Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận Kinh tế - Thực trạng luật đầu tư công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.18 KB, 14 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC…………………….

----------------

LOGO TRƯỜNG

TIỂU LUẬN/BÀI TẬP NHÓM
MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ / QUẢN LÝ KINH TẾ, CÔNG
Đề tài:
Thực trạng Luật đầu tư công

Giảng viên:

……………………………

Học viên/
……………………………
Thành viên nhóm: ……………………………
……………………………

Hà Nội, 20….


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC…………………….

----------------


LOGO TRƯỜNG

TIỂU LUẬN/BÀI TẬP NHÓM
MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ / QUẢN LÝ KINH TẾ, CÔNG

Đề tài:
Thực trạng Luật đầu tư công

Giảng viên:

……………………………

Học viên/
……………………………
Thành viên nhóm: ……………………………
……………………………

Hà Nội, 20….
2


Luật Đầu tư công- Phạm vi điều chỉnh, Đối tượng áp dụng
Luật này quy định việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; quản lý nhà
nước về đầu tư công; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ
chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư công.Luật này áp dụng đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động đầu tư công,
quản lý và sử dụng vốn đầu tư công.
1. Đánh giá sơ bộ kết quả 3 năm thực hiện Luật Đầu tư công và các
văn bản hướng dẫn kèm theo
Việc Quốc hội thông qua Luật số 49/2014/QH13 về đầu tư công khẳng định

chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với công tác quản lý
nhà nước về đầu tư công, tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ và hoàn chỉnh,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý hoạt động đầu tư và sử dụng vốn
đầu tư công; khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải trong đầu tư công,
góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư theo đúng mục tiêu, định hướng của chiến
lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Luật Đầu tư công đã quán triệt và thể chế hóa các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng về cơ cấu lại nền kinh tế nói chung và cơ cấu lại đầu tư mà
trọng tâm là cơ cấu lại đầu tư công. Luật Đầu tư công với nhiều nội dung đổi
mới và quy định chặt chẽ trong toàn bộ quá trình đầu tư, từ khâu quyết định chủ
trương đầu tư, quyết định đầu tư; lập, theo dõi và đánh giá thực hiện kế hoạch,
chương trình, dự án đầu tư công, đã nhận được sự đồng thuận rất cao của các cơ
quan Quốc hội, của cử tri cả nước và các cấp, các ngành, các tổ chức quốc tế và
các nhà tài trợ nước ngoài.
Triển khai Luật Đầu tư công và các nghị định hướng dẫn thi hành đã ngăn
ngừa được sự tùy tiện, chủ quan, duy ý chí trong việc quyết định chủ trương đầu
tư; đã phân cấp mạnh mẽ cho các bộ, ngành trung ương và địa phương trong
quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư dự án, đi đôi các chế tài nâng
cao trách nhiệm của người ra quyết định chủ trương đầu tư; bổ sung quy định về
thẩm định nguồn vốn và cân đối vốn trước khi quyết định chủ trương đầu tư đã
tạo điều kiện nâng cao chất lượng và hiệu quả của chương trình, dự án đầu tư
công, bảo đảm bố trí vốn một cách tập trung cho các mục tiêu, dự án ưu tiên cần
thiết phải đầu tư, khắc phục tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án, đầu tư dàn
trải, lãng phí, kém hiệu quả trong đầu tư công 1; đổi mới công tác lập kế hoạch
đầu tư, chuyển từ việc lập kế hoạch ngắn hạn, hằng năm sang kế hoạch trung
1

Trước khi ban hành Luật Đầu tư công, tổng số dự án đầu tư công của cả nước giai đoạn 2011-2015 là 29 nghìn
dự án. Sau khi thực hiện Luật Đầu tư công, số dự án của giai đoạn 2016-2020 giảm xuống còn 11 nghìn dự án.


