Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 69 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀ TĨNH

BÀI GIẢNG
CHUYÊNĐỀ
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI
(Tài liệu lưu hành nội bộ)

Ngành đào tạo: Sư phạm Giáo dục chính trị
Trình độ: Đại học

NGƯỜI BIÊN SOẠN: ThS. Trần Thị Kim Hiền

Năm học 2015 - 2016


Thông tin về người biên soạn
Họ và tên: Trần Thị Kim Hiền
Sinh năm: 1968
Trình độ: Thạc sỹ
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Hướng nghiên cứu chính: Những vẫn đề thuộc chuyên ngành KTCT


Chuyên đề 1
SỰ XUẤT HIỆN VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI
1.1. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản
1.1.1. Chủ nghĩa tư bản cổ điển
Chủ nghĩa tư bản cổ điển (tự do cạnh tranh) là một hình thái kinh tế - xã
hội phát triển cao của xã hội loài người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu, phôi thai


và phát triển từ trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác
lập như một hình thái kinh tế - xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 18. Sau
cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18 hình thái chính trị của nhà nước tư bản chủ
nghĩa dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà
nước của chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị - kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.
Dưới góc độ kinh tế, sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa là do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất: sự phát triển của sản xuất hàng hóa giản đơn dưới tác động của
quy luật giá trị. Trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn, tác động của quy luật giá
trị dẫ tới sự phát triển tự phát của lực lượng sản xuất. vì hàng hóa được mua bán
theo giá trị xã hội của nó, cho nên người sản xuất phải làm sao cho hao phí lao
động của mình đạt mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Những người sản xuất
hàng hóa sử dụng kỹ thuật cao hơn sẽ sản xuất hàng hóa với hao phí lao động ít
hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, những vẫn bán hàng hóa theo giá cả như
những người sản xuất khác, do đó họ làm giàu nhanh. Do sự tác động của quy
luật giá trị, do sự biến động của giá cả và cạnh tranh đã làm phân hóa những
người sản xuất hàng hóa thành hai lực lượng xã hội cơ bản là các nhà tư bản và
những người vô sản.
Thứ hai: Quá trình tích lũy ban đầu của tư bản
Đặc trưng của chủ nghĩa tư bản cổ điển là nhìn nhận quyền sở hữu tư nhân
và quyền tự do sản xuất và kinh doanh được xã hội bảo vệ về mặt luật pháp và
được coi như một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của con người. Quyền
tư hữu đối với phương tiện sản xuất là thiêng liêng được xã hội và pháp luật bảo
vệ, sự chuyển đổi quyền sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự được pháp luật
và xã hội quy định. Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng
sở hữu tư nhân để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu
lợi nhuận thông qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do: mọi sự
phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia
vào quá trình kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành thành phần kinh tế tư nhân
là thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể nói các

3


yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do, cạnh tranh,
động lực lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao động, định
hướng thị trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải (làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít) là các khái niệm gắn liền với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
cổ điển.
Các đặc điểm cơ bản của nền kinh tế tư bản cổ điển:
- Trong nền kinh tế tư bản, thành phần kinh tế tư nhân đóng vai trò năng
động, lực đẩy quyết định tính hiệu quả của nền kinh tế, còn thành phần kinh tế
nhà nước chủ yếu giúp giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo công ăn việc làm
cho lực lượng lao động, tránh gây xáo trộn lớn trong xã hội và để thúc đẩy kinh
doanh trong các ngành cần thiết nhưng khó sinh lời. Theo thời gian, giữa hai
thành phần này thỉnh thoảng lại có sự hiệu chỉnh bằng các quá trình tư nhân hoá
hoặc quốc hữu hoá doanh nghiệp thông qua việc bán và mua các cổ phần của
doanh nghiệp.
- Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là tự do kinh doanh, lấy công nghệ, máy
móc và “chất xám” làm phương tiện sản xuất chính và là nền kinh tế định hướng
sang công nghiệp, dịch vụ và thương mại. Sự định hướng này hoàn toàn do yếu
tố lợi nhuận và thị trường điều phối. Do phương tiện sản xuất là công nghệ và tri
thức nên nền sản xuất tư bản chủ nghĩa để có lợi nhuận tối đa luôn có xu hướng
hướng đến "nền sản xuất lớn" với sự tái đầu tư mở rộng và gắn liền với cách
mạng khoa học - công nghệ. Việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh
doanh là lợi ích sống còn của các chủ sở hữu doanh nghiệp trong cạnh tranh
giành lợi nhuận.
- Mua bán sức lao động (thị trường lao động): đây là đặc điểm rất nổi bật
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế phong kiến và các nền kinh
tế cấp thấp lực lượng nhân công (nông dân, nông nô) bị phụ thuộc vào chủ đất
(địa chủ, lãnh chúa) và quý tộc về mặt pháp lý, họ bị gắn chặt vào ruộng đất và ý

chí của chủ đất và quý tộc. Còn nhân công (người lao động) trong kinh tế tư bản
chủ nghĩa về mặt pháp lý là hoàn toàn bình đẳng với chủ sở hữu doanh nghiệp
(người thuê lao động). Giữa người thuê lao động và người lao động ràng buộc
kinh tế với nhau bằng hợp đồng lao động: người lao động và chủ doanh nghiệp
mua bán sức lao động theo các yếu tố của thị trường. Công nhân có thể thanh lý
hợp đồng lao động với người thuê lao động này và sang làm việc cho người thuê
lao động khác và nếu muốn, cùng với có khả năng hoặc may mắn thì cũng có thể
trở thành chủ doanh nghiệp. Cả xã hội là một thị trường lao động lớn và thường
thì cung ứng lao động nhiều hơn yêu cầu lao động do vậy trong xã hội tư bản
chủ nghĩa thường tồn tại nạn thất nghiệp và nguy cơ của nạn thất nghiệp đóng
vai trò kích thích người lao động nâng cao kỹ năng và kỷ luật lao động trong
cuộc chạy đua bảo vệ chỗ làm việc.
4


- Kinh tế thị trường và cạnh tranh: Vì nền kinh tế được điều hành bởi cá
nhân và các doanh nghiệp tư nhân định hướng đến quyền lợi cá nhân nên kinh
doanh trong kinh tế tư bản chủ nghĩa về cơ bản là tự định hướng, tự điều hành, tự
phát theo quy luật của thị trường tự do và quy luật cạnh tranh hay đó là nền kinh
tế thị trường.
Chủ nghĩa tư bản cổ điển kết thúc vào nửa cuối thế kỷ XIX, khi tích tụ và
tập trung sản xuất tư bản chủ nghĩa đạt đến mức cao làm hình thành các tổ chức
độc quyền, nhà nước tư bản độc quyền.
1.1.2. Chủ nghĩa tư bản độc quyền
1.1.2.1. Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền
Nguyên nhân chuyển từ chủ nghĩa tư bản cổ điển sang chủ nghĩa tư bản độc
quyền: Tích tụ và tập trung sản xuất dẫn đến sự ra đời các xí nghiệp tư bản có
quy mô lớn mang tính độc quyền
Có 6 nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tích tụ và tập trung sản xuất :
Do sự phát triển của LLSX

Do sự xuất hiện những thành tựu khoa học mới
Do tác động của các quy luật kinh tế
Do cạnh tranh
Do khủng hoảng kinh tế
Do sự phát triển của hệ thống tín dụng
1.1.2.2. Các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
Xuất khẩu tư bản
Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền
Sự phân chia thế giới về lãnh thổ thế giới giữa các cường quốc đế quốc
1.2. Chủ nghĩa tư bản hiện đại
1.2.1. Sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản hiện đại
Chủ nghĩa tư bản ngày nay (hay chủ nghĩa tư bản hiện đại) là một nấc
thang trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, nhất là vào những năm cuối
thế kỷ XX, trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã diễn ra một cách sâu
rộng cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Việc ứng dụng những thành tựu
của cách mạng khoa học và công nghệ đã làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa có sự biến đổi để thích ứng. Từ đó làm nảy sinh những biểu hiện mới,
đồng thời làm cho mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng thêm gay gắt,
chủ nghĩa tư bản đạt đến trình độ chủ nghĩa tư bản hiện đại.

