Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

HÓA THÂN THÀNH AN DƯƠNG VƯƠNG, MỊ CHÂU, TRỌNG THỦY, TẤM, CÁM NGỮ VĂN 10 CHUẨN NHẤT.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.02 KB, 8 trang )

ADV- chặng 1
      Ta là một vị vua của đất nước Âu Lạc – một mảnh đất có truyền thống lâu đời, có những 
nét văn hóa riêng biệt. Nhận thấy giặc phương Bắc Triệu Đà đang có âm mưu xâm chiếm đất 
nước ta không thể nào yên lòng. Trước tình hình đó ta sai quân tập trung sức lực chế tạo vũ 
khí làm nên một chiếc thành kiên cố để ngăn chặn giặc với mong muốn nhân dân được cuộc 
sống hòa bình, yên ổn. Thế nhưng không hiểu vì sao, mặc dù đã tính toán rất kĩ càng và cho 
những người giỏi nhất để xây thành mà thành cứ xây hôm nay mai lại đổ điều đó làm ta rất 
phiền lòng 
      Nghe binh lính đại thần kể lại mỗi đêm đều nghe thấy tiếng thét ai oán,gió thổi rất manh, 
biết là chuyện chẳng lành, tôi liền cho lập đàn trai giới, “cầu đảo bách thần” với mong muốn 
việc xây thành được diễn ra thuận lợi..bỗng ngày mồng 7 tháng 3, tôi thấy nột cụ già từ 
phương đông tới trước cửa mà than rằng:”Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”
Nghe binh lính báo lại, tôi mừng rỡ cho người lập tức đón cụ già vào cung điện mà hỏi 
rằng:”Ta đáp thành này đã nhiều lần băng lở, tốn nhiều công sức mà không thành , thế là cớ 
làm sao? . Cụ già liền đáp lại :” Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới 
thành công”. Nói rồi cụ già từ biệt ra về. Nôn nao vì được giúp đỡ, tôi đã sớm ra cửa đông 
chờ đợi sứ Thanh Giang mà cũ già đã nói với một niềm hy vọng khôn siết.Quả nhiên, chờ 
được một lúc thì bỗng thấy mặt biển nổi sóng cuồn cuộn, bọt tung trắng xóa,sáng chói cả một 
vùng, một con Rùa Vàng nổi trên mặt nước tiến lại chỗ tôi , nói sõi tiếng người và tự xưng là 
sứ thanh giang. , hiểu rõ việc trời đất, âm dương, quỷ thần.và hữa sẽ giúp tôi xây thành  Biết 
đây chính là đâị phúc của đất nước, để tỏ lòng kính trọng , tôi liền vội vàng cho dùng xe bằng 
vàng rước vào trong thành.
   Quả nhiên nhờ sự giúp đỡ của rùa vàng, thành xây nửa tháng thì xong, Thành rộng hơn 
ngàn trượng , xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành , còn gọi là Quỷ Long Thành 
Ta vui mừng hết lòng cảm ơn thần Rùa và làm lễ đền đáp.Rùa vàng ở lại ba năm rồi từ biệt ra
về, . Tuy nhiên tôi vẫn chư yên lòng, thành nay đã xây xong, kiên cố, vững chắc nhưng nêu 
có giặc ngoài tràn vào thì phải làm sao. Chính vì thế, tôi đã trải lòng với rùa vàng :” nhờ ơn 
của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài tràn vao thì lấy gì mà chống?. Rùa vàng 
thấy được sự chân thành và trách nhiệm của tôi liền trả lời :” Vận nước suy thịnh, xã tắc an 
nguy đều do mệnh trời , con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Nhà vua ước muốn ta 
có tiếc chi:. Nói rồi, sứ giả liền tháo vuốt đưa cho tồi và nói :” đêm vật này làm lẫy nỏ, nhằm 


quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa”. dứt lời, rùa vàng trở lại biển đông trong sự cảm 
kích không siết của tôi.  Tôi lấy móng vuốt rùa vàng đã cho giao cho Cao lỗ­ một vị tướng tài 3
đẻ làm lẫy. Gọi là nỏ :” Linh quang Kim Quy thần cơ”. người phải có sức lắm mới có thể cầm 
nó được. 
        Về sau, Triệu vương là đà thấy đát nước ta địa thế thuận lợi, sinh lòng ham muốn, đã 
cho quân xâm lược phương Nam, cùng tôi giao chiếnQuân ta chỉ ở trong thành không ra 
nghinh chiến. Ta sai người đem nỏ thần ra bắn. Một mũi tên bắn ra trúng vào hàng trăm tên 
lính của giặc. Triệu Đà thua trận đành phải rút quân về nước. Quân ta mở tiệc ăn mừng linh 


đình vì chiến thắng to lớn này. Có nỏ thần trong tay, Đát nước âu lạc sẽ không phải sợ bất kì 
một thế lực nào và con dân của ta cx sẽ được sống 1 cuộc sống yên bình.
      
               Một ngày kia, một tên tâm phúc của Triệu Đà mang lễ vật đến xin cầu hòa. Ta nhận 
lời ngay vì không muốn kéo dài binh đao khói lửa. Từ đó, hắn cho con trai là Trọng Thủy sang
lân la với con gái ta là Mị Châu. Trọng Thủy là chàng trai lịch lãm nên hắn dễ dàng lấy được 
lòng cha con ta. Thế rồi, Triệu Đà chính thức mang lễ vật đến cầu hôn Mị Châu cho Trọng 
Thủy. Đã từ lâu Mị Châu cũng phải lòng Trọng Thủy rồi nên ta không có lí do gì mà từ chối. 
Chúng cưới nhau và sống hết sức thuận hòa hạnh phúc. 

 Đang sống yên vui, bất ngờ Trọng Thủy lại xin về nước khiến Mị Châu buồn bã vô cùng. Chỉ 
mấy ngày sau, Triệu Đà ùn ùn kéo đại quân sang. Ta ngạc nhiên quá, nhưng tin tưởng vào nỏ
thần nên vẫn ung dung ngồi đánh cờ chờ quân giặc đến gần thành rồi bắn luôn. Không ngờ, 
nỏ thần hết hiệu nghiệm mà quân thù đang đi vào thành. Vừa hoảng sợ và thắc mắc ta không 
hiểu nổi lí do nào mà nỏ thần không còn ứng nghiệm nữa. Cuối cùng trước tình thế cấp bách 
ta cùng Mị Châu lên ngựa tháo chạy về phía đông. Nhưng chạy đến đâu cũng nghe tiếng reo 
hò quân giặc đuổi theo. Cùng đường, ta hướng mắt về phía biển khơi gọi thần Kim Quy cứu 
giúp. Bỗng thần nổi lên và dõng dạc nói: "Giặc ở sau lưng nhà vua đó!".
a quay lại nhìn thì chỉ có Mị Châu với chiếc áo lông ngỗng đã trụi cả lông. Ta chợt hiểu ra tất 
cả. Thì ra bọn giặc dò theo dấu lông ngỗng để đến được đây. Và cũng chính Mị Nương, đứa 