3


hạn 5 năm, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, vừa bảo đảm
các cân đối kinh tế lớn trong phạm vi cả nước, vừa tạo sự chủ động cho các bộ,
ngành, địa phương, tạo ra sự công khai, minh bạch trong phân bổ nguồn lực của
Nhà nước; việc lập, phân bổ và giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn ngân
sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ được quản lý ngày càng chặt chẽ, công
khai và minh bạch; trong từng khâu thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án đều
được tổ chức theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra, bảo đảm quản lý và sử dụng
nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả...
Trong thực tế triển khai thực hiện Luật Đầu tư công, các cấp, các ngành từ
Trung ương đến địa phương cơ sở nhận thức rõ hơn trách nhiệm của cơ quan,
đơn vị mình; quán triệt các yêu cầu tăng cường quản lý đầu tư phát triển trong
tất cả các khâu, từ quy hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tư, xây dựng dự án, bố trí
vốn tập trung, đến triển khai, giám sát thực hiện, kiểm toán, quyết toán, nghiệm
thu công trình, dự án.
Việc giao cho các bộ, ngành, địa phương lựa chọn danh mục dự án, dự kiến
phân bổ chi tiết vốn ngân sách trung ương, bổ sung có mục tiêu đã tạo quyền
chủ động trong việc bố trí kế hoạch đầu tư, lồng ghép các nguồn vốn; nâng cao
hiệu quả đầu tư và trách nhiệm trong việc bố trí vốn của cơ quan, đơn vị mình.
Việc bố trí vốn đầu tư được tập trung hơn trước, đã góp phần đẩy nhanh tiến độ,
sớm đưa công trình, dự án vào sử dụng phát huy hiệu quả; đã dành số vốn đáng
kể để thanh toán vốn ứng trước và xử lý dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản
trong giai đoạn 2016-2020, trong đó, đã giải quyết thanh toán 100% số vốn nợ
đọng xây dựng cơ bản nguồn vốn ngân sách trung ương; hoàn trả 68,4% số vốn
ứng trước kế hoạch của giai đoạn trước chưa có nguồn để hoàn trả; số lượng dự
án khởi công mới giảm mạnh. Tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản được kiểm
soát chặt chẽ hơn. Việc bố trí vốn đầu tư bước đầu đã có sự kiểm soát tốt, các dự
án đầu tư về cơ bản được thực hiện theo đúng mức vốn kế hoạch đã giao, góp

phần hạn chế nợ đọng xây dựng cơ bản và ứng trước kế hoạch vốn nhưng chưa
có nguồn để hoàn trả.
Tuy nhiên, Luật Đầu tư công là một luật mới, ban hành lần đầu tiên trong
lĩnh vực đầu tư công, có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, lợi ích, quyền, nghĩa
vụ và trách nhiệm của tất cả các bộ, ngành và địa phương. Do vậy, khó tránh
khỏi những khó khăn do phải thực hiện những quy định mới, những vướng mắc
về cách hiểu, cách làm cũng như còn một số nội dung cần phải nhìn nhận và
hoàn thiện sau một thời gian triển khai thực hiện.
4


Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc là do:
(i) Luật quy định nhiều nội dung đổi mới, một số cơ quan, đơn vị vẫn chưa
nắm vững và nhận thức đầy đủ các quy định của Luật và các Nghị định hướng
dẫn thi hành, nên trong việc triển khai thực hiện ở nhiều đơn vị vẫn còn lúng
túng, triển khai thực hiện một số quy định còn chưa phù hợp, đề xuất và triển
khai thực hiện một số nội dung không đúng với các quy định của pháp luật, trái
thẩm quyền,...
(ii) Một số cơ quan, đơn vị chấp hành các quy định pháp luật về đầu tư
công chưa nghiêm, chưa thực hiện đầy đủ các quy định về phê duyệt chủ trương
đầu tư, quyết định đầu tư, thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn, bố trí
vốn không phù hợp với các nguyên tắc, tiêu chí Quốc hội, Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ đã đề ra, nên phải điều chỉnh kế hoạch giao vốn nhiều lần và
kéo dài thời gian giao vốn; theo dõi, đánh giá, kiểm tra kế hoạch, chương trình,
dự án thực hiện chưa sát sao, chưa đầy đủ;
(iii) Chất lượng chuẩn bị dự án chưa tốt, vẫn còn tình trạng một số dự án
chuẩn bị đầu tư và phê duyệt quyết định chủ trương đầu tư dự án, quyết định đầu
tư dự án mang tính hình thức để có điều kiện ghi vốn; phê duyệt quyết định chủ
trương đầu tư không phù hợp với thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn.
Dẫn đến sau khi bố trí kế hoạch lại yêu cầu điều chỉnh quyết định chủ trương