5


1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại
1.2.2.1. Tập trung sản xuất và hình thức độc quyển mới: sự xuất hiện những
công ty độc quyển xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và
nhỏ

Hiện tượng liên kết đa dạng tiếp tục phát triển, sức mạnh của các consơn
(concem) và cônglômêrát (conglomerat) ngày càng được tăng cường. Nhưng do
tác động của các đạo luật chống độc quyền hay luật chống hạn chế cạnh tranh đã
làm xuất hiện phổ biến các hình thức tổ chức độc quyền lớn hơn, cao hơn: hình
thức ôlygôpôly (oligopoly - độc quyền của một vài công ty) hay pôlypôly
(polypoly - độc quyền của một số khá nhiều công ty trong mỗi ngành). Cách
mạng khoa học và công nghệ dường như biểu lộ thành hai xu hướng đối lập
nhau nhưng thực ra là thống nhất với nhau: xu hướng tập trung và xu hướng phi
tập trung hóa.
Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do:
Thứ nhất, việc ứng dụng các thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ
cho phép tiêu chuẩn hóa và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu rộng, dẫn tới
hình thành hệ thống gia công, nhất là trong những ngành sản xuất ô tô, máy bay, đồ
điện, cơ khí, dệt, may mặc, đồ trang sức, xây dựng nhà ở. Nhìn bề ngoài, dường
như đó là hiện tượng “phi tập trung hóa”, nhưng thực chất đó chỉ là một biểu hiện
mới của sự tập trung sản xuất, trọng đó các hãng vừa và nhỏ lệ thuộc và chịu sự chi
phối của các chủ hãng lớn về công nghệ, vốn, thị trường, v.v..
Thứ hai, những ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơ chế thị
trường.
Những doanh nghiệp vừa và nhỏ nhạy cảm với thay đổi trong sản xuất,
linh hoạt ứng phó với tình hình biến động của thị trường, mạnh dạn trong việc
đầu tư vào những ngành mới đòi hỏi sự mạo hiểm, kể cả những ngành lúc đầu ít
lợi nhuận và những ngành sản phẩm đáp ứng nhu cầu cá biệt. Các doanh nghiệp
nhỏ dễ dàng đổi mới trang bị kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí bổ sung.
1.2.2.2. Sự thay đổi trong các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản
tài chính
Thích ứng với sự biến đổi mới, hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của
tư bản tải chính đã thay đổi. Sự thay đổi diễn ra ngay trong quá trình liên kết và
thâm nhập vào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp. Ngày nay,
phạm vi liên kết được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập đoàn tài chính

thường tồn tại dưới hình thức những tổ hợp đa dạng kiểu công - nông - thương tín - dịch vụ hay công nghiệp - quân sự - dịch vụ quốc phòng. Nội dung của sự
liên kết cũng đa dạng hơn, tinh vi hơn, phức tạp hơn. Vai trò kinh tế và chính trị
của tư bản tài chính ngày càng lớn, không chỉ trong khuôn khổ quốc gia mà còn
ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nước khác trên thế giới. Trùm tài chính không chỉ
6


tăng cường địa vị thống trị về kinh tế mà còn tăng cường sự khống chế và lợi
dụng chính quyền nhà nước. Trong chính phủ, họ có nhiều người đại diện hơn,
hơn nữa việc tự mình đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong chính phủ của
các đại diện tổ chức độc quyền ngày càng phổ biến.
Để bành trướng ra thế giới và thích ứng với quá trình quốc tế hóa đời sống
kinh tế, các tập đoàn tư bản tài chính đã thành lập các ngân hàng đa quốc gia và
xuyên quốc gia, tạo điều kiện cho các công ty xuyên quốc gia thâm nhập vào các
nước khác, đặc biệt là Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
Hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế đã dẫn đến sự ra đời các trung tâm
tài chính của thế giới như: Nhật Bản, Mỹ, Cộng hòa Liên bang Đức, Hồng
Kông, Xingapo...
1.2.2.3. Xuất khẩu tư bản vẫn là cơ sở của độc quyển quốc tế sau chiến
tranh, nhưng quy mô, chiều hướng và kết cấu của việc xuất khẩu tư bản đã có bước
phát triển mới
Sau chiến tranh, việc xuất khẩu tư bản của các nước tư bản phát triển có
sự tăng trưởng rất nhanh. Nguyên nhân của quy mô xuất khẩu tư bản ngày càng
lớn, một mặt, là do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới đã thúc đẩy sự
phát triển của việc phân công quốc tế, việc quốc tế hóa sản xuất và việc tăng
nhanh tư bản “dư thừa” trong các nước; mặt khác là do sự tan rã của hệ thông
thuộc địa cũ sau chiến tranh.
Chiều hướng xuất khẩu tư bản cũng có những thay đổi rõ rệt. Trước kia,
luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển sang các
nước kém phát triển (khoảng 70%). Nhưng từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai,

đặc biệt sau những năm 70 của thế kỷ XX, 3/4 tư bản xuất khẩu được đầu tư vào
các nước phát triển, mở đầu bằng việc tư bản quay trở lại Tây Âu.
Từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX, đại bộ phận dòng tư bản lại chảy
qua chảy lại giữa các nước tư bản chủ nghĩa phát triển với nhau. Nguyên nhân
chủ yếu của sự chuyển hướng đầu tư nói trên là do:
- Về phía các nước đang phát triển, phần lớn những nước này ở trong tình
hình chính trị thiếu ổn định; thiếu môi trường đầu tư an toàn và thuận lợi; thiếu
đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học - kỹ thuật, công nhân lành nghề; trình độ
dân trí thấp và tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân ít, không đủ mức cần thiết
để tiếp nhận đầu tư nước ngoài.
- Về phía các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất và dịch vụ mới, nhất là những
ngành có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao, đòi hỏi lượng vốn lớn để đầu tư
vào nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và sản xuất. Có một sự di chuyển vốn trong
nội bộ các công ty độc quyền xuyên quốc gia. Các công ty này đặt chi nhánh ở
nhiều nước, nhưng phần lớn chi nhánh của chúng đặt ở các nước tư bản chủ
7


nghĩa phát triển. Để vượt qua những hàng rào bảo hộ mậu dịch và khắc phục
những trở ngại do việc hình thành các khối liên kết như EU, NAFTA, v.v., các
công ty xuyên quốc gia đã đưa tư bản vào trong các khối đó để phát triển sản
xuất.
Tuy nhiên, một loạt công ty ở các nước Anh, Pháp, Hà Lan... đã vượt qua
cả lệnh cấm vận của Mỹ để đầu tư vào các nước đang phát triển. Chẳng hạn họ
đầu tư thăm dò và khai thác dầu khí ở Việt Nam - đó là bằng chứng rõ rệt chứng
minh cho xu hướng trên, sở dĩ như vậy là vì tình trạng thiếu dầu khí và những
kim loại quý hiếm vẫn đang là “gót chân Asin” của nền kinh tế các nước tư bản
chủ nghĩa phát triển, trong khi đó các nước đang phát triển giàu tài nguyên lại
thiếu vốn và kỹ thuật để khai thác, và nguồn lợi cao từ lĩnh vực nây đối với cả

hai phía.

1.2.2.4. Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của chủ nghĩa tư bản: xu
hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực hóa
nền kinh tế
Sức mạnh và phạm vi bành trướng của các công ty độc quyền xuyên quốc
gia tăng lên càng thúc đẩy xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế và sự phân
chia phạm vi ảnh hưởng giữa chúng với nhau, đồng thời thúc đẩy việc hình
thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước quốc tế.
Cùng với xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đời sống kinh tế lại diễn ra
hiện tượng khu vực hóa, hình thành ngày càng nhiều liên minh kinh tế khu vực
như: Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Tổ
chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC)... Ngày càng có nhiều
nước tham gia vào các Liên minh Mậu dịch tự do (FTA) hoặc các Liên minh
Thuế quan (CU). FTA là khu vực trong đó các nước thành viên cam kết xóa bỏ
hàng rào thuế quan đối với hàng hóa của nhau. CU là liên minh trong đó các nước
thành viên có mức thuế chung đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước ngoài
khối. Theo thống kê của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), 109 khối liên kết
khu vực đã ra đời trong khoảng thời gian từ năm 1948 đến cuối năm 1994, gần
1/3 trong số này xuất hiện vào những năm 1990-1994. Các liên minh kinh tế khu
vực hấp dẫn nhiều chính phủ vì chúng có nhiều ưu thế hơn so với tiến trình tự do
hóa thương mại toàn Cầu.
1.2.2.5. Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những
hình thúc cạnh tranh và thống trị mới
Tuy chủ nghĩa thực dân cũ đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực dân mới
đã suy yếu, nhưng các cường quốc tư bản chủ nghĩa, khi ngấm ngầm, lúc công
khai, vẫn tranh giành nhau phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện “Chiến lược
biên giới mềm”, ra sức bành trướng “biên giới kinh tế'” rộng hơn biên giới địa

