Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Bai thu hoach kien thuc an ninh quoc phong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.72 KB, 29 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.
Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm
lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước".
Thật vậy, trải qua hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần ấy, làn
sóng ấy, sức mạnh đoàn kết ấy đã biết bao lần trở thành thứ vũ khí lợi hại, sắc bén để
đánh tan biết bao kẻ thù xâm lược, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Nhìn lại lịch
sử, thời nhà Hồ, khi chuẩn bị bàn kế sách đánh giặc ngoại xâm, Hồ Nguyên Trừng
(con trai của Hồ Quý Ly) đã nói "Thần không sợ đánh mà chỉ sợ lòng dân không
theo". Đến thời đại Hồ Chí Minh, sức mạnh toàn dân, tinh thần đại đoàn kết dân tộc
đã được Bác Hồ kính yêu khẳng định: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn
lần dân liệu cũng xong" và "Đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, đại thành công".
Sức mạnh toàn dân, tinh thần đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đánh bại hai kẻ thù sừng sỏ: thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền quốc phòng nói chung và nền QP-AN nhân dân nói riêng có
một vị trí, ý nghĩa vô cùng quan trọng. Ðối với nước ta, QP-AN là công cuộc giữ
nước của quốc gia độc lập có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là hoạt động của cả
nước, lấy lực lượng vũ trang, công an nhân dân làm nòng cốt nhằm giữ vững hòa
bình, răn đe, ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động chống phá của kẻ thù, đồng thời sẵn
sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mô. Vì thế, xây dựng
và đấu tranh QP-AN luôn thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa tính giai cấp nhân
dân, dân tộc; mang đậm dấu ấn của cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới,
hoàn cảnh mới; phong phú về nội dung, linh hoạt, sáng tạo về hình thức và phương
pháp; tập trung, thống nhất về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện.


QP-AN toàn dân là quan điểm cơ bản của Ðảng, Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức, xây dựng nền QP-AN của đất nước. Xác định đúng vị trí, vai trò QPAN phản ánh tầm nhìn chiến lược của Ðảng về sự cần thiết phải tiếp tục củng cố,


tăng cường QP-AN, đồng thời chỉ rõ mối quan hệ không thể tách rời giữa quốc
phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế...
Văn kiện Đại hội XI của Ðảng đã xác định một trong nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên của Ðảng, Nhà nước và toàn dân là tăng cường QP-AN, giữ vững an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Luận điểm ấy vừa nêu bật vị trí nổi trội, vai trò, tầm
quan trọng của QP-AN, đồng thời khẳng định ý thức trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa
vụ của mọi công dân, mọi tổ chức phải đóng góp tài năng và trí tuệ vào việc thực
hiện tốt nhiệm vụ QP-AN bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
mới.
Vị trí, vai trò nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của QP-AN có nguồn gốc từ mối
quan hệ biện chứng giữa quốc phòng, an ninh đối ngoại với các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội; giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nếu QP-AN được giữ vững và tăng
cường, tất yếu sẽ góp phần quan trọng vào việc tạo lập, giữ gìn môi trường hòa bình,
ổn định đất nước, phát triển kinh tế, xã hội, chủ động hội nhập kinh tế và mở rộng
quan hệ đối ngoại... tạo nền tảng vững chắc thực hiện khát vọng của nhân dân, sự lựa
chọn đúng đắn của Ðảng ta vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh.
Đảng ta khẳng định: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng Chủ
nghĩa xã hội chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn
coi trọng quốc phòng - an ninh, coi đó là nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ".
Xây dựng nền QP-AN là tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Nhằm bảo vệ vững xã hội chủ nghĩa chắc độc lập chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đât nước; bảo vệ


lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng
văn hoá, xã hội; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hoà bình, phát triển đất nước
theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.

Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chỉ có mục đích duy nhất là tự vệ
chính đáng. Đặc trưng thể hiện sự khác nhau về bản chất trong xây dựng nền quốc
phòng an ninh của những quốc gia có độc lập chủ quyền đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa với các nước khác. Chúng ta xây dựng nền quốc phòng, an ninh nhân dân
vững mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Đó là nền quốc phòng, an ninh vì dân, của dân và do toàn thể nhân dân tiến
hành. Điều đó là thể hiện truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc ta trong lịch sử
dựng nước và giữ nước. Vì dân, của dân, do dân và mục đích tự vệ của nền quốc
phòng an ninh cho phép ta huy động mọi người, mọi tổ chức, mọi lực lượng để thực
hiện xây dựng nền quốc phòng, an ninh luôn xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và
khả năng của nhân dân, là đặc trưng trong đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
Đó là nền quốc phòng, an ninh có sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố tạo
thành. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng, an ninh nước ta tạo thành bởi rất
nhiều yếu tố như chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, khoa học, quân sự, an ninh…
cả ở trong nước, ngoài nước, của dân tộc và thời đại, trong đó những yếu tố bên
trong của dân tộc bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Sức mạnh tổng hợp của nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là cơ sở, tiền đề và là biện pháp để nhân dân
đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Nền quốc phòng, an ninh nhân dân được xây dựng toàn diện và từng bước
hiện đại. Việc tạo ra sức mạnh quốc phòng, an ninh không chỉ ở sức mạnh quân sự,
an ninh mà phải huy động được sức mạnh của toàn dân về mọi mặt chính trị, quân
sự, an ninh, kinh tế, văn hoá, khoa học. Phải kết hợp hữu cơ giữa quốc phòng, an


ninh với các mặt hoạt động xây dựng đất nước, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an
ninh với hoạt động đối ngoại.
Xây dựng nền quốc phòng, an ninh toàn diện phải đi đôi với xây dựng nền