đầu tư, quyết định đầu tư, thậm chí phải thẩm định lại nguồn vốn và khả năng
cân đối vốn.
2. Về một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai kế hoạch
đầu tư công
Nhìn chung, các bộ, ngành và địa phương có nhiều ý kiến khác nhau trên
cơ sở thực tiễn triển khai Luật ở các cơ quan, đơn vị và các ý kiến của các bộ,
ngành, địa phương là chính đáng. Tuy nhiên, với nhiệm vụ được giao là tổng
hợp các báo cáo, Ban cán sự Đảng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chỉ đạo công tác
nghiên cứu, rà soát, tổng hợp các vấn đề nổi cộm nhất, trên tinh thần đổi mới,
cái gì tốt, hiệu quả thì giữ lại; cái gì chưa rõ thì hướng dẫn cho dễ hiểu, dễ làm
và cụ thể hơn; cái gì thực sự vướng mắc, cản trở thì báo cáo cấp có thẩm quyền
sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn.
Qua công tác tổng hợp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin báo cáo Chính phủ 03
nhóm vấn đề vướng mắc chủ yếu như sau:
a) Nhóm vấn đề liên quan đến đối tượng dự án:
5


Việc quy định hoặc phân loại một số đối tượng dự án chưa cụ thể hoặc
chưa rõ ràng dẫn tới công tác triển khai lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương
đầu tư, phê duyệt dự án và bố trí kế hoạch vốn gặp nhiều vướng mắc, cụ thể:
(1) Việc quy định các dự án không phân biệt tổng mức đầu tư thuộc phạm
vi quy hoạch của Di tích quốc gia đặc biệt là dự án nhóm A (khoản 1 Điều 8)
dẫn tới khó khăn là các dự án có quy mô nhỏ kỹ thuật đơn gian, không ảnh
hưởng đến di tích gốc vẫn phải thực hiện các thủ tục phức tạp và trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt quyết định chủ trương đầu tư.
Do vậy, việc quy định lại tiêu chí phân loại dự án đối với những dự án tại
địa bàn di tích quốc gia đặc biệt là cần thiết, trong đó chỉ quy định theo hướng
dự án là nhóm A đối với các hạng mục thuộc vùng lõi của di tích quốc gia đặc
biệt hoặc các hạng mục thuộc di tích gốc, còn lại các dự án khác không quy định

là nhóm A và thực hiện theo quy định như các dự án thông thường khác.
(2) Việc phân loại dự án có cấu phần xây dựng và dự án không có cấu phần
xây dựng chưa cụ thể, rõ ràng (khoản 1 Điều 6) dẫn tới một số dự án mua sắm
tài sản, dự án ứng dụng công nghệ thông tin có cấu phần xây dựng nhưng tỷ lệ
rất nhỏ (chỉ chiếm 1-5% tổng mức đầu tư dự án) nhưng vẫn được phân loại là dự
án có cấu phần xây dựng. Theo đó, dự án phải thực hiện các quy trình, thủ tục
như dự án có cấu phần xây dựng, mất nhiều thời gian hoàn thiện thủ tục, trong
khi thời gian thực hiện dự án (mua sắm, lắp đặt thiết bị) là rất ngắn. Đối với dự
án ứng dụng công nghệ thông tin có thể dẫn tới tình trạng khi dự án hoàn thành
thì thiết bị, công nghệ đã lạc hậu.
Do vậy, bổ sung quy định riêng về trình tự, thủ tục thẩm định các dự án có
cấu phần xây dựng chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng mức đầu tư dự án là cần thiết,
tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ phê duyệt và thực hiện dự án, nhất là các dự án
ứng dụng công nghệ thông tin trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần
tứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ.
(3) Việc quy định điều kiện được bố trí vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn
là phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt quyết định chủ trương đầu tư (Điều
55) chưa thống nhất với quy định đối với vốn chuẩn bị đầu tư (khoản 1 Điều 57)
dẫn tới cách hiểu chưa thống nhất về bố trí vốn chuẩn bị đầu tư. Vì vốn chuẩn bị
đầu tư trong kế hoạch đầu tư trung hạn thì chưa thể được cấp có thẩm quyền phê
duyệt quyết định chủ trương đầu tư. Đồng thời, chưa quy định rõ bố trí vốn
chuẩn bị đầu tư là một khoản chi hay là một dự án, gây khó khăn cho các bộ,

