Tải bản đầy đủ (.pdf) (227 trang)

Biến đổi văn hóa vùng ven biển Nghệ An qua nghiên cứu trường hợp Thị xã Cửa Lò (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.64 MB, 227 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ HIẾU

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VÙNG VEN BIỂN NGHỆ AN
QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
THỊ XÃ CỬA LÒ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ HIẾU

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VÙNG VEN BIỂN NGHỆ AN
QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
THỊ XÃ CỬA LÒ
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 9 22 90 40

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học:


PGS. TS TRẦN THỊ AN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Luận án này là kết quả của quá trình nghiên cứu của tôi, với sự hướng
dẫn, giúp đỡ của người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị An. Các nội
dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài luận án là khách quan, trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Những số liệu trong luận án phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, tranh
luận, các học thuyết, các quan điểm, đánh giá được chính tác giả thu thập từ
các nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo, trích dẫn một số
phụ lục. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số
liệu của các tác giả, cơ quan, tổ chức và đều được trích rõ nguồn gốc.
Trường hợp có phát hiện bất kỳ sự sai sót, vi phạm nào tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm trước Học viện Khoa học xã hội, hội đồng về kết quả
của luận án.
Hà Nội, tháng 4 năm 2018
Nghiên cứu sinh

Lê Thị Hiếu


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................. 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ........................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án ........................................... 3
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của luận án ............................. 4
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ..................................................... 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án .................................................... 6
7. Bố cục luận án ............................................................................................ 7
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ ĐỊA BÀN
NGHIÊN CỨU ................................................................................................. 8
1.1. Tổng quan nghiên cứu về biến đổi văn hóa cư dân vùng biển ở
Việt Nam......................................................................................................... 8
1.1.1. Nghiên cứu biến đổi văn hóa qua hoạt động kinh tế ......................... 8
1.1.2. Nghiên cứu biến đổi văn hóa từ khía cạnh tín ngưỡng .................... 11
1.2. Nghiên cứu về văn hóa vùng ven biển Nghệ An................................... 17
1.2.1. Từ góc độ các hoạt động kinh tế ...................................................... 18
1.2.2. Từ góc độ thực hành tín ngưỡng ...................................................... 21
1.3. Các khái niệm ........................................................................................ 24
1.3.1. Biến đổi văn hóa .............................................................................. 24
1.3.2. Khái niệm vùng ven biển ................................................................. 25
1.3.3. Khái niệm văn hóa gia đình ............................................................. 25
1.3.4. Khái niệm tín ngưỡng và thực hành tín ngưỡng .............................. 26
1.4. Cơ sở lý thuyết ....................................................................................... 26
1.5. Địa bàn nghiên cứu ................................................................................ 28


1.5.1. Điều kiện tự nhiên vùng đất Cửa Lò ................................................ 28
1.5.2. Truyền thống lịch sử văn hóa vùng đất Cửa Lò .............................. 32
1.5.3. Quá trình phát triển kinh tế .............................................................. 37
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................... 44
Chương 2. BIẾN ĐỔI VĂN HÓA QUA HOẠT ĐỘNG KINH TẾ

GIA ĐÌNH ...................................................................................................... 46
2.1. Biến đổi quan hệ giữa bố mẹ và con cái ................................................ 46
2.1.1. Biến đổi qua định hướng nghề nghiệp ............................................. 46
2.1.2. Biến đổi qua nhu cầu cuộc sống và phát triển kinh tế ..................... 50
2.2. Biến đổi quan hệ anh - chị - em trong gia đình ..................................... 60
2.3. Biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ................................. 64
2.3.1. Biến đổi vai trò người phụ nữ trong cuộc sống hàng ngày.............. 64
2.3.2. Biến đổi vai trò người phụ nữ trong kinh doanh ............................. 69
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................... 74
Chương 3. BIẾN ĐỔI VĂN HÓA QUA THỰC HÀNH TÍN NGƯỠNG .... 77
3.1. Biến đổi văn hóa qua thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ............... 77
3.2. Biến đổi văn hóa qua thực hành tín ngưỡng đi biển.............................. 80
3.3. Biến đổi văn hóa qua thực hành tín ngưỡng thờ thành hoàng làng ....... 83
3.4. Biến đổi văn hóa trong qua thực hành lễ hội ......................................... 91
3.4.1. Lễ hội đền làng Mai Bảng................................................................ 91
3.4.2. Lễ hội đền Vạn Lộc.......................................................................... 96
3.4.3. Biến đổi qua thực hành lễ hội cầu ngư .......................................... 104
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................... 109
Chương 4. XU HƯỚNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA QUA
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA Ở CỬA LÒ HIỆN NAY ....................................... 111
4.1. Nhìn nhận chung về xu hướng biến đổi văn hóa của cư dân vùng
biển Cửa Lò ................................................................................................ 111
4.1.1. Văn hóa truyền thống vừa dung hòa vừa phát huy trong văn
hóa hiện đại ................................................................................... 111


4.1.2. Mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại qua thực hành văn hóa... 122
4.1.3. Văn hóa biến đổi theo hình thức bên ngoài song vẫn giữ cái cốt
lõi của văn hóa truyền thống......................................................... 124
4.2. Vai trò của người dân và chính quyền địa phương trước biến đổi

văn hóa ........................................................................................................ 128
4.2.1. Vai trò của người dân..................................................................... 128
4.2.2. Vai trò của chính quyền địa phương .............................................. 130
4.3. Nhận định chung về xu hướng biến đổi văn hóa vùng ven biển ở
Nghệ An nói riêng và ven biển Việt Nam nói chung trong quá trình
hội nhập và phát triển ................................................................................. 133
Tiểu kết chương 4 ....................................................................................... 137
KẾT LUẬN .................................................................................................. 140
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................... 146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 147
PHỤ LỤC


