Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

BP nâng cao chất lượng giảng dạy AV không chuyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.34 KB, 22 trang )

BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯNG PHƯƠNG PHÁP
GIẢNG DẠY TIẾNG ANH KHÔNG CHUYÊN NGỮ Ở TRƯỜNG CAO
ĐẲNG SƯ PHẠM BÌNH DƯƠNG
MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Dạy học ngoại ngữ nói chung hay dạy tiếng Anh nói riêng cho đối tượng
khơng chun ln có một vị trí quan trọng trong chương trình đào tạo của các
trường Cao đẳng và Đại học. Nó được xác định là mơn bổ trợ đảm bảo sinh viên
khi tốt nghiệp ra trường đạt được trình độ tiếng anh cơ bản nhất định để có thể
đáp ứng u cầu đòi hỏi của cơng việc và giao tiếp bằng tiếng Anh, đồng thời lấy
đó làm tiền đề để tiếp tục học tập nghiên cứu nâng cao.
Trong những năm gần đây, phương pháp giảng dạy các kỹ năng tiếng Anh
đã có nhiều thay đổi nhằm nâng cao năng lực giao tiếp của người học đáp ứng
u cầu mới trong xu thế giao lưu và hội nhập quốc tế ngày càng tăng. Vấn đề đặt
ra là phải làm sao nắm bắt, vận dụng và đổi mới phương pháp giảng dạy Tiếng
Anh cho phù hợp với hồn cảnh cụ thể của từng trường ở Việt Nam và của
trường Cao đẳng Sư phạm Bình Dương để nâng cao chất lượng và hiệu qủa giảng
dạy. Đề tài này sẽ tập trung phân tích những phương pháp giảng dạy kỹ năng nói
và viết tiếng Anh phù hợp với đối tượng sinh viên khơng chun ngữ trong
trường Cao đẳng Sư phạm Bình Dương để từ đó đề xuất một số biện pháp đổi
mới phương pháp.
II. SƠ LƯỢC VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU:
Xét về mặt lý thuyết, những đổi mới về chương trình, sách giáo khoa,
phương pháp dạy học ở bậc Cao đẳng và Đại học đã được bộ ban hành rộng rãi
trên nhiều phương tiện thơng tin đại chúng như: Tạp chí nghiên cứu giáo dục, báo
giáo dục và thời đạI, các tài liệu in phổ biến cho các cán bộ cốt cán trong các lớp
tập huấn do Bộ tổ chức. Tuy nhhiên về mặt thực tiễn, đề tài này là một đề tài
mới.
III.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Xuất phát từ những giải trình như trên về tính thiết thực của đề tài nghiên
cứu, chúng tơi xác định mục tiêu của đề tài là:


1. Tổng Quan các phương pháp giảng dạy tiếng Anh.
2. Phương pháp giảng dạy kỹ năng nói và viết tiếng Anh cho
đối tượng khơng chun trong trường cao đẳng Sư phạm Bình Dương.
1
1.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng phương pháp
giảng dạy tiếng Anh.
IV. ĐỐI TƯNG VÀ KHÁCH THỂ Ø NGHIÊN CỨU:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Giải pháp nâng cao chất lượng phương pháp giảng dạy
tiếng Anh không chuyên ngữ
4.2. Khách thể nghiên cứu:
Chương trình. Sách giáo khoa, sách giáo viên tiếng anh
không chuyên ngữ. ( The new cambridge).
Sinh viên trường cao đẳng Sư phạm Bình dương
Giáo viên khoa ngoại ngữ trường cao đẳng Sư phạm Bình
Dương
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phân tích và hệ thống hóa
những vấn đề lí luân có liên quan đến nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài qua các
tài liệu nhằm xây dựng đề tài nghiên cứu
5.2. Phương pháp cụ thể:
5.2.1. Phương phá tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết kinh
nghiệm của các giảng viên khoa Ngọai ngữ, các nhà nghiên cứu giáo dục, các
nhà khoa học đã nêu trong các hội thảo, báo cáo, hay trong sách báo, tạp chí…
5.2.2. Phương pháp trò chyện, trao đổi: Trò chuyện, trao đổi
trực tiếp với giảng viên đứng lớp, cũng dùng phương pháp này để lấy ý kiến
các chuyên gia giáo dục.
5.2.3. Rút ra kết luận và khuyến nghò.
VI. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI:
6.1. Chương I: Tổng Quan Các Phương pháp giảng dạy tiếng Anh.