quốc phòng, an ninh hiện đại là một tất yếu khách quan. Xây dựng quân đội nhân
dân, công an nhân dân từng bước hiện đại. Kết hợp giữa xây dựng con người có giác
ngộ chính trị, có tri thức với vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại. Phát triển công nghiệp
quốc phòng, từng bước trang bị hiện đại cho các lực lượng vũ trang nhân dân. Kết
hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
Nền quốc phòng toàn dân gắn chặt với an ninh nhân dân. Nền quốc phòng và
nền an ninh nhân dân của chúng ta đều được xây dựng nhằm mục đích tự vệ, đều
phải chống thù trong, giặc ngoài để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giữa
nền quốc phòng toàn dân với nền an ninh nhân dân chỉ khác nhau về phương thức tổ
chức lực lượng, hoạt động cụ thể, theo mục tiêu cụ thể được phân công mà thôi. Kết
hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh, phải thường xuyên và tiến hành đồng bộ,
thống nhất từ trong chiến lược, qui hoạch, kế hoạch xây dựng, hoạt động của cả
nước cũng như từng vùng, miền, địa phương, mọi ngành, mọi cấp.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Vài nét về huyện Ea H'Leo.
Huyện EaH’leo được thành lập ngày 08/4/1980 theo Quyết định số 110/QĐHĐBT của Hội đồng bộ trưởng, huyện là đơn vị hành chính được tách ra từ huyện
Krông Buk với 04 xã và tổng dân số của huyện lúc bấy giờ là 15.000 người, trong đó
đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 70% dân số của cả huyện. Qua nhiều lần chia tách,
đến nay huyện có 11 xã và 01 trị trấn, gồm: thị trấn Ea Drăng, xã Ea Khal, Ea Sol,
Ea Hiao, Dliê Yang, Cư Mốt, Ea Wy, Ea Tir, Ea Ral, Ea H’leo, Ea Nam, Cư aMung;
có 188 thôn buôn, trong đó có 53 buôn dân tộc thiểu số tại chỗ; diện tính tự nhiên
133 512 ha; dân số 123 773 người, dân tộc thiểu số chiếm 40%.
Ea H'Leo là một trong những huyện có vị trí rất quan trọng trên địa bàn chiến
lược của tỉnh Đắk Lắk, phía Tây giáp huyện Ea Súp (Đắk Lắk), phía Nam giáp


huyện Krông Buk, Krông năng (Đắk Lắk), phía Đông giáp thị xã A Yun Pa (Gia
Lai), phía Bắc giáp huyện Cư Pưh (Gia Lai). Huyện cách trung tâm thành phố Buôn
Ma Thuột 82 km, có diện tích tự nhiên là 133.512 ha. Tổng dân số khoảng hơn
125.000 người, gồm 26 dân tộc khác nhau sinh sống. trong đó có hơn 24.000 người

là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Dân số phân bố không đồng đều chủ yếu tập
trung ở thị trấn Ea Đrăng và trung tâm các xã. Huyện có 12 xã, thị trấn với 188 thôn
buôn, tổ dân phố (122 thôn, 56 buôn, 13 TDP); có 9 công ty, nông trường của tỉnh,
trung ương đứng chân trên địa bàn. Hệ thống chính trị được xây dựng cơ bản từ
huyện đến cơ sở 180/188 thôn buôn TDP có Đảng viên, trên 90% thôn buôn có chi
bộ, 12/12 xã thị trấn có chi bộ quân sự trong đó có 1 chi bộ có cấp uỷ (xã Ea Hiao)
đảng trong LLDQTV, hàng năm tăng 2% đến 3% so với năm trước, đảng viên đạt
15,88 %. 100% thôn, buôn, TDP đều có tổ chức đoàn thể quần chúng như: Phụ nữ,
Mặt trận, Nông dân, Thanh niên, Cựu chiến binh… hoạt động có hiệu quả. Các xã,
Thị trấn đều có hệ thống đài phát thanh cơ sở, Văn hoá xã hội phát triển. 100%
người dân được nghe đài phát thanh của xã, huyện, khoảng 90% hộ có ti vi, 11/12
xã, thị trấn có điện lưới quốc gia. Nhân dân trên địa bàn các xã, thị trấn đều có
truyền thống cách mạng. một lòng trung thành với Đảng với Tổ quốc. Vừa qua được
Nhà nước tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho huyện và 2 xã
Ea Hiao, Ea Khăl. Địa bàn huyện có 4 tôn giáo chính đó là: Tin lành, Thiên chúa,
Phật giáo và Cao đài.
Hoạt động của hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở ngày càng được củng cố,
kiện toàn, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ngày một
nâng lên, hoạt động của chính quyền và các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội ngày
càng có hiệu quả đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng tình hình hiện nay.
Nghị định 119/2004/NĐ-CP ngày 11/05/2004, cùng các văn bản quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành nhằm thể chế hoá các quan điểm của Đảng. Pháp luật của
Nhà nước về công tác quốc phòng trong tình hình mới tạo điều kiện thuận lợi cho


địa phương có cơ sở pháp lý xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh tiềm lực
kinh tế xã hội Quốc phòng - An ninh luôn luôn phát triển.
Trong những năm qua được sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo của cấp uỷ đảng,
chính quyền địa phương, sự phối hợp chặt chẽ của các ban ngành đoàn thể từ huyện
đến cơ sở và nhân dân các dân tộc trong huyện, đời sống của nhân dân tiếp tục được

cải thiện tình hình kinh tế chính trị xã hội cơ bản được ổn định, QP-AN được củng
cố tăng cường đó là những nhân tố thuận lợi thúc đẩy để xây dựng khu vực phòng
thủ của huyện liên hoàn, vững chắc đáp ứng được yêu cầu chiến lược bảo vệ tổ quốc
trong tình hình mới
Tuy nhiên những năm qua trên địa bàn tỉnh ĐắkLắk nói chung, huyện Ea
H’Leo nói riêng còn nhiều vấn đề kinh tế xã hội QP- AN đặt ra cần quan tâm, đời
sống của một số bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, đặc biệt là đồng bào dân số
thiểu số tại chỗ, vùng sâu vùng xa, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhưng chưa vững chắc, hiện
tượng tái nghèo, tái mù chữ vẫn còn xẩy ra.
Các thế lực thù địch phản động bên ngoài thường xuyên cấu kết với bọn trong
nước lợi dụng vấn đề “Dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền" và các phần tử chống
đối đẩy mạnh các hoạt động chống phá gây mất ổn định về an ninh chính trị.
Nhận thức về nhiệm vụ quân sự quốc phòng và ý thức trách nhiệm cán bộ và
nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới còn hạn chế, các chế
độ chính sách chưa đáp ứng kịp nhu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nói riêng,
nhiệm vụ quốc phòng nói chung.
Những đặc điểm trên đã tác động chi phối đến việc triển khai thực hiện nhiệm
vụ QP-AN, song được sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo của cấp uỷ đảng, sự quản lý của
chính quyền và vai trò làm tham mưu cho các ban ngành mà trọng tâm là cơ quan
quân sự các cấp trong thời gian qua huyện Ea H’Leo ổn định về chính trị, vững
mạnh về QP-AN, kinh tế phát triển mạnh, đời sống của nhân dân ngày càng được
nâng lên.
2. Thực trạng nền QP-AN của địa phương