DANH MỤC VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

ĐTH

Đô thị hóa

LHPN


Liên hiệp phụ nữ

NCS

Nghiên cứu sinh

TNHH

Trách nhiệm đầy đủ

UBND

Ủy ban nhân dân

VHTT&DL

Văn hóa thông tin và du lịch


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1. Thống kê nghề nghiệp của thanh niên tại thị xã Cửa Lò .............. 47
Bảng 2.2. Mức độ quan tâm về số lượng con, chất lượng nuôi dạy
con cái trong gia đình.................................................................... 56
Bảng 2.3. Mức độ quan tâm đến con cái của bố mẹ...................................... 58
Bảng 2.4. Quyền quyết định của thành viên trong gia đình theo phường ...... 67
Bảng 2.5. Vai trò của vợ, chồng trong tạo nguồn thu nhập cho gia đình ...... 72
Bảng 3.1. Các nghi lễ trong gia đình ............................................................. 78



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Biến đổi văn hóa là hiện tượng tất yếu nảy sinh trong quá trình vận
động và phát triển. Nó có thể được nhận thấy chậm hơn so với biến đổi xã hội
nhưng để lại những tác động lâu dài hơn. Do vậy, biến đổi văn hóa luôn được
các nhà nghiên cứu quan tâm dưới nhiều góc nhìn, nhằm đánh giá những tác
động của nó đến sự phát triển của con người và xã hội.
1.2. Văn hóa biển, hiện đang được Nhà nước và nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm. Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 09-NQ/TW,
ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”: Phải phấn đấu
để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên vì biển, kết hợp chặt
chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội với đảm bảo an ninh và bảo vệ môi trường.
Với một đất nước có hơn 3000 cây số chiều dài bờ biển, so với diện tích
đất liền, Việt Nam là một quốc gia chiếm nhiều lợi thế về biển. Trải qua chiều
dài lịch sử, đến thế kỷ XXI, các vấn đề về kinh tế, văn hóa biển và chủ quyền
biển đảo đang được nhận thức một cách đầy đủ nhất. Thực tế này đặt ra yêu cầu
khẩn thiết về nghiên cứu văn hóa biển đảo Việt Nam; đồng thời việc nghiên cứu
văn hóa biển sẽ có ý nghĩa trong việc khẳng định chủ quyền quốc gia.
Như vậy, việc nghiên cứu những vấn đề về biến đổi văn hóa vùng biển
ngoài ý nghĩa bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống còn có ý nghĩa về chính trị.
1.3. Với 82 km bờ biển, Nghệ An là một tỉnh có nhiều cư dân định cư ở
các làng ven biển từ hàng nghìn năm nay. Các di chỉ khảo cổ học của nền văn
hóa Quỳnh Văn - điển hình cho thời đại đồ đá mới, đã cho thấy từ cách đây
hơn 5000 năm, cư dân Nghệ An đã thích ứng với biển và sáng tạo nên nhiều
yếu tố văn hóa biển mang những nét đặc trưng riêng... Trong hơn 2 thập kỷ
qua, trong xu thế chung của cả nước, Nghệ An có tốc độ tăng trưởng kinh tế


2

khá nhanh. Thực tế này đã đưa đến những biến đổi văn hóa ở các vùng nói
chung, văn hóa các làng biển nói riêng.
Tìm hiểu biến đổi văn hóa vùng ven biển Nghệ An qua nghiên cứu một
trường hợp cụ thể từ góc độ văn hóa học là một hướng nghiên cứu có giá trị
cả về khoa học lẫn thực tiễn. Từ đó, luận án hy vọng có những cái nhìn sâu
hơn về giá trị văn hóa truyền thống của cư dân vùng biển trước xu thế đổi mới
và phát triển.
Năm 1994, thị xã Cửa Lò được thành lập, sau hơn 16 năm xây dựng và
phát triển, Cửa Lò trở thành thị xã du lịch, dịch vụ vùng ven biển sầm uất của
Nghệ An. Cửa Lò là một trường hợp điển hình của đô thị ven biển đang trong
quá trình phát triển, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, trực tiếp là kinh
tế du lịch. Sự thay đổi mức sống, sự biến đổi sinh kế, quá trình đô thị hóa…
vừa đem lại nhiều cơ hội cho người dân nơi đây, vừa đưa lại những xáo trộn
đáng kể trong gia đình, cộng đồng, xã hội. Thông qua trường hợp thị xã Cửa
Lò, có thể nhìn nhận sự phát triển kinh tế đã kéo theo những thay đổi trong
văn hóa của cư dân vùng biển. Sự xuất hiện những luồng văn hóa mới đan
xen với văn hóa truyền thống của một làng ngư nghiệp trong bối cảnh đô thị
hóa đã trở thành một thị xã vừa giữ nghề đánh cá vừa phát triển kinh tế du
lịch, dịch vụ. Thông qua trường hợp này, luận án hy vọng có những hiểu biết
sâu hơn về biến đổi văn hóa của cộng đồng cư dân ven biển miền Trung.
Từ những lí do trên tôi chọn vấn đề “Biến đổi văn hóa vùng ven biển
Nghệ An qua nghiên cứu trường hợp thị xã Cửa Lò” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án đặt mục tiêu nghiên cứu về biến đổi văn hóa dưới tác động
của kinh tế biểu hiện trong mối quan hệ gia đình và trong thực hành tín
ngưỡng; từ đó chỉ ra những xu hướng biến đổi văn hóa của cộng đồng cư dân
ven biển ở thị xã Cửa Lò trong bối cảnh hiện nay.