con gái thơ ngây của ta đã vô tình tiết lộ bí mật quốc gia cho tên gián điệp Trọng Thủy cho 
nên ta mới có ngày này. Quá tuyệt vọng, không còn con đường nào khác ta rút gươm ra 
chém chết Mị Châu rồi tự tử. Nhưng thần Kim Quy lại rẽ mặt nước cho ta đi xuống biển.
   tự nêu bài học nha kết bài á
MICHAU
     Hóa thân thành Trọng Thủy kể lại câu chuyện Truyện An Dương Vương và Mị Châu, 
Trọng Thủy – Bài số 4
Tôi là Trọng Thủy – hoàng tử của một đất nước xinh đẹp và luôn được vua cha yêu thương 
và tin tưởng hết mực. Cạnh bên vương quốc của tôi là một nước Âu Lạc phát triển phồn thịnh
nổi danh với thành Cổ Loa vững chắc. Cha tôi vì tham vọng mà dùng mọi cách để cướp nước
Âu Lạc và gây ra cho tôi một nỗi đau khổ không thể nào tả được.
Lần đầu tiên cha tôi đem quân sang đánh thì vua An Dương Vương có một loại vũ khí thần kì 
bắn một phát thì có hàng ngàn mũi tên bay ra. Thế là cha tôi thất bại nhưng ý định cướp nước
Âu Lạc vẫn luôn nhen nhún trong người ông và ngày càng phát triển lớn mạnh như một ngọn 
lửa bùng cháy, sôi sục. Sau vài ngày suy nghĩ, vua cha gọi tôi đến và bảo tôi đi ở rể cho vua 
An Dương Vương. Tôi quá bất ngờ vì điều này nhưng sau khi nắm rõ “ý đồ” của cha thì tôi đã 
tuân lệnh làm theo.
Cha cùng tôi sang nước Âu Lạc xin hòa và muốn tỏ thành ý kết bang giao hai nước. Thế là 
vua An Dương Vương đã chấp nhận và từ đó tôi phải rời xa quê hương để đi ở rể. Vợ của tôi 


đó là Mị Châu – Công chúa nước Âu Lạc. Mị Châu xinh đẹp tuyệt trần, quả giống như tên của 
nàng là một viên ngọc lung linh cao quý nhưng vẫn có những lúc nhẹ nhàng, trong sáng. Qua 
những ngày tháng sống bên Mị Châu, với cái tính tình dễ thương kia thì trái tim tôi đây có vẻ 
như đã rung động trước nàng. Nhưng tôi đây còn mạng trọng trách bên mình, lời cha khó cãi, 
tôi đành chôn giấu tình cảm ấy mà làm theo lời cha. Một hôm khi đang cùng Mị Châu đi dạo 
vườn Ngự quyển thì tôi thấy có một tảng đá xem có vẻ kì lạ nên tôi nghi ngờ. nỏ thần đang 
được cất giấu trong ấy. Tối hôm ấy, tôi không sao ngủ được, tôi biết rằng, sáng mai đây tôi 
phải dùng lời ngon ngọt để dỗ dành người vợ thân yêu cho mình xem trộm bí mật. Ta biết là 
có lỗi với nàng nhưng Mị Chậu ơi nàng tha lỗi cho ta, ta không thể vì tình cảm cá nhân mà 

