Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của cá nhân trong chính sách pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.97 KB, 34 trang )

MỞ ĐẦU
Đảng và nhà nước ta nhìn nhận tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh
thần của con người, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự
do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là chính sách nhất quán của Nhà
nước.
Đoàn kết tôn giáo và tự do tín ngưỡng là quan điểm cơ bản, là nội dung
chủ yếu của chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Chỉ sau một
ngày đọc Tuyên ngôn Độc lập (ngày 3-9-1945) trong buổi chủ toạ phiên họp đầu
tiên của Chính phủ mới thành lập, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tuyên bố
“tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”. Từ đó đến nay, quan điểm ấy của
Người đã trở thành định hướng chung cho việc hoạch định và thực thi chính sách
đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong mọi thời kỳ cách mạng.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo có tác động mạnh mẽ đến nhiều mặt của đợi sống xã hội trong phạm vi quốc
gia cũng như trong quan hệ quốc tế. Chính vì vậy việc hoàn thiện chính sách
pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo là yêu cầu cần thiết của Đảng và nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Với đề tài “Tìm hiểu quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của cá nhân trong chính sách, pháp luật Việt Nam”, tác giả mong muốn
nghiên cứu làm rõ cơ sở hình thành và nội dung cơ bản của quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của cá nhân trongchính sách pháp luật nước ta. Do thời gian và
phương pháp tiếp cận vấn đề còn nhiều hạn chế nên đề tài nghiên cứu khó tránh
khỏi thiếu sót, kính mong thầy, cô giáo góp ý để vấn đề nghiên cứu đầy đủ và
hoàn thiện hơn.

1


NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
1.1.Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế
Xét về nguồn gốc, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ra đời khá sớm trong


lịch sử loài người. Trong lịch sử thời kỳ cổ đại, trung đại hay các chế độ quân
chủ phong kiến đều dựa trên một tôn giáo chính thống để làm nền tảng ổn định
xã hội. Trong khi đó, vấn đề bạo lực, khủng bố, kết tội tôn giáo hoặc chiến tranh
tôn giáo vẫn không ngừng diễn ra. Vì vậy, nhu cầu lớn đầu tiên trong quyền tự
do tôn giáo với rất nhiều quốc gia là nhu cầu mỗi cá nhân có thể đi theo một tín
ngưỡng, tôn giáo riêng hay thay đổi tôn giáo mà không sợ bị chính phủ phạt tội
hoặc các “tôn giáo chính thống” trả thù.
Quan niệm về tự do tôn giáo được hình thành ở châu Âu gắn liền với các
cuộc cách mạng tư sản thế kỷ XVII - XVIII. Nhà tư tưởng John Locke đã đặt nền
móng cho quyền tự do tôn giáo khi cho rằng, tôn giáo là vấn đề của cá nhân hơn
là của xã hội. Vai trò của nhà nước không phải là khuyến khích phát triển tôn
giáo mà là bảo vệ quyền của mỗi cá nhân có thể sở hữu niềm tin tôn giáo của
chính mình và cách tốt nhất là hãy để cá nhân mỗi ngườitự lựa chọn tôn giáo cho
mình.
Trong tiến trình vận động của lịch sử, quan niệm về tự do tôn giáo dần dần
trở nên hoàn thiện hơn. Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 đã đề cập
đến tự do, song chưa nói cụ thể về tự do tôn giáo. Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của Pháp năm 1789 đã nói đến tự do cá nhân, tự do tư tưởng, tự do tôn
giáo, song cũng chưa đề cập một cách cụ thể: “Mỗi người đều được phát biểu tư
tưởng tự do, về tôn giáo cũng vậy, miễn là những tư tưởng phát biểu đó không
2


làm tổn thương đến nền trật tự công cộng đã được pháp luật ấn định phân
minh”. Luật Phân ly nổi tiếng của nước Pháp năm 1905 cũng đề cập đến vấn
đề tự do thờ cúng. Như vậy, cho đến đầu thế kỷ XX, quan niệm về tự do tôn giáo
mới chỉ mang tính quốc gia riêng lẻ, cho đến khi Liên hợp quốc thông qua Tuyên
ngôn thế giới về nhân quyền ngày 10-12-1948, thì tự do tôn giáo mới trở thành
một quyền mang tính quốc tế.
Trên phạm vi quốc tế, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận

trong một số văn bản chính trị bao gồm các văn bản mang tính chất tuyên ngôn
như: Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền năm 1948; các văn bản mang tính chất pháp lý như: Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Trong đó, Hiến chương của Liên hợp
quốc và Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền là những văn bảntuy không có tính
ràng buộc pháp lý, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các nguyên
tắc và định hướng đạo lý, chính trị của quyền con người nói chung, quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng. Công ước là văn bản có tính ràng buộc pháp lý,
bao gồm các nội dung cụ thể về quyền con người và các quốc gia thành viên chịu
trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với văn kiện này. Theo đó, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật quốc tế bao gồm các nội dung: tự do có, theo
hoặc thay đổi một tôn giáo hay tín ngưỡng do mình lựa chọn; tự do bày tỏ tín
ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người
khác, công khai hoặc không công khai dưới các hình thức như thờ cúng, cầu
nguyện, thực hành và truyền giảng.
Hiến chương của Liên hợp quốc 1945, tại phần mở đầu, đã tuyên
bố: “Khẳng định một lần nữa sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm
và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ,...”. Khoản 3,
Điều 1 (Chương I) đã đề cập đến nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo
3


hướng “khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự
do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ
hoặc tôn giáo”. Điều 55, Mục c (Chương IX, Hợp tác quốc tế về kinh tế và xã
hội) ghi nhận Liên hợp quốc khuyến khích: “Sự tôn trọng và tuân thủ triệt để
các quyền và tự do cơ bản của tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam
nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo”.
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, 1948 (The Universal Declaration of
Human Rights - UDHR) được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công

bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10-12-1948, gồm Lời nói đầu và 30 điều.
Lần đầu tiên, Đại Hội đồng Liên hợp quốc có một văn bản tuyên ngôn chính
thức về nhân quyền, tạo cơ sở để Liên hợp quốc cụ thể hoá thành các công ước
mang tính chất pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia thành viên trong việc bảo
đảm, bảo vệ quyền con người nói chung, các quyền về dân sự, chính trị nói riêng
trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Trong Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận trong Điều 18 như
sau: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả
tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín
ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành,
thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi
công cộng hoặc nơi riêng tư”. UDHR đã kế thừa và phát triển tư tưởng về quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789. Điểm phát triển ở đây
là UDHR quy định về quyền này cụ thể và chặt chẽ hơn.
Để thực hiện được các quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị,
xã hội,trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, UDHR đã xác định các bảo
đảm như tôn trọng và thực thi các nguyên tắc quan trọng nhất trong việc bảo vệ
4


quyền con người: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng
về nhân phẩm và các quyền” (Điều 1); “Mọi người đều được hưởng tất cả các
quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt,
đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo,…” (Điều
2); “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một
cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Mọi người đều có quyền
được bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vi
phạm bản Tuyên ngôn này, và chống lại bất kỳ sự kích động phân biệt đối xử nào
như vậy” (Điều 7).

Tuy nhiên, UDHR cũng đề cập đến những giới hạn trong việc thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Điều 29, theo đó, có thể hiểu rằng quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là quyền tuyệt đối, mà là quyền có thể bị giới
hạn. Cụ thể: “1. Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng, là nơi duy
nhất mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ.
2. Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ
những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng
thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng
những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong
một xã hội dân chủ. 3. Trong mọi trường hợp, việc thực hiện các quyền tự do này
cũng không được trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Liên hợp quốc.”.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (The
International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) được thông qua và
để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết của Đại hội
đồng Liên hợp quốc số 2200 (XXI), ngày 16-12-1966, có hiệu lực từ ngày 23-31976. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định với bốn nội dung cụ thể,
trong đó nội dung thứ nhất quy định gần giống với Điều 18 của bản UDHR.
5


Nhưng khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong ICCPR được ghi nhận
cụ thể hơn tại Khoản 1, Điều 18: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự
do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo
hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một
mình hoặc trong cộng đồng vớinhững người khác, một cách công khai hoặc kín
đáo dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng”.
Ngoài ra, trong ICCPR, khái niệm về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn
được bổ sung thêm ba nội dung, làm cho quan niệm về quyền này rõ ràng và đầy
đủ hơn, đó là: không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa
chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ (Khoản 2, Điều 18); Quyền
tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi

sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc
đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người
khác (Khoản 3, Điều 18); Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng
quyền tự do của các bậc cha mẹ, và của những người giám hộ hợp pháp nếu có,
trong việc giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện của
riêng họ (Khoản 4, Điều 18) .
Bốn nội dung của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện tại Điều 18
của ICCPRgắn kết với nhau trong mối tương quan mật thiết, vừa nói lên được
tính phổ quát của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vừa “để ngỏ” cho những
quốc gia với những đặc thù riêng có thể thực hiện được. Vì vậy, tính khả thi
trong hiện thực của nó rất cao. Cho đến nay, nhìn tổng quát, đối với quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo đã được các văn bản pháp lý quốc tế quy định như sau:
1. Tuyên bố sự tồn tại của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;