6.2. Chương II: Phương pháp giảng dạy kỹ năng nói và viết tiếng
Anh cho đối tượng không chuyên ngữ.
6.3. Chương III. Một số giải pháp nâng cao chất lượng phương
pháp dạy tiếng Anh.
2
Chương 1. TỔNG QUAN CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TIẾNG
ANH.
1. Khái niệm phương pháp dạy học.
2. Vai trò của phương pháp dạy học trong quá trình dạy học.
3. Các phương pháp dạy học tiếng Anh từ trước đến nay.
3.1. Bản chất các phương pháp dạy học tiếng Anh.
3.2. Các phương pháp truyền thống.
3.3.Phương pháp thực hành giao tiếp.
Chương 2 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY KỸ NĂNG NÓI VÀ VIẾT TIẾNG
ANH CHO ĐỐI TƯNG KHÔNG CHUYÊN NGỮ Ở TRƯỜNG
CĐSP BÌNH DƯƠNG.
1. Thực trạng tình hình dạy - học.
2. Phương pháp giảng dạy kỹ năng nói và viết tiếng Anh cho đối
tượng sinh viên không chuyên ngữ.
2.1. Phương pháp dạy kỹ năng nói.
2.2. Phương pháp dạy kỹ năng viết.
Chương 3. BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯNG PHƯƠNG PHÁP DẠY
TIẾNG ANH:
Biện pháp 1: Qui cách làm giao án giảng dạy tiếng Anh .
Biện pháp 2:Cách tiến hành hoạt động trên lớp.
Biện pháp 3: Sự cần thiết phải tận dụng công nghệ thông tin mới
để nâng cao chất lượng phương pháp giảng dạy các kỹ năng tiếng
Anh.
Biện pháp 4: Đổi mới cách kiểm tra và đánh giá.
VII. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI:

- Đưa ra được những Biện pháp dạy – học tiếng Anh phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể ở trường CĐSP BD.
- Nắm được bản chất và những nguyên tắc căn bản của việc giảng
dạy tiếng Anh nói chung và của từng kỹ năng nói riêng.
3
NỘI DUNG
Chương 1. TỔNG QUAN CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TIẾNG ANH.
1.1- Khái niệm phương pháp dạy học.
♣ Giảng dạy tiếng Anh cũng như giảng dạy bất cứ một môn học nào
khác đều phải tuân theo những quy luật khách quan và những nguyên tắc
chung nhất của phương pháp dạy học. Do đó, cần thiết phải tìm hiểu những
khái niệm, bản chất của phương pháp và phương pháp dạy học.
♣ Trong bài viết :”Bản chất của quá trình dạy học”, dựa trên quan điểm
triết học, giáo sư Nguyễn Ngọc Quang đã đưa ra một số những nhận đònh sau
đây về khái niệm phương pháp :
♦ Phương pháp, từ gốc tiếng Hy Lạp “Methodou”, gồm Mela là “sau” và
Odou là “con đường”, nghóa là “con đường dõi theo sau một đối tượng”.
♦ Phương pháp là cách nhận thức, con đường, phương tiện, là tổ hợp các
bước mà trí tuệ phải đi theo để tìm ra và làm rõ chân lý. Trong trường hợp
này, “phương pháp” đồng nghóa với “tiếp cận” (approach), với “lôgic”.
♦ Phương pháp cũng đồng nghóa với biện pháp kỹ thuật, biện pháp khoa
học để tiến hành một công việc nào đó.
♦ Phương pháp là tổ hợp những quy tắc, nguyên tắc, quy phạm dùng để
chỉ đạo hành động.
♦ Phương pháp còn được hiểu theo nghóa là kế hoạch có hệ thống hay quy
trình các giai đoạn cần triển khai làm một việc gì đó. Vì thế ta quen nói “làm
việc có phương pháp” tức là có kế hoạch, có tổ chức hợp lý.
♦Tuy nhiên, chỉ có đònh nghóa của Hêghen – một nhà triết học Đức đưa ra
là chứa đựng một nội hàm sâu sắc và bản chất nhất, được Lênin nêu lên trong
tác phẩm “Bút ký triết học” của mình : phương pháp là “ý thức về hình thức