làm hỏng việc lớn của vua cha giao cho. Lúc này trái tim tôi như thắt lại, cõi lòng tôi như tê tái,
nhưng thôi hãy cố thực hiện xong nhiệm vụ rồi mới nhìn đến chuyện vợ chồng.
Sáng hôm sau, tôi rũ Mị Châu ra vườn bắt bướm, ngắm hoa. Mị Châu thích lắm, nàng cười 
tươi như hoa, rạng rỡ trước ánh ban mai ấm áp. Tôi và Mị Châu đuổi bắt nhau khắp khu 
vườn. Tôi cố tình chạy đến bên hòn đá kia và vấp té. Nàng chạy lại và lo lắng cho tôi vô cùng.
Trong lúc Mị Châu không để ý tôi lấy tay thử gõ vào mặt đá thì quả thật bên trong là một cơ 
quan bí mật. Tôi cố giả vờ như không biết gì và tìm cách hỏi Mị Châu về hòn đá kì lạ này. Sau
một lúc nói chuyện Mị Châu đã cho tôi biết nỏ thần đã được giấu bên trong. Với gương mặt và
thái dộ tò mò như thật của tôi đã làm Mị Châu tin và đưa tôi vào đây xem nỏ thần. Đúng là 
một loại vũ khí thần kì nên luôn được cất giữ rất kín đáo để che mắt mọi người, chỉ có những 
người lân cận của vua mới biết được cách vào. Mị Châu đi lại bên tảng đá nhìn xuống chậu 
hoa Tường Vi đang nở rộ. Nàng nhẹ nhàng dùng tay xoay chậu hoa sang phải một vòng, bên 
trái một vòng, bổng tảng đá dịch chuyển mở ra bên trong một hang động u tối. Tôi và Mị châu 
đi đến nơi cất giữ nỏ thần, tôi nhìn rõ đến từng chi tiết một, con mắt tôi như muốn dán vào 
đấy. Tôi diện cớ chân lại đau và cùng Mị Châu quay lại tẩm cung. Tôi âm thầm sai người làm 
giả một cái nỏ giống hệt như vậy và đánh tráo nỏ thần. Vào đêm hôm trước khi lên đường 
giao nỏ thần cho cha tôi, tôi và Mị Châu đã tâm sự với nhau đến khuya, tôi lấy đôi mắt nhẹ 
nhàng âu yếm nhìn người vợ xinh đẹp đáng thương mà hỏi:
– Nếu mai đây có giặc sang đánh, ta và nàng lạc mất nhau thì lấy gì làm tín hiệu gặp lại.
Mị Châu vẫn ngây thơ và nói:
– Thiếp có áo lông ngỗng thường mặt trên người, nếu có cớ sự như chàng nói, thiếp sẽ rãi 
lông ngỗng khắp các ngã đường để chàng tìm thấy thiếp.
Mị Châu đúng là ngây thơ quá mức, khi tôi đưa ra một câu hỏi kì lạ như vậy mà nàng vẫn 
không một chút lo lắng hoang mang, một mực tin tưởng vào lời tôi nói. Khi cơ nghiệp đã thành
thì tình yêu giữa tôi và Mị Châu có được tiếp tục chăng, hay phải rơi vào cảnh nước mất nhà 
tan, mỗi nơi mỗi ngã. Tôi lo lắm!
Sáng sớm hôm sau, tôi lấy nỏ thần đã trộm mang về cho vua cha. Cha tôi rất hài lòng và vui 
mừng khôn xiết. Về phần tôi thì được cha khen thưởng hết lời nhưng lòng tôi vẫn chỉ hướng 
về Mị Châu, lo lắng cho nàng. Khi đã có nỏ thần trong tay, tôi và cha tôi cùng nhau đem quân 
sang đánh nước Âu Lạc. Vua An Dương Vương vẫn ngồi đấy điềm nhiên đánh cờ vì ỷ y vào 

sức mạnh của chiếc nỏ thần. Đó cũng là cơ hội giúp quân tôi tiến sâu hơn vào lãnh thổ. Lúc 


