Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tìm hiểu, mô tả, đánh giá và đề xuất bảo tồn giá trị văn nghệ dân gian của người Sán Dìu tại địa bàn tỉnh Tuyên Quang.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.88 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do tìm hiểu đề tài giá trị văn nghệ của người Sán Dìu ở Tuyên Quang.
2.Cảm nhận khi học và nghiên cứu học phần Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt
Nam.
PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát về địa bàn tỉnh Tuyên Quang và tộc người Sán Dìu.
1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế , xã hội tỉnh Tuyên Quang.
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên của tỉnh Tuyên Quang
1.1.2. Dân số , kinh tế , xã hội.
1.2. Khái quát về tộc người Sán Dìu .
1.2.1. Tên gọi và nguồn gốc tộc người .
1.2.2. Dân số ,địa bàn cư trú.
1.2.3. Ngôn ngữ , chữ viết, trang phục.
1.2.4.Phong tục tập quán, tín ngưỡng.
1.2.5.Đặc điểm kinh tế- văn hóa:
2.Truyền thuyết, truyện thơ, hát Soọng cô và ý nghĩ văn nghệ dân giancủa
người Sán Dìu .
2.1.Truyền thuyết và truyện thơ của người Sán Dìu.


2.2. Hát Soọng cô nét văn hóa nghệ thuật đặc trưng nhất của người Sán Dìu.
2.2.1. Những nét chung về hát Soọng cô của người Sán Dìu.
2.2.2. Đặc trưng về nội dung.
2.2.3. Đặc trưng về nghệ thuật.
2.3. Ý nghĩa văn nghệ dân gian của người Sán Dìu.
2.3.1. Giá trị lịch sử.
2.3.2. Giá trị văn hóa, nghệ thuật và ảnh hưởng tới cộng đồng.
3. Đánh giá và đề xuất biện pháp để quản lý, bảo tồn, phát huy các giá trị về
văn nghệ dân gian của người Sán Dìu ở Tuyên Quang.


3.1. Ưu nhược điểm.
3.1.1. Ưu điểm.
3.1.2. Nhược điểm
3.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn nghệ dân gian truyền thông của
người Sán Dìu.
3.2.1. Nâng cao công tác tổ chức và quan lý.
3.2.2. Tuyên truyền vận động nâng cao ý thức của người dân.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Nghĩa của từ viết tắt

1

VH-TT-DL

Văn hóa-Thể thao-Du lịch

2

BVHTTDL

Bộ Văn hóa-Thể thao-Du lịch


3

VH-TT

Văn hóa-Thông tin

4

DSVH

Di sản văn hóa

5

DSVH-VT

Di sản văn hóa vật thể

6

DSVH-PVT

Di sản văn hóa phi vật thể

7

CBQL

Cán bộ quản lý


8

QD

Quyết định

9

CBCV

Cán bộ, chuyên viên

10

BQL

Ban quản lý

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do tìm hiểu đề tài giá trị văn nghệ của người Sán Dìu ở Tuyên Quang.
Tôi là sinh viên chuyên ngành Quản lý Văn hóa , thuộc khoa Văn hóa – Thông tin
và Xã hội của trường đại học Nội Vụ Hà Nội, trong quá trình học tập môn Văn hóa
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam tôi đã được tìm hiểu và trang bị vốn kiến thức về
các tộc người ở trên đất nước Việt Nam thân yêu này. Với sự đam mê tìm tòi học
hỏi của mình thông qua kiến thưc của môn hoc càng thúc đẩy tôi muốn tìm hiểu


sâu hơn nữa về những giá trị văn hóa daab gian của người Sán Dìu trên cả nước nói
chung và người Sán dìu tại tỉnh Tuyên Quang nói riêng.