6


ngành, địa phương khi dành một phần vốn để thực hiện công tác chuẩn bị đầu
tư, nhất là đối với các bộ có dự án lớn như Bộ Giao thông vận tải.
Do vậy, việc sửa đổi khoản 1 Điều 55 Luật Đầu tư công theo hướng loại trừ
các dự án chuẩn bị đầu tư để lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư dự án

là cần thiết, tạo điều kiện cho công tác chuẩn bị đầu tư được tốt hơn. Đồng thời,
có quy định riêng đối với dự án chuẩn bị đầu tư để có căn cứ bố trí vốn và tổng
hợp giao kế hoạch.
b) Nhóm vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục:
Vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục được nhiều bộ, ngành, địa phương có
ý kiến. Việc phát sinh các trình tự, thủ tục là nhằm mục tiêu quản lý chặt chẽ
hơn đầu tư công, từ khâu lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư đến khâu
bố trí vốn, triển khai thực hiện. Qua thực tiễn triển khai thực hiện và tổng hợp
các báo cáo, một số quy trình, thủ tục đã bộc lộ nhiều vướng mắc:
(1) Trình tự, thủ tục phê duyệt quyết định chủ trương đầu tư, trong đó khâu
thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn chưa được quy định rõ ràng,
trong một số trường hợp đã tạo ra “vòng luẩn quẩn” trong lập kế hoạch đầu tư
công trung hạn khi Luật quy định dự án phải có quyết định chủ trương đầu tư
mới được bố trí vốn, trong khi đó thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn
là điều kiện bắt buộc để quyết định chủ trương đầu tư nhưng lại chưa rõ nguồn
vốn để thẩm định. Vốn có trước hay dự án có trước là một vấn đề còn đang
vướng mắc và chưa rõ ràng.
Do vậy, việc hoàn thiện lại quy trình phê duyệt chủ trương đầu tư là cần
thiết, theo hướng giữ lại khâu phê duyệt chủ trương đầu tư dự án nhưng cần thay
đổi trình tự và nội dung phê duyệt nhằm vừa quản lý chặt chẽ đầu tư công ngay
từ khâu phê duyệt chủ trương đầu tư, nhưng phải đơn giản hóa thủ tục hành
chính, tạo thuận lợi cho các bộ, ngành, địa phương và khắc phục được tình trạng
vốn có trước hay dự án có trước.
(2) Trình tự, thủ tục đối với trường hợp chủ đầu tư đề xuất tăng hoặc giảm
quy mô dự án; tăng, giảm tổng mức đầu tư của chương trình, dự án đã được quy
định tại Điều 46 Luật Đầu tư công. Tuy nhiên, chưa quy định cụ thể đối với việc
tăng tổng mức đầu tư từ phân loại dự án nhóm C lên nhóm B, nhóm B lên nhóm
A và ngược lại; hoặc giữ nguyên tổng mức đầu tư nhưng lại giảm quy mô dự án,
làm thay đổi mục tiêu đầu tư ban đầu so với quyết định chủ trương đầu tư đã
được phê duyệt. Điều này có thể dẫn tới tình trạng lách Luật, né tránh các thủ