này nhà vua đã bắt đầu lo sợ, vua đặt Mị Châu ở sau ngựa và chạy về bờ sông. Trong lúc đó 
Mị Chậu rứt hết áo lông ngỗng rải trên đường để lại tín hiệu cho tôi. Khi đến bờ sông thần Kim
Quy nổi lên và nàng thì bị kết tội là giặc và bị vua cha rút gươm chém chết. Nhưng trước đó 
Mị Châu đã khấn rằng nên nàng không có ý mưu hại nước nhà thì chết thành ngọc thạch còn 
không thì xác sẽ tan thành cát bụi, còn vua An Dương Vương cầm sừng tê bảy tất rẽ thẳng 
xuống nước. Những chuyện này tôi chỉ được nghe kể lại từ một bà lão ở gần đấy. Khi tôi đến 
thì Mị Châu đã chết, tôi đem xác nàng mang về mai táng. Điều tôi lo sợ đã biến thành hiện 
thực, tôi đau khổ vô bờ bến, con tim như ngừng đập, lòng tôi đau như cắt. Tại sao chứ? Tại 
sao ông trời lại trớ trêu tình cảm giữa tôi và Mị Châu. Tuy chúng tôi là con người của 2 đất 
nước khác nhau, nhưng tôi thật sự yêu nàng. Tình yêu này không hề giả dối, không hề có một
chút vì quyền lợi nào cả. Bây giờ tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, “mưu đồ” cướp nước của cha 
tôi giờ đây đã hoàn thành nhưng đổi lại tôi mất Mị Châu – Người con gái mà tôi hết lòng yêu 
thương ấy, tôi đã từng nghĩ đến cảnh chia tay nhưng không ngờ được rằng Mị Châu đã vì tôi 
mà bị cha mình tự tay rút gươm chém chết. Lỗi lầm của tôi mang đến cho Mị Châu dù tôi có 
chết đi cũng không đủ để bù đắp cho nàng. Tôi phải làm gì đây, làm gì bây giờ để Mị Châu 
sống lại? Tại sao sự hiếu nghĩa của tôi và tình yêu của Mị Châu không thể dung hòa? Tôi thật 
sự không muốn chuyện này xảy ra chút nào hết, bây giờ thì tôi đã trở thành một kẻ cô đơn vô 
dụng chỉ còn biết ngồi đây nhớ về những tháng ngày hạnh phúc cùng Mị Châu. Tôi đi đến đâu
thì trước mắt tôi cũng là người vợ xinh đẹp, dễ thương đang cười nói vui vẻ, trong sáng như 
ngày nào. Một lúc sau thì tôi lại bừng tĩnh và đau lòng hơn rất nhiều. Vào một đêm trăng sáng 
tôi ra vườn ngồi nhớ về cảnh lúc tôi và Mị Châu hạnh phúc bên nhau, Mị Châu tựa đầu vào 
vai tôi, mở to mắt nhìn ngắm vầng trăng sáng đẹp. Cảnh còn đó, trăng còn đó, nhưng người 
nay đã mất, còn đâu một hình bóng quen thuộc. Bỗng tôi nghe như tiếng Mị Châu văng vẳng 
đâu đây, tôi chạy khắp nơi tìm nàng, khi đến bên cái giếng nước ở cuối sân vườn thì thấy rõ 
mồn một gương mặt của Mị Châu. Nang đang lạnh, đang cần tôi che chở và tôi cũng chẳng 
cần phải suy nghĩ, nhảy ngay xuống giếng với người vợ thân yêu.
Thế là tôi lại được sống bên người vợ mà tôi yêu thương và tôi hy vọng cái giếng này sẽ là 

nơi minh chứng cho hạnh phúc của tôi và Mị Châu.
            Tôi là Mị Châu, con gái yêu của vua An Dương Vương. Người con gái được vua cha 
yêu thương hết mực nhưng cũng gieo vạ lớn cho cha và đất nước vì nhẹ dạ và ngây thơ tin 
người. Câu chuyện của tôi là một bài học đắt giá để người đời soi vào, lấy đó làm lời răn về 
sự cảnh giác. Cho đến tận bây giờ cái cảm giác đau đớn vì bị phản bội vẫn còn âm ỉ trong tôi. 
Các bạn chia sẻ cùng tôi nhé.
Sau khi giúp cha tôi xây thành cổ Loa, thần Kim Quy cho cha tôi một cái móng của mình để 
làm lẫy nỏ mà giữ thành. Theo lời thần dặn, nỏ có được cái lẫy làm bằng móng chân thần sẽ 
là chiếc nỏ bắn trăm phát trúng cả trăm, và chỉ một phát có thể giết hàng ngàn quân địch. Cha
tôi chọn trong đám gia thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao Lỗ và giao cho Lỗ làm
chiếc nỏ thần. Lỗ gắng sức trong nhiều ngày mới xong. Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng, khác 
hẳn với những nỏ thường, phải tay lực sĩ mới giương nổi. Cha quý chiếc nỏ thần vô cùng, lúc 
nào cũng treo gần chỗ nằm.