3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án: Những
nghiên cứu về biến đổi văn hóa cư dân vùng biển qua hoạt động tín ngưỡng,
qua hoạt động kinh tế; những nghiên cứu về văn hóa vùng ven biển ở Nghệ An
Phân tích thực trạng biến đổi văn hóa qua hoạt động kinh tế gia đình.
Phân tích thực trạng biến đổi văn hóa qua hoạt động tín ngưỡng của cư
dân vùng biển Cửa Lò
Phân tích xu hướng và những vấn đề đặt ra trong biến đổi văn hóa của
cư dân Cửa Lò trong bối cảnh hiện nay.
Từ nghiên cứu trường hợp biến đổi văn hóa của cư dân vùng biển Cửa
Lò, góp phần tìm hiểu biến đổi văn hóa của cư dân vùng biển Nghệ An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về biến đổi văn hóa của cư dân vùng biển
Cửa Lò.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi nội dung
Biến đổi văn hóa là một vấn đề có phạm vi rất rộng. Trong luận án,
chúng tôi giới hạn nghiên cứu ở hai khía cạnh: Biến đổi văn hóa qua hoạt động
kinh tế gia đình và biến đổi văn hóa qua thực hành tín ngưỡng của người dân.
3.2.2. Phạm vi không gian, thời gian
Phạm vi không gian: Luận án được khảo sát cộng đồng cư dân sống tại
3 phường: Nghi Tân, Nghi Thủy, Nghi Hải. Đây là những phường có nhiều
nét đặc trưng riêng về văn hóa truyền thống của cư dân vùng biển đang chịu
nhiều biến đổi về văn hóa.
Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu những biến đổi văn
hóa từ khi thành lập Thị xã Cửa Lò (1994) đến thời điểm nghiên cứu luận án
(2013 - 2017).



4
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cách tiếp cận
Luận án sử dụng các cách tiếp cận chuyên ngành Văn hóa học (tập
trung vào văn hóa với việc tìm hiểu đời sống văn hóa qua chủ thể người dân
tại địa bàn nghiên cứu). Bên cạnh đó luận án sử dụng các cách tiếp cận liên
ngành như Nhân học, Sử học, Xã hội học…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp quan sát tham dự
Phương pháp này được áp dụng trong suốt quá trình làm luận án, nhằm
thu thập nguồn tư liệu, thông tin liên quan đến nội dung nghiên cứu.
Để có cái nhìn khách quan, những đánh giá và những nhận định đúng
đắn dựa trên trải nghiệm trực tiếp của người nghiên cứu, tác giả đã thực hiện
phương pháp quan sát tham dự đối với một số hoạt động của người dân trên
địa bàn phường. Cụ thể, để tìm hiểu biến đổi trong văn hóa gia đình, tác giả
tham gia một số bữa ăn gia đình vào dịp giỗ, tết; gặp gỡ, trao đổi với người
dân về phương pháp giáo dục con cái….; đi phân phối các sản phẩm đánh
bắt được từ biển với người dân; tham gia bán hàng cho khách du lịch. Để tìm
hiểu biến đổi trong hoạt động tín ngưỡng, tác giả tham dự vào buổi lễ ngày
rằm, mồng một của người dân tại 3 đền Vạn Lộc, đền Mai Bảng và đền Ông;
tham dự Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập thị xã Cửa Lò, Lễ hội Sông nước Cửa
Lò được tổ chức vào dịp 30 - 4/1 - 5; tham dự vào các cuộc họp khối của
người dân. Trong suốt quá trình thực hiện luận án, tác giả đã thực hiện việc
chụp ảnh, ghi âm, quay video về những vấn đề liên quan đến biến đổi văn
hóa gia đình, hoạt động tín ngưỡng của cư dân vùng ven biển tại nhiều thời
điểm khác nhau.
4.2.2. Điều tra xã hội học
Luận án sử dụng phương pháp điều tra thông qua bảng hỏi tới các hộ
gia đình, để thu thập các thông tin liên quan đến vấn đề về biến đổi văn hóa



5
trong gia đình và biến đổi trong hoạt động tín ngưỡng. Để thực hiện điều tra,
khảo sát, chúng tôi sử dụng một mẫu phiếu điều tra dành cho người dân với
hai loại câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Địa điểm điều tra tại phường Nghi Thủy,
Nghi Tân, Nghi Hải. Kết quả điều tra được xử lí và tổng hợp số liệu thông
qua phần mềm SPSS.
4.2.3. Phỏng vấn sâu
Phỏng vấn cán bộ lãnh đạo thị xã, cán bộ phường, ban quản lý đền
làng. Đây là kênh quan trọng để chúng tôi có được những thông tin về nhận
thức biến đổi văn hóa và mức độ can thiệp của chính quyền địa phương vào
hoạt động văn hóa.
Phỏng vấn người dân trên địa bàn các phường
Đối tượng được chúng tôi lựa chọn cho các phỏng vấn là cả nam và nữ:
Những ngư dân đi biển, người làm dịch vụ buôn bán, người đi xe điện, người
làm nghề tự do..., độ tuổi từ 18 đến 80 tuổi. Chúng tôi kết hợp phỏng vấn lấy
thông tin hiện tại với thông tin trong quá khứ để có sự phân tích khách quan
về bức tranh văn hóa trong quá khứ và hiện tại, tìm ra những nét khác biệt và
tương đồng trong quá trình biến đổi văn hóa.
4.2.4. Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp này giúp tác giả có được những thông tin đồng thuận và
trái chiều về nhận thức trong biến đổi văn hóa của cư dân địa phương. Đối
tượng tham gia thảo luận nhóm chủ yếu là cán bộ khối, cán bộ phường,
những người dân am hiểu về văn hóa. Chủ đề chính cho các cuộc thảo luận
nhóm tập trung vào những biến đổi văn hóa qua hoạt động kinh tế, hoạt
động tín ngưỡng.
4.2.5. Phân tích tài liệu thứ cấp
Luận án thu thập các văn bản báo cáo tại các ban ngành: Công an; Hội
liên hiệp Phụ nữ; phòng Văn hóa; Chi cục Thống kê Thị xã....