6


2. Mọi người được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một
cách công khai một mình hay trong cộng đồng;
3. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tuy nhiên, các văn bản chính trị - pháp lý quốc tế cũng khẳng định quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là một quyền tuyệt đối, mà là một quyền
có hạn. Các quốc gia có thể hạn chế việc thực hiện quyền này nếu thấy đó là cần
thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự xã hội, sức khoẻ đạo đức của cộng đồng,
hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác khỏi bị xâm hại. Những hạn
chế của việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định trong
pháp luật quốc tế được các quốc gia thành viên tuân thủ áp dụng trong pháp luật
nước mình một cách triệt để. Theo đó, các loại hình tổ chức tôn giáo hoặc hoạt
động tôn giáo làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, vi
phạm đạo đức,… đều không cho phép hoạt động, thậm chí một số quốc gia còn

sử dụng vũ lực để loại bỏ.
1.2. Quyền nhân thân trong pháp luật Việt Nam.
- Khái niệm.
Để tìm hiểu quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân trước tiên chúng
ta cần hiểu một cách tổng quan về Quyền nhân thân. Quyền nhân thân là một bộ
phận của quyền dân sự. Các cá nhân đều có quyền nhân thân. Điều 24 BLDS
năm 2005 quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là
quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. BLDS cũng như các văn bản pháp
luật khác chưa có khái niệm chính thức về quyền nhân thân. Tuy nhiên, khái
niệm quyền nhân thân đã được đề cập trong một số công trình khoa học, mặc dù
7


các khái niệm được đưa ra cũng chưa phản ánh được đầy đủ các đặc điểm của
quyền nhân thân của cá nhân.
Điều 24 BLDS năm 2005 đưa ra những quy định chung nhất về quyền
nhân thân, qua quy định này, chúng ta có thể định nghĩa về quyền nhân thân như
sau:
Theo nghĩa khách quan, quyền nhân thân được hiểu là tổng hợp các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong đó có nội dung quy định rõ cho các
cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với bản thân mình và đây là cơ sở để cá
nhân thực hiện quyền của mình.
Theo nghĩa chủ quan, quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn liền
với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân không thể chuyển
giao quyền này cho người khác.
- Đặc điểm của quyền nhân thân.
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với cá nhân mà không thể
chuyển giao cho chủ thể khác. Quyền nhân thân có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: Quyền nhân thân là một quyền dân sự và là quyền dân sự đặc

biệt.
Con người là nhân vật trung tâm của xã hội và là đối tượng hướng tới của
các cuộc cách mạng tiến bộ trong lịch sử xã hội loài người. Dưới góc độ pháp
luật dân sự thì cá nhân là chủ thể chủ yếu, thường xuyên quan trọng và phổ biến
của quan hệ dân sự. Các quyền mà pháp luật quy định cho cá nhân là vì con
người và hướng tới con người, trong đó có các quyền nhân thân. Sở dĩ nói quyền
nhân thân là quyền dân sự đặc biệt và các quyền này chỉ thuộc về cá nhân, trong

8


khi đó các quyền khác (quyền tài sản) có thể thuộc về chủ thể khác (pháp nhân,
hộ gia đình).
Thứ hai: Mọi cá nhân đều có sự bình đẳng về quyền nhân thân.
Mọi người đều có quyền nhân thân kể từ khi họ được sinh ra, không phân
biệt giới tính, tôn giáo, giai cấp… Chúng ta thấy quyền nhân thân có một sự khác
biệt cơ bản với quyền tài sản vì quyền bình đẳng về mặt dân sự không quy định
tất cả mọi người đều có khả năng hưởng những quyền như nhau. Nguyên tắc
bình đẳng về mặt dân sự có nghĩa là mọi cá nhân đều có những quyền như nhau,
đó không phải là một khả năng trừu tượng mà là một thực tế. Lợi ích của quyền
nhân thân là được quy định như một thực tế chứ không phải là sự quy định mang
tính hình thức.
Thứ ba: Quyền nhân thân có tính chất phi tài sản.
Quyền nhân thân không bao giờ là tài sản, chỉ có quyền nhân thân gắn với
tài sản hay không gắn với tài sản mà thôi. Vì không phải là tài sản nên quyền
nhân thân không bao giờ trị giá được thành tiền. Về mặt pháp lí, chúng ta cần
phân định rõ tính chất phi tài sản của quyền nhân thân. Ví dụ, một người sáng tạo
ra một sáng chế hay giải pháp hữu ích. Sáng chế hay giải pháp hữu ích do con
người sáng tạo nên mang giá trị kinh tế, chứ bản thân “Quyền tự do sáng tạo”
(Điều 47 BLDS) không phải là tài sản, không mang giá trị kinh tế.

