Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Bài thuyết trình hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.82 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
«««« ○○○ »»»»
BÀI THUYẾT TRÌNH
MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: THÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỘNG
SẢN CHỦ NGHĨA
SVTH: NHÓM 3
GV: HỒ VĂN ĐỨC
LỚP HP: 111200720
TP.HCM, Ngày 17 Tháng 2 Năm 2014
Hình Thái Kinh Tế - Xã Hội
Cộng Sản Chủ Nghĩa
1. Khái quát về hình thái kinh tế – xã hội:
a) Khái niệm
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử (hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuất ấy. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự
thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định.
Từ khái niệm chung về hình thái kinh tế - xã hội ta có thể khái quát hơn
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là chế độ xã hội phát triển cao
nhất; có quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất, phù hợp
với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng cao hơn
cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản.Vớimột kiến trúc thượng tầng nhất định là
của nhân dân với trình độ xã hội hóa ngày càng cao.
b) Kết cấu chung của hình thái kinh tế - xã hội


Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức
tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí
riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau trong một mối quan hệ
biện chứng.Vì thế C.Mác từng khẳng định: “khi phân tích hình thái kinh tế,
người ta không thể dùng kính hiển vi hay những chất phản ứng hóa học được.
Sức trừu tượng hóa phải thay thế cho cả hai cái đó”.
(1)
Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế - xã hội bao gồm:
Lực lượng sản xuất: là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất
trong quá trình sản xuất cũng như nền tảng vật chất- kỹ thuật của mỗi hình
thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản
xuất khác nhau về tư liệu sản xuất và người lao động. Sự phát triển của lực
Page 2
lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế - xã hội.
Quan hệ sản xuất: là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan hệ
xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế
độ xã hội.
Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ những kết cấu các hình thái ý thức xã
hội cùng với các thiết chế (tổ chức) chính trị - xã hội tương ứng được hình
thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo
vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Trong sự phát triển của lịch sử loài người có thể do sự tác động của nhiều
yếu tố chủ quan, nhưng sự vận động của xã hội lại tuân theo quy luật khách
quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người mà nguồn gốc xâu xa của
sự thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế-xã hội là sự phát triển của lực
lượng sản xuất. V.I.Lênin đã đưa ra một phương pháp luận quan trọng khi

nghiên cứu về xã hội là: “chỉ có đem qui những quan hệ xã hội vào những
quan hệ sản xuất , và đem qui những quan hệ sản xuất vào trình độ của lực
lượng sản xuất thì người ta mới có được sự vững chắc để quan niệm sự phát
triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”
(2)
.Vì thế
lực lượng sản xuất thay đổi tất yếu sẽ gây nên sự thay đổi của quan hệ sản
xuất.Và rồi đến lượt mình, sự thay đổi của quan hệ sản xuất (với tư cách là cơ
sở hạ tầng) sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi.
Do vậy, từ những yếu tố cấu trúc của mỗi một hình thái kinh tế - xã hội
thay đổi dẫn đến hình thái kinh tế - xã hội này được thay thế bằng hình thái
kinh tế - xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn. C.Mác đã viết về một trường hợp
cụ thể: "Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm
Page 3
mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng
nữa nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với
tính tất yếu của một quá trình tự nhiên".
(3)
Sự thay thế nhau như vậy giữa các hình thái kinh tế-xã hội là con đường
phát triển chung của nhân loại. Quá trình đó diễn ra một cách tự nhiên mang
tính khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người.Đây là
một trong những phát hiện to lớn của chủ nghĩa Mác – Lênin về phương pháp
luận khoa học để phân tích đời sống xã hội và lịch sử vận động, phát triển của
nó.
2. Xu hướng tất yếu của sự xuất hiện hình thái kinh tế – xã hội cộng
sản chủ nghĩa
a) Là một quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng một cách triệt để quan điểm duy vật
về lịch sử để nghiên cứu xã hội loài người trải qua các chế độ xã hội khác
nhau, từ đó xây dựng nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, phân tích một