Sự lãnh đạo của Đảng: Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND huyện đã quán triệt
sâu sắc các Nghị quyết của Đảng, Nghị định 119/2004NĐ-CP của chính phủ các văn
bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về công tác quốc phòng địa phương. Nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân, giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công

nghiệp hoá – hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
Trên cơ sở đó Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện đã kịp thời ra các Nghị quyết,
Chỉ thị, Quyết định, Kế hoạch, Hướng dẫn để lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện
công tác quốc phòng phù hợp với tình hình và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng – an ninh của địa phương.
Hàng năm Huyện uỷ, UBND huyện ban hành chỉ thị về QP-AN được quán
triệt trong Hội nghị triển khai nhiệm vụ quốc phòng quân sự của huyện.
Đảng bộ huyện đã tập trung lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ QP-AN và chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Huyện ủy đã ban hành Nghị quyết xây
dựng khu vực phòng thủ "cơ bản, liên hoàn, vững chắc"; tổ chức quán triệt trong
toàn Đảng, toàn dân, làm cho cán bộ, nhân dân nhận thức sâu sắc về yêu cầu, nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khai thác, xây
dựng các tiềm lực để củng cố ngày càng vững chắc khu vực phòng thủ, thế trận
phòng thủ của huyện. Nhờ vậy đã làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù,
tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế, xã hội phát
triển.
Tiếp tục củng cố và tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận
quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; tăng cường khả năng phòng
thủ, sẵn sàng chiến đấu, phòng chống âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch.
Xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến phòng thủ của huyện và kế
hoạch tác chiến trị an của các xã, thị trấn; chú trọng chỉ đạo xây dựng lực lượng dân
quân tự vệ, dự bị động viên, công tác tuyển quân. Chất lượng tổng hợp và sức mạnh


chiến đấu của lực lượng vũ trang ngày càng được nâng cao, tình hình an ninh chính
trị trên địa bàn huyện được giữ vững, an ninh nông thôn, trật tự an toàn xã hội cơ
bản được ổn định.
Sự điều hành, quản lý của chính quyền: Trong thời gian qua, chính quyền
các cấp của huyện luôn thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính

quyền cơ sở đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng ủy, Chi ủy.
HĐND huyện, xã thực hiện tốt việc họp theo quy định, qua đó đề ra Nghị
quyết và xác định các chủ trương, biện pháp thực hiện nhiệm vụ QP-AN của địa
phương trên cơ sở các nghị quyết của, đường lối quân sự của Đảng, các chính sách
của Nhà nước, Chỉ thị … của cấp trên.
UBND các cấp tập trung đề ra các kế hoạch, biện pháp thực hiện QP-AN của
địa phương. Thực hiện tốt công tác huy động nhân vật lực cho nhiệm vụ QP-AN
theo yêu cầu. Đã xác định kế hoạch và biện pháp xây dựng lực lượng DQTV, lực
lượng DBĐV, lực lượng ANND vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hoạt động tác
chiến trị an và đối phó với các tình huống.
Công tác tham mưu của các ban ngành đoàn thể: Nhiều năm qua Ban
CHQS huyện, các ban ngành đoàn thể đã thực hiện tốt chức năng tham mưu cho
Huyện uỷ, HĐND, UBND các cấp lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện nghiêm
túc, đồng bộ, toàn diện nhiệm vụ quốc phòng, công tác quân sự địa phương, góp
phần cùng Đảng bộ và nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội, củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh trong khu vực
phòng thủ huyện.
Ban CHQS huyện, các ban ngành đoàn thể và Ban quân sự các xã, thị trấn thường
xuyên làm tốt chức năng tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương quán triệt
sâu sắc đường lối, nhiệm vụ quốc phòng an ninh của Đảng trong tình hình mới. Phối
hợp cùng với các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân chăm lo giáo
dục nhiệm vụ cách mạng, đường lối đối mới của Đảng, nhất là quan điểm đường lối
về phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến


tranh nhân dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng khu vực phòng thủ vững
chắc mà tiêu biểu là cuộc diễn tập chiến đấu trị an cho 3 đơn vị (xã Ea Wy, Cư A
Mung và TT Ea DRăng).
Song song với việc chuẩn bị các nội dung diễn tập, Ban CHQS huyện còn tham mưu
cho Huyện ủy ra nghị quyết chuyên đề lãnh đạo triển khai tổ chức thực hiện, phối

hợp hiệp đồng với Công an và các phòng, ban, ngành, đoàn thể, các đơn vị tích cực
tham gia chuẩn bị các điều kiện bảo đảm như: lập dự toán ngân sách, trinh sát địa
điểm thực binh, dự kiến biên chế khung tập; tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng; những vấn đề lý luận, công tác tham mưu, thống nhất các quy định cho
khung tập; giúp các ban, ngành, đoàn thể xây dựng văn kiện và huấn luyện bổ sung
các nội dung diễn tập; xây dựng sở chỉ huy diễn tập, trận địa thực binh và bổ sung
một số trang thiết bị cần thiết khác.
Đặc biệt là đã nghiên cứu, xây dựng ý định diễn tập phù hợp với thủ đoạn tác chiến
mới của kẻ thù và điều kiện thực tế của địa phương; đảm bảo tốt nhất về vũ khí trang
bị, đạn dược và các phương tiện kỹ thuật.
Cấp uỷ, chính quyền, ban ngành, đoàn thể địa phương đã quan tâm chăm lo tuyên
truyền, giáo dục tình hình, nhiệm vụ cách mạng và đường lối đổi mới của Đảng, nhất
là chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn
với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng LLVT và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới cho cán bộ đảng viên, LLVT và nhân dân. Đại bộ phận cán bộ đảng
viên, nhất là đội ngũ chủ trì các cấp, các ngành đã nhận thức rõ âm mưu “Diễn biến
hoà bình", bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch; nâng cao ý
thức trách nhiệm trong lãnh đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Công tác tuyển giao quân được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của
cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, sự phối kết hợp đồng bộ của các cơ quan chức
năng với nhiều hình thức, cách làm mới, có hiệu quả đảm bảo công khai, đúng luật,
dân chủ và có chính sách động viên thiết thực. Kết quả giao quân luôn hoàn thành
100% chỉ tiêu kế hoạch được giao. Các quân nhân hoàn thành nghĩa vụ trở về địa


phương phần lớn được đào tạo nghề và giới thiệu việc làm, tạo khí thế phấn khởi
trong chấp hành Luật NVQS trong mọi tầng lớp nhân dân. (nhận quân là 27 đ/c; giao
quân là 200 thanh niên)
Thường xuyên thực hiện truyền thống “Uống nước, nhớ nguồn”, “đền ơn, đáp
nghĩa”. Trong những năm qua, công tác chính sách hậu phương quân đội được thực