7


tục của dự án nhóm trên, ảnh hưởng đến công tác thẩm định, giám sát, có thể
gây lãng phí, thất thoát nguồn vốn.
Do vậy, việc nghiên cứu, xây dựng, bổ sung quy trình thực hiện đối với các
dự án điều chỉnh so với chủ trương đầu tư được phê duyệt là cần thiết.
(3) Việc điều chỉnh kế hoạch đầu tư công thuộc thẩm quyền của Thủ tướng
Chính phủ được quy định tại Khoản b, d Điều 75 Luật Đầu tư công. Tuy nhiên,
trong thực tế triển khai kế hoạch hằng năm, các bộ, ngành và địa phương có nhu
cầu điều chuyển kế hoạch giữa các dự án, đặc biệt là dự án sử dụng vốn ODA và
vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài trong nội bộ của các cơ quan chủ
quản khá lớn, đặc biệt là vào cuối năm ngân sách. Khi muốn điều chỉnh vốn từ
dự án chậm tiến độ sang dự án giải ngân tốt đặc biệt là dự án ODA phải báo cáo
Thủ tướng Chính phủ. Việc này giảm tính chủ động của các bộ, ngành và địa
phương, tăng thủ tục hành chính.
Do vậy, việc nghiên cứu, sửa đổi quy định này để tạo chủ động cho các bộ,
ngành và địa phương trong điều kiện kế hoạch vốn được giao, giảm thời gian và
thủ tục hành chính là cần thiết, theo hướng phân cấp hơn cho các bộ, ngành, địa
phương và cấp trung ương thực hiện công tác hậu kiểm sau khi đã điều chỉnh.
(4) Việc kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công
hằng năm được quy định tại Điều 76 Luật Đầu tư công và Điều 46 Nghị định số
77/2015/NĐ-CP. Theo đó, thời gian giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công hằng
năm được kéo dài sang năm sau và các bộ, ngành, địa phương trước ngày 15/3
gửi báo cáo danh mục và số vốn đề nghị kéo dài cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Tài chính.
Tuy nhiên, quy trình cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân gặp
nhiều vướng mắc ở khâu đối chiếu, thống nhất số liệu giải ngân thực tế giữa bộ,
ngành, địa phương với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, gây chậm chễ cho
việc thông báo danh mục và số vốn kéo dài cho các bộ, ngành và địa phương.

Do vậy, cần sửa đổi khoản 3 Điều 46 Nghị định số 77/2015/NĐ-CP theo
hướng tăng sự chủ động cho các bộ, ngành, địa phương, giảm bớt các thủ tục
báo cáo, rà soát, thông báo lại..., đồng thời bổ sung các điều kiện để được gia
hạn thời gian thực hiện và giải ngân. Các cơ quan tổng hợp ở trung ương làm
công tác hậu kiểm và báo cáo lại Thủ tướng Chính phủ.
c) Nhóm vấn đề liên quan gắn kế hoạch tài chính 03 năm với kế hoạch đầu
tư công trung hạn
8


Luật Ngân sách nhà nước 2015 quy định về việc lập kế hoạch tài chính ngân sách nhà nước 03 năm. Việc lập kế hoạch tài chính 3 năm có ưu điểm nổi
bật là tính chính xác cao hơn so với kế hoạch tài chính 5 năm do thời gian dự
báo ngắn. Nội dung của kế hoạch tài chính 3 năm là phải dự báo về số thu, chi
và cơ cấu thu, chi; dự báo về số bội chi ngân sách; trần chi tiêu cho các lĩnh vực,
nhiệm vụ chi đầu tư phát triển, chi trả nợ, chi thường xuyên. Do đó, việc lập kế
hoạch đầu tư 3 năm gắn với kế hoạch tài chính - ngân sách là rất quan trọng, tạo
sự linh hoạt trong triển khai kế hoạch đầu tư công, phù hợp với khả năng nguồn
lực ngân sách cho chi đầu tư nhằm đảm bảo tính khả thi của kế hoạch đầu tư
công trung hạn.
d) Nhóm vấn đề còn chưa thống nhất giữa các luật liên quan đến đầu tư
công:
Qua thực tế triển khai thực hiện, đã phát sinh một số điểm còn chưa thống
nhất giữa Luật Đầu tư công với Luật Bảo vệ môi trường, cụ thể như sau:
Khoản 2 Điều 25 Luật Bảo vệ môi trường quy định theo hướng quyết định
phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường là căn cứ để cấp có thẩm quyền
thực hiện Quyết định chủ trương đầu tư dự án trong trường hợp pháp luật quy
định dự án phải có quyết định chủ trương đầu tư.
Điều 22, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định các nội dung chính
của báo cáo đánh giá tác động môi trường. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều dự án
chưa thể hiện được các nội dung này trong giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi

phục vụ quyết định chủ trương đầu tư, mà chỉ có thể thực hiện được trong giai
đoạn báo cáo nghiên cứu khả thi, đây chính là các vướng mắc đối với các dự án
đầu tư công.
Tuy nhiên, điều 34, Luật Đầu tư công về nội dung Báo cáo đề xuất chủ
trương đầu tư công chỉ yêu cầu có “Phân tích, đánh giá sơ bộ những ảnh hưởng,
tác động về môi trường, xã hội của chương trình”; Điều 35 Luật Đầu tư công về
nội dung Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án quan trọng quốc gia và dự án
nhóm A chỉ yêu cầu “Phân tích, đánh giá sơ bộ tác động về môi trường, xã hội
của dự án”. Tại thời điểm trình Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư chương trình
đầu tư công (Điều 34, Luật Đầu tư công) và trình phê duyệt Báo cáo nghiên cứu
tiền khả thi dự án quan trọng quốc gia và dự án nhóm A (Điều 35, Luật Đầu tư
công) nhiều dự án chưa thể có đầy đủ căn cứ để lập, trình thẩm định và phê
duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định tại khoản 2, Điều 25
9


Luật Bảo vệ môi trường. Đồng thời, sự quy định khác nhau trên đã gây khó khăn
trong quá trình triển khai các dự án đầu tư công, nhất là đối với các dự án có quy
mô lớn, dự án quan trọng quốc gia.
A. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT
SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT ĐẦU TƯ CÔNG
Luật Đầu tư công được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ
và hoàn chỉnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý hoạt động đầu tư và
sử dụng vốn đầu tư công; khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải trong
thời gian qua, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư theo đúng mục tiêu, định
hướng của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Việc ban
hành Luật Đầu tư công cũng tạo ra công cụ quan trọng để bảo đảm việc quản lý
đầu tư công được công khai, minh bạch, góp phần tích cực vào việc chống thất
thoát, lãng phí; đồng thời, cũng là căn cứ pháp lý để tăng cường công tác phòng
chống tham nhũng, khắc phục tình trạng cửa quyền, nhũng nhiễu trong quản lý

đầu tư công.
Luật Đầu tư công được xây dựng trên tinh thần quán triệt và thể chế hóa
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về tái cơ cấu nền kinh tế nói
chung và tái cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công nói riêng. Đặc
biệt là đã thể chế hóa các quy định về đổi mới, tăng cường quản lý đầu tư công
đã nêu trong Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ. Do Luật Đầu tư công ban hành với nhiều nội dung đổi mới và quy
định chặt chẽ trong toàn bộ quá trình đầu tư, từ khâu quyết định chủ trương đầu
tư, quyết định đầu tư; lập, theo dõi và đánh giá thực hiện kế hoạch, chương
trình, dự án đầu tư công, nên đã nhận được sự đồng thuận rất cao của các cơ
quan Quốc hội, của cử tri cả nước và các cấp, các ngành, các tổ chức quốc tế và
các nhà tài trợ nước ngoài.
Luật Đầu tư công là một bộ luật rất mới, triển khai được gần 3 năm và đã
đạt được kết quả ban đầu khá tích cực. Cụ thể là:
- Các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương cơ sở nhận thức rõ hơn
trách nhiệm của cơ quan, đơn vị mình; quán triệt các yêu cầu tăng cường quản lý
đầu tư phát triển trong tất cả các khâu, từ quy hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tư,
xây dựng dự án, bố trí vốn tập trung, đến triển khai, giám sát thực hiện, kiểm
toán, quyết toán, nghiệm thu công trình.