cách khoa học sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái
kinh tế - xã hội cao cũng như sự thay đổi của các phương thức sản xuất qua
các chế độ xã hội và coi đó là một quá trình lịch sử - tự nhiên (mang tính
khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người).
b) Mâu thuẫn trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giữa
nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kiềm hãm của quan hệ
sản xuất
Trong những tác phẩm của mình, đặc biệt là trong tác phẩm Tuyên ngôn
của Đảng Cộng Sản và tác phẩm Chống Đuyrinh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển mới của
xã hội, các ông viết:“Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa
Page 4
đầy một thế kỷ, đã tạo ra lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực
lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước cộng lại”
(4)
. Nhưng mặt khác,
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng: trong xã hội đối kháng giai cấp đó,
con người càng chinh phục thiên nhiên, cải tạo tự nhiên thì tình trạng người
bóc lột người càng mở rộng.
Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản càng phát triển đến tình trạng
xã hội hóa cao thì càng làm mâu thuẫn giữa các nhu cầu phát triển của các lực
lượng sản xuất với sự kiềm hãm của quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư
bản chủ nghĩa thêm sâu sắc. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản,
C. Mác và Ph.Ăngghen đã nhận định:“Từ hàng chục năm nay, lịch sử công
nghiệp và thương nghiệp không phải là cái gì khác hơn là lịch sử cuộc nổi
dậy của lực lượng sản xuất hiện đại chống lại quan hệ sản xuất hiện đại”.
(5)
Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế chủ nghĩa tư bản thể hiện
trong lĩnh vực chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân
dân lao động với giai cấp tư sản ngày càng trở nên quyết liệt.

Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện từ
khi chủ nghĩa tư bản hình thành, ngày càng sâu sắc. Qua thực tiễn cuộc đấu
tranh, giai cấp công nhân đã nhận thức được rằng, muốn giành thắng lợi phải
tiếp thu chủ nghĩa xã hội khoa học, hình thành chính Đảng của giai cấp mình.
Khi Đảng Cộng Sản ra đời, toàn bộ hoạt động của Đảng đều hướng vào lật đổ
nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Việc thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động là sự mở đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, sự xuất hiện của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
phải có những điều kiện nhất định, đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất
dưới chủ nghĩa tư bản đạt đến một mức độ nhất định, lực lượng của giai cấp
công nhân trở nên đông đảo, mâu thuẫn gay gắt với giai cấp tư sản. Mặt khác
Page 5
từ thực tiễn cách mạng, giai cấp công nhân phải giác ngộ cách mạng, xây
dựng được chính Đảng cách mạng, phải kiên quyết đấu tranh giành chính
quyền từ tay giai cấp tư sản khi có thời cơ cách mạng. Cách mạng không tự
diễn ra, chủ nghĩa tư bản không tự sụp đổ.
C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Sống trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi mà giai cấp tư sản trở thành lực lượng phản
động, đã thực hiện các cuộc chiến tranh xâm lược các nước lạc hậu, biến các
nước đó thành thuộc địa, khi mà lực lượng công nhân đã phát triển mạnh mẽ,
V.I. Lênin đã dự báo sự xuất hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở
các nước tư bản chủ nghĩa có trình độ phát triển trung bình và những nước
thuộc địa sau khi được giải phóng do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công
nghệ, lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản có tính xã hội hóa cao đã mang
tính toàn cầu và ngày càng mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Ý thức được mâu thuẫn đó, giai cấp tư sản dùng rất nhiều biện pháp như tăng
cường sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, thành lập các tập đoàn tư bản,…