Thứ tư: Quyền nhân thân luôn gắn liền với cá nhân, không thể chuyển
giao cho chủ thể khác.
Pháp luật dân sự thừa nhận quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân mà không thể chuyển dịch cho chủ thể khác, trừ trường hợp do pháp
luật qui định. Điều 24 BLDS qui định: “Quyền nhân thân được quy định trong
9


Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho
người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Các quyền dân sự nói
chung, quyền nhân thân nói riêng là do Nhà nước quy định cho các chủ thể dựa
trên điều kiện kinh tế – xã hội nhất định. Do vậy, về mặt nguyên tắc, cá nhân
không thể chuyển dịch quyền nhân thân cho chủ thể khác, nói cách khác thì
quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự giữa các cá
nhân. Ví dụ, người này không thể đổi họ tên cho người khác và ngược lại hoặc
một người không thể uỷ quyền cho người khác thực hiện quyền tự do đi lại của
mình và mình nhận quyền tự do kết hôn của người khác. Điều này có nghĩa rằng
bản thân chủ thể hưởng quyền nhân thân chứ họ không thể chuyển giao quyền
này cho người khác và cũng không ai có thể đại diện cho họ để thực hiện quyền
này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật thì
quyền nhân thân có thể chuyển giao cho chủ thể khác. Ví dụ: Quyền công bố,
phổ biến tác phẩm của tác giả, khi tác giả chết đi thì quyền này có thể chuyển
giao cho chủ thể khác (người thừa kế của tác giả). Mặc dù vậy thì có những yếu
tố luôn gắn liền với chủ thể mà không thể thay đổi được, ví dụ: Quyền đứng tên
tác giả, quyền bảo vệ sự toàn vệ của tác phẩm.
Thứ năm: Quyền nhân thân là một quyền dân sự do luật định.
Quyền nhân thân là một quyền nằm trong nội dung năng lực pháp luật dân
sự của cá nhân. Pháp luật dân sự quy định cho các cá nhân có các quyền nhân
thân là một sự tuyên bố chính thức về các quyền con người cụ thể được pháp luật
thừa nhận. Việc pháp luật quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân khác

nhau là dựa vào các điều kiện kinh tế xã hội. Do vậy, ở mỗi giai đoạn khác nhau
của lịch sử xã hội loài người, phụ thuộc vào bản chất giai cấp, chế độ chính trị xã
hội… mà quyền nhân thân của cá nhân được quy định một cách khác nhau.

10


Quyền nhân thân là do Nhà nước “trang bị” cho cá nhân, Nhà nước không cho
phép bất cứ cá nhân nào làm thay đổi hay chấm dứt quyền đó.

11


Chương 2. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân.
2.1. Khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của cá nhân.
- Tôn giáo.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại và
tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm qua.
Nói chung bất cứ tôn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó, cũng đều
bao gồm: ý thức tôn giáo (thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng cùng
những tín ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng với những hoạt
động mang tính chất nghi thức tín ngưỡng của nó.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua
chỉ là sự phản ánh hư ảo- vào trong đầu óc của con người- những lực lượng ở
bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó
những lực lượng siêu nhiên trần thế”.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên và
lịch sử cụ thể, xác định. Về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh
sự bế tắc, bất lực của con người trước tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, trong ý thức

tôn giáo cũng chứa đựng nhiều giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý con người.
Trong lịch sử xã hội loài người, tôn giáo xuất hiện từ rất sớm. Nó hoàn
thiện và biến đổi cùng với sự biến đổi của những điều kiện kinh tế- xã hội, văn
hóa, chính trị. Tôn giáo ra đời bởi nhiều nguồn gốc khác nhau nhưng cơ bản là từ
các nguồn gốc kinh tế- xã hội, nhận thức và tâm lý.
- Tín ngưỡng.

12


Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế
giới và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi
được hiểu là tôn giáo. Tuy nhiên, điểm khác biệt để nhận ra giữa tín ngưỡng và
tôn giáo là tín ngưỡng mang tính dân tộc nhiều hơn tôn giáo; tín ngưỡng có tổ
chức không chặt chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng, người ta thường nói
đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung,
còn tôn giáo thì không mang tính dân tộc. Tín ngưỡng không có một hệ thống
điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc.
Tín ngưỡng nếu phát triển đến mức độ nào đó thì có thể phát triển thành tôn
giáo.
- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của
con người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận trong pháp
luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của nhiều quốc gia
trên thế giới. Liênhợp quốc đề cao và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
trong Tuyên ngôn về nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị năm 1966. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận và
bảo đảm thực hiện quyền nàytrong hệ thống pháp luật của mình.
Tự do tôn giáo là quyền được thực hiện các hành vi tôn giáo, theo đuổi
một tín ngưỡng của một cá nhân một cách tự do. Nó được nhiều người cho là