8



lý, ràng buộc, chi phối các nước kém phát triển từ sự lệ thuộc về vốn, công nghệ
đi đến sự lệ thuộc về chính trị vào các cường quốc.
Chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng
lại được thay thế bằng những cuộc chiến tranh khu vực, chiến tranh thương mại,
những cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng trong hoặc núp sau các cuộc
đụng độ đó là các cường quốc đế quốc.
Tóm lại, dù có những biểu hiện mới, chủ nghĩa tư bản đương đại vẫn là
chủ nghĩa tư bản độc quyền. Những biểu hiện mới đó chỉ là sự phát triển của
năm đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền mà V.I.Lênin đã chỉ ra từ
những năm đầu thê kỷ XX.
1.3. Những tiềm năng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại
1.3.1. Sư biểu hiện của những tiềm năng
Tiềm năng của chủ nghĩa tư bản được biểu hiện trên nhiều phương diện:
kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, song có thể khái quát thành
những nét lớn chủ yếu về kinh tế - xã hội như sau:
- Chủ nghĩa tư bản bước đầu đã xây dựng được một cơ sở vật chất - kỹ
thuật. Đó là cơ sở vật chất - kỹ thuật dựa trên những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ mới. Tuy nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật mới đó
mới bước đầu phát huy tác dụng ở một số trung tâm tư bản chủ nghĩa và trong
một số ngành nhất định, đặc biệt là vai trò của chùm công nghệ cao, như điện tử,
tin học, vật liệu mới, công nghệ sinh học.
- Tin học hoá đang được đẩy mạnh và trở thành một bộ phận của cuộc
sống hàng ngày, tri thức được mở mang và lan truyền nhanh chóng tạo ra sự liên
kết giữa các quốc gia, công ty, các vùng lãnh thổ. Tin học hoá đã tạo ra một nền
kinh tế sử dụng lao động linh hoạt, hàng loạt chức năng mới xuất hiện, trong đó
vai trò của nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực ngày càng quyết định năng
lực cạnh tranh của xí nghiệp. Công nghệ thông tin đã làm đảo lộn tổ chức lao
động theo hướng phi tập trung hoá và phát triển mạnh mẽ khu vực III (dịch vụ)

sẽ mở ra khả năng nhất định trong giải quyết việc làm vì xuất hiện nhiều ngành
mới (chẳng hạn, đến hết năm 2000 Nhật Bản cần 1triệu nhân viên phần mềm
máy tính điện tử, trong khi đó năm 1995 Tây Âu đã cần đến 1triệu nhân viên lập
trình máy tính). Thị trường được mở rộng theo chiều sâu vói việc thực hiện cá
tính hoá tiêu dùng và xuất hiện nhiều loại thị trường mới, như thị trường phần
mềm tin học, thị trường công nghệ sinh học với doanh số hàng chục tỷ đôla Mỹ.
Riêng năm 1980, các công ty của Mỹ đã thu được 60 tỷ USD do buôn bán bí
quyết kỹ thuật (Know - how), dịch vụ tư vấn quản lý. Yếu tố tin học - thông tin
không những đã đem lại nhiều ngành nghề mới mà còn làm hồi sinh một số ngành
nghề truyền thống. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng việc tạo chỗ làm việc mới không
có nghĩa là giải quyết được vấn đề thất nghiệp, vì còn phụ thuộc vào việc đào tạo và
9


đào tạo lại để thích nghi vối nghề mới. Đồng thời cũng xuất hiện những nguy cơ
trầm trọng hơn về thất nghiệp do tự động hoá sản xuất một cách phổ biến hơn. Với
bước tiến của cuộc cách mạng thông tin, những công nghệ liên quan đến vệ tinh, vi
mạch và trí tuệ nhân loại đang tạo ra những thay đổi trong nền tài chính. Đến lượt nó
nền tài chính lại phục vụ sản xuất có hiệu quả.
Trong tương lai, cơ sở vật chất - kỹ thuật vẫn tiếp tục phát huy tác dụng,
tạo tiền đề vật chất đưa chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn mới mà nhiều nhà
kinh tế phương Tây gọi là giai đoạn "hậu tư bản" với vai trò nổi bật của tri thức
trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên xã hội đó không phải hoàn
toàn chỉ có "màu hồng" như họ đã mô tả, mà trái lại vẫn tồn tại đầy rẫy những
mâu thuẫn và giới hạn, song một điều chắc chắn là năng suất lao động sẽ được
nâng cao, nền kinh tế sẽ có bước tăng trưởng mạnh mẽ hơn, cùng với sự đổi mới
về cơ cấu tổ chức kinh tế - xã hội phù hợp với sự nhảy vọt của lực lượng sản
xuất. Như chúng ta đã biết, theo tính toán của các nhà kinh tế, năng suất lao
động tăng lên là đòn bẩy mạnh mẽ đối với sự tăng trưởng kinh tế, nó quyết định
tối 60% mức tăng trưởng đó.

Hiện tại, ở các nước tư bản phát triển, tỷ trọng của các ngành nông
nghiệp, công nghiệp giảm tương đối, còn tỷ trọng của các ngành dịch vụ tăng
lên tương đốì. Chẳng hạn, năm 1960, tỷ trọng của các ngành nông nghiệp trong
GDP của các nước tư bản chủ nghĩa chiếm 6,4%, đến năm 1990 giảm đi còn
2,7%. Trong các ngành công nghiệp truyền thống, sự thay đổi tương ứng là
30,4% và 23,1%, trong đó ngành công nghiệp khai thác tài nguyên hiện tại giảm
từ 2,7% xuống 1%. Trong khi đó ngành dịch vụ tăng từ 52,2% lên 65%. Cũng
cần nhấn mạnh rằng, tuy tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP giảm cùng số
lao động nông nghiệp, song sản xuất nông nghiệp vẫn tăng lên mạnh mẽ. Trong
các năm 1950 - 1990, năng suất lao động nông nghiệp tăng lên 4,5 lần (Mỹ tăng
2,8 lần, Nhật: 4,9 lần, Italia: 6,7 lần, Cộng hoà liên bang Đức: 6,1 lần và Pháp:
6,2 lần). Trong khu vực công nghiệp nói chung tỷ trọng giảm tương đốĩ, song
các ngành công nghiệp vũ trụ, điện tử, vi điện tử, khai thác đại dương, công
nghệ sinh học vật liệu mới lại tiếp tục tăng lên.
Cùng với sự biến đổi của cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm cũng có sự thay
đổi tương ứng, trong đó tỷ trọng cũng như vai trò của các sản phẩm có hàm
lượng khoa học kỹ thuật cao ngày càng tăng lên, kéo theo sự thay đổi cơ cấu lao
động, nghề nghiệp, cơ cấu xuất nhập khẩu...
- Chính nhờ cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế mới, cơ chế
tổ chức quản lý được đổi mới mà năng suất lao động của các nước tư bản chủ
nghĩa cao hơn hẳn các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển khác,
tạo ra một khối lượng của cải đồ sộ. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản đã đạt được những
bước tiến trong việc tạm thời kìm giữ những mâu thuẫn kinh tế - xã hội ở một
10


giới hạn nhất định, nâng cao khả năng thoả mãn nhu cầu đời sống vật chất, hạn
chế sự bùng nổ xã hội. Điều đó tạo được môi trường cho sự phát triển. Chẳng
hạn:
Về tốc độ tăng trưởng của G7: trung bình trong 10 năm 1981 - 1990 là

2,9%, năm 1998: 2,2%, năm 1999: 2,6% và năm 2000: 2,4%.
Về chỉ số tăng năng suất lao động: chỉ số tăng năng suất lao động hàng
năm tương đối ổn định và có xu hưổng tăng lên. Ví dụ, đối vói các nước tư bản
nói chung, bình quân giai đoạn 1977 - 1986 mức tăng là 2,8%, năm 1990,
1991đạt 2%, năm 1993 là 2,6%, năm 1994 tăng lên 5,3%, năm 1995: 5,0%, năm
1996: 4,8% và năm 1997: 5,1%. Vói các nước G7 tỷ lệ tương ứng là 2,5%, 2%,
2,4% và 5,4%; còn các nước EƯ (với 15 thành viên) tỷ lệ tương ứng là 3,7%,
1,9%, 2,7%, 2,4% và 5,4%.
Về chỉ số giá cả hàng hoá dịch vụ: dao động trong khoảng 1% - 47%.
Về chỉ số lạm phát: ở giới hạn 1% - 4%: năm 1991: 4,5%, năm 1999:
1,2%, năm 2000: 1,7%.
Về xuất nhập khẩu: tăng ở mức trung bình. Ví dụ, xuất khẩu của các nưốc G7
trong 10 năm 1981 - 1990: 5,3%, trung bình tăng 5,3%, năm 1994 tăng 8,7%, năm
2000 tăng 6,2%. Đốĩ với nhập khẩu ở toàn bộ các nước tư bản chủ nghĩa, tỷ lệ này
dao động trong khoảng 1% - 9% (giai đoạn 1981 - 1990 trung bình 5,7%, năm 1994:
9,7%, năm 1995: 8,9%, năm 1999: 5,9% và năm 2000: 5,9%).
Về tỷ lệ tiết kiệm: đạt mức cao. Các nước tư bản phát triển: năm 1996:
23,2%, năm 1999: 22,6%, năm 2000 đạt 22,5% GDP.
Các chỉ số trên nói lên rằng ngoại trừ một số nền kinh tế có sự tác động
của khủng hoảng toàn cầu làm tốc độ tăng trưởng GDP của một số nước ở trạng
thái âm (ví dụ: Mỹ 0,6%, Canađa 1,8% vào năm 1991 và Nhật Bản 0,7%, Pháp
1,5%, Đức 1,2% vào năm 1993) còn lại sự tăng trưởng ở mức bình thường, các
chỉ số khác biến đổi ở mức có thể chấp nhận và so với nhiều nước đang phát
triển (trừ NIEs) thì các chỉ số đó thể hiện sự hơn hẳn về tiến bộ kinh tế. Đồng
thời đốì vói các nước tư bản khác trong tương lai các chỉ số này có thể sẽ còn
cao hơn khi cơ sở vật chất - kỹ thuật mới về chất phát huy tác dụng. Trên cơ sở
đó khốĩ lượng của cải vật chất mà chủ nghĩa tư bản tạo ra và kiểm soát sẽ còn
lớn hơn. Theo thống kê của quốc tế, tổng sản phẩm hàng năm của thế giói trong
thập kỷ 90 vào khoảng 30 tỷ USD, riêng G7 chiếm 11,7% dân sô" thế giới song
chiếm gần 1/2 tổng sản phẩm, phần còn lại của thế giới gồm trên 190 nước chia