với mong muốn làm giảm những mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản. Xong, sở
hữu nhà nước trong chủ nghĩa tư bản, thực chất chỉ là giai cấp tư bản lợi dụng
nhà nước, nhân danh nhà nước để nắm tư liệu sản xuất. Do vậy mâu thuẫn đối
kháng trong kinh tế và trong lĩnh vực chính trị - xã hội không hề suy giảm.
Mâu thuẫn đó chỉ được giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa,
thiết lập hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa với quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
“Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học
đặt, chẳng hạn, vấn đề tiến hóa của một giống sinh vật mới, một khi đã biết
nguồn gốc của nó”
(6)
, nhưng cũng khẳng định hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa ra đời là kết quả hoạt động tự giác của giai cấp công nhân, bằng
Page 6
hành động đấu tranh cách mạng của giai cấp này, bởi vì chế độ tư bản chủ
nghĩa đã lỗi thời, nhưng giai cấp tư sản vẫn tìm mọi biện pháp bảo vệ chế độ
độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Trong khi nhấn mạnh vai trò tích cực của nhân tố chủ quan trong tiến
trình cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ mới xã hội
chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng cương quyết đấu
tranh chống lại khuynh hướng cách mạng phiêu lưu, không tính đến trình độ
phát triển của hiện thực cách mạng, không xem xét tới trình độ giác ngộ của
nhân dân, thiếu sự chuẩn bị chu đáo.
3.Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ
nghĩa
Dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen
không chỉ phân chia lịch sử phát triển xã hội loài người thành các hình thái
kinh tế - xã hội mà còn chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
thành các giai đoạn khác nhau.Theo các ông, hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa phát triển từ thấp đến cao, từ giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa

lên xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác về vấn đề
nhà nước”, trên cơ sở diễn đạt tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã chia hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành ba thời kỳ: 1) “Những cơn đau
đẻ kéo dài” (thời kỳ quá độ); 2)Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa
(chủ nghĩa xã hội); 3) Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa (chủ nghĩa
cộng sản).
(7)
a)Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội:
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội:
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, tạo ra những
Page 7
tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó
những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất, dựa
trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.Chủ nghĩa tư bản được xây
dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, dựa trên áp
bức, bóc lột và bất công.Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, không còn tình trạng áp bức, bóc lột.Muốn có xã
hội như vậy cần phải có thời kỳ lịch sử nhất định.
Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền đại công nghiệp có trình
độ cao.Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra nền đại công nghiệp nhưng nó chưa phải là
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội cần phải có thời gian để tổ chức lại, sắp xếp, cải tạo nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa thành cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh từ
chủ nghĩa tư bản, mà chỉ có thể là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã

hội chủ nghĩa.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, khó
khăn phức tạp và đòi hỏi phải có thời gian để giai cấp công nhân từng bước
làm quen với những công việc đó.
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: là sự tồn tại của xã
hội cũ đan xen với những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ
vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
như: chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng…và phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực kinh tế: là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong hệ
thống kinh tế quốc dân thống nhất, vận động theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nền kinh tế có nhiều thành phần được xác lập trên cơ sở khách quan
Page 8
của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức
tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp với nhau, nhiều hình thức phân phối
thu nhập khác nhau.
Trên lĩnh vực chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp nên kết cấu giai cấp xã hội trong thời kỳ này
cũng đa dạng, phức tạp. Thời kỳ này bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản. Các
gia cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong một giai cấp,
tầng lớp cũng có nhiều bộ phận có trình độ, ý thức khác nhau, do đó ý thức
chính trị của các bộ phận khác nhau cũng có sự khác nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa - xã hội: là sự tồn tại nhiều tư tưởng và
văn hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Mác - Lênin
giữ vai trò thống trị vẫn tồn tại các tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu
nông… Vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về thực chất là thời kỳ diễn
ra cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại, không còn là giai cấp
thống trị và các thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều

kiện mới là giai cấp công nhân đã cầm quyền, quản lý tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng, bằng tuyên truyền vận động là
chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.
- Nội dung kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội:
Trong lĩnh vực kinh tế: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần
phải sắp xếp, bố trí lại lực lượng sản xuất hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ
sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển
cân đối của nền kinh tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Quá
trình này phải tuân thủ những đòi hỏi khách quan của quy luật kinh tế, nhất là
Page 9
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Đối với những nước chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải
tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Quá trình
này đòi hỏi phải tuân thủ quy luật kinh tế khách quan và tùy thuộc điều kiện
lịch sử cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế để xác định chiến lược, bước
đi và nội dung thích hợp.
Ví dụ: Đối với nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ
biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến chứ chưa trải qua chế độ
tư bản. Nên cái thiếu nhất của chúng ta là nền sản xuất đại công nghiệp.Chính
vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa để xây dựng cơ
sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Trong lĩnh vực chính trị: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tiến hành cuộc đấu tranh chống lại các
thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng,
củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh,
đảm bảo quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội của nhân