một trong những quyền tự do căn bản của con người. Quyền tự do tôn giáo tại
Việt Nam được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, ở Điều 70 như sau: Công dân có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các
tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật; Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng,
tôn giáo được pháp luật bảo hộ; Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn
13


giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của
Nhà nước.
Theo quy định của nhà nước Việt Nam, hoạt động tôn giáo cần tuân theo
hiến pháp và pháp luật. Ngày 15 tháng 11 năm 2004, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn
giáo có hiệu lực thi hành sau khi được quốc hội thông qua. Theo pháp lệnh này,
các giáo hội chủ động quyết định về nhân sự lãnh đạo giáo hội từ cấp trung ương
đến cơ sở; việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm và thuyên chuyển chức sắc
được các tổ chức Giáo hội thực hiện theo quy định tại hiến chương, điều lệ của
tổ chức tôn giáo và thông báo, đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
(Điều 22). Cũng theo đó, tổ chức tôn giáo nào có hiến chương, điều lệ thể hiện
tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và không trái với
quy định của pháp luật, có tổ chức nhân sự thích ứng thì được phép hoạt động
(Điều 16).
2.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân là một trong các quyền nhân
thân của cá nhân nên mang các đặc điểm chung của quyền nhân thân. Hiến pháp
năm 1980 khẳng định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Điều 70, Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Công dân có quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các
tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín

ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của nhà nước”. Ngoài các quy định trong Hiến pháp, quyền tự do tín
ngưỡng và tôn giáo còn được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật khác của
Nhà nước Việt Nam, như Luật Tổ chức Chính phủ, Bộ Luật Dân sự hoặc trong
14


các văn bản dưới luật để hướng dẫn thực hiện nghiêm chỉnh quyền tự do tín
ngưỡng và tôn giáo trong thực tế
Từ quy định trên của pháp luật, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của cá
nhân có một số đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, Nhà nước Việt Nam thực hiện xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử
tôn giáo, các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi hành vi bị xử lí trước
pháp luật (có liên quan đến tôn giáo) đều do cá nhân vi phạm pháp luật, việc xử
lý cần thiết nhằm bảo vệ trật tự xã hội, không có hiện tượng đàn áp tôn giáo.
Thứ hai, Nhà nước đảm bảo thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo,
theo quy định của pháp luật đồng thời nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng tín
ngưỡng . tôn giáo để chống phá cách mạng, vi phạm pháp luật. các tổ chức tôn
giáo có tôn chỉ mục đích, định hướng hoạt động, cơ cấu tổ chức phù hợp với quy
định của pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, Nhà nước không ngường giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tôn
giáo phát triển thực tế cho thấy số lượng các tín đồ, chức sắc tôn giáo ngày càng
tăng cả về số lượng và chất lượng. Các tín đồ tự do hành lễ dù ở nhà riêng hay
nơi thờ tự. Các cơ sở tôn giáo được xây dựng và sửa chữa, tổ chức tôn giáo phát
triển và mở rộng quan hệ tôn giáo với các nước trên thế giới.
Tuy nhiên, do hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng có liên quan đến nhiều mối
quan hệ xã hội, nên Nhà nước ta cũng công khai bày tỏ quan điểm hoạt động tôn
giáo cũng như quyền tự do tôn giáo ấy phải trong khuôn khổ của pháp luật Việt
Nam. Các hoạt động tôn giáo phù hợp với văn hoá dân tộc và trong phạm vi
pháp luật chính là nhằm bảo đảm cho quyền tự do của người khác và cho chính

nhu cầu chính đáng của đồng bào có đạo.
15


2.3. Các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của cá nhân.
Trong pháp luật Việt Nam, chế định quyền con người được ghi nhận trong
Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của quốc gia ban hành. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
trước hết được ghi nhận tại Điều 70, Hiến pháp năm 1992, trong đó khẳng định:
“Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các
tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước” (Điều 70).
Quy định này của Hiến pháp được cụ thể hoá trong Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo năm 2004: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy” (Điều 1).Hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Do
đó, bên cạnh các quy định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật
chuyên biệt, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được cụ thể hoá trong nhiều
bộ luật, luật quan trọng khác của Nhà nước Việt Nam như: Bộ luật Dân sự năm
2005 quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân như sau: “Cá
nhân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hoặc lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác”. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước


16


pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo,... Bất cứ người
nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
Như vậy, có thể khẳng định rằng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân ở Việt Nam được pháp luật ghi nhận phù hợp với quy định của Công
ước quốc tế về các quyền dân sự. Pháp luật Việt Nam một mặt thừa nhận và bảo
vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, mặt khác cũng đề ra
những phạm vi, giới hạn của việc thực hiện quyền đó.
Căn cứ vào những giới hạn của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo quy định
ở Điều 18 ICCPR, Điều 8 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, một mặt, khẳng
định: “Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng; tôn giáo; vi phạm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”; mặt khác cũng quy định phạm
vi, giới hạn của quyền ấy: “Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích động bạo lực
hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái pháp luật, chính sách của Nhà
nước, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự
công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của
người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê
tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác”.
Điều 15 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định: hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo bị đình chỉ nếu thuộc một trong các trường hợp sau: 1. Xâm phạm an
ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng hoặc môi trường;
2. Tác động xấu đến đoàn kếtnhân dân, đến truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân
tộc. 3. Xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người
khác; 4. Có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

17



Bộ luật Hình sự quy định về tội phá hoại chính sách đoàn kết trong đó có
hành vi “gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, chia rẽ
các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với các tổ chức xã hội”, thì bị phạt
tù từ năm năm đến mười lăm năm. Hoặc “người nào có hành vi cản trở công
dân thực hiện quyền hội họp, quyền lập hội phù hợp với lợi ích của Nhà nước và
của nhân dân, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi
phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ
ba tháng đến một năm”.
Nhìn chung, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã thể hiện
được đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được nêu trong Tuyên ngôn thế
giới về nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966. Điều 38 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo có nêu: “Trong trường hợp
điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
có quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy định của
điều ước quốc tế đó”. Điều đó chứng tỏ sự tương thích của pháp luật Việt Nam
với pháp luật quốc tế, những tiến bộ vượt bậc và những cố gắng rất lớn của Nhà
nước Việt Nam trong việc tôn trọng, bảo đảm quyền con người nói chung, quyền
tựdo tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình
xây dựng một Nhà nước pháp quyền, khi tình hình kinh tế, xã hội của đất nước
còn nhiều khó khăn.

18


KẾT LUẬN
Đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là truyền thống tốt đẹp của cha ông ta
để lại; là di sản quý báu của dân tộc mà mọi người có trách nhiệm giữ gìn và
phát huy. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn coi

công tác tôn giáo là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có
nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo… về tôn giáo và công tác tôn giáo; nhưng
kể từ khi Đảng giành được chính quyền đến nay, lần đầu tiên tại Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX), ngày 12-3-2003, Đảng ra Nghị quyết
riêng về công tác tôn giáo. Điều đó càng chứng tỏ, Đảng Cộng sản Việt Nam rất
quan tâm đến tôn giáo và công tác tôn giáo. Nghị quyết đánh giá tình hình tôn
giáo và công tác tôn giáo ở nước ta, xác định những quan điểm, chính sách cơ
bản đối với tôn giáo là: “Nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Ngay trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị, Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh vấn đề đại đoàn kết toàn dân, công tác dân
tộc và tôn giáo là vấn đề chính trị lớn có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp
cách mạng của nước ta, mà đoàn kết tôn giáo là bộ phận rất quan trọng. Nghị
quyết nói trên đã khẳng định rõ mục tiêu là: củng cố và tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đã là người dân đất Việt với niềm tự hào “con rồng cháu tiên”,
dù theo tôn giáo này hay tín ngưỡng khác; dù ở trong nước hay ở nước ngoài; dù
có tham gia phong trào giải phóng dân tộc hay đã từng một thời lầm đường lạc
lối, hẳn ai cũng đều mong muốn đất nước Việt Nam cường thịnh: dân giàu, nước
mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng và văn minh. Đó là mẫu số chung, là sự tương
đồng để đoàn kết mọi người mang dòng máu Lạc - Hồng.
19


KẾT LUẬN
Đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là truyền thống tốt đẹp của cha ông ta
để lại; là di sản quý báu của dân tộc mà mọi người có trách nhiệm giữ gìn và
phát huy. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
công tác tôn giáo là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có

nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo… về tôn giáo và công tác tôn giáo; nhưng
kể từ khi Đảng giành được chính quyền đến nay, lần đầu tiên tại Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX), ngày 12-3-2003, Đảng ra Nghị quyết
riêng về công tác tôn giáo. Điều đó càng chứng tỏ, Đảng Cộng sản Việt Nam rất
quan tâm đến tôn giáo và công tác tôn giáo. Nghị quyết đánh giá tình hình tôn
giáo và công tác tôn giáo ở nước ta, xác định những quan điểm, chính sách cơ
bản đối với tôn giáo là: “Nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Ngay trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị, Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh vấn đề đại đoàn kết toàn dân, công tác dân
tộc và tôn giáo là vấn đề chính trị lớn có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp
cách mạng của nước ta, mà đoàn kết tôn giáo là bộ phận rất quan trọng. Nghị
quyết nói trên đã khẳng định rõ mục tiêu là: củng cố và tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đã là người dân đất Việt với niềm tự hào “con rồng cháu tiên”,
dù theo tôn giáo này hay tín ngưỡng khác; dù ở trong nước hay ở nước ngoài; dù
có tham gia phong trào giải phóng dân tộc hay đã từng một thời lầm đường lạc
lối, hẳn ai cũng đều mong muốn đất nước Việt Nam cường thịnh: dân giàu, nước
mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng và văn minh. Đó là mẫu số chung, là sự tương
đồng để đoàn kết mọi người mang dòng máu Lạc - Hồng.
20