hiện có hiệu quả. Ban CHQS huyện, các ban ngành đã tham mưu cho huyện uỷ,
UBND huyện lãnh đạo chỉ đạo thực hiện chính sách hậu phương quân đội gắn với
thực hiện chính sách xã hội và trực tiếp tổ chức chi trả trợ cấp cho các đối tượng
theo quyết định 290, 142 của Thủ tướng Chính phủ. Khảo sát đối tượng tham gia
chiến tranh sau 30/4/1975 là 855 người …
Phát huy thành tích đã đạt được trong thời gian qua, Đảng bộ, Ban CHQS, các
ban ngành huyện đã, đang và sẽ tiếp tục làm tốt hơn nữa vai trò tham mưu và tổ
chức thực hiện toàn diện công tác quân sự quốc phòng địa phương, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Để đạt được những kết quả nêu trên, trước hết là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng
đắn của Đảng ủy các cấp, sự điều hành, quản lý có hiệu quả của chính quyền địa
phương, sự tham mưu kịp thời của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể. Đặc
biệt là sự đoàn kết nhất trí cao của hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân trên địa
bàn.
Kết quả xây dựng lực lượng và thế trận QP-AN: Trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk
nói chung, huyện EaH’leo nói riêng, kinh tế-xã hội tiếp tục phát triển ổn định; QPAN được củng cố. Nhưng các thế lực thù địch bọn phản động FULRÔ trong và
ngoài nước tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động cài cắm móc nối xây dựng lực lượng,
khôi phục “Tin lành đề Ga”, các tà đạo vẫn nhen nhóm hoạt động phát triển lực
lượng, mở rộng địa bàn ; tình hình di cư tự do vào địa bàn huyện sẽ phức tạp khi có
sự móc nối chỉ đạo của các thế lực thù địch. Lĩnh vực an ninh nông thôn, đặc biệt là
việc tranh chấp đất đai, khiếu kiện ở một số địa bàn vẫn diễn biến phức tạp tạo nên
sự cản trở trong thực hiện chủ trương giải toả đền bù, dễ bị các thế lực thù địch lợi


dụng tạo thành các “điểm nóng”, thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường; tình hình
KT-XH vẫn còn những khó khăn, nhất là lạm phát, ảnh hưởng đến hoạt động QP-An
và tác động trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và LLVT huyện.
Tuy nhiên chúng ta triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh cũng có
những thuận lợi cơ bản đó là : Tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội cơ bản được
giữ vững, ổn định đời sống kinh tế, văn hoá xã hội tiếp tục được cải thiện hầu hết

cán bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
sự điều hành của chính quyền các cấp.
Tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của
Nhà nước về xây dựng các tiềm lực trong khu vực phòng thủ, bảo đảm xây dựng tỉnh
thành khu vực phong thủ vững chắc theo Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính
trị, Nghị quyết 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ.
Triển khai thực hiện Thông tư số 78/2011/TT-BQP, ngày 25/5/2011 của Bộ
QP tổ chức khảo sát khả năng động viên nền kinh tế quốc dân bảo đảm nhu cầu quốc
phòng những năm đầu chiến tranh, làm cơ sở triển khai xây dựng kế hoạch bảo đảm
nhu cầu năm đầu chiến tranh (kế hoạch B) của địa phương theo Chỉ thị số
12/2008/CT-TTG, ngày 26/3/2008 của thủ tướng Chính phủ. Quá trình thực hiện
nhiệm vụ chính trị xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội cần chú trọng kết hợp chặt
chẽ với cũng cố, tăng cường quốc phòng an ninh.
Chỉ đạo chặt chẽ nghiên cứu kịp thời rà soát điều chỉnh, bổ sung Quyết tâm A,
kế hoạch tác chiến, bảo đảm cho tác chiến sát với tinh hình nhiệm vụ theo chỉ thị
1641/TC-BTL, ngày 15/9/2009 của Tư lệnh QK 5 bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch xây
dựng huy động và tiếp nhận LLDBĐV.
Hoàn thành triển khai quy hoạch xây dựng thế trận quân sự trong khu vực
phòng thủ đến năm 2015 theo hướng dẫn của Bộ CHQS tỉnh. Tập trung củng cố kiện
toàn Ban chỉ đạo phòng không nhân dân các cấp; tổ chức triển khai thực hiện
nghiêm túc Nghị định số 65/2002/NĐ-CP ngày 01/7/2002 của chính phủ về công tác


phòng không nhân dân và thông tư số 118/2004/TT-BQP ngày 07/9/2004 của Bộ
Quốc phòng về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 65 của Chính phủ.
Tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc kế hoạch phối hợp bảo vệ an ninh
Quốc gia và trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới theo Nghị định 77/2010/NĐCP ngày12/7/2010 của Chính phủ từ huyện đến cơ sở. Nghị định số 74/2010/NĐ-CP
ngày12/7/2010 của Chính phủ quy định về phối hợp hoạt động giữa LLDQTV với
LL Công an xã, thị trấn, lực lượng kiểm lâm và các lực lượng khác trong công tác
giữ gìn ANCT, TTATXH, trong công tác bảo vệ rừng.

Chủ động rà soát và quản lý chặt chẽ quỹ đất quốc phòng trên địa bàn. UBND
huyện đã chủ động bố trí ngân sách, chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp với
Ban CHQS huyện tiến hành giải quyết những vấn đề có liên quan về đất quốc phòng,
các thủ tục về quyền sử dụng đất vào mục đích quốc phòng.
Công tác giáo dục QP-AN: Cấp ủy, chính quyền địa phương và các ban,
ngành, đoàn thể trong tỉnh thường xuyên quán triệt, tuyên truyền sâu rộng cho cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của địa
phương; nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; các nghị quyết
của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng-an ninh trong giai đoạn cách mạng
mới. Thông qua công tác giáo dục tuyên truyền đã góp phần nâng cao nhận thức cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, ý thức tự giác gìn giữ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa
phương, nêu cao tình thần cảnh giác cách mạng trong phòng, chống các luận điệu
xuyên tạc và các quan điểm sai trái trong thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch. Hội đồng giáo dục quốc phòng, an ninh các cấp luôn phát huy đạt kết
quả tốt, công tác giáo dục quốc phòng, an ninh cho các đối tượng được các ngành,
các cấp chú trọng, thực hiện nề nếp đạt hiệu quả.
Công tác giáo dục quốc phòng toàn dân được triển khai thực sự có chiều sâu, diện
rộng, từng bước được xã hội hoá và đạt được kết quả quan trọng. Cơ quan quân sự
đã phối hợp tham mưu chỉ đạo chặt chẽ việc giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP-AN