dân lao động; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch,
vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ lịch sử.
Ví dụ: Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngoài phát
triển kinh tế, chúng ta đã không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao
vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nâng cao vài trò chiến đấu của quần chúng phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa:Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư
tưởng – văn hóa của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện tuyên
truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công
nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư tưởng tâm lý có ảnh hưởng tiêu
Page 10
cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hóa mới
xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới.
Ví dụ: Trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa nước ta không ngừng
xây dựng nền văn hóa mới tiến tiến đầm đà bản sắc dân tộc,tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phát
triển giáo dục để nâng cao dân trí.Khắc phục những tư tưởng tâm lý có ảnh
hưởng tiêu cực đối vớitiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong lĩnh vực xã hội: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại, từng bước
khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư
trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ
tốt đẹp giữa người với người.
Ví dụ: Trong thời kì quá độ ngày nay nhất là trong lĩnh vực xã hội nước
ta đã từng bước khắc phục các tệ nạn xã hội. Thực hiện công bằng xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng , dân chủ, văn minh”.
b) Xã hội xã hội chủ nghĩa

Xã hội xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của chủ nghĩa
cộng sản )có các đặc trưng sau:
Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật là nền đại công nghiệp được phát triển
lên từ những tiền đề vật chất – kỹ thuật của nền đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa.Mỗi chế độ xã hội đều có cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng của nó,
phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó.Nếu công cụ thủ
công là đặc trưng cho cơ sở vật chất - kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ
nghĩa thì nền đại công nghiệp cơ khí đặc trưng cho cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa tư bản.Chủ nghĩa xã hội với tư cách là xã hội thay thế chủ nghĩa
tư bản, cao hơn chủ nghĩa tư bản thì cơ sở vật - chất kỹ thuật của nó phải là
nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao hơn so với trình độ của xã hội tư
bản chủ nghĩa. Đối với các nước tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội, lực
Page 11
lượng sản xuất đã phát triển cao là điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ sở vật -
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.Đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, để xây dựng cơ sở vật - chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ hai, Xã hội xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ
nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa là hai chế độ xã hội mà ở đó có
sự khác nhau về chế độ sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu. Ở xã hội xã hội chủ
nghĩa đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu còn trong xã hội tư
bản chủ nghĩa đó là chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.Các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xãhội không
xoá bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chủ yếu là xoá bỏ chế độ tưhữu tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu, vì đây chính là nguồn gốccủa áp bức, bóc
lột giá trị thặng dư. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp vô sản phải từng
bước đoạt lấy tư liệu sản xuất từ trong tay giai cấp tư sản, tập trung những tư
liệu ấy vào trong tay nhà nước để phục vụ cho toàn xã hội, xây dựng quan hệ
sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sở hữu tư liệu

sản xuất tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, người
laođộng làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội.
Thứ ba, Xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ
luậtlao động mới. Tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính
xã hội hóa,tạo điều kiện cho người lao động kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá
nhân, lợi íchtập thể và lợi ích toàn xã hội. Trên cơ sở đó tạo ra cách tổ chức
lao động mớidựa trên tinh thần tự giác của nhân dân. Mặt khác, chủ nghĩa xã
hội được xây dựng trên cơ sở vật chất kỹ thuật là nền đại công nghiệp ở trình
độ cao, do vậy đòi hỏi kỷ luật lao động chặt chẽ. Các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác cho rằng: lao động được tổ chức có kế hoạch, trên tinh thần tự
giác, tự nguyện là đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, để có
một kiểu tổ chức lao động kỷ luật và tự giác cao đòi hỏi phải đẩy mạnh hoạt
Page 12
động tuyên truyền vận động, mặt khác phải đấu tranh khắc phục tư tưởng, tác
phong của người sản xuất nhỏ.
Thứ tư,Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động coi đó là guyên tắc cơ bản. Tuy sản xuất đã phát triển nhưng chưa đủ khả
năng thực hiện phân phối theo nhu cầu, do đó nguyên tắc phân phối cơ bản
vẫn là phân phối theo lao động. Nguyên tắc phân phối theo lao động là nguyên
tắc phân phối dựa trên kết quả lao động mà người lao động đã đóng góp cho
xã hội. Đây là nguyên tắc phân phối cơ bản nhất trong chủ nghĩa xã hội nhưng
không phải là nguyên tắc phân phối duy nhất. Nguyên tắc phân phối theo lao
động vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội, vừa thể hiện tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội, đồng thời là một nội dung quan trọng trong thực
hiện công bằng xã hội trong giai đoạn này.
Thứ năm,Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang
bản chất của giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu
sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, là cơ quan
quyền lực tập trung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động dưới sự lãnh