Lúc bấy giờ Triệu Đà chúa đất Nam Hải, mấy lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì 
cha tôi có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều nên Đà đành cố thủ đợi chờ thời cơ. 
Triệu Đà thấy dùng binh không được, bèn xin giảng hòa với cha tôi, sai con trai là Trọng Thủy 
sang cầu thân, nhưng chủ ý là tìm cách phá chiếc nỏ thần. Điều này thì về sau, khi quân Đà 
kéo sang và nỏ thần không còn hiệu nghiệm, cùng cha bỏ trốn tôi mới vỡ lẽ. Trong những 
ngày đi lại để giả kết tình hòa hiếu, Trọng Thủy gặp tôi, con gái yêu của An Dương Vương. 
Lúc bấy giờ tôi là một cô gái mới lớn, một thiếu nữ mày ngài, mắt phượng nhan sắc. Trọng 
Thủy đem lòng yêu tôi, tôi dần dần cũng xiêu lòng. Và dần trở nên thân thiết, không còn chỗ 
nào trong Loa thành mà tôi không dẫn người yêu đến xem. Cha tôi không nghi kỵ gì cả. Thấy 
đôi trẻ thương yêu nhau, vua liền gả tôi cho Trọng Thủy. Chàng sang ở hẳn trong cung điện 
của cha tôi, cùng chung sống. Một đêm trăng sao vằng vặc, tôi và Trọng Thủy ngồi trên phiến 
đá trắng giữa vườn, cùng nhau nhìn dãy tường thành cao nhất. 
Chàng ngỏ ý muốn xem chiếc nỏ. Tôi không ngần ngại, ngây thơ chạy ngay vào chỗ nằm của 
cha, lấy nỏ thần đem ra cho chồng xem, lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân 
thần Kim Quy và giảng cho Trọng Thủy cách bẩn. Trọng Thủy chăm chú nghe, chăm chú nhìn

cái lẫy, nhìn khuôn khổ cái nỏhồi lâu, rồi đưa cho tôi cất đi.
Sau đókhông lâu , Trọng Thủy xin phép cha tôi về Nam Hải,trc khi đi, chàng nói :
   Trọng Thủy đáp: ……….Bây giờ đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giờ gặp lại! 
Nếu chẳng may xảy ra binh đao, biết đâu mà tìm?
Tôi tin lời chàng ngay, lòng đau đớn nói:  
     Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy về hướng nào thì thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc 
đường, chàng cứ chạy theo dấu lông ngỗng mà tìm. 
. Chỉ ít ngày sau, Triệu Đà đã ra lệnh cất quân sang đánh Âu Lạc. Nghe tin báo, cha cậy có nỏ
thần, không phòng bị gì cả. Đến khi quân giặc đã đến sát chân thành, cha sai đem nỏ thần ra 
bắn thì không thấy linh nghiệm nữa. Quân Triệu Đà phá cửa thành, ùa vào. Cha vội lên ngựa, 
để tôi ngồi sau lưng, phi thoát ra cửa sau. Ngồi sau lưng cha,nhớ lại lời nói với trongjt hủy lúc 
trước, tôi bứt lông ngỗng ở áo rắc khắp dọc đường.
Đường núi gập ghềnh hiểm trở, ngựa chạy luôn mấy ngày đêm đến Dạ Sơn gần bờ biển. Hai 
cha con tôi định xuống ngựa ngồi nghỉ thì quân giặc đã gần đến. Thấy đường núi quanh co 
dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn lối nào chạy, cha liền hướng ra biến, khấn thần 
Kim Quy phù hộ cho mình. Cha vừa khấn xong thì một cơn gió lốc cát bụi bốc lên mù mịt, làm 
rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Quy xuất hiện mà bảo cha tôi rằng :
–    “ Giặc ở sau lưng nhà vua đấy!”
  Tôi chợt đau đớn hiểu ra sự tình, Tôi tự trách mình đã gây ra cảnh mất nước, trách Trọng 
Thủy nỡ lợi dụng tình yêu và tấm lòng trong trắng của tôi.. nguyện xin nhận cái chết để chuộc 
lỗi lầm khủng khiếp mà mình đã gây.ra. trc khi đền tội cho lỗi lầm của mình, tôi đã khấn rằng 
:thiếp là phận gái , nếu có lòng phản nghịch muu hại cha chết đi sẽ biến thành cát bụi , nếu 
một lòng trung hiếu mà bị ngta lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngoc để rửa sạch mối 
nhục thù” nói xong , cha tôi đau đớn với hai hàng nc mắt chay dài, nhug đã phạm tội thì phải 
bị trừng phạt,trên cương vị là một vị vuâ,Cha tôi tuốt gươm chém mạnh vào người tôi, nhát 


