trẻ. Thông qua các hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi
nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Thường xuyên học hỏi, trao đổi với đồng nghiệp, học hỏi nâng cao trình
độ chuyên môm.
Áp dụng hình thức phải phù hợp, tạo được môi trường tốt giúp trẻ làm
quen với tác phẩm văn học nói chung và làm quen vời truyện kể nói riêng.
13


PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thông qua bộ môn làm quen
văn học thể loại truyện kể là sự tổng hợp toàn bộ nội dung rèn luyện ngôn ngữ
nói mạch lạc chứng tỏ ngôn ngữ của trẻ đạt yêu cầu cao về mặt biểu hiện âm
thanh, từ diễn đạt, câu đúng ngữ pháp cũng như sự mạnh dạn tin tưởng trong
giao tiếp. Đề tài nghiên cứu này sẽ làm cơ sở vững chắc cho việc học tập của trẻ
những năm tiếp theo.

+ Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng đề tài trong quá trình giảng dạy tôi
đã rút ra một số kết luận sau:
Trẻ độ tuổi 24 -36 tháng khi nghe kể chuyện rất mau quên, không ghi nhớ
lâu, nên tôi phải tìm hiểu và đưa ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ. Để trẻ ghi nhớ lâu hơn về câu chuyện và hiểu nội dung câu chuyện.
Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong giờ kể chuyện giáo viên cần đầu tư
về thời gian nghiên cứu để lựa chọ nội dung truyện kể hay, chuẩn bị được nhiều
đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn trẻ. Cô cần xác định được giọng kể phù hợp để
gây hứng thú cho trẻ nhiều, dạy trẻ kể đi kể lại nhiều lần giúp trẻ thực sự in dấu
trong lòng trẻ để đảm bảo cho trẻ được phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện
hơn.
Là một giáo viên mầm non, tôi luôn xác định rõ nhiệm vụ của mình,
không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môm, nghiệp vụ sư phạm để
nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ đạt kết quả cao, hình thành nhân
cách cho trẻ những chủ nhân tương lai của đất nước
2. Kiến nghị
Đề nghị Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với các cấp, các ngành,
lãnh đạo địa phương mua sắm trang thiết bị, đồ chơi ngoài trời cho trẻ. Xây
dụng trường chuẩn quốc gia giai đoạn I, để các cháu có điều kiện học tập và vui
chơi tốt hơn. Xây dựng khuôn viên có vườn hoa cây cảnh, vườn cây ăn qủa và
vườn cây của bé, xây vườn cổ tích để trẻ thích thú học tập vui chơi và trải
nghiệm cùng cô để giúp trẻ hoạt động đạt được kết quả tốt hơn.
Đề nghị với các cấp, các ngành và Nhà nước quan tâm hơn nữa đến vật
chất và tinh thần của cấp học mầm non nói chung và giáo viên mầm non nói
riêng để chúng tôi những giáo viên mầm non thực sự yên tâm công tác và cống
hiến nhiều hơn nữa cho sự nghiệp giáo dục của nước ta, xứng đáng với phương
châm: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Trên đây là một vài kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36
tháng thông qua giờ kể chuyện, trong quá trình thực hiện đề tài này chắc chán
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến các

thầy cô giáo, các nhà quản lý giáo dục để đề tài này của tôi được hoàn thiện hơn
và rút kinh nghiệm cho những lần sau và quá trình giảng dạy của bản thân sau
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
HẢI HƯNG ngày 18 tháng 03 năm 2018
Tôi xin cam đoan SKKN của mình viết
14


không sao chép nội dung của người khác
Người viết SKKN:
NGƯỜI DUYỆT SKKN
Hoàng Thị Thái

15



×