KẾT LUẬN
Đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là truyền thống tốt đẹp của cha ông ta
để lại; là di sản quý báu của dân tộc mà mọi người có trách nhiệm giữ gìn và
phát huy. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
công tác tôn giáo là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có
nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo… về tôn giáo và công tác tôn giáo; nhưng

kể từ khi Đảng giành được chính quyền đến nay, lần đầu tiên tại Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX), ngày 12-3-2003, Đảng ra Nghị quyết
riêng về công tác tôn giáo. Điều đó càng chứng tỏ, Đảng Cộng sản Việt Nam rất
quan tâm đến tôn giáo và công tác tôn giáo. Nghị quyết đánh giá tình hình tôn
giáo và công tác tôn giáo ở nước ta, xác định những quan điểm, chính sách cơ
bản đối với tôn giáo là: “Nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Ngay trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị, Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh vấn đề đại đoàn kết toàn dân, công tác dân
tộc và tôn giáo là vấn đề chính trị lớn có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp
cách mạng của nước ta, mà đoàn kết tôn giáo là bộ phận rất quan trọng. Nghị
quyết nói trên đã khẳng định rõ mục tiêu là: củng cố và tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đã là người dân đất Việt với niềm tự hào “con rồng cháu tiên”,
dù theo tôn giáo này hay tín ngưỡng khác; dù ở trong nước hay ở nước ngoài; dù
có tham gia phong trào giải phóng dân tộc hay đã từng một thời lầm đường lạc
lối, hẳn ai cũng đều mong muốn đất nước Việt Nam cường thịnh: dân giàu, nước
mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng và văn minh. Đó là mẫu số chung, là sự tương
đồng để đoàn kết mọi người mang dòng máu Lạc - Hồng.
21


KẾT LUẬN
Đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là truyền thống tốt đẹp của cha ông ta
để lại; là di sản quý báu của dân tộc mà mọi người có trách nhiệm giữ gìn và
phát huy. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
công tác tôn giáo là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có
nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo… về tôn giáo và công tác tôn giáo; nhưng
kể từ khi Đảng giành được chính quyền đến nay, lần đầu tiên tại Hội nghị lần thứ

bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX), ngày 12-3-2003, Đảng ra Nghị quyết
riêng về công tác tôn giáo. Điều đó càng chứng tỏ, Đảng Cộng sản Việt Nam rất
quan tâm đến tôn giáo và công tác tôn giáo. Nghị quyết đánh giá tình hình tôn
giáo và công tác tôn giáo ở nước ta, xác định những quan điểm, chính sách cơ
bản đối với tôn giáo là: “Nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Ngay trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị, Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh vấn đề đại đoàn kết toàn dân, công tác dân
tộc và tôn giáo là vấn đề chính trị lớn có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp
cách mạng của nước ta, mà đoàn kết tôn giáo là bộ phận rất quan trọng. Nghị
quyết nói trên đã khẳng định rõ mục tiêu là: củng cố và tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đã là người dân đất Việt với niềm tự hào “con rồng cháu tiên”,
dù theo tôn giáo này hay tín ngưỡng khác; dù ở trong nước hay ở nước ngoài; dù
có tham gia phong trào giải phóng dân tộc hay đã từng một thời lầm đường lạc
lối, hẳn ai cũng đều mong muốn đất nước Việt Nam cường thịnh: dân giàu, nước
mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng và văn minh. Đó là mẫu số chung, là sự tương
đồng để đoàn kết mọi người mang dòng máu Lạc - Hồng.
22