6
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Từ nghiên cứu trường hợp cộng đồng cư dân ven biển Cửa Lò ở
phương diện biến đổi văn hóa qua hoạt động kinh tế gia đình và hoạt động tín
ngưỡng của cư dân vùng ven biển Nghệ An, luận án đóng góp vào nhận thức
chung trong nghiên cứu văn hóa.
Qua hoạt động kinh tế, luận án chỉ ra sự thay đổi vị thế của từng cá
nhân trong gia đình cư dân vùng biển. Cụ thể so với cá nhân trong gia đình
truyền thống thì các cá nhân trong gia đình hiện đại đều có sự bình đẳng, vị
thế của họ ngày càng được nâng cao.
Thông qua nghiên cứu về những biến đổi trong thực hành tín ngưỡng,
luận án góp phần làm sáng tỏ thêm các quan điểm của các nhà nghiên cứu đi
trước về biến đổi văn hóa trong quá trình phát triển và sự tồn tại bền vững của
văn hóa truyền thống tại các làng ven biển Nghệ An hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
6.1.1. Góp phần làm sáng rõ những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa
văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại trong bối cảnh hiện nay của cư dân
vùng biển.
6.1.2. Làm rõ hơn sự biến đổi văn hóa của cộng đồng cư dân vùng ven
biển trong tác động của du lịch và ảnh hưởng của hiện đại hóa nhìn từ cộng
đồng cư dân của một thị xã ven biển.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà
quản lí, các cấp có thẩm quyền trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống trong quá trình phát triển kinh tế vùng ven biển.
Luận án còn góp phần vào nhận thức người dân và chính quyền địa
phương vùng ven biển về những giá trị văn hóa truyền thống từ đó tiếp tục

phát huy trong đời sống hiện đại.


7
7. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án
gồm 4 chương chính sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Biến đổi văn hóa qua hoạt động kinh tế gia đình
Chương 3: Biến đổi văn hóa qua thực hành tín ngưỡng
Chương 4: Xu hướng và những vấn đề đặt ra qua biến đổi văn hóa
ở Cửa Lò hiện nay


8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu về biến đổi văn hóa cư dân vùng biển ở
Việt Nam
Tại các quốc gia trên thế giới, những nghiên cứu thuộc hai ngành Nhân
học biển và Văn hóa biển đóng một vai trò quan trọng trong nghiên cứu về
biển và cộng đồng cư dân vùng biển. Hầu hết các nghiên cứu tập trung vào
những vấn đề về: sinh thái, đời sống tín ngưỡng, tâm lý cư dân, cấu trúc xã
hội, vốn xã hội và mạng lưới quan hệ xã hội, đặc điểm hộ gia đình trong vấn
đề giáo dục con cái, tri thức dân gian và thái độ ứng xử của con người với môi
trường biển, sự tác động của lối sống đương đại với hệ sinh thái biển.
Việt Nam với 3260 km đường bờ biển và khoảng 1 triệu km2 vùng biển
chủ quyền đã tạo nên nhiều dấu ấn văn hóa biển đặc trưng. Có thể xem biển
và hoạt động văn hóa của cư dân vùng biển là bộ phận không thể tách rời của

nền văn hóa. Từ trước đến nay những vấn đề về biến đổi văn hóa biển đã
được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu với nhiều khuynh hướng tiếp cận
khác nhau.
1.1.1. Nghiên cứu biến đổi văn hóa qua hoạt động kinh tế
Qua tìm hiểu vào những thế kỷ trước, cư dân ven biển miền Trung mới
chỉ dừng lại ở mức khai thác biển gần bờ, chưa vươn ra đại dương để đánh bắt
cá xa bờ, cư dân chủ yếu buôn bán trên biển hoặc khai thác các nguồn tài
nguyên nơi thềm lục địa. Từ thời tiền sử, người Việt cổ đã tiến hành khai phá
đầm lầy, lập nên những xóm làng trù phú dọc theo các con sông, ven biển và
trên những hòn đảo Quan Lạn, Cát Bà, Lý Sơn,... thông qua các hình thức lao
động sản xuất như: trồng lúa nước, nghề chài lưới đánh bắt thủy hải sản, làm
muối và đóng thuyền.


9
Trong quá trình phát triển, cư dân núi rừng và đồng nội luôn có nhu cầu
vươn ra môi trường biển khơi, đây là yếu tố quan trọng làm xuất hiện các loại
hình nghề nghiệp mang nét văn hóa đặc trưng vùng biển. Từ thời đại sắt sớm,
cư dân vùng biển đã có những thay đổi lớn trong nghề nghiệp. Đề cập đến vấn
đề này, trong bài viết Văn hóa biển nhìn từ góc độ khảo cổ học, tác giả Tống
Trung Tín đã viết: Cư dân Sa Huỳnh đã đạt đến trình độ không khác gì cư
dân văn hóa Đông Sơn. Điểm nổi trội của cư dân Sa Huỳnh là đóng thuyền để
đi biển. Về điều này cư dân Sa Huỳnh được đánh giá là giỏi nhất ở Việt Nam
vào thời kỳ Sắt sớm [107]. Nhìn từ bối cảnh đương đại, khi đề cập đến sự biến
đổi văn hóa làng của cư dân vùng biển thông qua nghề nghiệp, tác giả Nguyễn
Đăng Vũ trong một bài viết về cư dân biển Quảng Ngãi đã viết: Vẫn khai thác
theo kiểu truyền thống của vùng quê gốc (và dần mới vươn ra ngư trường
rộng lớn kia). Và đó cũng chính là lý do để các làng nông chài, hay nói cách
khác là các làng nông - ngư kết hợp ra đời ở vùng ven biển, đặc biệt ở vùng
cửa sông, như cửa Sa Cần, cửa Đại, cửa Mỹ Á, cửa Sa Huỳnh và trên đảo Lý