Trong bài tiểu luận này tôi se tập trung nghiên cứu về các giá trị văn nghệ dân gian
của người Sán Dìu ở tỉnh Tuyên Quang.
2.Cảm nhận khi học và nghiên cứu học phần Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt
Nam.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu học phần Văn hóa các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam tôi đã đươc trang bi thêm rất nhiều kiến thức cũng như hiểu biết thêm về
phong tục, tập quán, nhưng nét văn hóa riêng biệt của từng đồng bào dân tộc ít
nười trên mảnh đất hình chữ S thân thương . Dải rác trên mảnh đất Việt Nam ngoài
dân tộc Kinh với nhưng nét văn hóa nổi trội còn 53 dân tộc khác với nhưng nhét
đăc trưng trong văn hóa tất cả tạo nên một đất nước Việt Nam đa dạng về văn hóa.
Môn học này thôi thúc đam mê tìm hiểu văn hóa của các dân tộc trong con người
tôi.

PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát về địa bàn tỉnh Tuyên Quang và tộc người Sán Dìu.
1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế , xã hội tỉnh Tuyên Quang.


1.1.1. Đặc điểm tự nhiên của tỉnh Tuyên Quang
Tuyên Quang là một tỉnh thuộc vùng trung du - miền núi phía Bắc, diện tích tự
nhiên là 5.867 km2 , bằng 1,8% diện tích cả nước. Địa hình của Tuyên Quang khá
phức tạp, bị chia cắt bởi nhiều dãy núi cao và sông suối, đặc biệt ở khu vực phía
Bắc tỉnh. Phía Nam tỉnh địa hình thấp dần, ít bị chia cắt, có nhiều đồi núi thấp và
thung lũng chạy dọc theo các con sông.
1.1.2. Dân số , kinh tế , xã hội.
Tổng dân số là :746.700 người.
Tuyên Quang là tỉnh miền núi, nền kinh tế nông-lâm nghiệp chiếm ưu thế, mô hình
kinh tế trang trại kết hợp nông lâm. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Tuyên Quang xếp ở vị trí thứ 56/63
tỉnh thành.

Nông nghiệp: lúa là cây lương thực chính, sau đó là các cây ngô, sắn, khoai
lang. Cây công nghiệp gồm có: chè (nhà máy chè Tuyên Quang, Tháng Mười, Tân
Trào), cây sả làm tinh dầu sả, lạc, đậu, tương. Cây ăn
quảcó: cam, quýt, nhãn, vải, chanh. Chăn nuôi có trâu, bò, lợn, dê, gia cầm...
Công nghiệp: có quặng kẽm, quặng mangan, quặng thiếc, bột kẽm, khai thác
ăntimoan... Sản xuất giấy, bột giấy, xi măng, vôi.
Có nhà máy thủy điện Tuyên Quang được đưa vào sử dụng chính thức ngày 30
tháng 1 năm 2008, công suất thiết kế đạt 342 MW.
Tuyên Quang là tỉnh có 22 dân tộc cư trú, ở mỗi cộng đồng các dân tộc sinh sống
trên mảnh đất này đều có những nét văn hoá, phong tục tập quán từ lâu đời, đã
được hình thành và phát triển qua hàng trăm năm vỡ đất lập bản, lập làng. Chính
những nét đặc trưng của văn hoá đã cấu kết trong cộng đồng dân cư, tạo nên những