cho 315 thuộc đối tượng 4, 5; 26 đ/c tham gia bồi dưỡng kiến thức QP-AN đối tượng
3; Giáo dục chính trị, kiến thức quân sự cho lực lượng DQTV, DBĐV và học sinh
theo kế hoạch.
Xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh là xây dựng lực lượng chính trị và
lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu của quốc phòng an ninh, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này cần đặc biệt tập
trung xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần.
Tiềm lực chính trị, tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là

khả năng về chính trị, tinh thần có thể huy động tạo nên sức mạnh để thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tiềm lực chinh trị tinh thần được biểu hiện ở năng
lực lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của nhà nước; ý chí quyết tâm của nhân
dân, của các lực lượng vũ trang nhân dân sẵn sàng đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong mọi hoàn cảnh, tình huống. Tiềm lực
chính trị tinh thần là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh quốc phòng, an ninh, có tác
động to lớn đến hiệu quả xây dựng và sử dụng các tiềm lực khác, là cơ sở, nền tảng
của tiềm lực quân sự, an ninh.
Xây dựng tình yêu quê hương đất nước, niềm tin đối với sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của nhà nước, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân; nâng cao cảnh giác cách mạng; giữ vững ổn định chinh
trị, trật tự an toàn xã hội. Thực hiện tốt giáo dục quốc phòng, an ninh.
Giải pháp xây dựng thế trận lòng dân: Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc đang đặt ra những yêu cầu mới cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng
cố quốc QP-AN của đất nước nói chung, xây dựng khu vực phòng thủ địa phương
nói riêng. Trong đó, vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sức mạnh của
KVPT là xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần vững chắc, mà trọng tâm là “thế trận
lòng dân”.


Tiềm lực chính trị - tinh thần trong KVPT là tổng thể các yếu tố: Đảng, chính quyền,
các đoàn thể chính trị - xã hội và các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động, tổ
chức lực lượng quần chúng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tập trung thống nhất của cấp
ủy đảng, điều hành của chính quyền, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc để tổ chức, xây dựng KVPT địa phương vững chắc. "Thế trận lòng
dân" là một bộ phận của tiềm lực chính trị - tinh thần; là thế trận dựa vào nhân dân,
được nhân dân ủng hộ, che chở giúp đỡ; đồng thời, huy động và khai thác tiềm lực
to lớn từ nhân dân, sức mạnh vô địch của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu, thủ
đoạn chống phá của kẻ thù trong thời bình và khi xảy ra chiến tranh. Thế trận này

gắn kết chặt chẽ với thế trận chiến tranh nhân dân, yếu tố đặc biệt quan trọng tạo
điều kiện cơ bản cho lực lượng vũ trang và nhân dân bám trụ, cơ động đánh địch,
bảo vệ địa phương, đất nước. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, nhờ xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, biết khơi dậy và
phát huy lòng yêu nước, căm thù giặc và sức mạnh của lòng dân, các lực lượng cách
mạng đã tổ chức đấu tranh bằng nhiều hình thức, thực hiện Đảng bám dân, dân bám
đất, LLVT bám địch, liên tục vây ép, tiến công địch cả về chính trị, quân sự, tiêu hao
từng bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh, "căng, kéo, kìm, giữ địch", buộc
chúng phải phân tán đối phó, góp phần làm cho địch sa lầy bị động, tạo thế cho cấp
trên và cùng bộ đội chủ lực ta tiêu diệt địch, giành thắng lợi. Trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, "thế trận lòng dân" tiếp tục được Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta chăm lo xây dựng và củng cố vững chắc; qua đó, tạo dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, kết hợp với thế trận an ninh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, đấu tranh ngăn chặn và
làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" và các hoạt động lợi dụng
"dân chủ, nhân quyền" để chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; giữ vững an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội; đẩy mạnh công cuộc đổi mới, CNH, HĐH vì mục tiêu
"dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".


Trước tình hình ấy, Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “xây dựng thế trận lòng dân vững
chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”; xem đây là nhiệm vụ thường
xuyên, trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị;
trong đó, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước là yếu tố
quyết định. Song, ý chí, nguyện vọng của quần chúng nhân dân là cơ sở, điều kiện
tiên quyết và là nhân tố chủ yếu tác động đến hiệu quả xây dựng “thế trận lòng dân”
trong thời bình cũng như chuyển hoá thế trận ấy thành sức mạnh thời chiến để đánh
thắng mọi kẻ thù. Do đó, "thế trận lòng dân" chỉ có thể được xây dựng, củng cố trên
cơ sở hệ thống chính trị vững mạnh, trước hết và trực tiếp nhất là ở cơ sở, trong từng

KVPT địa phương. Đây cũng chính là xây dựng nền tảng, trọng tâm của xây dựng
tiềm lực chính trị - tinh thần của KVPT, đủ sức đề kháng trước mọi âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
Từ thực tiễn hoạt động xây dựng KVPT, để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc
trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp; trong đó, tập trung vào một
số vấn đề trọng yếu sau:
Một là, các cấp, các ngành cần nhận thức đúng vị trí, vai trò quan trọng chiến lược
của "thế trận lòng dân" trong thời kỳ mới; đồng thời, có các chủ trương, chính sách
đúng đắn, hợp lòng dân, chăm lo nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, tăng
cường giữ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tạo thành cao trào hành động
cách mạng, thi đua rộng khắp ở địa phương. Mục tiêu xây dựng “thế trận lòng dân”
hiện nay là xây dựng và phát huy vai trò động lực to lớn, quyết định của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là quá trình làm
cho mọi người Việt Nam phát huy cao nhất tinh thần trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
công dân trong phạm vi trách nhiệm được giao. Xây dựng “thế trận lòng dân” cũng
là xây dựng nền tảng CT-XH của nền QPTD trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên cơ
sở đồng thuận của toàn dân đoàn kết xung quanh Đảng, Nhà nước, quyết tâm thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Xây dựng “thế trận lòng


dân” vững chắc phải gắn với xây dựng cơ sở CT-XH bền vững trong KVPT. Cấp ủy
đảng, chính quyền các cấp ở địa phương cần nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng
hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn quan tâm chăm lo nâng cao đời
sống mọi mặt cho người dân; trước hết là “nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào
tạo nhân tài”, chăm lo sức khỏe nhân dân. Đảng và Nhà nước cần tiếp tục có những
chủ trương và giải pháp mạnh mẽ để giải phóng sức sản xuất trong dân, huy động
được nội lực từ dân; tạo điều kiện cho nhân dân lao động luôn được tiếp cận với
thành quả và biết ứng dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào
hoạt động sản xuất; khuyến khích mọi người dân vươn lên làm giàu chính đáng; tạo