Sơn (dĩ nhiên ở đây ta không loại trừ, có những làng nông - chài kết hợp vốn
được kế thừa từ một dạng làng nông - chài của người Chăm pa cổ trong quá
trình chung sống... [135].
Người Việt vốn xuất phát từ nông nghiệp lúa nước, họ từ trung du xuống
đồng bằng lầy trũng sông Hồng rồi tiến ra biển và khai thác biển. Trong bài
viết Vài nhận xét về cách ứng xử của người Việt trước biển, tác giả Từ Chi và
Phạm Đức Dương đã nhấn mạnh: Người Việt đã tiếp nhận truyền thống biển từ
người Chăm và không loại trừ một bộ phận không nhỏ người Chăm từ sau thế
kỷ XI trở đi đã bị Việt hoá, tức là trở thành người Việt gốc Chăm. Điển hình
của sự trao nhận này được thể hiện nhiều ở kỹ thuật đóng thuyền, mà cụ thể là
thông qua chiếc ghe bầu ở Quảng Nam - Đà Nẵng; ở tri thức dân gian về các
hiện tượng thiên nhiên của biển, về các loài cá và kỹ thuật đánh bắt hải sản; ở


10
các phong tục, tín ngưỡng và lễ nghi của cộng đồng những người đi biển [22].
Như vậy, nghề nghiệp là một yếu tố và là cầu nối quan trọng trong giao lưu tiếp
xúc văn hóa giữa các cộng đồng tộc người ven biển.
Trước xu thế phát triển của nền kinh tế, yếu tố nghề nghiệp chi phối
mạnh đến biến đổi trong văn hóa truyền thống nói chung và văn hóa biển nói
riêng. Trong nghiên cứu Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam (2002), từ việc khảo
sát một số làng chài của ngư dân ven biển miền Trung, tác giả Nguyễn Duy
Thiệu đã miêu tả những hoạt động của ngư dân Hà Tĩnh, ngư dân Thừa Thiên
- Huế và ngư dân Nam Trung bộ, trên các mặt cơ cấu tổ chức xã hội truyền
thống thời hợp tác xã và hiện nay. So sánh, làm rõ những biến đổi của các tổ
chức nghề cá, tác động của quá trình đổi mới lên nghề cá. Công trình này thể
hiện sâu sắc những sắc thái mới từ quá trình chuyển đổi nghề nghiệp của ngư
dân vùng biển [117].
Đề cập đến bản chất nghề nghiệp là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
những biến đổi về quan hệ trong gia đình ngư dân, trong nghiên cứu Tìm hiểu

về phân công lao động nam nữ trong gia đình ngư dân ven biển miền trung,
(1998) tác giả Lê Tiêu La và Lê Ngọc Hùng đặc biệt quan tâm đến vấn đề phân
công lao động và vai trò của các thành viên trong gia đình ngư dân ven biển.
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng các khía cạnh về: đặc điểm về kinh tế hộ, học
vấn, nghề nghiệp và ra quyết định trong gia đình ngư dân, chăm sóc giáo dục
con cái và công việc nội trợ, vai trò nam nữ trong cộng đồng xã hội; việc phân
công lao động ở các gia đình ngư dân trong nền kinh tế chuyển đổi hiện nay. Ở
đây tác giả khẳng định vai trò then chốt của nam giới thể hiện ở khâu tổ chức,
sản xuất của kinh tế hộ. Họ là người tạo ra thu nhập chính quyết định phương
hướng đầu tư, mua sắm phương tiện sản xuất lớn trong gia đình [71; 46].
Các công trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa biển qua hoạt động kinh
tế đã phản ảnh rõ đặc trưng về nghề nghiệp của cư dân miền biển. Văn hóa


11
biển chịu sự chi phối bởi quá trình phát triển kinh tế, hoạt động nghề nghiệp
của cư dân qua các thời kỳ. Tuy nhiên, hầu hết những nghiên cứu về biến đổi
“văn hóa biển” dưới tác động của kinh tế của cư dân vùng biển ở nước ta còn
khá khiêm tốn so với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đặc biệt những nghiên cứu về
hoạt động kinh tế của cư dân vùng biển mang tính hệ thống, toàn diện và sâu
sắc về nội dung cũng như phương pháp luận.
1.1.2. Nghiên cứu biến đổi văn hóa từ khía cạnh tín ngưỡng
Trong quá trình phát triển lịch sử, khi cư dân nông nghiệp tiến dần ra
biển họ buộc tiếp cận với biển của cư dân vùng biển, hoạt động nông nghiệp
khó khăn, đồng bằng chật hẹp, nên khi đến sinh cơ lập nghiệp người Việt
buộc phải thích nghi với biển để sinh tồn. Quá trình thích nghi tạo nên những
nét đặc trưng trong văn hóa của người Việt. Trong bài viết Truyền thống văn
hóa biển cận duyên của người Việt, Ngô Đức Thịnh cho rằng: “Có thể quan
niệm văn hóa sinh thái được sản sinh ra trong quá trình con người thích ứng
với môi trường sống, từ đó hình thành nên những tri thức, hành vi, ứng xử,

tập tục, nghi lễ, thói quen…” [125; 15].
Môi trường biển khơi vốn nhiều khó khăn, hiểm nguy, người dân vùng
biển từ bao đời luôn phải đối đầu với thiên nhiên khắc nghiệt đầy thách thức.
Vì vậy tín ngưỡng đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân vùng
biển. Tín ngưỡng của cư dân biển ở các vùng biển Việt Nam rất phong phú,
tuy nhiên, trong phạm vi luận án, chúng tôi giới hạn tổng quan các công trình
nghiên cứu về hai tục thờ phổ biến nhất, đó là tục thờ cá Voi và tục thờ Tứ vị
Thánh nương.
Trong đời sống tín ngưỡng của cư dân biển Việt Nam, tục thờ cá Voi là
bộ phận không thể thiếu. Theo quan niệm của cư dân biển, người đầu tiên
phát hiện được xác cá Voi thì người đó phải chịu tang cá voi như con trưởng.
Những nghi lễ chôn cất, thờ cúng Cá Voi được người dân tiến hành chu đáo.
Xác cá Voi trôi dạt vào vùng nào thì ngư dân vùng đó sẽ được hưởng lộc.