của sự tự vận động bên trong của nội dung”. Theo khái niệm này, muốn có
phương pháp tốt, trước hết phải nắm được bản chất và quy luật vận động
khách quan của vấn đề. Không nắm được bản chất của vấn đề không thể có
phương pháp tiếp cận hiệu quả được.
♣ Phương pháp dạy học cũng bao hàm các tính chất trên đây. Nói một
cách cụ thể hơn phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức, biện pháp
hoạt động của thầy và trò để đạt được mục tiêu dạy học đề ra.
1-2. Vai trò của phương pháp dạy học trong quá trình dạy học.
4
♦ Quá trình giáo dục gồm 6 thành tố chính : mục tiêu, nội dung, phương
pháp, giáo viên, người học, và điều kiện môi trường vật chất đảm bảo cho
giảng dạy và học tập. Phương pháp dạy học là một thành tố quan trọng, có
quan hệ biện chứng với các thành tố khác trong quá trình này.
♦ Trong các mối quan hệ trên đây, quan hệ giữa phương pháp, nội dung
và mục tiêu có một vai trò quyết đònh trực tiếp nhất đến thành công của quá
trình dạy học. Phương pháp gắn bó với mục tiêu và nội dung và chòu sự chi
phối của hai yếu tố này. Phương pháp xuất phát từ mục tiêu, nhằm thực hiện
mục tiêu, mục tiêu nào, phương pháp ấy, không có phương pháp vạn năng,
chung cho mọi hoạt động. Muốn cho phương pháp được hiệu nghiệm, hoạt
động thành công thì phải đảm bảo được yêu cầu : I) xác đònh đúng mục tiêu;
ii) lựa chọn được phương pháp thích hợp với mục tiêu. Tính có mục tiêu của
phương pháp là nét đặc trưng cơ bản nổi bật nhất của nó. Điều này có ý nghóa
phương pháp luận rất quan trọng đối với các giảng viên khi lập giáo án cho
một buổi lên lớp hoặc nội dung chương trình cho cả một môn học trong cả
khóa học.
♦ Phương pháp và nội dung cũng quan hệ biện chứng với nhau. Từ việc
nắm vững bản chất và logíc bên trong của nội dung, chủ thể của quá trình dạy
học mới tìm ra và chọn lựa được phương pháp dạy học hiệu quả phù hợp với
đặc thù của đối tượng giảng dạy. Chẳng hạn phương pháp dạy ngoại ngữ sẽ
khác với dạy các môn khác như toán, triết và ngay trong dạy ngoại ngữ,

phương pháp dạy nghe cũng khác với dạy viết. Phương pháp phù hợp sẽ
truyền đạt được sâu sắc nội dung và như vậy đồng thời đạt được mục tiêu đề
ra.
♦ Phương pháp còn gồm hai mặt : khách quan và chủ quan. Mặt khách
quan gắn liền với đối tượng của phương pháp, là quy luật khách quan chi phối
đối tượng mà chủ thể phải ý thức được. Chẳng hạn, trong việc giảng dạy của
giảng viên, mặt khách quan của phương pháp dạy là đối tượng môn học, quy
luật lý luận dạy học … Mặt chủ quan của phương pháp gắn liền với chủ thể sử
dụng phương pháp. Đó là những thao tác hướng vào đối tượng mà chủ thể lựa
chọn hợp với quy luật chi phối đối tượng, là hành động đúng đắn hợp quy luật.
♦ Hai mặt khách quan và chủ quan của phương pháp luôn luôn tương
tác với nhau và tạo nên sự hiệu nghiệm của phương pháp. Nói đơn giản, khi
chủ thể nắm vững đối tượng, thì trên cơ sở đó lựa chọn thao tác, quy trình
hành động đúng đắn hợp lý, rồi thực hiện đúng đắn, hợp lý hành động đó, và
5
đi tới kết quả. Điều này cho thấy, muốn có phương pháp hiệu nghiệm, chủ thể
phải có kiến thức chân thực về đối tượng, trên cơ sở đó thao tác đúng đắn với
đối tượng. Đối với giáo viên ngoại ngữ chúng ta, điều này có nghóa là chúng
ta phải có kiến thức tốt về ngoại ngữ và các kỹ năng mình dạy, đối tượng
người dạy, từ đó chuyển hóa thành thao tác đúng đắn với đối tượng.
♦ Qua trình bày về bản chất và vai trò của phương pháp trong quá trình
dạy học, có thể rút ra một số yêu cầu có tính nguyên tắc sau đây để đảm bảo
tính hiệu nghiệm của phương pháp :
∗ Nắm vững quy luật khách quan chi phối đối tượng của hoạt động, hành
động chủ quan theo đúng quy luật đó.
∗ Bảo đảm nhất quán sự thống nhất biện chứng của mục tiêu, nội dung và
phương pháp dạy học.
∗ Lập kế hoạch, triển khai đúng đắn và thành thạo các phương pháp dạy
học.
∗ Chuyển hóa và phối hợp tối ưu nhiều phương pháp thành phương pháp