10


- Việc lập, phân bổ và giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách
nhà nước và trái phiếu Chính phủ được quản lý ngày càng chặt chẽ, công khai và
minh bạch, theo đúng các tiêu chí, định mức của Ủy ban thường vụ Quốc hội,
của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, đã giảm phiền hà, nhũng nhiễu và tiêu
cực trong các cấp, các ngành.
- Việc giao cho các bộ, ngành, địa phương lựa chọn danh mục dự án, dự
kiến phân bổ vốn ngân sách trung ương, bổ sung có mục tiêu đã tạo quyền chủ

động trong việc bố trí kế hoạch đầu tư, lồng ghép các nguồn vốn; nâng cao hiệu
quả đầu tư và trách nhiệm trong việc bố trí vốn của cơ quan, đơn vị mình. Việc
bố trí vốn đầu tư được tập trung hơn trước, đã góp phần đẩy nhanh tiến độ, sớm
đưa công trình, dự án vào sử dụng phát huy hiệu quả; đã dành số vốn đáng kể để
thanh toán vốn ứng trước và xử lý dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản trong giai
đoạn 2016-2020; số lượng dự án khởi công mới giảm mạnh.
- Tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản được kiểm soát chặt chẽ hơn. Việc
bố trí vốn đầu tư bước đầu đã có sự kiểm soát tốt, các dự án đầu tư về cơ bản
được thực hiện theo đúng mức vốn kế hoạch đã giao, góp phần hạn chế nợ đọng
xây dựng cơ bản.
- Công tác rà soát, thẩm định dự án, trong đó có thẩm định về nguồn vốn và
cân đối vốn được chú trọng hơn trước. Các dự án được bố trí vốn triển khai thực
hiện có đầy đủ các thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật.
- Việc ban hành các chính sách, văn bản pháp luật rõ ràng, đã tạo môi
trường thuận lợi hơn để thu hút các nguồn vốn đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp
nước ngoài,…
Mặc dù đã đạt những kết quả tích cực, tuy nhiên cần thiết phải được nghiên
cứu sửa đổi, bổ sung xuất phát từ những lý do cụ thể sau:
I. Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của
Nhà nước về cơ cấu lại đầu tư công
Ngày 01 tháng 11 năm 2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW về một số chủ
trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao
chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế,
trong đó yêu cầu: “Hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công, bảo đảm hiệu quả
và phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó ưu tiên đổi mới cách thức thẩm định,
đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư theo mức độ hiệu quả kinh tế dự tính của dự
án... Công khai, minh bạch thông tin và tăng cường giám sát đối với đầu tư
công
11