đạo của Đảng Cộng sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động; thực hiện trấn áp các thế lực phản động, các lực lượng chống
chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa tập hợp đại biểu các tầng lớp nhân dân, bảo vệ lợi
ích chính đáng của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia ngày càng
nhiều vào công việc của nhà nước với tinh thần tự giác, tự quản. Nhà nước
ngày càng thực hiện tốt hơn quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Nhà nước xã
hội chủ nghĩa mang tính dân tộc sâu sắc.Trong thời đại ngày nay, giai cấp
công nhân là người đại diện chân chính cho dân tộc, có lợi ích cơ bản thống
nhất với lợi ích dân tộc.Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện đoàn kết các dân
tộc, tạo sự bình đẳng giữa các dân tộc, không ngừng phát huy những giá trị tốt
đẹp của dân tộc.
Page 13
Thứ sáu, Xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội mà con người giải
phóng, và thoát khỏi chế độ áp bức bóc lột; thực hiện công bằng, bình đẳng,
tiến bộ xã hội tạo ra những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, khỏi
sự bóc lột về kinh tế, nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát
triển toàn diện. Cùng với việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa đối với tư liệu sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, chủ nghĩa xã hội
thực hiện xóa bỏ đối kháng giai cấp, thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội.
Đây là một quá trình lâu dài và được thực hiện từng bước trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng…Tuy nhiên,
trong giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa, sự bình đẳng được xác lập trong điều
điện xã hội vẫn còn giai cấp, còn nhà nước do đó, chưa thể có “bình đẳng thực
sự”.
c) Giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Qua nhiều giai đoạn lịch sử lâu dài xã hội loài người đã tồn tại và phát
triển cùng với những hình thái kinh tế - xã hội ngày một tiến bộ và phát triển
cao hơn. Con người ngày càng thấy rõ hơn vai trò lao động sản xuất hàng hóa

ra của cải vật chất đối với sự tồn tại và hoạt động của mình ứng với mỗi giai
đoạn lịch sử khác nhau cũng cần có phương thức sản xuất khác nhau sao cho
phù hợp và đem lại hiệu quả cao nhất. Điều đó rất quan trọng vì hiệu quả kinh
tế là thước đo là kết quả đúng đắn nhất của hoạt động sản xuất của một quốc
gia.Và kinh tế là điều kiện tiên đề phát triển tất cả mọi lĩnh vực khác của đất
nước thấy rõ được vai trò của nển kinh tế đối với sự phát triển và tồn tại của
xã hội loài người. Trước C.Mác đã có rất nhiều quan điểm kinh tế được xây
dựng và đưa vào thực tiễn nhưng do còn nhiều hạn chế và cũng chỉ phù hợp
trong một khoảng thời gian nhất định và cũng chưa thực sự đẩy mạnh quá
trình phát triển của một quốc gia đến một giai đoạn C.Mác - Lênin một nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã được xây dựng và đưa vào thực tiễn, nó
đã đem lại hiệu quả kinh tế thực sự nổi bật với tốc độ tăng trưởng không
Page 14
ngừng. Rất nhiều quốc gia đã thấy rõ được ưu điểm của nền kinh tếnày và đã
phát triển nó thành một nền kinh tế thị trường bền vững với tốc độ tăng trưởng
kinh tế không ngừng.Việt Nam là một trong những nước như vậy.
Sau năm 1975 đất nước ta hoàn toàn giải phóng và bước vào công cuộc
xây dựng nền kinh tế sau chiến tranh.Nhưng do những nắm bắt đúng đắn quy
luật khách quan của nền kinh tế và chưa tìm được hướng đi đúng đắn quy luật
khách quan của nền kinh tế Việt Nam vẫn trong tình trạng lạc hậu và kém phát
triển .
Đến đại hội thứ VI (1985) Đảng và nhân dân nước ta chủ trương chuyển
đổi nền kinh tế nước ta sang kinh tế nhiều thành phần, vận động theo quy chế
thị trường có sự quản lí của nhà nước lúc này nền kinh tế của Việt Nam có
bước chuyển biến rõ rệt, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện,
nâng cao.
Trong quá trình tồn tại và phát triển con người không thõa mãn với
những cái có sẵn trong giới tự nhiên, mà luôn luôn tiến hành sản xuất vật chất
nhằm tạo ra các tư liệu sinh hoạt là yêu cầu càng phong phú và đa dạng của
con người, việc sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt là yêu cầu khách quan của đời