điều kiện hơn nữa để nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo phát
triển toàn diện, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; đảm bảo tăng trưởng kinh tế
đi đôi với giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, năng lực
quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; kiên quyết đấu tranh khắc phục và đẩy
lùi tình trạng suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhất là tệ tham nhũng,
lãng phí, tệ quan liêu, nhũng nhiễu xa rời nhân dân trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên.
Trước hết, các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương phải có chủ trương và tổ chức
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ KT-XH, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và các
tổ chức, đoàn thể trong sạch vững mạnh; nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, tệ quan liêu, nhũng nhiễu nhân dân. Muốn vậy, phải phát huy tốt
Quy chế dân chủ ở cơ sở trong mọi hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, nhất là
trong lĩnh vực quản lý kinh tế, tài chính, công khai minh bạch các quy hoạch, các
định mức giá, các thủ tục, thời hạn giải quyết, thi hành các quyết định quy hoạch,
giải tỏa - đền bù đất đai, các dự án phát triển nông thôn…; bởi đây đang là những
vấn đề "nóng" gây bức xúc trong các tầng lớp nhân dân. Việc đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, tệ quan liêu của các cấp, các ngành, địa phương phải kết hợp giữa


tuyên truyền giáo dục với tăng cường pháp chế XHCN và thực hiện nhiều giải pháp,
biện pháp đồng bộ để ngăn chặn, xử lý hiệu quả, thống nhất, kiên quyết và triệt để.
Ba là, nâng cao chất lượng công tác giáo dục QP-AN, kết hợp chặt chẽ giữa xây
dựng thế trận QPTD với thế trận ANND trong điều kiện mới.
Trong giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP-AN, cần tiếp tục nghiên cứu đổi mới nội
dung, chương trình, hình thức, biện pháp một cách linh hoạt, phù hợp với đối tượng,
địa bàn cụ thể; tập trung quán triệt sâu sắc những quan điểm cơ bản của Đảng về xây
dựng thế trận QPTD gắn với thế trận ANND trong xây dựng KVPT vững chắc đến
các cấp, ngành, tổ chức CT-XH; khơi dậy trong mỗi người dân Việt Nam lòng yêu
nước XHCN, ý thức trách nhiệm, niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất

của dân tộc, làm cho nhân dân sẵn sàng đóng góp công sức, nhân lực, vật lực cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; chăm lo bảo vệ quyền làm chủ của
nhân dân, tạo mọi điều kiện để "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực cho công cuộc đổi mới đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân. Các cấp ủy đảng, chính quyền phải thường xuyên duy trì thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở một cách toàn diện trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, QP-AN…; công khai các hoạt động của cơ quan, tổ chức, nhất là người đứng
đầu cơ quan, đơn vị, địa phương, để dân được bàn bạc, phản biện, giám sát, kiểm tra,
tạo ra bầu không khí thực sự dân chủ, phấn khởi, tích cực của quần chúng nhân dân,
tạo niềm tin vững chắc trong nhân dân đối với các chủ trương của cấp ủy, chính
quyền, đoàn thể địa phương.
Năm là, phát huy truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc làm cơ sở để xây dựng "thế trận lòng dân".
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã căn dặn: “Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.
Người căn dặn: “Nước lấy dân làm gốc”, “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng


lợi trên nền nhân dân”. Và, rằng: “Đoàn kết tất cả những người thật sự yêu Tổ quốc,
yêu hòa bình”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành
công”. Thực tiễn trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta cho thấy: nhờ
nêu cao truyền thống đoàn kết, tinh thần dân tộc, tự chủ, tự cường, nên nhân dân ta
đã bảo vệ toàn vẹn non sông gấm vóc, giữ vững nền độc lập và bản sắc văn hóa của
mình.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, xây dựng, phát triển khối đại
đoàn kết toàn dân tộc đặt ra vừa cấp thiết vừa có tính chiến lược lâu dài; là trách
nhiệm của toàn xã hội mà trước hết là của hệ thống chính trị. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam ở các địa phương, cơ sở giữ vai trò quan trọng trong xây dựng khối đại đoàn

kết toàn dân tộc và “thế trận lòng dân”. Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể ở
địa phương cần hướng các hoạt động vào việc tập hợp đoàn kết rộng rãi các tầng lớp
nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, các thành phần kinh tế; đoàn kết ở mọi lứa
tuổi, mọi giới, mọi tầng lớp nhân dân trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài, phát
huy chủ nghĩa yêu nước chân chính, ý chí tự hào, tự tôn dân tộc. Các chủ trương
lãnh đạo phải thiết thực, hợp lòng dân, khơi dậy được lòng tin, truyền thống yêu
nước của nhân dân. Trên cơ sở đó, tạo được sự đồng thuận và tác dụng trực tiếp
trong các mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi của người dân đối với nhiệm vụ
chính trị của địa phương, với đất nước, với sự sống còn của chế độ chính trị.
Xây dựng "thế trận lòng dân" - trọng tâm của xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần
là cái gốc để xây dựng KVPT vững chắc, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh” trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của
đất nước.
Giải pháp xây dựng nền QP-AN:
Thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng - an ninh
Thực hiện Chỉ thị 12- CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ chính trị và Nghị định
116/2007/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ. Nội dunng giáo dục quốc phòng, an
ninh phải toàn diện, coi trọng giáo dục tình yêu quê hương, đất nước, chế độ xã hội


chủ nghĩa; nghĩa vụ công dân đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa; âm mưu, thủ đoạn của địch, đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về quốc phòng, an ninh. Làm cho mọi người, mọi tổ chức biết tự bảo
vệ trước sự chống phá của các thế lực thù địch. Phải vận dụng nhiều hình thức,
phương pháp giáo dục tuyên truyền để nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục quốc
phòng, an ninh.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức và nhân dân đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
an ninh nhân dân.
Cụ thể hoá các nội dung lãnh đạo về quốc phòng, an ninh và bổ sung cơ chế