mới, phù hợp với mục tiêu và nội dung đặc thù của hoạt động.
1-3- Các phương pháp giảng dạy tiếng Anh từ trước đến nay.
1.3.1- Bản chất các phương pháp giảng dạy tiếng Anh.
♦Bản chất các phương pháp giảng dạy tiếng Anh là dạy cách tiếp cận
hiệu quả đối với tiếng Anh trên cơ sở nắm vững bản chất của ngôn ngữ này và
tiến hành hợp lý quy trình các bước để tiếp thu và sử dụng nó.
♦Các quan niệm trước đây cho rằng dạy học tiếng Anh là phải hoàn
toàn dựa vào chính bản thân ngôn ngữ tiếng Anh, nghóa là phải bắt đầu từ
phân tích lý giải kết cấu ngữ pháp của từng đơn vò cấu thành lên một thông
điệp : từ các âm vò, hình vò, đến từ, nhữ, câu để hiểu được toàn bộ thông điệp
đó. Các quan niệm sau này cho rằng giảng dạy tiếng Anh không chỉ đơn
thuần dựa vào quá trình giải mã ngôn ngữ mà còn dựa vào những yếu tố rộng
hơn như : mục đích của người nói, chủ đề và kết cấu nội dung, phương pháp
tiếp cận của người dạy và học … Chẳng hạn khi dạy một bài đọc, chúng ta
không nhất thiết phải giải mã hết ý nghóa ngữ pháp và từ vựng của từng đơn vò
ngôn ngữ trong bài mà có thể kết hợp linh hoạt quá trình này với các phương
pháp khác như phán đoán, suy luận … để có thể hiểu được nội dung của bài
mà không cần phải tra hết các từ mới. Những quan niệm này đã đònh hướng
6
và chỉ đạo quá trình giảng dạy tiếng Anh nói chung và từng kỹ năng tiếng
Anh cụ thể.
♦Đã thònh hành nhiều phương pháp giảng dạy tiếng Anh khác nhau
trong lòch sử. Trong vòng khoảng hơn 30 năm trở lại đây, phương pháp giảng
dạy tiếng Anh đã có nhiều thay đổi mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu giao tiếp
ngày càng tăng của xã hội. Các phương pháp truyền thống đã dần chuyển hóa
thành các phương pháp tổng hợp mới hiệu quả hơn. Đánh giá lại một số
phương pháp giảng dạy tiếng Anh phổ biến trên thế giới và Việt Nam từ trước
đến nay sẽ cho chúng ta một cái nhìn toàn diện về những điểm mạnh và hạn
chế của từng phương pháp để đi đến được một phương pháp phù hợp nhất đối
với môi trường giảng dạy cụ thể của chúng ta.