sống xã hội, bằng việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế
con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình .
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển
của mình,con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ các mặt của đời sống xã
hội .Tất cả các quan hệ xã hội về nhà nước nghệ thuật,tôn giáo đến hình
thành, biến đổi trên cơ sở sản xuất vật chất,khái quát lịch sử phát triển của
nhân loại, C.Mác đã kết luận:“Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật
chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của
một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó người ta phát triển các
Page 15
thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả
những quan điểm tôn giáo của con con người ta”
(8)
Trong quá trình sản xuất vật chất con người không ngừng làm biến đổi tư
nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật
chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quy định sự
biến đổi phát triển các mặt của đời sống xã hội,giai đoạn phát triển xã hội từ
thấp đến cao, chính vì vậy phải tìm cơ sở xâu xa của các hiện tượng xã hội ở
trong nền sản xuất vật chất của xã hội .
Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế -xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Sự vận động phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thành kinh tế - xã hội
là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên điều đó do quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách khoa học phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa
cao với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất dẫn tới sự kiềm hãm lực lượng sản xuất.
Nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu đòi hỏi phải thay thế
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Tính mâu thuẫn gây gắt trong lĩnh vực kinh tế được biểu hiện trên lĩnh
vực chính trị xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân,nhân dân lao động
với giai cấp tư sản sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới sự
ra đời của nền chuyên chính vô sản và sự xác lập hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa.C.Mác và Ph.Ănghen dự báo sự ra đời của hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ những nước tư bản phát triển những căn cứ
vào những điều kiện thực tế cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX Lê nin đã dự báo
sự xuất hiện của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước có
Page 16
trình độ phát triển trung bình và những dân tộc thuộc địa. Trên cơ sở nghiên
cứu quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác dự báo về sự xuất hiện
giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải
xã hội trở nên dồi dào, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển,
lao động của con người được giảm nhẹ, thực hiện phân phối theo nguyên tắc “
làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, C.Mác đã viết:“Khi mà lao
động trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó
còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống, khi mà cùng với sự phát triển toàn
diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ ngày càng tăng lên và tất cả các
nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi đó người ta mới có thể
vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có
thể ghi lên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”
(9)
Về mặt xã hội: Trình độ xã hội phát triển ngày càng cao, con người có
điều kiện phát triển năng lực của mình, tri thức con người được nâng cao,
không còn sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giai cấp và nhà nước sẽ
tiêu vong. Chỉ lúc đó, một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thực sự không hạn chế
mới có thể có và được thực hiện. Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tiếp tục đưa ra những luận giải về mô hình xã hội