chém chí mạng làm tôi chưa kịp la lớn thì đã ngã xuống ngựa tôi chỉ kịp nhìn cha tôi theo thần
kim quy đi xuống biển , đôi mắt tôi lờ mờ hẳn và cuộc đời tôi kết thúc .
     Tình yêu chính là liều thuốc hạnh phúc của con người là tình cảm mà không ai có thể 

thiếu. Ai ai cũng đều mong mình được sống trong hạnh phúc cùng người mình yêu thương 
nhưng không phải ai cũng có thể không phải tình yêu nào cũng chấp nhận. Đôi lúc ta cần phải
biết hi sinh vì tập thể tránh để như Mị Châu " trái tim lầm lỡ để trên đầu" để rồi nước mất nhà 
tan gây bao đau thương cho cả dân tộc. Đồng thời cũng cần phải thận trọng tránh cả tin nếu 
không kết quả chỉ có bi thương đau khổ mà thôi.
          Tam cám
Nhập vai Tấm kể lại câu chuyện Tấm Cám – Bài số 1
Sống ở làng này không ai là không biết tới 3 mẹ con tôi, tôi là Tấm, em tôi là cám là em cùng 
cha khác mẹ với tôi, tôi đang sống chung với dì và Cám. Mặc dù là em trong nhà nhưng Cám 
được mẹ nuông chiều không phải làm công việc gì trong nhà. Mọi thứ một tay tôi làm hết chỉ 
có những lúc ăn cơm,Cám mới chịu làm vài việc lặt vặt mà mặt nó cũng phụng phịu. Còn Dì 
thì luôn luôn mắng tôi khi muốn xả giận hay ganh ghét vì một điều vô cớ. Nhưng tôi không 
oán than gì, vì tôi hiểu cũng là lẽ thường tình vì Dì cũng khổ nhiều để nuôi chúng tôi khôn lớn.
     M
Tôi lớn lên trong một gia đình khá giả, nhưng không may cha tôi đã qua đời từ sớm. Tôi sống 
cùng mẹ và một chị gái cùng cha khác mẹ tên là Tấm. Mọi việc trong nhà, mẹ tôi đều bắt chị 
Tấm làm. Từ bé tôi đã sống sung sướng, quen được mẹ nuông chiều nên tôi chẳng phải làm 
việc gì nhiều, tôi chỉ ăn, ngủ và chơi, chẳng bù với chị Tấm, phải làm việc suốt cả ngày. Tôi và
mẹ thay nhau mắng mỏ, ức hiếp Tấm. Tôi biết con Tấm ấy cực khổ, uất ức lắm nhưng vẫn 
cắn răng chịu đựng, điều đó làm tôi sung sướng và hạnh phúc biết bao.
Có một hôm mẹ gọi chúng tôi lại và bảo: "Này hai con, hai con hãy đi bắt cua đứa nào bắt 
được nhiều thì ta cho chiếc yếm đỏ, còn không bắt được cua thì nhớ trận đòn roi đang chờ 
sẵn"

Chị Tấm hí hửng đi ngay và cố gắng chăm chỉ bắt được một giỏ cua đầy. Tôi mải mê rong 
chơi bắt bướm mà quên biếng đi mất. Tới giờ về, giỏ chị Tấm đầy cá cua, còn giỏ tôi thì trống 
không, lúc đó, tôi nghĩ ra một kế. Khi về tới ao đầu làng thì tôi gọi chị lại và nói "Chị Tấm ơi! 
Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng". Chị nghe lời tôi liền đi ra chỗ sâu gội lại đầu 
tóc, tôi hí hửng trút hết tôm tép từ giỏ chị qua giỏ mình rồi chạy vội về nhà lấy yếm đỏ từ mẹ. 
Chị Tấm về nhà với cái giỏ trống không, dĩ nhiên chị bị mẹ cho một trận còn tôi thì hí hửng với

yếm mới.
Từ ngày đó, mẹ tôi thấy Tấm hay dành một bát cơm mang ra giếng sau khi ăn, liền sinh nghi 
sai tôi đi rình. Biết được sự thật, hôm sau mẹ tôi bảo Tấm đi chăn trâu nơi xa, ở nhà mẹ con 