nhau 1/2 tổng sản phẩm thế giới.
Đồng thời, theo dự báo, tỷ trọng đó khó có thể thay đổi theo chiều hướng
có lợi cho các nước đang phát triển.
Qua sự phân tích trên có thể khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại
vẫn còn tiềm năng để phát triển và tiếp tục thích nghi với điều kiện lịch sử mới
11


của thời đại.
Trong điều kiện quá trình toàn cầu hoá được thúc đẩy, mọi bộ phận cấu
thành nền kinh tế toàn cầu đều tác động lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ thì chính
sự thích nghi của chủ nghĩa tư bản sẽ có tác động thúc đẩy sự phát triển của hệ
thống, đồng thòi ngày càng tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật đầy đủ hơn cho sự
hình thành xã hội mới phi tư bản chủ nghĩa. Song cũng chính sự thích nghi đó
lại đặt ra những vấn đề mới cho cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
1.3.2. Nguyên nhân của việc khai thác được những tiềm năng
dưới chủ nghĩa tư bản hiện đại
Một là, chủ nghĩa tư bản đã chiếm lĩnh được những vị trí then chốt của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, áp dụng những thành tựu mớii nhất của
cuộc cách mạng đó vào sản xuất. Do đó, đã đẩy nhanh năng suất lao động, nâng
cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và tăng sức cạnh tranh. Chủ nghĩa tư bản
đã giành được ưu thế trong việc sử dụng "đôi đũa thần" khoa học - công nghệ
để tạo ra một khối lượng của cải vật chất đồ sộ. Vì vậy nó có điều kiện để tăng
thêm lợi nhuận và trích ra một tỷ lệ nhỏ mua chuộc một bộ phận trong giai cấp
công nhân, đồng thời làm dịu mâu thuẫn giai cấp xã hội...
Hai là, chủ nghĩa tư bản đã có một bề dày kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị
trường, sử dụng những mặt tích cực do kinh tế thị trường đem lại, vì bản thân nền
kinh tế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có hiệu quả cao nhất.
Ba là, vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà

nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Sự điều tiết này đã tạm thời làm dịu những
mâu thuẫn, vốn có trong xã hội tư bản, định hướng cho sự phát triển kinh tế thị
trường, phát triển khoa học - công nghệ... không chỉ trong từng quốc gia mà còn
có sự phối hợp trên phạm vi quốc tế.
Bốn là, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá kinh tế đã tạo cho các nước
tư bản những nguồn lực bên ngoài rất có ý nghĩa và chủ nghĩa tư bản đã biết
khai thác lợi thế này một cách có hiệu quả. Trong các nguồn lực đó, các nước
đang phát triển đóng vai trò quan trọng. Chính sự lạc hậu của các nước này đã
tạo điều kiện khách quan giúp cho chủ nghĩa tư bản có thể nhanh chóng thực
hiện cơ cấu lại nền sản xuất xã hội phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ... Việc thiết lập hệ thống ngoại vi đã giúp cho các trung
tâm tư bản chủ nghĩa quốc tế có điều kiện trút bỏ những thiết bị, công nghệ,
thậm chí cả những ngành lạc hậu để tập trung vào những công nghệ tiên tiến,
những ngành mũi nhọn, đồng thời lại cứu vãn được cả tư bản đã hao mòn vô
hình, ở đây vai trò của các công ty xuyên quốc gia hết sức quan trọng. Chính
các công ty này là nguồn thúc đẩy quá trình quốc tế hóa sản xuất và lưu thông,
đồng thời thực hiện sự chuyển dịch tư bản và các mâu thuẫn từ trung tâm ra
12


vùng ngoại vi giúp cho các trung tâm của chủ nghĩa tư bản có điều kiện phát
triển.
Năm là, sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
cũng như sự khủng hoảng của hệ thông các nước xã hội chủ nghĩa nói chung đã
tạm thời làm suy yếu lực lượng cách mạng, có lợi cho chủ nghĩa tư bản trong
việc tập trung hơn vào phát triển kinh tế.
1.4. Mâu thuẫn cơ bản và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản
hiện đại
1.4.1. Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại
Trong thời đại ngày nay, trưóc sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản

xuất, dưối tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, quan hệ sản
xuất đã có sự thay đổi về chất. Vì vậy, mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản tức
là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cũng có sự thay đổi
và có nhiều biểu hiện mới. Đó là:
1.4.1.1. Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động
Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động trong từng quốc gia tư bản chủ nghĩa
vẫn tồn tại, đôi khi gay gắt ở nước này hay nưốc khác, thời kỳ này thời kỳ khác
song thậm chí đôi khi lại dịu đi. Nguyên nhân của sự dịu đi đó là do chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước đã sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ vào điều tiết kinh tế. Đồng thời với sự bành trướng của
các công ty xuyên quốc gia, chủ nghĩa tư bản đã khai thác được những tiềm
năng quốc tế một cách có hiệu quả phục vụ cho việc phát triển trong nước, nhân
nhượng một phần có giới hạn lợi ích đổì vối người lao động. Mặt khác, thông
qua các công ty xuyên quốc gia những mâu thuẫn trong từng quốc gia tư bản
chủ nghĩa cũng được điều chỉnh và dịch chuyển ra ngoài biên giới từng nước.
Thêm vào đó là sự lũng đoạn của chủ nghĩa cơ hội nên thực tế một bộ phận giai
cấp công nhân ở các nước tư bản đã tư sản hoá, một số tổ chức công đoàn bị
giai cấp tư sản mua chuộc. Tình hình đó dường như lặp lại sự kiện diễn ra hồi
đầu thế kỷ mà Ph.Ảngghen đã mô tả trong bức thư gửi cho C.Mác mà V.I.Lênin
đã trích dẫn: "Thực tế thì giai cấp vô sản Anh ngày càng tư sản hoá, và như vậy
chắc là dân tộc Anh, một dân tộc có tính chất tư sản hơn tất cả các dân tộc khác,
cuối cùng muốn đi đến chỗ có ở bên cạnh giai cấp tư sản của nó một tầng lớp
quý tộc tư sản và một giai cấp vô sản tư sản hoá".
Như vậy, có nguyên nhân bên trong và bên ngoài, chủ quan và khách quan
đã tác động tối mổĩ quan hệ giữa tư bản và lao động, làm cho mâu thuẫn diễn biến
khá phức tạp đòi hỏi phải phân tích sâu sắc mới thấy hết được bản chất của nó.
1.4.1.2. Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước
đang phát triển tổn tại và phát triển dưới hình thức mới
Những năm sau chiến tranh, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và
13



các nước đang phát triển là mâu thuẫn đối kháng, mang tính chất gay gắt giữa
những nước thống trị, bóc lột và những nước bị trị, lệ thuộc. Trước sự xâm lược
của chủ nghĩa thực dân, giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước thuộc
địa buộc phải đứng lên tự bảo vệ nền độc lập của mình chống lại thế lực của chủ
nghĩa đế quốc cấu kết với bọn phản động trong nưốc. Ngày nay do điều kiện
lịch sử đã thay đổi, chiến tranh lạnh đã kết thúc, lực lượng sản xuất đã đạt trình
độ quốc tế hoá cao, quá trình toàn cầu hoá được thúc đẩy mạnh mẽ. Tuy còn đấu
tranh, song xu hướng hoà bình hợp tác để phát triển đã trở thành xu thế của thời
đại và trở thành mục tiêu chung của cả nhân loại. Vì vậy, mâu thuẫn giữa các
nước đang phát triển và các nước tư bản phát triển về thực chất vẫn là mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản và lao động trên phạm vi quốc tế. Song, hình thức
cuộc đấu tranh đó đã có sự biến đổi và thông thường được biểu hiện tập trung ở
kinh tế, với việc sử dụng sự hợp tác quốc tế, tăng cường củng cố hoà bình và
tranh thủ điều kiện hoà bình để phát triển. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng chủ
nghĩa thực dân vẫn tồn tại dưới hình thức mới, mối quan hệ giữa các nước tư
bản phát triển và các nước đang phát triển là mối quan hệ không bình đẳng, các
nước đang phát triển ở vào thế yếu về kinh tế. Tuy có sự phụ thuộc lẫn nhau
trong quan hệ, nhưng về thực chất vẫn còn là sự phụ thuộc một chiều. Vì vậy,
hợp tác phải trên cơ sở đấu tranh để đảm bảo lợi ích chính đáng. Các nước đang
phát triển đã và đang đoàn kết sử dụng điểm mạnh của mình, đấu tranh để có
được trật tự quốc tế mới trong mốì quan hệ này. Điều đó đã được thể hiện trong
Nghị quyết của Hội nghị các nước trong phong trào không liên kết họp ở Bali
tháng 5-1992. Song, những năm gần đây trên thực tế đã có sự phân hoá khá
mạnh. Một mặt, do bản thân các nước đang phát triển có cách nhìn nhận và
đánh giá khác nhau, mặt khác có bàn tay phá hoại của các thế lực phản động
quốc tế nhằm chia rẽ phong trào. Do vậy, phong trào đấu tranh đòi quyền lợi và
vị trí xứng đáng trong trật tự kinh tế quốc tế đã và đang gặp những khó khăn.
1.4.1.3. Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa (thực chất là

mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản quốc tế với nhau)
Mâu thuẫn này đã trải qua hai giai đoạn: sau chiến tranh thế giới, trước sự
lớn mạnh của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thế giới thứ ba và sự
lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa các nưóc tư bản phát
triển cũng dịu đi để tập trung đối phó với phong trào cách mạng trên thế giới.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mâu thuẫn đó có chiều hướng diễn biến
phức tạp. Một mặt, với sự phát triển của xu hướng toàn cầu hoá, các nước phát
triển cũng buộc phải liên kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Nhưng mặt
khác do tác động của quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, các
nước này lại cạnh tranh và đấu tranh vối nhau để giành quyền lực, đặc biệt là
14


cuộc đấu tranh giữa các trung tâm tư bản chủ nghĩa Mỹ, Nhật, Tây Âu.
Việc phân tích sự phát triển không đều của các trung tâm tư bản chủ
nghĩa trong đặc trưng thứ 5 của chủ nghĩa tư bản đương đại cho thấy điểm nổi
bật là từ chỗ Mỹ có ưu thế tuyệt đối về kinh tế (và cả quân sự), khoa học - công
nghệ trên thế giói, đến nay nhiều lĩnh vực đã bị Nhật Bản và Tây Âu đuổi kịp,
làm cho vị trí của Mỹ suy giảm tương đốỉ.
Cũng như Nhật Bản, Tây Âu với quá trình nhất thể hoá đã tăng cường sức
mạnh và trong tương lai khi trở thành một liên minh với số thành viên không phải
là 15 như hiện nay mà sẽ còn nhiều hơn nữa thì vai trò của nó sẽ tăng lên. Hiện nay
Tây Âu đã đuổi kịp và vượt Mỹ về một sô" chỉ tiêu kinh tế, như tốc độ tăng GDP,
khối lượng thương mại, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư, và khả năng công nghệ.
Có thể nói, cho đến nay, mặc dù Mỹ vẫn là cường quốc kinh tế có vai trò
lớn nhất trong việc kiểm soát nền kinh tế thế giới, song với sự lớn mạnh của
Nhật Bản (mặc dù bị hạn chế qua hậu quả của khủng hoảng tài chính 1997), Tây
Âu (và cả NICs) thì vai trò của Mỹ sẽ bị suy giảm tương đốì. Tình hình đó đã và
đang dẫn đến mâu thuẫn giữa các trung tâm này ngày càng tăng lên.
Tuy nhiên cần khẳng định rằng trong thời đại ngày nay khi lực lượng tiến

bộ, yêu chuộng hoà bình đã lớn mạnh, hoà bình, hợp tác và phát triển đã trở
thành xu hướng cơ bản, đồng thời là nguyện vọng của nhân loại thì mặc dù mâu
thuẫn giữa các nước tư bản còn tồn tại nhưng phương thức giải quyết mâu thuẫn
sẽ không thể tuỳ tiện và càng không thể coi việc sử dụng chiến tranh vũ trang là
phương thức giải quyết duy nhất như đã xảy ra trong lịch sử.
Thực tế là mâu thuẫn giữa các nước tư bản, nhất là giữa các trung tâm tư
bản thế giới được biểu hiện tập trung trên lĩnh vực kinh tế và lôi cuổn nhiều
nước vào vòng xoáy đó. Do vậy, chiến tranh kinh tế ngày càng trở nên ác liệt và
biểu hiện dưới nhiều hình thức, song trước hết ở cuộc cạnh tranh giữa các công
ty tư bản, đặc biệt là giữa các công ty xuyên quốc gia để giành giật thị trường.
Bằng hệ thông chi nhánh trải rộng, các công ty này đã tăng cường thâm nhập lẫn
nhau và thâm nhập vào nền kinh tế của các nước đang phát triển, thực hiện cạnh
tranh trên nhiều phương diện: thị trường đầu tư, thị trường chứng khoán, thị
trường hàng hoá, dịch vụ. Trong đó không loại trừ những biện pháp liên kết
song phương, đa phương để tăng cường cạnh tranh vói những đốì thủ mạnh hơn.
Vì vậy đã hình thành thế liên kết tiểu khu vực và khu vực tạo ra những tiền đề
cho quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới.
1.4.1.4.Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trong phạm vi toàn thế giới, mặc dù chủ nghĩa xã hội lâm vào
15


khủng hoảng, song có thể nói đó chỉ là một sự trả giá cho việc nhận thức giáo
điều, máy móc chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều này hoàn toàn không phải là những
bằng chứng về những sai lầm của học thuyết Mác - Lênin và sự bế tắc của con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội như một số người lầm tưởng hoặc có ý đồ xấu, lợi
dụng cơ hội phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin, một cách không có cơ sở khoa
học.
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản hiện đang diễn biến

phức tạp. Chủ nghĩa tư bản tìm mọi cách chống phá hòng thủ tiêu chủ nghĩa cộng
sản, trước mắt bằng con đưòng diễn biến hoà bình. Chống nguy cơ diễn biến hoà
bình đang là một nhiệm vụ đặt ra cấp bách đốì vối các nước xã hội chủ nghĩa.
1.4.2. Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản hiện đại
Khi phân tích sự vận động của chủ nghĩa tư bản, V.LLênin đã chỉ ra rằng chủ
nghĩa tư bản đến giai đoạn độc quyền, nền kinh tế của nó vận động theo hai xu
hướng: sự phát triển nhanh chóng song song với trì trệ thối nát. Ngày nay hai xu
hưóng đó vẫn tác động trong nền kinh tế chủ nghĩa tư bản. Xu thế phát triển nhanh
chóng của chủ nghĩa tư bản biểu hiện rõ rệt trong giai đoạn từ sau Chiến tranh thế
giới thứ hai đến nay, đặc biệt là vào những năm 1950 và 1960 của thế kỷ XX với tốc
độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, năng suất, chất lượng, hiệu quả tăng lên rõ rệt.
Sự phát triển đó chính là do tác động của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, sự
bành trướng của các công ty xuyên quốc gia và sự kích thích do cuộc chạy đua
giữa hai hệ thống kinh tế thế giới.
Xu thế trì trệ thối nát biểu hiện ở chỗ nền kinh tế chủ nghĩa tư bản tăng
trưởng chậm so với tiềm năng to lớn của khoa học - công nghệ cho phép (ví dụ
hiệu suất sử dụng thiết bị máy móc chỉ đạt mức 60 - 70%), thất nghiệp cao gây
nên sự lãng phí về nguồn lực, quân sự hoá nền kinh tế.
Sự tồn tại song song của hai xu thế trong chủ nghĩa tư bản hiện đại một
mặt nói lên rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn còn sức sống, quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa còn có thể tự điều chỉnh và trong giới hạn nhất định nó còn có thể
thích ứng với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy xã hội tư
bản phát triển. Song mặt khác cũng nói lên rằng chủ nghĩa tư bản đang vấp phải
những giới hạn nhất định, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại và
vận động. Chính sự vận động của mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất quyết định sự thay thế phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa bằng phương thức sản xuất cao hơn, tiến bộ hơn, đó là xu hướng vận
động của lịch sử mang tính lịch sử tự nhiên. Tính tất yếu của việc nó không
thoát khỏi sự phủ định cũng giống như chính nó đã từng phủ định chế độ phong

16


kiến trong lịch sử. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang thực hiện quá trình đổi mới,
cải cách để thích nghi với điều kiện lịch sử mới do sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ mang lại. Người ta đang nói đến và thực hiện sự
khắc phục từng bước những khuyết tật của kinh tế thị trưòng, cố gắng tạo ra một
bộ mặt mới cho nền kinh tế, như dân chủ, bình đẳng hơn trong một chừng mực
nhất định. Nhà nước với tư cách là người cai trị xã hội đã thực hiện nhiều biện
pháp chạy chữa những khuyết tật vốn có, bù đắp lại những khiếm khuyết của
kinh tế thị trường. Nhiều mô hình kinh tế mới có tính kết hợp một cách thực
dụng đã được thực thi trên cơ sở của những khái niệm mới, như chủ nghĩa tư
bản xã hội, chủ nghĩa tư bản nhân dân, nhà nước phúc lợi chung ở Nhật Bản,
Thụy Điển, Phần Lan... Tất cả những mô hình đó đều làm nổi bật lên một điều
rằng chủ nghĩa tư bản đã lỗi thời. Tính tiến bộ và cách mạng của nó so với chế
độ phong kiến lúc mới ra đời đã dần dần nhường chỗ cho tính phản động, phản
dân chủ, phản nhân loại... và đến lượt nó nhất định phải được thay thế bằng một
chế độ xã hội tiến bộ hơn. Sự gọt dũa, cải lương mang tính nửa vời chắp vá như
hiện nay mà chủ nghĩa tư bản đang tiến hành sẽ không thể khắc phục được hạn
chế mang tính lịch sử của chủ nghĩa tư bản và chắc chắn sẽ thất bại như thực tế
đã thất bại ở một số nước tư bản phát triển.
Có thể khẳng định chủ nghĩa tư bản tuy còn tiềm năng phát triển song
không tránh khỏi những giới hạn và mâu thuẫn. Nó thể hiện tính tiến bộ so với
phương thức sản xuất trước đó, song lại trở thành lỗi thời, do đó cần được thay
thế bằng xã hội tiến bộ hơn - chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của phương thức
sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Con đưòng thay thế xã hội cũ bằng xã hội mới tiến bộ hơn đã diễn ra
trong lịch sử nhân loại rất đa dạng và phong phú, hoà bình hoặc không hoà bình.
Song một điểm nổi bật và có tính quy luật trong lịch sử là không một giai cấp
thống trị nào lại tự nguyện chuyển nhượng địa vị thống trị của mình cho một