KẾT LUẬN
Đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là truyền thống tốt đẹp của cha ông ta
để lại; là di sản quý báu của dân tộc mà mọi người có trách nhiệm giữ gìn và
phát huy. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
công tác tôn giáo là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có
nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo… về tôn giáo và công tác tôn giáo; nhưng
kể từ khi Đảng giành được chính quyền đến nay, lần đầu tiên tại Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX), ngày 12-3-2003, Đảng ra Nghị quyết

riêng về công tác tôn giáo. Điều đó càng chứng tỏ, Đảng Cộng sản Việt Nam rất
quan tâm đến tôn giáo và công tác tôn giáo. Nghị quyết đánh giá tình hình tôn
giáo và công tác tôn giáo ở nước ta, xác định những quan điểm, chính sách cơ
bản đối với tôn giáo là: “Nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Ngay trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị, Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh vấn đề đại đoàn kết toàn dân, công tác dân
tộc và tôn giáo là vấn đề chính trị lớn có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp
cách mạng của nước ta, mà đoàn kết tôn giáo là bộ phận rất quan trọng. Nghị
quyết nói trên đã khẳng định rõ mục tiêu là: củng cố và tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đã là người dân đất Việt với niềm tự hào “con rồng cháu tiên”,
dù theo tôn giáo này hay tín ngưỡng khác; dù ở trong nước hay ở nước ngoài; dù
có tham gia phong trào giải phóng dân tộc hay đã từng một thời lầm đường lạc
lối, hẳn ai cũng đều mong muốn đất nước Việt Nam cường thịnh: dân giàu, nước
mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng và văn minh. Đó là mẫu số chung, là sự tương
đồng để đoàn kết mọi người mang dòng máu Lạc - Hồng.
23


KẾT LUẬN
Đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là truyền thống tốt đẹp của cha ông ta
để lại; là di sản quý báu của dân tộc mà mọi người có trách nhiệm giữ gìn và
phát huy. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
công tác tôn giáo là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có
nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo… về tôn giáo và công tác tôn giáo; nhưng
kể từ khi Đảng giành được chính quyền đến nay, lần đầu tiên tại Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX), ngày 12-3-2003, Đảng ra Nghị quyết
riêng về công tác tôn giáo. Điều đó càng chứng tỏ, Đảng Cộng sản Việt Nam rất

quan tâm đến tôn giáo và công tác tôn giáo. Nghị quyết đánh giá tình hình tôn
giáo và công tác tôn giáo ở nước ta, xác định những quan điểm, chính sách cơ
bản đối với tôn giáo là: “Nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Ngay trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị, Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh vấn đề đại đoàn kết toàn dân, công tác dân
tộc và tôn giáo là vấn đề chính trị lớn có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp
cách mạng của nước ta, mà đoàn kết tôn giáo là bộ phận rất quan trọng. Nghị
quyết nói trên đã khẳng định rõ mục tiêu là: củng cố và tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đã là người dân đất Việt với niềm tự hào “con rồng cháu tiên”,
dù theo tôn giáo này hay tín ngưỡng khác; dù ở trong nước hay ở nước ngoài; dù
có tham gia phong trào giải phóng dân tộc hay đã từng một thời lầm đường lạc
lối, hẳn ai cũng đều mong muốn đất nước Việt Nam cường thịnh: dân giàu, nước
mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng và văn minh. Đó là mẫu số chung, là sự tương
đồng để đoàn kết mọi người mang dòng máu Lạc - Hồng.
24


KẾT LUẬN
Đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là truyền thống tốt đẹp của cha ông ta
để lại; là di sản quý báu của dân tộc mà mọi người có trách nhiệm giữ gìn và
phát huy. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn coi
công tác tôn giáo là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có
nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo… về tôn giáo và công tác tôn giáo; nhưng
kể từ khi Đảng giành được chính quyền đến nay, lần đầu tiên tại Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX), ngày 12-3-2003, Đảng ra Nghị quyết
riêng về công tác tôn giáo. Điều đó càng chứng tỏ, Đảng Cộng sản Việt Nam rất
quan tâm đến tôn giáo và công tác tôn giáo. Nghị quyết đánh giá tình hình tôn

giáo và công tác tôn giáo ở nước ta, xác định những quan điểm, chính sách cơ
bản đối với tôn giáo là: “Nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Ngay trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị, Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh vấn đề đại đoàn kết toàn dân, công tác dân
tộc và tôn giáo là vấn đề chính trị lớn có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp
cách mạng của nước ta, mà đoàn kết tôn giáo là bộ phận rất quan trọng. Nghị
quyết nói trên đã khẳng định rõ mục tiêu là: củng cố và tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đã là người dân đất Việt với niềm tự hào “con rồng cháu tiên”,
dù theo tôn giáo này hay tín ngưỡng khác; dù ở trong nước hay ở nước ngoài; dù
có tham gia phong trào giải phóng dân tộc hay đã từng một thời lầm đường lạc
lối, hẳn ai cũng đều mong muốn đất nước Việt Nam cường thịnh: dân giàu, nước
mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng và văn minh. Đó là mẫu số chung, là sự tương
đồng để đoàn kết mọi người mang dòng máu Lạc - Hồng.
25


×