tôi bắt cá bống của chị Tấm lên ăn. Về nhà thấy không còn cá bống, chị Tấm lại khóc. Ôi, chị 
gì mà yếu đuối, tối ngày chỉ biết khóc thôi.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội. Hai mẹ con tôi cũng đi dự. Chị Tấm muốn đi dự hội, thế là mẹ tôi 
trộn một đấu gạo với một đấu thóc bắt chị ở nhà nhặt cho xong. Mặc kệ chị khóc lóc, mẹ con 
tôi vẫn hí hửng đi. Tôi gặp lại chị Tấm ở dạ hội, chị xinh đẹp đến nỗi tôi và mẹ nhìn không ra, 
lòng tôi dấy lên nỗi ghen tức, về nhà tôi phải bắt nạt chị cho bõ ghét.
Nghe tin vua tuyên bố: “Hễ đàn bà con gái nào dự hội ướm vừa chiếc hài này thì vua sẽ cưới 
làm vợ." Ai cũng tranh nhau ướm thử nhưng không vừa. Mẹ con tôi cũng vậy. Đến lượt chị 
Tấm ướm thử thì vừa như in. Nhà vua cho đem kiệu rước Tấm về cung làm vợ mình trước 
con mắt hằn học của mẹ con tôi.
Ngày giỗ cha, chị Tấm về ăn giỗ. Mẹ tôi bảo chị trèo câycau, hái cau cúng cha. Đang khi Tấm 
ở trên ngọn cau thì ở dưới mẹ tôi lấy dao chặt cây làm Tấm té mà chết. Tôi lấy quần áo Tấm 
mặc rồi vào cung thay chị.
Từ ngày chị Tấm mất, vua suốt ngày quấn quýt với chim vàng anh, tôi tức tối về mách mẹ. Mẹ
tôi bảo bắt chim đem cho mèo ăn, chôn lông chim ngoài vườn, Chẳng bao lâu nơi đó mọc lên 
một cây xoan đào, xum xuê tươi tốt. Vua thấy đẹp nên sai người mắc võng vào cây hóng mát 
nên rất quý cây. Mẹ tôi xui chặt cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Lúc ngồi dệt vải, tôi 
nghe con ác trên khung cửi kêu: "Cót ca cót két. Lấy tranh chồng chị. Chị khoét mắt ra." Nghe 
lời mẹ chỉ, tôi đốt khung cửi rồi đổ tro bên đường xa cung vua mong sẽ được yên thân.
Ngày vua đón Tấm trở về cung, tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Không những Tấm vẫn còn sống 
mà lại trắng đẹp hơn xưa nên tôi băn khoăn tự hỏi vì sao cùng với lòng ghen tức. Tấm bày 
cho tôi tắm với nước sôi thì sẽ đẹp. Tôi hí hửng làm theo thì chết tức khắc. Nghe tin tôi chết, 
mẹ cũng uất lên mà chết theo tôi.
Nếu biết trước có ngày hôm nay thì ngày xưa tôi đã đối xử tốt với chị Tấm, giờ tôi mới hiểu ra 
ý nghĩa câu nói “gieo gió gặt bão”.

au những chặng đường đó...cái chết là hình phạt thích đáng cho những kẻ 
độc ác như mẹ con tôi.Tôi cảm thấy mình thật tội lỗi và thấy hối hận vs những 
việc mình đã làm ra.Mẹ con tôi thật quá ác độc và nhẫn tâm đối với một người 
ngoan hiền như chị Tấm.Nếu đc sống lại,tôi sẽ xin lỗi chị Tấm sau những lỗi 
lầm mà mình đã gây ra,và sống thật tốt vs chị vs mẹ..Mong sao trên đời này 
sẽ  không còn những người độc ác như tôi và mẹ,để thế giới này có thể tốt 
đẹp hơn.Những kẻ ác như tôi sẽ luôn bị trừng trị vs 1 kết cục thích đá


Sưu tầm

 



×