sắc thái riêng biệt và trở thành những di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu, đóng góp
cho kho tàng văn hóa của cả nước. Trong quá trình tồn tại và phát triển, mỗi cộng
đồng dân tộc thiểu số sinh sống trên mảnh đất Tuyên Quang đều đóng góp những
di sản văn hóa vật thể, phi vật thể thực sự tiêu biểu. Trên cơ sở những di sản này,
trong những năm qua ngành Văn hóa của tỉnh đã có nhiều nỗ lực cố gắng để vừa
khơi dậy việc bảo tồn ngay chính trong cộng đồng dân tộc, vừa khảo cứu để hoàn
thiện việc lập hồ sơ khoa học của các di sản này.
Tuyên Quang được ví là hình ảnh thu nhỏ của vùng văn hoá Việt Bắc. Những giá
trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ở tỉnh thể hiện trong đời sống tinh
thần khá rõ nét. Đó là những quan niệm và cách giải thích về vũ trụ, các nghi lễ
như: Thờ cúng tổ tiên, cúng chữa bệnh, cưới hỏi... Đồng bào các dân tộc thiểu số
trong tỉnh đã tạo dựng được một kho tàng dân ca, dân vũ hết sức phong phú, đặc
sắc như làn điệu Then, Cọi, Quan làng (dân tộc Tày), Páo dung (dân tộc Dao), Sình
ca (dân tộc Cao Lan), Soọng cô (dân tộc Sán Dìu)… Về lễ hội, có nhiều sắc thái
văn hoá rất đặc trưng và đa dạng, tiêu biểu là những lễ hội dân gian thường được tổ
chức sau tết Nguyên Đán với phần “lễ” diễn ra hết sức trang trọng và phần “hội”

đậm đà truyền thống, như lễ hội Lồng tông, lễ hội Nhảy lửa...

1.2. Khái quát về tộc người Sán Dìu .
1.2.1. Tên gọi và nguồn gốc tộc người .
Người Sán Dìu ở Việt Nam trước đây vẫn tự gọi dân tộc mình là San Dáo Nhín,
có nghĩa là Sơn Dao Nhân (tức người Dao ở trên núi). Các dân tộc lân cận dựa trên


đặc điểm cư trú, phương thức canh tác hoặc y phục truyền thống của người Sán
Dìu mà gọi họ bằng các tên khác như: Trại đất (người Trại ở nhà đất) để phân biệt
với Trại cao (người Cao Lan ở nhà sàn), Trại ruộng (người Trại làm ruộng), Trại
cộc, Mán cộc, Mán quần cộc (trang phục quần cộc), Mán váy xẻ (phụ nữ mặc váy
xẻ), Slán Dao.
Căn cứ vào ngôn ngữ và một số phong tục tập quán, người Sán Dìu được xếp vào
hệ ngôn ngữ Hán - Tạng ở Việt Nam. Từ đây, tên Sán Dìu là tên gọi chính thức
trong các văn bản của Nhà nước.
Người Sán Dìu di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm nay.
1.2.2. Dân số ,địa bàn cư trú.
Dân số trên cả nước: 146.821 (Tổng cục Thống kê năm 2009)
Dân số người Sán Dìu trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang: Cộng đồng người Sán Dìu
có hơn 10.000 người, chiếm khoảng 1,4% dân số toàn tỉnh
Người Sán Dìu sống ở miền Trung du các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ,
Thái Nguyên và Tuyên Quang.
1.2.3. Ngôn ngữ , chữ viết, trang phục.
Người Sán Dìu nói thổ ngữ Hán Quảng Ðông (ngữ hệ Hán - Tạng). Người Sán Dìu
chưa có chữ viết, nhưng nhiều người biết chữ Hán.
Trang phục: Phụ nữ mặc áo dài, quần chàm đen, đội khăn đen, thắt dây lưng màu
trắng, đeo tạp dề trước bụng quấn xà cạp trắng . đeo vòng ở cổ, ở tay và đeo xà tích
bạc bên hông. Nam giới mặc quần áo màu chàm.
1.2.4. Phong tục tập quán, tín ngưỡng.