12
Nghiên cứu về sự biến đổi nguồn gốc, nghi lễ thờ cá Voi tại các vùng
miền ở nước ta qua giao lưu tiếp xúc giữa các nền văn hóa, được nhiều nghiên
cứu quan tâm tìm hiểu. Bàn về nguồn gốc của tục thờ cá Voi, một số người
cho rằng tục thờ cá Voi ban đầu vốn là của người Chăm, trải qua quá trình
giao lưu tiếp xúc cảm hóa, được người Việt tiếp nhận phong tục này. Làm rõ
hơn vấn đề này trong bài viết Giao lưu văn hóa Việt - Chăm, nhìn từ tục thờ
cá Ông, Nguyễn Thanh Lợi (2003) đã đưa ra những dẫn chứng, chứng minh
rõ nét hơn nguồn gốc tục thờ cá Voi Ông mà người Việt tiếp thu được từ
người Chăm, thông qua khảo sát các lăng thờ cá Voi ở vùng duyên hải Nam
Trung bộ. Quan điểm của tác giả một lần nữa được khẳng định trên Tạp chí
Dân gian năm 2006 [75].
Đa số ý kiến cho rằng tục thờ cá Voi chỉ có ở miền Trung và miền Nam
chứ không có ở miền Bắc: “tại Nam vi thần, tại Bắc vi ngư”. Hầu như trong
các nghiên cứu về văn hóa dân gian làng biển nhiều tài liệu đã đề cập đến.

Đây là một trong những căn cứ để khẳng định nguồn gốc của tục thờ cá Voi.
Trong cuốn Lễ tục lễ hội truyền thống xứ Thanh, tác giả Hoàng Anh Nhân chỉ
ra rằng “Ở vùng biển Thanh Hóa như Hoằng Hóa, Sầm Sơn, Tĩnh Gia, người
dân đã thờ cá Voi từ lâu. Hiện ở làng Diêm Phố xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc
còn có đền thờ cá Voi Ông rất lớn được xây dựng từ năm 1973. Trong đền
còn giữ đạo sắc của vua Khải Định thứ chín, cho làng Diêm Phố phụng sự
“Nam Hải Cự tộc Đại vương Lân tôn Thần” và sắc phong “Uông Nhuận
Trung Đẳng Thần” cho Đức Ông. Hàng năm vào ngày 23 tháng Chạp và 15
tháng Giêng âm lịch tại đây dân làng vẫn làm giỗ Ông và tổ chức lễ hội cầu
Ngư rất lớn [89; 83,89].
Tục thờ cá Voi gắn liền với ngư dân vùng biển từ đèo Ngang trở vào,
nơi người Chăm sinh sống từ hơn ngàn năm về trước và từ đèo Ngang trở ra
là Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa. Trải qua thời gian, tục thờ cá Voi có những


13
biến đổi nhất định. Bàn về những chuyển biến trong nghi thức thờ cá Voi của
người Việt ở khu vực miền Nam, tác giả Nguyễn Thanh Lợi (2006) khẳng
định “Từ việc tiếp thu tín ngưỡng của dân tộc Chăm, tục thờ cá Ông của
người Việt ngày nay đã có những biến đổi rất cơ bản qua đối tượng thờ tự,
nghi lễ, diễn xướng, kiến trúc, bài trí” [75].
Bàn về nguồn gốc xuất xứ của tục thờ cá Voi của người Việt, tác giả
Ngô Đức Thịnh đề cập đến 2 yếu tố hình thành nên tục thờ cá Voi: một là tục
thờ cá - một tín ngưỡng dân gian nguyên thủy; hai là từ thực tiễn cuộc sống
mà người đi biển tích lũy được trong quá trình tiếp xúc với cá Voi. Trong bài
viết Tiểu vùng văn hóa xứ Quảng ông khẳng định “vốn tục thờ cá Ông là tín
ngưỡng dân gian, đó là tục thờ cá nguyên thủy”. Tục thờ này vừa gắn với một
hiện tượng có thật, một tập tính của cá voi hay “cứu người”, “cứu thuyền”,
“lúc bão tố ngoài khơi” [120].
Nghi thức thờ cúng cá Voi được cải biến cho phù hợp với văn hóa

người Việt khi thực hành nghi lễ. Đề cập đến vấn đề biến đổi trong nghi thức
thờ cá Voi, tác giả Trần Xuân Phong (2006) nhận xét: “Trong quá trình tiếp
biến văn hóa, người Việt đã có những thay đổi, biến cải rất cơ bản, từ nghi
thức tổ chức đám tang, thượng cốt cá Ông cho đến việc thờ phụng và tế lễ
hàng năm. Ở đây có sự hòa đồng với một số tín ngưỡng dân gian của người
Việt như tục thờ ông bà, tiên hiền, hậu tiền hoặc kết hợp với một số tín
ngưỡng dân gian khác với một số lễ nghi nông nghiệp, như lễ cầu mùa, cầu
an… Đặc biệt việc rước xách thì hoàn toàn theo lễ nghi của người Việt từ
trang phục, cờ lọng, kiệu phướn và những động tác hành lễ” [92].
Tục thờ vị thần bảo trợ cho cư dân biển khá phổ biến trong các cộng
đồng là tục thờ Tứ vị Thánh nương. Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương hiện rất phổ
biến ở nhiều làng ven biển người Việt, đặc biệt là miền biển Trung Bộ. Mà
trung tâm là Đền Cờn (Nghệ An). Theo Ninh Viết Giao, ngoài đền Cờn còn