giai cấp khác, và sự xác lập địa vị thống trị của một giai cấp nhất thiết phải có
vai trò "bà đỡ" của cách mạng bạo lực. Cách mạng bạo lực cần được hiểu một
cách toàn diện và sâu sắc. Nó không thể thiếu vũ trang nhưng không đồng nhất
với vũ trang và chỉ duy nhất có yếu tố vũ trang. Bạo lực cách mạng còn bao
gồm cả bạo lực chính trị của quần chúng lao động được tổ chức. Yếu tố này
trong nhiều trường hợp có ý nghĩa rất quan trọng cần được sử dụng một cách
tổng hợp, linh hoạt và thích hợp với mọi tình huống.
Việc sử dụng vũ trang (và biện pháp không hoà bình nói chung) chỉ là
hậu thuẫn và khả năng cuối cùng, song nó lại có vai trò hết sức quan trọng. Nếu
không có lực lượng vũ trang để đốì phó với giai cấp thống trị khi giai cấp này có
vũ trang và sử dụng bạo lực thì chỉ là ngốc nghếch và tự sát.
17


Cũng tương tự, việc thay thế xã hội tư bản bằng một xã hội cao hơn phải
cần đến bạo lực cách mạng như là "bà đỡ" và cách mạng vô sản là một tất yếu
thép. Không thể có khả năng giai cấp tư bản tự "lột xác" và chủ nghĩa tư bản tự
tiến hoá sang chủ nghĩa xã hội, mà phải khẳng định rằng đây là cuộc đấu tranh
giai cấp gay go quyết liệt, vói nhiều hình thức biểu hiện rất mới, bởi vì giai cấp
tư sản là giai cấp bóc lột thống trị cuối cùng trong lịch sử, có tiềm lực lớn, có
trong tay cả một bộ máy đàn áp giai cấp khổng lồ, dựa trên những thành tựu
khoa học hiện đại nhất, lại có mối quan hệ quốc tế rộng lớn... Chủ nghĩa tư bản
chắc chắn sẽ tiếp tục tìm kiếm những biện pháp thích nghi để bảo vệ đến cùng
sự tồn tại và lợi ích giai cấp của nó. Song, nó cũng không thể cưỡng lại được
quy luật vận động của lịch sử và chắc chắn đến giới hạn cuối cùng nó sẽ có
hành động quyết liệt hơn. Do vậy, con đường thay thế sẽ không thể theo một
khuôn mẫu nhất định và giống nhau ở tất cả các nước, nhưng dù sao trong cuộc
đấu tranh giai cấp cuối cùng của lịch sử có một điều chắc chắn là không thể huỷ
bỏ cách mạng bạo lực.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Chủ nghĩa tư bản phát triển qua mấy giai đoạn?
2, Chủ nghĩa tư bản hiện đại xuất hiện ở giai đoạn đoạn nào của chủ nghĩa
tư bản?
3. Chủ nghĩa tư bản hiện đại có những đặc trưng cơ bản gì?
4. Chủ nghĩa tư bản hiện đại tồn tại những mâu thuẫn gì?

18


Chuyên đề 2
CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI
Một trong những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản ngày nay là sự hình
thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này có vai trò
quan trọng trong đời sống kinh tế thế giới và ngày càng trở thành lực lượng cơ
bản vận hành nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy các công ty xuyên quốc gia đã
trở thành chủ đề thu hút sự quan tâm của không chỉ các học giả, mà cả các
doanh nhân và giới chính khách của hầu hết các quốc gia.
Dưới góc độ của kinh tế chính trị, các công ty xuyên quốc gia của chủ
nghĩa tư bản hiện đại chủ yếu được xem như là một hình thức vận động mới của
độc quyền tư bản chủ nghĩa dưới tác động của sự phát triển lực lượng sản xuất,
nhất là sự quốc tế hoá của nó; việc nghiên cứu các công ty xuyên quốc gia chủ
yếu nhằm hiểu rõ thêm đặc điểm của chủ nghĩa tư bản ngày nay. Còn nếu xét
dưới góc độ rộng hơn, công ty xuyên quốc gia chính là hình thức vận động của
quan hệ sản xuất quốc tế, là hình thức tổ chức xí nghiệp quốc tế trong điều kiện
lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao và có tính quốc tế hoá.
2.1. Công ty xuyên quốc gia
2.1.1. Khái niệm
Có nhiều quan niệm khác nhau về các công ty xuyên quốc gia, đồng thời
cũng tồn tại nhiều tên gọi khác nhau để chỉ các công ty hoạt động sản xuất kinh

doanh quốíc tể như: các công ty xuyên quốc gia;các công ty đa quốc gia; các
công ty siêu quốc gia; các công ty toàn cầu; các công ty độc quyền quốc tế...
Song có thể hiểu, các công ty xuyên quốc gia dựa vào các đạc trưng cơ
bản:
- Về mặt xuất xứ là công ty tư bản độc quyền.
- Có chi nhánh nước ngoài.
- Hình thành từ công ty quốc gia (tức là mang một quốc tịch nếu xem xét
ở công ty mẹ).
- Một công ty xuyên quốc gia có cơ cấu hai bộ phận chủ yếu: công ty mẹ
và công ty chi nhánh. Công ty mẹ có trụ sở ở nước mẹ. Có nhiều cách quan
niệm khác nhau về công ty chi nhánh. Song có thể hiểu đó là toàn bộ các hãng,
xí nghiệp, công ty ở ngoài nước mẹ (không phân biệt thứ bậc phụ thuộc đối với
công ty mẹ). Nước có chi nhánh ngoại quốc của công ty xuyên quôc gia được
gọi là nước chủ nhà. Các chi nhánh thường có nhiều thứ bậc khác nhau nên có
thể dùng thuật ngữ công ty "con", "công ty cháu"... hoặc công ty chi nhánh cấp
1, 2, 3... để chỉ chúng.
Giữa công ty mẹ (hoặc còn gọi là công ty gốc) với các công ty chi nhánh
19


có mối quan hệ phụ thuộc rất phức tạp tuỳ theo mô hình quản lý mà công ty đó
lựa chọn. Song về cơ bản các công ty mẹ đóng vai trò chỉ đạo về chiến lược tài
chính, công nghệ, nhân sự, còn mỗi công ty chi nhánh là một đơn vị hạch toán
độc lập. Tất cả công ty mẹ và công ty chi nhánh hợp thành một hệ thống thống
nhất.
Trên cơ sở phân tích một số nét đặc trưng đó có thể định nghĩa các công
ty xuyên quốc gia của chủ nghĩa tư bản hiện đại như sau:
Các công ty xuyên quốc gia, về xuất xứ, là những công ty tư bản độc quyền của
một quốc gia, thực hiện việc bành trướng quốc tế bằng hình thức thiết lập một hệ thống
chi nhánh ở nước ngoài - nhằm phân chia thị trường thế giới và tìm kiếm lợi nhuận độc