Ăn: Họ ăn cơm tẻ là chính, có độn thêm khoai sắn. Sau bữa ăn, họ thường húp
thêm bát cháo loãng như người Nùng.
Ở: Họ ở nhà đất lợp rạ hay tranh. Các nhà thường quần tụ thành bản nhỏ, kín đáo
và cũng có lũy tre xanh bao bọc.
Phương tiện vận chuyển: Phương tiện vận chuyển của đồng bào là gánh, đặc biệt
có chiếc xe quệt bằng gỗ, tre trâu kéo, rất thích hợp với nơi có độ dốc thoai thoải.
Hôn nhân: Người Sán Dìu có tục xem lá số, xem tuổi cho cuộc tìm hiểu cưới xin
của đôi trai gái. Trong đám cưới, lễ cưới diễn ra ở nhà gái là quan trọng nhất.
Tang ma: Khi lấp huyệt xong, con cái đi vòng quanh mộ. nhúm một nắm đất đặt
lên mộ. Có tục cải táng.
Tín ngưỡng: Người Sán Dìu thờ tổ tiên, có miếu thờ thổ thần...
1.2.5. Đặc điểm kinh tế- văn hóa.
Người Sán Dìu có làm ruộng nước nhưng không nhiều, canh tác ruộng khô là
chính. Ngoài các loại cây trồng thường thấy ở nhiều vùng như lúa, ngô, khoai,
sắn... Thêm vào đó còn có chăn nuôi, khai thác lâm sản, đánh bắt nuôi thả cá, làm
gạch ngói, rèn, đan lát v.v . Từ lâu đời, người Sán Dìu đã sáng tạo ra chiếc xe quệt
(không cần bánh lăn) dùng trâu kéo để làm phương tiện vận chuyển. Hình thức
gánh trên vai hầu như chỉ dùng cho việc đi chợ. Hàng ngày, người Sán Dìu dùng cả
cơm lẫn cháo, đồ giải khát thông thường là nước cháo loãng. Ngoài ra họ còn hay
uống rượu trong sinh hoạt vui chơi, lễ tết..
Đời sống văn hóa: Người Sán Dìu cũng có hát giao duyên nam nữ mà họ gọi là
soọng cô, thường được hát về đêm. Truyện kể - chủ yếu truyện thơ khá đặc sắc.
Các điệu nhảy múa thường xuất hiện trong đám ma. Nhạc cụ có tù và, kèn, trống,


sáo, thanh la, não bạt cũng để phục vụ nghi lễ tôn giáo. Nhiều trò chơi dân tộc
được họ ưa thích là: đi cà kheo, đánh khăng, kéo co.
2.Truyền thuyết, truyện thơ , hát Soọng cô và ý nghĩ văn nghệ dân giancủa

người Sán Dìu .
2.1.Truyền thuyết và truyện thơ của người Sán Dìu.
Người Sán Dìu từ xa xưa đến ngày nay vẫn dùng chữ Hán phiên âm theo tiếng dân
tộc của mình. Sau này người Sán Dìu dùng các ký tự La tinh để làm ra thứ ngôn
ngữ của riêng mình trong các cuốn sổ tay bài hát, bài thuốc cổ truyền. Trong đó có
các tác phẩm như : Cạo chấy loang kênh (Kinh sách dạy con), Phòn Cú Vòng (Vua
Bàn Cổ), Hoi then dip thi (Mở trời dựng đất), Hoẹn Gạy Mòn (Văn khuyên đời).
Cạo chấy loang kênh (Kinh sách dạy con) là thể thơ bảy chữ, một trăm chín mươi
hai câu. Tuy ngắn về câu chữ nhưng dài về ý tưởng, hàm chứa trong đó bao ý nghĩa
sâu xa,đúc rút những triết lý xác đáng, cách cư xử giữa cha mẹ và con cái, con cái
với cha mẹ, anh em họ hàng, người với người trong xã hội. Nó đánh thức cái chân,
thiện, mỹ về lễ nghĩa làm người, giúp con cái học và hành theo đường hiếu
nghĩa… có hiếu với cha mẹ là điều không bao giờ lỗi thời. Cuốn sách chú trọng
dạy cái gốc của đạo làm người.
Ngoài những cuốn truyện thơ ra thì người Sán Dìu còn có những câu truyện truyền
thuyết lý giải các hiện tượng tự nhiên cung như nguồn gốc , phong tục tập quán
cũng như các dòng họ của người Sán Dìu . Trong đó nổi bật lên là Truyền thuyết về
“ Vua