trong tương lai. Ông cho rằng, khi xã hội đạt được trình độ phát triển cao như
vậy, thì dân chủ mới thực hiện đầy đủ, dân chủ cho mọi người, không còn đối
tượng bị hạn chế dân chủ, do vậy dân chủ cũng không còn, nhà nước luật pháp
tự tiêu vong, pháp luật trở thành phong tục, tập quán, thành quan niệm đạo
đức mọi người tự giác thực hiện. Tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa, con người được giải phóng hoàn toàn, chuyển từ
vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, có điều kiện phát triển
toàn diện năng lực và mang hết tài năng, trí tuệ cống hiến cho xã
Page 17
hội V.I.Lênin cho rằng, không phải nhà nước tiêu vong ngay một lúc, mà là
một quá trình: “Chúng ta chỉ có quyền nói rằng, nhà nước tất nhiên sẽ tiêu
vong đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của quá trình ấy, sự phụ
thuộc của quá trình ấy vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa
cộng sản”.
(10)
Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai
đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản, các ông đều nêu lên những
điều kiện kinh tế - xã hội để đảm bảo cho sự xuất hiện của giai đoạn này. Các
điều kiện đó là:
Một là, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin dự báo về giai đoạn cao của
hình thái kinh tế - cộng sản chủ nghĩa khi có những điều kiện kinh tế - xã hội
cho sự xuất hiện của giai đoạn này.
Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển lực
lượng sản xuất, cơ cấu lại tổ chức xã hội về mọi mặt, giáo dục tinh thần tự
giác của con người
Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác
nhau, tuỳ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện. Khi chưa xuất
hiện giai đoạn cao thì “trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản,

không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản
nhưng không có giai cấp tư sản:”
(11)
. Khi chưa đạt đến giai đoạn cao của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa tư
bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận của chủ nghĩa
Mác về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Tính giai cấp của nhà
nước, của dân chủ vẫn còn tồn tại. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác–
Lênin đưa ra các dự báo và luận giải về sự ra đời, phát triển của hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa trên cơ sở phân tích quy luật phát triển khách
quan của xã hội, đặc biệt là quy luật kinh tế của sự vận động của xã hội tư bản
Page 18
chủ nghĩa. Thế nhưng, lịch sử phát triển của xã hội luôn luôn chịu tác động
của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan trong những điều kiện xác định, từ
đó tạo nên tính phong phú đa dạng của tiến trình lịch sử phát triển của mỗi
cộng đồng người cũng như của toàn bộ lịch sử nhân loại. Do vậy, tiến trình
phát triển của lịch sử không bao giờ là con đường thẳng, trái lại nó có thể phải
trải qua những bước thăng trầm với những con đường vòng, thậm chí phải trải
qua những bước khủng hoảng và thụt lùi tạm thời trên con đường phát triển
của nó. Đó là biện chứng của lịch sử. Từ đó, C.Mác đưa ra kết luận:“tôi coi
sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên”
(12)
.
4. Kết luận
Qua việc nghiên cứu một cách khái quát hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa đã giúp cho chúng ta biết thêm về xu hướng tất yếu của sự ra
đời của nó chính là quá trình lịch sử tự nhiên mang tính chất khách quan chứ
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Trong mỗi hình thái
kinh tế - xã hội thì có ba bộ phận cơ bản là quan hệ sản xuất phải phù hợp với

lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng, chúng có mối
quan hệ biện chứng và tác động qua lại lẫn nhau trong đó lực lượng sản xuất
có vai trò quyết định. Trong quá trình phát triển của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩathì được chia ra làm ba giai đoạn là: thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, xã hội xã hội chủ nghĩa và giai đoạn cao của hình thái kinh tế
cộng sản chủ nghĩa. Trong mỗi gai đoạn đó có những nội dung và đặc điểm
khác nhau phù hợp với sự phát triển của từng thời kì nhất định của quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó nó trở thành tiền đề lý luận cơ bản để xây
dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi quốc gia.
Tài liệu tham khảo:
Page 19
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1993,t.23,tr.16
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1974,t.1,tr.163
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1993,t.13,tr.15
(4,5)C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1995,t.4,tr.603,604.
(6) V.I.Lênin: Toàn tập,Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva,1976,t.33,tr.104.
(7) V.I.Lênin: Toàn tập,Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva,1976,t.33,tr.223
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà
Nội, 199, t.34, tr.500
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1995,t.19,tr.36
(10) V.I.Lênin: Toàn tập,Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva,1976,t.33,tr.118.
(11) V.I.Lênin: Toàn tập,Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva,1976,t.33,tr.121.
(12) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm
2004, t. 23, tr.21
Page 20

Page 21

×