1.3.2- Các phương pháp truyền thống.
Một nét nổi bật của các phương pháp giảng dạy tiếng Anh truyền thống
trước đây là đều rất chú trọng đến dạy kiến thức ngữ pháp, hoặc thiên về một
kỹ năng như đọc dòch hoặc nghe nói. Thầy thường đóng vai trò chủ đạo, trò
tiếp thu một cách thụ động, rập khuôn. Điển hình là phương pháp ngữ pháp-
phiên dòch (The Grammar-Translation Approach). Theo phương pháp này,
người học chủ yếu dựa vào nguyên tắc ngữ pháp để lý giải ý nghóa của từng
thành tố trong câu để nắm được nghóa của cả câu, cả đoạn rồi đến cả bài mà
hầu như không phải thực hành nghe hoặc nói. Tóm lại, người học chỉ ghi nhớ
các nguyên tắc ngữ pháp và áp dụng chúng vào kỹ năng đọc, viết để tìm cách
chuyển dòch nghóa sang tiếng mẹ đẻ hoặc tiếng Anh. Phương pháp này đã rất
thònh hành trước đây và ngay cả hiện nay ở Việt Nam vì nó phù hợp với thói
quen học truyền thống của người Việt. Hơn nữa, nó cũng tỏ ra rất hiệu quả
cho việc dạy và học ngữ pháp rất cần cho đối tượng mới học ngoại ngữ, đối
tượng luyện thi hoặc nghiên cứu chỉ cần học tiếng Anh để đọc tài liệu. Tuy
nhiên, phương pháp này có điểm hạn chế cơ bản là không phát triển đồng đều
các kỹ năng tổng hợp như nghe, nói, đọc, viết để nâng cao năng lực giao tiếp
cần thiết cho người học. Hơn nữa, các nhà ngôn ngữ đều nhất trí cho rằng ngữ
pháp nên dạy theo ngữ cảnh hơn là dạy theo cách lý thuyết cứng nhắc.
Một phương pháp khác - Phương pháp nghe nói (The Audiolingual
Approch) – đã có chú trọng hơn vào nghe nói nhưng chủ yếu lại học theo cách
bắt trước. Theo quan niệm học ngoại ngữ cũng giống như học bất cứ một kỹ
năng thao tác nào khác, kỹ thuật giảng dạy chủ yếu tập trung vào việc hình
7
thành lên một loạt những thói quen thông qua bắt trước, lặp lại và luyện tập
nhiều lần những cấu trúc cấu cơ bản mà người bản ngữ thường dùng để từ đó
có thể tái tạo chính xác những mẫu câu mà ít phải lý giải tại sao lại như vậy.
Cách dạy này bắt người học phải ghi nhớ hoặc học thuộc các mẫu để áp dụng
vào những tình huống cần thiết. Mặc dù người học có thể nâng cao được khả
năng nghe, nói nhưng phương pháp này tỏ ra đơn điệu, máy móc và thiếu tính

sáng tạo.
1.3.3- Phương pháp thực hành giao tiếp (Communicative Approach)
Phương pháp này xuất hiện vào cuối những năm 60 đầu những năm 70
để khắc phục những hạn chế của các phương pháp trước đây và để đáp ứng
nhu cầu giao tiếp đang tăng mạnh. Theo phương pháp này, ngôn ngữ được coi
là phương tiện giao tiếp và việc nâng cao năng lực giao tiếp là mục tiêu của
dạy học ngoại ngữ.
Năng lực giao tiếp (communicative competence) đã được Oxford dựa
trên quan niệm của các nhà ngôn ngữ tổng kết thành bốn điểm sau đây :
1.3.3.1. Năng lực ngữ pháp hay khả năng sử dụng chính xác ngữ pháp
(grammartical competence or accuracy) gồm ngữ âm, từ vựng, cú pháp.
1.3.3.2. Năng lực ngôn ngữ xã hội (Sociolinguistic competence) :
khả năng hiểu hay vận dụng ngôn ngữ phù hợp vào các tình huống giao tiếp
tực tế trong xã hội.
1.3.3.3. Năng lực diễn ngôn (Discourse competence) : khả năng gắn kết
các ý để tạo ra một diễn ngôn mạch lạc (coherence) và liên kết chặt chẽ
(cohesion).
1.3.3.4.Năng lực phương pháp (Strategic competence) : khả năng sử
dụng các biện pháp, cách tiếp cận, thủ pháp, hay các bước phù hợp để khắc
phục một số khó khăn hạn chế và thúc đẩy hiệu quả dạy và học ngoại ngữ.
Trong tiếng Anh, khjái niệm này được gọi là “Strategies”.
Phương pháp giao tiếp coi người học là trung tâm (learner-centred
approach), còn thầy chỉ đóng vai trò hướng dẫn và kích thích khả năng sử
dụng và giao tiếp ngôn ngữ của người học. Người học sẽ được phát triển toàn
diện tất cả các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết theo tiêu chuẩn trôi chảy (fluency)
và chính xác (accuracy). Sinh viên được chủ động, sáng tạo trong các hoạt
8

×