Cóc” ( Khảm suy vong). Truyền thuyết này được chép bằng truyện thơ dài

hơn 800 câu, mỗi câu 7 chữ, lưu truyền rộng rãi trong tộc người Sán Dìu. Cốt
chuyện nhiều lần nhắc tới địa danh Tân Châu, Linh Sơn, Hà Nam. Ngoài các địa
danh “ Mãn Khê Quốc” qua lời kể của các cụ già và gia phả của các dòng họ,
người Sán Dìu vốn là tộc người nhỏ bé, sinh sống ở miền Nam Trung Quốc. Vào


những năm cuối thời nhà Minh đầu nhà Thanh( thế kỷ XVII), vì không chịu được
sự đàn áp bóc lột tàn bạo của bọn phong kiến thống trị, người Sán Dìu một lần nữa
phải lưu tán, một bộ phận nhỏ đã vượt biên giới Việt - Trung để vào Việt Nam.

Truyền thuyết, "Truyện quả bầu" nói về nguồn gốc dân tộc Sán Dìu kể rằng: Thuở
xa xưa trời đất còn gần nhau, có một làng quê đông đúc trù phú soi bóng xuống
dòng sông thơ mộng. Bỗng một hôm ông trời nổi giận, cho nước sông dâng cao
làm chết muôn loài. Trong làng có hai chị em họ nhanh chân chui vào quả bầu khô,
nổi lên theo dòng nước nên sống sót. Khi nước rút, vì trong vùng không còn ai, họ
bèn lấy nhau, sinh nhiều con cháu làm cho người Sán Dìu hồi sinh trở lại. Tuy làng
đông người nhưng toàn con cháu cùng huyết thống, không thể lấy nhau được nên
phải sang làng khác tìm hiểu.
2.2. Hát Soọng cô nét văn hóa nghệ thuật đặc trưng nhất của người Sán Dìu.
2.2.1. Những nét chung về hát Soọng cô của người Sán Dìu.
Soọng cô là loại hình ca hát dân gian độc đáo, thể hiện sinh động đời sống của
người Sán Dìu ở Tuyên Quang. Nó luôn là phương tiện truyền tải mọi tâm tư,
nguyện vọng, tình cảm của người dân. Trước sự phát triển của nhiều loại hình giải
trí hiện đại, việc tìm hiểu đặc trưng, vai trò, ý nghĩa của làn điệu dân ca này là việc
làm cần thiết, góp phần bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc.
Người Sán Dìu có vốn thơ ca dân gian phong phú, trong đó, hát soọng cô (đối đáp
nam nữ) là hình thức phổ biến trong dịp lễ hội, ngày xuân, đêm trăng đẹp, thể hiện
tình yêu trong lao động và giữa con người với con người.
Theo tiếng Sán Dìu, soọng nghĩa là hát, còn cô nghĩa là ca. Soọng cô được hát theo
sách, có bài bản sẵn. Ngày nay, người Sán Dìu đã sáng tác thêm những bài hát mới
ca ngợi quê hương đất nước dựa vào lời ca, giai điệu của những câu hát cổ.


Soọng cô là một thể loại hát ví đối đáp gắn liền với sinh hoạt văn hóa dân gian của
người Sán Dìu. Họ hát về tình yêu lứa đôi, ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, ca ngợi tình
nghĩa thủychung vợ chồng, công lao ông bà, cha mẹ, răn dạy con người sống có
đức, có nhân, có hiếu… Tiếng hát cất lên thật dặt dìu, réo rắt, lúc ngân cao, lúc
trầm ấm làm say mê lòng người. Những lời ca bình dị ấy đã trở thành món ăn tinh
thần có sức sống mãnh liệt và lắng đọng trong tâm hồn của người Sán Dìu.
Soọng cô là lối hát dân gian hòa quyện vào nếp sống của người Sán Dìu. Đó là