14
có hơn 30 làng khác nữa ở Quỳnh Lưu (Nghệ An) thờ Tứ Vị Thánh Nương.
Riêng huyện Hoàng Hóa (Thanh Hóa) có 20 làng thờ Tứ Vị Thánh Nương
dưới dạng thờ Tống Hậu, Thiên Hậu. Ở Quang Nam - Đà Nẵng tục thờ Tứ Vị
Thánh Nương rất phổ biến.Theo sử liệu, truyền thuyết dân gian và thực tế thờ
cúng của cư dân biển, trung tâm của tục thờ Tứ Vị Thánh nương được coi là
đền Cờn ở Quỳnh Phương, Nghệ An. Trong bài viết Tìm hiểu sự hình thành
truyền thuyết Tứ vị thánh nương (qua các nguồn thư tịch, truyền thuyết dân
gian và tục thờ cúng, tác giả Trần Thị An khẳng định: “... Đền Cờn cũng vậy,
sau khi được vua Trần Anh Tông chính thức thừa nhận sự linh thiêng, cho xây
dựng và sai cúng tế bốn mùa, đền đã trở thành một chốn linh thiêng, vị thần
được thờ ở đền đã được liệt vào một đẳng cấp cao của quyền phép. Uy thế của
vương quyền đã khoác cho thần quyền đền Cờn một thứ hào quang, khiến cho
nó càng ngày càng lan toả và dần dần chiếm ngôi vị cao nhất trong hệ thống
các đền thờ thần biển ở Bắc Việt Nam” [2].

Tục thờ Tứ vị Thánh nương đã có những biến đổi nhất định để phù hợp
với môi trường sinh thái nhân văn của người Việt. Chính những thuyền buôn
là cầu nối đưa tục thờ Tứ vị Thánh nương của người dân miền biển đến gần
với cư dân nông nghiệp và dẫn đến những biến đổi trong văn hóa. Tín ngưỡng
thờ Tứ vị Thánh nương được thờ phổ biến ở cửa Trương Quảng Nam, cửa
Cờn Nghệ An, cửa Triều ở Thanh Hóa, cửa Lác ở Nam Định. Ngoài ra, tục
này còn được thực hành tại đền Lộ ven sông Hồng và trở thành Tứ vị Thánh
mẫu, tiếp nối tín ngưỡng thờ Mẫu của cư dân Việt cổ. Đây cũng chính là sự
thay đổi từ chủ thể tín ngưỡng là ngư dân biển sang tín ngưỡng của các
thương nhân và nông dân. Vấn đề này đã được Trần Thị An lý giải trong bài
Truyền thuyết dân gian với việc kết nối các dạng thức không gian biển Việt
Nam [5]. Sự khác biệt trong Lễ hội đền Cờn (Trung bộ), Lễ hội đền Lộ (Bắc
bộ) cũng đã được các nghiên cứu khác đề cập đến. Trong nghiên cứu Làng


15
biển Phương Cần, các tác giả chỉ rõ Lễ hội đền Cờn ngoài những cuộc tế lễ
rước xách như ở nhiều lễ hội khác, còn có rất nhiều lễ thức, trò diễn như hội
bơi thuyền, lễ hội rước thuyền ngự du xuân, lễ tế trâu, lễ tế bánh, tục chạy
ói… [131]. Tuy nhiên với đền Lộ, trong cuốn Lễ hội cổ truyền không có các
lễ thức hay trò diễn này, mà trọng tâm của lễ hội lại đặt vào lễ cấp thủy/ rước
nước - một lễ thức điển hình của cư dân trồng lúa nước: “Lễ rước nước hình
thành như một hành động thiêng liêng biểu trưng cho lòng cầu mong ước - từ
những cơn mưa phải thì - và trở thành một nghi lễ mở đầu cho rất nhiều hội
làng vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ” [136; 122-123].
Tứ vị Thánh nương không chỉ được thờ ở các đền thờ ven biển, ven
sông mà còn đi sâu vào đất liền, chẳng hạn tại các đền thờ ở phố Hàng Lược,
hàng Than, nơi từng có hoạt động buôn bán nhộn nhịp. Điều này chứng tỏ quá
trình hoạt động thương mại, giao lưu buôn bán đã kéo theo giao lưu về văn
hóa tín ngưỡng.

Làm rõ hơn về những thay đổi trong tục thờ Tứ vị Thánh nương, qua
bài “Sự biến đổi và hội nhập với văn hóa biển trong tục thờ cúng, nghi lễ Tứ
vị Thánh nương ở Hải Phòng”, tác giả Lê Thanh Tùng khẳng định vai trò
quan trọng của tín ngưỡng Tứ vị Thánh nương trong đời sống tâm linh của cư
dân ven biển Hải Phòng, nguồn gốc của tục thờ Tứ vị Thánh nương và nét
tương đồng trong văn hóa từ vùng Hải Dương, Thanh Hóa, Nghệ An ở các
làng xen kẽ nông ngư. Bài viết đề cập đến một số nét thay đổi trong tín
ngưỡng thờ Tứ vị Thánh nương ở Hải Phòng so với tín ngưỡng thờ Tứ vị
Thánh nương ở nơi ban đầu - Quỳnh Lưu (Nghệ An). Tác giả khẳng định: “Sự
biến đổi và hội nhập với văn hóa biển trong tục thờ cúng, nghi lễ Tứ vị Thánh
nương ở Hải Phòng là vấn đề quan trọng trong phát triển và bảo tồn giá trị di
sản văn hoá truyền thống. Việc nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa thực tiễn về
phát huy nguồn di sản văn hoá đặc sắc ở Hải Phòng và đất nước trong giai
đoạn phát triển kinh tế biển đảo” [110].