hoạt động của từng cấp, từng nghành, từng địa phương, đặc biệt chú trọng khi xử trí
các tình huống phức tạp. Điều chỉnh cơ ấu quản lý Nhà nước về quốc phòng, an ninh
của bộ máy nhà nước các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Tổ chức phân công cán bộ
chuyên trách để phát huy vai trò tham mưu trong tổ chức, thực hiện cônng tác quốc
phòng, an ninh.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là trách nhiệm của toàn
dân. Mọi công dân, mọi tổ chức, lượng đều phải tham gia theo phạm và khả năng
của mình. Mỗi người phải tich cực học tập nâng cao hiểu biết về mọi mặt, nắm vững
kiến thức quốc phòng, an ninh,nhạn thức rõ âm mưu, hoạt động chống phá cách
mạng Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Trên cơ sở đó tự giác,
tích cực luyện tập các kỹ năng quân sự, an ninh và chủ động tham gia các hoạt động
về quốc phòng, an ninh do địa phương triển khai.
Nền quốc phòng nước ta là nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập tự
chủ, tự lực tự cường và ngày càng hiện đại, là nền quốc phòng của dân, do dân và vì
dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là nội dung cơ bản của chiến lược bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu thế toàn
cầu hóa kinh tế; những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới; sự xuất hiện loại


hình chiến tranh mới, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao; sự chống phá cách
mạng Việt Nam của các thế lực thù địch bằng chiến lược "diễn biến hòa bình" kết
hợp với bạo loạn lật đổ đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới đối với sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc của nhân dân ta. Trong điều kiện đó, "tính linh hoạt" của nền quốc phòng
toàn dân trở nên rất cao, nhiệm vụ quốc phòng được mở rộng. Nền quốc phòng toàn
dân nước ta vừa phải có khả năng ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động
phá hoại của các thế lực thù địch, vừa phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định,
tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời phải có đủ sức mạnh
ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh, đáp ứng mọi yêu cầu của sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là xây dựng cả lực lượng và thế trận; xây
dựng tiềm lực mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực chính trị - tinh thần; phát huy sức mạnh
tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị cho sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trong đó xây dựng thế trận có tầm quan trọng đặc biệt. Thế
trận quốc phòng toàn dân trong tình hình mới phải đáp ứng yêu cầu: Khi chưa xảy ra
chiến tranh thì toàn dân hăng hái lao động sản xuất, mọi công dân đều có trách
nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khi chiến tranh xảy ra thì thực hiện chiến tranh
nhân dân "cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc", tạo ra những "tấm lưới sắt", "bức
thành đồng", "thiên la địa võng" bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ðó là sức mạnh vô địch
của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trong tình hình mới đang tập trung
thực hiện tốt những vấn đề cơ bản sau:
Một là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận
an ninh nhân dân trong thế trận chung bảo vệ Tổ quốc. Trước sự phát triển của
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, quốc phòng và an ninh của nước ta ngày càng quan hệ
chặt chẽ, không tách rời nhau. Sự kết hợp giữa quốc phòng và an ninh là sự gắn kết
giữa hai lĩnh vực cơ bản trong thực hiện cùng một mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội


chủ nghĩa. Tại Hội nghị T.Ư 8 (khóa IX), Ðảng ta nhấn mạnh: "Củng cố và hoàn
thiện nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân
gắn với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn tỉnh, thành phố, đặc biệt là trên
các địa bàn chiến lược; xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc". Ðại hội X của
Ðảng khẳng định: "Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế
trận an ninh nhân dân" cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm trên của Ðảng trong
xây dựng thế trận quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng thế trận bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm sự thống
nhất và kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh
nhân dân và các hoạt động đối ngoại nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.

Sự kết hợp đó phải bảo đảm sử dụng có hiệu quả mọi lực lượng vật chất và tinh thần,
cả con người và trang bị, nhằm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời phải phù hợp tính chất đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động. Sự kết hợp đó
không chỉ thực hiện ở tầm vĩ mô, mà còn phải triển khai cụ thể và thực hiện tốt ở
từng địa phương, cơ sở. Phải phát huy tốt vai trò nòng cốt của quân đội và công an
trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân
bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, xây dựng khu vực phòng thủ nền tảng của thế trận quốc phòng toàn
dân. Khu vực phòng thủ là một "tổ chức quốc phòng - an ninh ở địa phương, được
xây dựng trên địa bàn huyện. Ðó là một bộ phận hợp thành, là nền tảng của thế trận
quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Ðược xây dựng vững mạnh về mọi
mặt theo kế hoạch chung, thống nhất; nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp tại chỗ, độc
lập, tự lực ngăn chặn và đối phó hiệu quả mọi tình huống cả thời bình, thời chiến để
bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ chế độ, bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân,
bảo vệ tiềm lực mọi mặt của địa phương; hoạt động theo cơ chế lãnh đạo, quản lý,
điều hành và chỉ huy thống nhất". Xây dựng khu vực phòng thủ là xây dựng huyện
vững mạnh không chỉ về quốc phòng, an ninh mà còn cả về chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa. Khu vực phòng thủ vừa phải bảo đảm yêu cầu bảo vệ và tác chiến trên địa


bàn, vừa nằm trong thế trận liên hoàn phòng thủ quốc gia, góp phần củng cố thế trận
quốc phòng toàn dân của đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong
mọi tình huống.
Trong tình hình mới, cần tập trung sức xây dựng các "trụ cột" cơ bản của khu
vực phòng thủ: chính trị - tinh thần, kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh. Xây
dựng hệ thống chính trị là một nội dung cốt lõi của việc xây dựng khu vực phòng
thủ. Sự vững chắc của khu vực phòng thủ được quyết định bởi sự vững mạnh của hệ
thống chính trị, đặc biệt đối với các cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức chính
trị - xã hội ở cơ sở. Cấp ủy và chính quyền các cấp không chỉ lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội; mà còn lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng,

an ninh trong khu vực phòng thủ. Ðể đáp ứng nhiệm vụ đó, cần tập trung sức xây
dựng và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị; đặc biệt chăm lo xây dựng tổ chức
cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng hệ thống chính quyền các cấp vững
mạnh toàn diện. Ðây là vấn đề rất cơ bản để bảo đảm hệ thống chính trị đủ sức thực
hiện nhiệm vụ lãnh đạo, tổ chức xây dựng thành khu vực phòng thủ vững chắc.
Kinh tế - xã hội là cốt "vật chất" bảo đảm sự vững chắc của khu vực phòng thủ.
Không có cơ sở kinh tế vững mạnh, hoặc sự phát triển kinh tế không đúng định
hướng, gây ra những xáo động về xã hội thì cũng không thể xây dựng được khu vực
phòng thủ vững chắc. Việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc
phòng, an ninh là nội dung đặc biệt quan trọng trong xây dựng tiềm lực và thế trận
quốc phòng, an ninh của khu vực phòng thủ. Ðiều đó đòi hỏi trong phát triển kinh tế
phải tính đến nhu cầu quốc phòng, an ninh và phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh; việc bố trí, quy hoạch phát triển kinh tế phải trên cơ sở xây dựng thế
trận quốc phòng, an ninh vững chắc trên địa bàn.
Ba là, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, "thế trận lòng dân" - nền tảng phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.
Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của nền quốc phòng toàn dân đòi hỏi phải
tạo dựng được "thế trận lòng dân" vững chắc. Ðại hội IX của Ðảng nhấn mạnh: "Xây