quyền.
Ngày nay, xuyên quốc gia hoá trong sản xuất kinh doanh trở thành xu
hướng chung của thời đại. Do vậy, không chỉ có công ty xuyên quốc gia của các
nước tư bản phát triển mà hầu hết các quốc gia đều có công ty xuyên quốc gia
(kể cả các công ty vừa và nhỏ nhưng có chiến lược, sách lược đúng đắn, khôn
khéo vẫn có thể tồn tại). Do vậy có thể đưa ra định nghĩa chung như sau:
Các công ty xuyên quốc gia hiện đại là những công ty của một quốc gia thực
hiện việc sản xuất kinh doanh quốc tê thông qua việc thiết lập hệ thống chi nhánh ở
nước ngoài - nhằm thực hiện việc mở rộng thị trường và nguồn thu lợi nhuận.
2.1.2. Nguyên nhân hình thành các công ty xuyên quốc gia
2.1.2.1.Tích tụ và tập trung sản xuất
C. Mác và Ph. Ăngghen đã dự đoán rằng tích tụ và tập trung tư bản tất
yếu sẽ dẫn đến sự ra đời những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa có quy mô lớn. Đồng
thời chế độ tín dụng đẩy nhanh tốc độ phát triển các lực lượng sản xuất vật chất
và sự hình thành một thị trường thế giới. Vào thời kỳ đó, độc quyền đã xuất hiện
ở một số ngành của một vài nước tư bản phát triển nhất, chẳng hạn tơrớt kiềm
của Anh (United Alkati Trust) thâu tỏm toàn bộ ngành sản xuất amoniac của
nước Anh.
Kế thừa và phát triển học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen, và bằng
việc phân tích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX
đầu XX, V.I.Lênin đã rút ra kết luận hết sức quan trọng: việc tập trung sản xuất
đẻ ra các tổ chức độc quyền thì nói chung lại là một quy luật phổ biến và cơ bản
trong giai đoạn phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản.
Một đặc trưng nổi bật trong giai đoạn độc quyền là sự tồn tại và đan xen
nhau giữa độc quyền quốc gia và độc quyền quốc tế.
Về mặt lịch sử các tổ chức độc quyền quốc tế đã tồn tại ngay trong thời
kỳ tư bản tự do cạnh tranh, tức là trước chủ nghĩa tư bản độc quyền, có thể nói
cách đây trên 200 năm và xuất phát từ các nước châu Âu. Trong đó Anh, Hà
Lan, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những nước chủ yếu (ví dụ như các
20



công ty Đông An của Anh, Hà Lan).
Song chỉ đến giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản, khi các tổ chức
độc quyền quốc gia ra đời từ quá trình tích tụ tập trung sản xuất và cùng với quá
trình tích tụ tập trung đó được đẩy mạnh hơn nữa, các độc quyền quốc gia lớn
mạnh và vượt biên giới ra ngoài, thực hiện hoạt động kinh doanh quốc tế thì lịch
sử hình thành các độc quyền quốc tế mối thực sự bắt đầu. Bởi vì chính quá trình
tích tụ và tập trung sản xuất đã tạo tiền đề vật chất cho sự bành trướng, giúp cho
các tập đoàn tư bản có khả năng vượt biên giới quốc gia.
2.1.2.2. Những nguyên nhân khác
- Trong thời đại tư bản tài chính, xu hướng bành trướng trở thành phổ
biến và xuất khẩu tư bản trở thành một tất yếu kinh tế. Mặc dù tình hình thế
giới vào nửa cuối thế kỷ XX, nhất là từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đã có
những thay đổi cơ bản, trong đó có phong trào giải phóng dân tộc ở các lục địa
Á - Phi - Mỹ Latinh phát triển mạnh mẽ đưa đến sự ra đời hàng loạt nước độc
lập dân tộc, thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm phá sản chủ
nghĩa tư bản cũ. Song về kinh tế lại gặp những khó khăn lớn. Do vậy để thực
hiện việc "nắm lại" những khu vực đã mất, chủ nghĩa đế quốc thực hiện nhiều
biện pháp, trong đó sự thâm nhập bằng cách thông qua hoạt động của các công
ty xuyên quốc gia là một trong những cách có thể mang lại hiệu quả.
- Thông qua hoạt động của các chi nhánh, các công ty tư bản có thể tận
dụng được một số lợi thế của nước chủ nhà, như giá nhân công rẻ, nguồn
nguyên liệu dồi dào, thị trường tại chỗ hoặc lân cận...; đồng thời lại tiết kiệm
được chi phí vận chuyển, có điều kiện thuận lợi giải quyết những khó khăn về
hàng rào thuế quan, phi thuế quan... Tất cả những nhân tố đó góp phần làm giảm
chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh...
- Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là
những thành tựu của cách mạng thông tin đã tạo ra những tiền đề cần thiết cho
sự quản lý từ xa. Mặt khác rút ngắn thời gian hao mòn vô hình của tư bản cố

định, làm xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh doanh mới, đòi hỏi vốn lớn
và sự hiệp tác nghiên cứu và triển khai... đồng thời hứa hẹn nhiều lợi nhuận, đã
đặt ra yêu cầu phải chuyển dịch ngành truyền thống sang các nước đang phát
triển, giải phóng tư bản đã hao mòn vô hình, tập trung vào những ngành có sức
cạnh tranh và hiệu quả.
- Sự điều tiết của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đối với quá trình
kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại, như hỗ trợ thông tin, ưu đãi tín dụng, thuế,
thông qua ngoại giao kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi để các công ty xuyên
quốc gia vượt biên giới quốc gia, thực hiện kinh doanh quốc tế. Có thể nói các
công ty xuyên quốc gia thật sự được sinh ra từ chính sách của nhà nước và nhà
nước có một ý nghĩa không thể thiếu được đối với sự ra đời của nó.
21


Vai trò của nhà nước đối với sự hình thành các công ty xuyên quốc gia
biểu hiện rõ nhất đối với các công ty xuyên quốc gia Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai lợi dụng tình hình khó khăn của Tây Âu,
Mỹ đã thực hiện kế hoạch Marshall, qua đó các công ty Mỹ đầu tư ồ ạt vào khu
vực này, thiết lập các công ty chi nhánh. Sau khi phục hồi, các công ty Tây Âu
đã liên minh với nhau thực hiện cắm nhánh lẫn nhau, nhiều công ty đã được sáp
nhập trở thành những công ty lớn có sức cạnh tranh với các công ty Mỹ và hoạt
động kinh doanh quôc tế (trong nội bộ Tây Âu và kể cả ngay trên thị trường
Mỹ).
Vào những năm 1960, khi EC hình thành và có sự phát triển từng bước
của quá trình nhất thể hoá châu Âu đã tạo ra điều kiện mới cho sự hoạt động của
các công ty của mỗi quốc gia trong nội bộ cộng đồng Tây Âu.
2.1.2.3. Quá trình hình thành của một số công ty xuyên quốc gia
Có thể nói các công ty xuyên quốc gia châu Âu là những công ty có lịch
sử lâu đời. Nếu chỉ xét trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản thì cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các công ty Bayer (CHLB Đức); L'Ailiquede (Pháp)

đã có các chi nhánh của mình ở Nga và châu Mỹ Latinh. Sau Cách mạng Tháng
Mười Nga các công ty châu Âu ở Nga đã bị quốc hữu hoá.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai do thực hiện kế hoạch Marshall, các công
ty xuyên quốc gia Mỹ đã hình thành khá phổ biến. Sau đó, những năm 1950,
1960 các công ty của Nhật, rồi các công ty của NICs châu Á,... cũng thực hiện
xuyên quốc gia hoá, trở thành các công ty xuyên quốc gia. Ngày nay hầu hết các
quốc gia đều ít nhiều có các công ty xuyên quốc gia của mình.
Đối với các ngành cũng có lịch sử hình thành các công ty xuyên quốc gia
khác nhau. Trước hết là xuyên quốc gia trong các ngành dầu lửa, vào năm 1870,
Công ty Standard Oil, Getty Oil đã có chi nhánh ở Trung Đông. Sau đó là các
công ty của châu Âu.
Đối với ngành chế tạo xe hơi: Daimler Benz là một trong những công ty
thực hiện xuyên quốc gia hoá sớm. Ngay từ năm 1890 hãng này đã có đại lý bán
hàng ở Anh sau đó năm 1899 lập xưởng lắp ráp ở Viên (Áo). Fiát Motor cũng là
một trong những công ty thực hiện xuyên quốc gia hoá sớm, ngay từ năm 1907
đã có chi nhánh ở Viên và năm 1912 có xưởng chế tạo ở Nga. Cũng ở thời kỳ
này, Ford Motor với chi nhánh ở Canađa, năm 1911 ở Anh, năm 1913 ở Pháp...
Sau này là các hãng của các quốc gia khác, trong đó có Nhật Bản và NIEs.
Đốì với các ngành khác cũng có lịch sử hình thành riêng. Chẳng hạn với
sản phẩm dầu thực vật thì Unilever và P&G cũng là những công ty lâu đời.
Ngay từ nảm 1837, P&G đã được thành lập và năm 1859 đã đạt doanh thu 1 tỷ
USD. Thời kỳ nội chiến Mỹ 1861-1865, P&G đã là nhà phân phối hàng đầu về
xà phòng và nến cho quân đội liên bang, sau này trở thành công ty hàng đầu về
22


bột giặt, kem đánh răng, giấy vệ sinh, dầu gội đầu, dược phẩm và có mặt ở
nhiều nước đang phát triển, phát triển.
Mc Donal's cũng là công ty kinh doanh ngành thực phẩm ăn uống nổi
tiếng thế giới và có hệ thông chi nhánh khắp thế giới. Ra đời từ năm 1948 đến