hình thức sinh hoạt cộng đồng giữa hai bên: chủ và khách, nam và nữ, giữa làng nọ
với làng kia. Môi trường diễn xướng soọng cô tương đối phong phú, không bị giới
hạn bởi không gian, thời gian, hoàn cảnh. Người ta có thể hát một hoặc nhiều đêm,
có thể hát trong nhà, bên bờ suối, trên nương, trong đám cưới, khi ru con... và hát
chúc xuân trong các lễ hội. Môi trường diễn xướng hát soọng cô bao gồm:
Hát soọng cô ngoài trời, là những bài hát được thể hiện trong hội xuân, bên giếng
làng, thác nước, bờ suối, nương chè... khi nam nữ của hai hay nhiều làng gặp gỡ
nhau, hát đối đáp với nhau, thể hiện tình cảm qua lời hát.
Hát soọng cô trong nhà, là những bài hát giao duyên của các chàng trai, cô gái Sán
Dìu khi đến thăm nhà, thăm làng của nhau.
Hát soọng cô trong đám cưới, là những bài hát thể hiện sự vui mừng, phấn khởi
trong ngày cưới. Khúc hát tâm tình, giàu nhạc điệu được thay cho những câu đối
thoại phổ thông giữa hai họ.
Hát soọng cô trong lao động sản xuất, gồm những bài hát được thể hiện trong quá
trình lao động sản xuất, ở nương rẫy, đồng ruộng, đồi chè…


Có thể nói, soọng cô không đơn thuần là lời ca tiếng hát dân giã, thấm đượm hồn
người, mà còn là một nét văn hóa riêng với không gian, thời gian diễn xướng cùng
những tục lệ riêng của người Sán Dìu.
2.2.2. Đặc trưng về nội dung.
Nội dung của soọng cô rất phong phú, đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong
đời sống xã hội của dân tộc Sán Dìu như tình yêu đôi lứa, tình yêu thiên nhiên, quê
hương xứ sở, đề cao lao động, phê phán cái xấu... Tùy từng hoàn cảnh cụ thể mà
soọng cô truyền tải những thông điệp văn hóa khác nhau. Căn cứ vào kết quả điền
dã tại địa phương, có thể chia nội dung của soọng cô thành ba dạng chính: hát giao
duyên, hát trong đám cưới và hát trong lao động sản xuất.
Hát giao duyên
Ở người Sán Dìu, tiếng hát giao duyên gần như là phương tiện chủ yếu để bày tỏ
tình cảm, trò chuyện, tìm hiểu, thể hiện tình yêu đôi lứa. Vậy nên, nội dung bao

trùm trong các bài hát soọng cô là tình yêu đôi lứa. Thanh niên nam, nữ thường
mượn cảnh đẹp của quê hương, đất nước, những cảnh sinh hoạt hàng ngày, câu
chuyện cổ tích, thần thoại, thông qua đó để nói lên tình yêu và ước vọng xây dựng
một cuộc sống vui tươi, ấm êm, hạnh phúc. Hát giao duyên có hai loại: hát giao
duyên ban ngày, hát giao duyên ban đêm.
Đồng bào Sán Dìu ở Tuyên Quang thường tổ chức hội hát trong tết Nguyên đán (từ
mùng 4 đến 6 tết). Các cô gái, chàng trai ở nhiều làng gặp nhau trong đám hội hoặc
gặp nhau trên đường, muốn làm quen họ sẽ cất lời ngỏ ý. Thông thường bên nam
sẽ cất lời trước:
“Khíu nên có léo shin nên lói
Thào va vát lẻo lý va hoi