... Xác định rõ trách nhiệm trực tiếp của người đứng đầu cơ quan, tổ chức
đối với hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư.”
Ngày 08 tháng 11 năm 2016, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
24/2016/QH14 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, tiếp tục
trong đó nhấn mạnh “Tổ chức thực hiện hiệu quả kế hoạch đầu tư công trung
hạn gắn với kế hoạch tài chính 5 năm 2016-2020 và kế hoạch vay, trả nợ công.
Thực hiện cơ cấu lại đầu tư công gắn với cơ cấu lại tài chính công, cơ cấu lại
ngân sách nhà nước và nợ công”.
II. Áp dụng mạnh mẽ hơn các nguyên tắc công khai, minh bạch, chịu
trách nhiệm cá nhân và lựa chọn và đánh giá dự án đầu tư công dựa trên
hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án
Việc ban hành và thực hiện Luật Đầu tư công thời gian qua đã nâng cao
tính kỷ luật trong hoạt động đầu tư công, cắt giảm cơ bản tình trạng đầu tư dàn
trải, nợ đọng xây dựng và đầu tư kéo dài. Tuy nhiên, để tiếp tục nâng cao hơn
nữa hiệu quả đầu tư công, cần tiếp tục hoàn thiện luật pháp về đầu tư công, đặc
biệt là Luật Đầu tư công, theo hướng nâng cao tính công khai, minh bạch, chịu
trách nhiệm cá nhân và lựa chọn dự án đầu tư dựa trên hiệu quả kinh tế - xã hội
của dự án đầu tư công.
III. Khắc phục những vướng mắc trong triển khai Luật Đầu tư công,
đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tháo gỡ khó khăn cho
các bộ, ngành và địa phương
Qua thực tiễn triển khai thực hiện Luật Đầu tư công thời gian qua cho thấy
quy định tại Luật cơ bản phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, quản lý đầu tư công nên đã phát huy được những tác động tích cực. Tuy
nhiên, trong quá trình triển khai cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần thiết
phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo phù hợp với thực tế, tháo gỡ khó khăn cho bộ,
ngành và địa phương, cụ thể: Một số quy định tại Luật Đầu tư công hiện hành
còn phức tạp, phát sinh thủ tục hành chính, chưa tạo thuận lợi cho cơ quan, đơn

vị, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư công như việc điều chỉnh
giữa các dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước
ngoài, chưa thống nhất với quy định của pháp luật có liên quan, chưa thống nhất
với các quy định khác tại Luật và chưa phù hợp với thực tế, cụ thể: Quy định
phần vốn nước ngoài trong kế hoạch đầu tư công hằng năm được phép giải ngân
theo tiến độ thực hiện và tiến độ cấp vốn của nhà tài trợ nước ngoài; quy định
chưa chặt chẽ về việc điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư từ dự án nhóm B lên
nhóm A hoặc từ nhóm B lên nhóm A.

12


B. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
Việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công dựa
trên những mục đích, quan điểm, nguyên tắc cơ bản sau:
1. Thể chế hoá quan điểm, chủ trương, chính sách của Nhà nước thông
qua việc tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế nói
chung và chủ trương cơ cấu lại đầu tư công mà Bộ Chính trị, Quốc hội đã đề ra,
đặc biệt là chỉ đạo tại Nghị quyết số 05-NQ/TW: “Hoàn thiện thể chế quản lý
đầu tư công, bảo đảm hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó ưu tiên
đổi mới cách thức thẩm định, đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư theo mức độ
hiệu quả kinh tế dự tính của dự án”. Áp dụng mạnh mẽ hơn các nguyên tắc công
khai, minh bạch, chịu trách nhiệm cá nhân và lựa chọn dự án đầu tư dựa trên
hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án. Thay đổi cơ bản công tác lập và thẩm định
dự án đầu tư công, tiếp cận theo thông lệ tốt trên thế giới, dựa trên việc thực
hiện ước tính định lượng hiệu quả kinh tế xã hội của dự án.
2. Đảm bảo tính thống nhất giữa các luật quản lý đầu tư công, đặc biệt giữa
Luật Đầu tư công và Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư công và Luật Xây
dựng, Luật Bảo vệ môi trường và Luật Đất đai.
3. Nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn nhà nước, phù hợp với chiến

lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; chống thất
thoát, lãng phí, dàn trải và đảm bảo tính minh bạch, công khai trong hoạt động
đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước.
4. Đẩy mạnh phân cấp trong quản lý hoạt động đầu tư công: phân cấp điều
chỉnh dự án, phân cấp phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư gắn với
trách nhiệm của từng cấp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý sử
dụng vốn nhà nước đối với toàn bộ quá trình đầu tư.
5. Gắn liền với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế nói chung và cơ cấu lại đầu
tư công nói riêng theo hướng sử dụng hiệu quả nguồn lực hạn hẹp của nhà nước,
tạo điều kiện khuyến sự sự tham gia đầu tư của khu vực tư nhân, trong và ngoài
nước, thông qua các hình thức đầu tư phù hợp, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng,
phục vụ tăng trưởng nhanh, bền vững, gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế.

13


Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

14



×