dựng cơ sở chính trị - xã hội, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; coi
trọng xây dựng thế trận trên các địa bàn chiến lược trọng yếu". Thực chất xây dựng
"thế trận lòng dân" là khơi dậy, quy tụ và phát huy chính trị - tinh thần của mọi tầng
lớp nhân dân trong thế trận quốc phòng - an ninh chung. Ðây là nét đặc sắc trong
nghệ thuật giữ nước, chống ngoại xâm của dân tộc, phản ánh sâu sắc bản chất và sức
mạnh của nền quốc phòng toàn dân nước ta trong thời kỳ mới; ngăn chặn những
hành động phá hoại, những mưu toan thôn tính, xâm lược từ bên ngoài. Tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố mối quan hệ giữa Ðảng với nhân dân, củng
cố lòng tin của nhân dân đối với Ðảng, Nhà nước và chế độ là yêu cầu và biện pháp
quan trọng của chiến lược xây dựng quốc phòng trong tình hình mới.

Hiện nay, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng... đang là vấn đề nhức nhối.
Do đó, vấn đề chống quan liêu, tham nhũng, khắc phục tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên cần được
xem xét như là một yêu cầu, giải pháp đặc biệt quan trọng của việc xây dựng "thế
trận lòng dân", nâng cao khả năng quốc phòng. Theo đó, trong những năm tới, chúng
ta "phải dành nhiều công sức tạo được sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Ðảng, phát
huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của
Ðảng; xây dựng Ðảng thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo
khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Ðây là nhiệm vụ
then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Ðảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta".
Cần thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ Ðảng và xây dựng Ðảng đối với
sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng Ðảng trong sạch, vững
mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ là đòi hỏi bức thiết của tình hình, là mục tiêu, nhiệm
vụ của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; Ðảng lại là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ðó là mối quan hệ biện chứng thống nhất,


cùng vận động chi phối quá trình phát triển của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Bốn là, xây dựng phát triển kinh tế - quốc phòng, các khu quốc phòng - kinh
tế, nội dung quan trọng trong xây dựng thế trận quốc phòng. Xây dựng các khu kinh
tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế là nội dung quan trọng trong xây dựng thế trận
quốc phòng bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng kinh tế vừa có vị trí quan trọng trong thế trận quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa, nơi
biên giới, ven biển, vừa có ý nghĩa chiến lược đối với thế trận quốc phòng chung của
cả nước. Xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế vững mạnh
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân và
"phên dậu" bảo vệ Tổ quốc ở vùng sâu, vùng xa, nơi biên giới, biển đảo. Ðây là một

nhiệm vụ mới và đang trong quá trình phát triển. Ðến nay, chúng ta đã xây dựng
được hệ thống các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế mang lại những
hiệu quả to lớn về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh trên các vùng trọng yếu,
địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo, góp phần quan trọng củng cố thế trận quốc
phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời gian tới, cần "Tiếp tục phát triển các khu kinh tế - quốc phòng, xây
dựng các khu quốc phòng - kinh tế với mục tiêu tăng cường quốc phòng - an ninh là
chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và các khu vực nhạy cảm
trên biên giới đất liền, biển đảo". Ðể thực hiện chủ trương này, vấn đề quan trọng là
cần thực hiện tốt hơn nữa các chính sách, chế độ đối với lực lượng vũ trang làm
nhiệm vụ ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, biển đảo;
chú ý chế độ phụ cấp ưu đãi, chế độ luân chuyển công tác. Thực hiện các chính sách,
chế độ tạo điều kiện cho cán bộ, chiến sĩ có thể yên tâm gắn bó với đơn vị lâu dài,
lập gia đình, định cư và sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, góp phần tạo nên
các khu dân cư dọc biên giới, gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được tăng cường không phải chỉ bằng sức mạnh quân sự
đơn thuần, sức mạnh của riêng các lực lượng vũ trang, mà còn bởi sức mạnh của nền


quốc phòng toàn dân, gắn với sức mạnh của nền an ninh nhân dân, được tạo điều
kiện và hợp lực bởi sức mạnh của nền kinh tế, văn hóa, xã hội. Qua hơn 20 năm thực
hiện ngày Hội quốc phòng toàn dân, có thể thấy rõ ý thức, trách nhiệm bảo vệ Tổ
quốc của toàn xã hội và sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân được nâng cao. Đây là thành tựu cơ bản, phản ánh sâu sắc tính toàn dân,
toàn diện và sức mạnh tổng hợp của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
hơn 25 năm đổi mới đất nước.
Tính toàn dân, toàn diện biểu hiện cụ thể ở chỗ, mọi người dân dù hoạt động
trong các lĩnh vực, trên mọi địa bàn đều ý thức rõ ràng: Hoạt động của mình và
ngành mình cũng là góp phần bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, đề cao trách nhiệm công dân
trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở cơ sở, địa bàn hoạt động. Đây

là cơ sở quan trọng làm cho sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân trong
sự gắn bó với nền an ninh nhân dân cả về thế trận và lực lượng được củng cố, tăng
cường nhất là trên các hướng, các địa bàn chiến lược trọng yếu, nơi biên giới, hải
đảo. Nhờ đó, chúng ta đã phát triển mạnh mẽ các phong trào toàn dân xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; toàn dân giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Ra sức thực hiện tốt các đột phá chiến lược được xác định trong Chiến lược phát
triển KT-XH 2011-2020, đặc biệt coi trọng phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định để tái cấu trúc nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm an sinh
xã hội, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Luôn chăm lo xây dựng, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ban Cán sự đảng Chính phủ, các ban cán sự
và Đảng ủy ở các bộ, ngành và cơ quan tham mưu chiến lược, các tập đoàn kinh tế,
các tổng công ty và tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp… để nghiêm túc quán
triệt, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát
triển KT-XH.


×