16
Bên cạnh hai tục thờ phổ biến ở các cộng đồng cư dân biển đã nói ở
trên, sự biến đổi văn hóa của cư dân biển nói chung đã được đề cập đến ở một
số công trình khác. Nghiên cứu về quá trình phát triển và biến đổi của văn hóa
biển đảo qua giao lưu và tiếp xúc, tác động liên tục của con người và bối cảnh
xã hội bài trong cuốn Nghiên cứu đặc điểm cư dân và văn hóa vùng ven biển
và hải đảo một số vấn đề lý luận cơ bản, Tô Duy Hợp và Đặng Vũ Cảnh Linh
đã chỉ ra: “Giống như những đặc điểm dân cư, lịch sử phát triển của loài
người cho thấy những đặc điểm văn hóa của một cộng đồng luôn biến đổi và
phát triển liên tục thông qua các mối quan hệ nội tại (sự biến đổi của các mô
hình tương tác, giao lưu văn hóa) và quan hệ giữa văn hóa với các thành tố xã
hội khác (chính trị, kinh tế, lao động, trình độ phát triển). Ở nền văn hóa
chung và quá trình này còn được thúc đẩy và diễn ra nhanh chóng do các
nguyên nhân chủ yếu sau: Phát minh, là quá trình tạo ra các yếu tố văn hóa

mới có tác động rất lớn đến văn hóa và làm thay đổi cuộc sống của con người;
Khám phá, là quá trình nhận ra và hiểu biết về một cái gì đó đang tồn tại; Phổ
biến, cả văn hóa vật chất và phi vật chất đều được phổ biến (hay cách gọi
khác là khuyếch tán) từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác” [49].
Đề cập đến biến đổi về tín ngưỡng của cư dân vùng biển thời kỳ đổi
mới tác giả Lê Hồng Lý có bài viết Đôi nét về văn hoá dân gian ven biển
trong nền kinh tế thị trường (2002). Tác giả đã khẳng định: “Biển luôn ở cạnh
người Việt, nhưng hình như nó không được người Việt chú ý đến và việc khai
thác biển của người Việt chủ yếu là khai thác ven bờ và vùng nước lợ”. Tác
giả đã giới thiệu một số sinh hoạt văn hóa tiêu biểu của cộng đồng cư dân ven
biển nước ta như: lễ hội cá Ông, lễ hội thờ Thành hoàng làng, tín ngưỡng thờ
tổ tiên với vấn đề nhà thờ họ hiện nay, các phong tục thuyền mới, lưới mới.
Tác giả cho rằng với cư dân ven biển, thường cùng thờ nhiều vị thần có công
trong dịp lễ hội… Vấn đề mới trong bài viết của tác giả Lê Hồng Lý là đã đề


17
cập đến những tác động của thời kinh tế mở cửa, của nền kinh tế thị trường,
làm cho bộ mặt đời sống của cư dân ven biển có nhiều thay đổi, trở thành nơi
giao lưu buôn bán sầm uất và cũng từ nền kinh tế thị trường đã làm cho nhiều
yếu tố trong đời sống của cư dân ven biển bị biến đổi [80;38-49].
Từ những nghiên cứu trên của các tác giả, một lần nữa khẳng định thêm
trong quá trình giao lưu phát triển hoạt động văn hóa tín ngưỡng của cư dân
vùng biển có sự biến đổi. Chính sự biến đổi đó tạo nên nét đặc trưng riêng
trong văn hóa người Việt vùng ven biển.
1.2. Nghiên cứu về văn hóa vùng ven biển Nghệ An
Bờ biển Nghệ An (bắt đầu từ Mũi Xước ở Đông Hồi huyện Quỳnh Lưu
đến Cửa Hội huyện Nghi Lộc) dài 82 km, với 6 cửa sông: Lạch Cờn, Lạch
Quèn, Lạch Thơi (huyện Quỳnh Lưu), Lạch Vạn (huyện Diễn Châu), Cửa Lò,
Cửa Hội (huyện Nghi Lộc. Trong số 21 huyện, thị xã, thành phố trực thuộc

trên địa bàn tỉnh Nghệ An, chỉ có 3 huyện (Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi
Lộc), 2 thị xã (Cửa Lò, Hoàng Mai), tiếp giáp với biển nhưng yếu tố biển
trong văn hóa Nghệ An là khá đậm nét bởi nó được hình thành từ lâu đời (với
sự hình thành và định hình của văn hóa Quỳnh Văn từ thời đá mới, cách ngày
nay khoảng 6.000 - 3.500 năm), đã đóng vai trò quan trọng trong lịch sử dân
tộc (vai trò và vị trí của các thương cảng Nghệ Tĩnh trong thời kỳ phong kiến
tự chủ). Trong tín ngưỡng, đền Cờn ở Quỳnh Lưu có vai trò là một trung tâm
thờ cúng các vị thần phù hộ cho người đi biển của Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
trong nhiều thế kỷ cho đến tận ngày nay. Trong tiến trình lịch sử, chủ nhân
văn hóa biển Nghệ An đã kiến tạo nên văn hóa biển của riêng mình, và đã tạo
nên những biến đổi. Vì tính bản sắc và tính lâu dài này mà đã có nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu đặc điểm văn hóa và các vấn đề liên quan đến biến đổi
văn hóa biển Nghệ An, trong phạm vi luận án chúng tôi đề cập dưới hai góc
độ là kinh tế và góc độ tín ngưỡng:


×