nay Mc Donalt Douglas đã có trên 7.900 điểm bán hàng ở Mỹ và các nước khác,
năm 1996 chiếm 19% thị trường thức ăn nhanh với doanh số 8,7 tỷ USD.
Đối với ngành phần mềm máy tính, Microsoft với sự hợp tác giữa
William Gates và Paul Allen, được thành lập năm 1975. Sau đó lập chi nhánh ở
New Mexico, năm 1984 Microsoft đã bán phần mềm máy tính cho 200 hãng sản
xuất máy tính cá nhân và bắt đầu cài đặt hệ MS-DOS cho các máy tính cá nhân.
Năm 1990 Microsoft trở thành công ty phần mềm máy tính có tên tuổi đầu tiên,
với doanh thu 1 tỷ USD/năm. Giữa những năm 1990 công ty bắt đầu mở rộng
hoạt động vào lĩnh vực truyền thông đại chúng, giải trí, cung cấp thông tin trên
mạng Internet. Năm 1996, Microsoft đã liên minh với National Broadcasting
Company (NBC) thành M.SNBC với các kênh truyền hình phát 24 giờ trong
ngày.
2.1.3. Phân loại các công ty xuyên quốc gia
Cho đến nây có nhiều cách phân loại công ty xuyên quốc gia song có thể
nói có ba cách phân loại thường được đề cập. Đó là:
2.1.3.1. Cách phân loai dựa trên cơ sở phân loại độc quyền quốc
gia
Theo cách phân loại này có các công ty xuyên quốc gia thuộc loại cácten,
xanhđica, tơrớt, concern và conglomerate. Đó là những nấc thang của sự liên kết
từ đơn giản đến phức tạp. Trong đó loại hình tiêu biểu của các công ty xuyên
quốc gia hiện nay là concern và conglomerate. Giữa hai loại này có những đặc
điểm chung, đó là kinh doanh đa ngành, do đó sản phẩm mang tính đa dạng,
song chúng có sự khác nhau, chủ yếu là mức độ đa ngành và đa dạng sản phẩm.
Với các concern, mặc dù kinh doanh đa ngành với nhiều sản phẩm khác nhau
song vẫn tìm thấy ngành hạt nhân cơ bản và sản phẩm chủ yếu (ví dụ Công ty
Daimler Benz (CHLB Đức) tuy sản xuất kinh doanh rất nhiều ngành, song sản
phẩm động cơ vẫn là chủ yếu); trong khi với các conglomerate thì điều đó khó
xác định bởi tính hỗn tạp của nó, đồng thời xu hướng đi vào kinh doanh trên các
thị trường chứng khoán ngày càng biểu hiện rõ (ví dụ: ITT nguyên là công ty
hàng đầu trong lĩnh vực thông tin liên lạc song đã chuyển hướng sang kinh

doanh khách sạn, thực phẩm và thị trường chứng khoán; Nippond nguyên là
công ty sản xuất thép, đóng tàu đã chuyển sang kinh doanh phần mềm máy tính,
dịch vụ, thị trường chứng khoán...). Tuy nhiên sự phân định này vẫn còn mang
tính tương đối.
2.1.3.2. Cách phân loại các công ty xuyên quốc gia căn cứ vào
23


quá trình vận động và phát triển của chúng
Theo cách này, ngưòi ta phân chia các công ty xuyên quốc gia thành bốn
loại:
- Loại hình công ty xuyên quốc gia khai thác nguyên liệu. Đây là những
công ty xuyên quốc gia có ngay từ thời kỳ tư bản tự do cạnh tranh. Các ty này
thường hoạt động trong những ngành nông nghiệp, khai khoáng với mục đích
khai thác nguồn nguyên liệu phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ
nghĩa. Đó là những công ty Đông Ấn của Anh, Hà Lan.
- Loại hình công ty xuyên quốc gia thương mại, bao gồm những công ty
mà những chi nhánh nước ngoài chủ yếu là những “trạm trung gian” thực hiện
việc xuất nhập khẩu hàng hóa, hoặc lắp ráp để thực hiện xuất khẩu tại chỗ. Ví
dụ Công ty Renault, vào những năm 1960 có tới 10.000 điểm bán hàng ở nước
ngoài.
- Loại hình công ty xuyên quốc gia sản xuất.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây mới là công ty xuyên quốc gia thực
thụ vì nó phản ánh một cách khá đầy đủ đặc điểm cơ bản của quá trình quốc tế
hóa. Hầu hết các công ty xuyên quốc gia cỡ lớn hiện nay đều thực hiện phân
công chuyên môn hóa sản xuất bằng cách chia quy trình công nghệ thành nhiều
công đoạn và mỗi chi nhánh thường chỉ thực hiện một vài công đoạn có hiệu
quả nhất (như sự phân công chuyên môn hóa của công ty Toyota đối với việc
sản xuất xe hơi ở châu Á, hay việc phân công chuyên môn hóa của sản phẩm
bán dẫn điện tử của Sony, Toshiba…) .

- Loại hình công ty xuyên quốc gia kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ, tài
chính, kỹ thuật.
Đây là những công ty có tiềm lực khoa học - công nghệ mạnh và thường
tồn tại dưới hình thức một tổ hợp công nghiệp - ngân hàng trong các độc quyền
tài chính xuyên quốc gia. Ví dụ: tổ hợp công nghiệp - ngân hàng trong tập đoàn
tài chính Rôccơphenlơ gồm các công ty xuyên quốc gia công nghiệp tầm cỡ như
IBM, Exxon, Mc Donalt Douglas.... và Ngân hàng Manhattan Chase...
2.1.3.3. Cách phân loại theo tính chất phức tạp của sản phẩm
Theo cách phân loại này, có các công ty xuyên quốc gia thuộc loại A, B,
C, D. Tùy theo tính chất đơn hoặc đa sản phẩm.
Ngoài các cách phân loại trên có tài liệu còn phân chia ra các công ty
xuyên quốc gia thuộc tổ hợp công nghiệp quân sự để phân biệt với loại kinh
doanh dân sự, hoặc phân chia các công ty xuyên quốc gia theo lĩnh vực ngành
kinh doanh, như công ty xuyên quốc gia kinh doanh công nghiệp, ngân hàng,
dịch vụ... Trong công nghiệp lại chia nhỏ theo các ngành, như viễn thông, công
nghiệp chế biến, công nghiệp dược phẩm...
Tuy nhiên, sự phân loại trên không mang ý nghĩa tuyệt đốì. Một công ty
24


xuyên quốc gia cũng có thể thuộc nhiều loại khác nhau tuỳ theo cách phân loại.
Do vậy cần căn cứ vào mục đích nghiên cứu mà lựa chọn cách phân loại thích
hợp.
2.1.4. Hình thức và chiến lược cắm nhánh nước ngoài của các công ty
xuyên quốc gia
2.1.4.1. Hình thức cắm nhánh
Để thực hiện cắm nhánh, các công ty xuyên quốc gia thường sử dụng
nhiều hình thức khác nhau, song chủ yếu là các hình thức sau đây:
- Hình thức đầu tư 100% vốn
Đây là hình thức đã có ngay từ thời kỳ đầu tiên khi các công ty xuyên

quốc gia thâm nhập vào nền kinh tế các nước. Ngày nay, có thể nói hầu hết
trong 500 công ty hàng đầu thế giới đều sử dụng hình thức này.
Đây là hình thức cắm nhánh cổ truyền, trong đó công ty xuyên quốc gia
được hoàn toàn tự chủ trong kinh doanh theo luật đầu tư của nước chủ nhà mà
không sợ thất thoát về bí quyết công nghệ và quản lý hoặc chia sẻ bạn hàng.
Tuy nhiên, các công ty xuyên quốc gia phải chịu sự kiểm soát của nước chủ
nhà, sự kiểm soát đó cũng theo những phương thức và mức độ khác nhau, đồng
thời cũng đưa lại những hậu quả không giống nhau, trong đó kể cả việc thực
hiện quốc hữu hoá các doanh nghiệp chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia
vào thập kỷ 70 (như đã diễn ra ở một số nước). Mặt khác với xí nghiệp 100%
vốn của mình, các công ty xuyên quốc gia không tránh khỏi những khó khăn
trong việc khai thông các mối quan hệ với các cơ quan quản lý, cũng như việc
tìm hiểu thị trường do cạnh tranh. Đó là chưa kể đến trường hợp cá biệt ở một
số nước, ví dụ Nhật Bản, các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài còn gặp một số
khó khăn khi tuyển dụng công nhân, nhất là tuyển dụng cán bộ quản lý vì về
mặt tâm lý họ không muốn làm thuê cho người nước ngoài.
Chính do một số khó khăn nêu trên nên nhiều công ty xuyên quốc gia đã
lựa chọn hình thức liên doanh.
- Hỉnh thức liên doanh
Đây là một trong những hình thức phổ biến trong giai đoạn hiện nay mà
các công ty xuyên quốc gia đã và đang sử dụng.
Để thực hiện liên doanh, các công ty xuyên quốc gia thường sử dụng một
số biện pháp như tham gia cổ phần đối với xí nghiệp mới xây dựng, lập ra xí
nghiệp mới có sự tham gia của đối tác nước chủ nhà, mà công ty mẹ nắm giữ số
cổ phần khống chế, hoặc mua cổ phiếu của công ty đang hoạt động...
Chẳng hạn trường hợp liên doanh giữa Công ty GMC (Mỹ) với Công ty
Isuzu (Nhật Bản) vào thập kỷ 80 thế kỷ XX đã diễn ra như sau: Isuzu bán 34%
cổ phần của mình cho GMC, vì đang gặp khó khăn trong việc chuyển từ sản
xuất xe tải, xe buýt sang xe con. Còn với GMC nếu mua được cổ phần của
25



×