Thào va vát léo hông sui hị
Thào va vát bó tánh nhòng loi”
(Xuân cũ qua đi xuân mới đến
Hoa mận đã tàn hoa đào nở
Hoa mận đã tàn gió thổi bay
Hoa đào đã nở chờ em tới)
Mùa xuân, khi đến làng khác để hát soọng cô, trong không gian ấm áp quây quần
bên bếp lửa, lời hát đầu tiên bao giờ cũng là chào hỏi, chúc sức khỏe người lớn
tuổi, bà con làng xóm để tỏ lòng kính trọng, lễ phép đồng thời ngỏ ý mời các cụ già
vui hát cùng con cháu. Từ những lời ca mở đầu còn ngại ngùng, e lệ, đêm hát đã
đưa nam nữ đến gần nhau hơn, họ hát ca ngợi quê hương, rồi bày tỏ tình yêu đôi
lứa, có câu hát rằng:
"Nhóng lý on xim mạo sóc xòi
Nón tách lống nhòng không ết son
Nón tách lống nhòng không ết ốc
Không già không nạ không thai mòn"
(Nàng ơi đừng nghĩ lo nhiều

Để chàng cùng liệu việc mình với ta
Ước gì chung mẹ chung cha
Chung nhà, chung cổng cùng vào một sân)


Đến lúc phải chia tay, họ lưu luyến hẹn ngày gặp lại bằng những câu hát tiễn gắn
với sông núi, xóm làng ...Câu hát giữa người ở, người về ngân dài hơn, lời hát lúc
ngập ngừng, khi da diết như muốn níu chân người lại. Người về như muốn nói,
muốn hát thêm mội chút, sợ những lời đã nói, đã hát chưa đủ làm bạn hiểu lòng
mình, người ở lại thì như muốn mượn câu hát để giữ chân bạn thêm chút nữa để tỏ
bày nỗi nhớ:
“Then cong bo
Hoi lống vọng choóc dịp xan thó
Choóc chấy lý xan lý noi kẹo
Lóng kim lý nỉ bác bôn xói”
(Trời sắp sáng
Mở lồng thả chim bay vào núi
Chim xa núi đêm ngày chim hót
Anh xa nàng anh nhớ không quên)
Nam, nữ có thể hát với nhau trong một đêm, cũng có thể kéo dài đến ba bốn đêm
nhưng lời ca của đêm hát sau không được trùng lặp với đêm trước. Điều này thể
hiện tài ứng tác thơ ca của người Sán Dìu, làm cho vốn soọng cô ngày càng phong
phú.
Những đêm hát giao duyên của các chàng trai cô gái Sán Dìu thường diễn ra ở
trong nhà, bên bờ suối, hoặc khu đất trống trước làng. Nếu hát trong nhà, đầu tiên
khách phải xin phép gia chủ để được hát giao duyên. Khi đã được chủ nhà đồng ý,
các đôi trai gái sẽ được thỏa sức trổ tài ca hát, từ lúc đó bắt đầu cho một đêm hát
giao duyên.



Khi bạn hát đến nhà, chủ nhà thường đặt ra những lời hát đố để thử thách bạn hát,
nếu như không giải được câu đố thì buổi hát dừng lại, mời bạn về để hôm khác có
sự chuẩn bị tốt hơn. Cuộc hát đối đáp diễn ra với những lời thách đố của hai bên,
tuần trà lần lượt rót ra mời bạn, các câu hát vẫn nhẹ nhàng trầm lắng, làm cho con
người quên đi thời gian.
Hát giao duyên không chỉ là phương tiện thể hiện tài năng của các đôi nam nữ mà
còn là nơi gửi gắm và thể hiện ước mơ, quan niệm về người bạn tình cũng như tình
cảm của những người đang tìm hiểu nhau. Từ những đêm hát này mà có biết bao
đôi trai gái đã bén duyên và yêu nhau.
Hát trong đám cưới
Khi đã thành đôi lứa, những câu hát soọng cô vang lên trong lễ cưới. Người Sán
Dìu quan niệm, việc hát soọng cô trong lễ cưới như một thủ tục quan trọng, ảnh
hưởng đến hạnh phúc của cô dâu, chú rể. Vì vậy, trong các nghi thức tiêu biểu như
lễ chắn cửa, lễ khai hoa tửu đều diễn ra hát đối đáp soọng cô. Đặc biệt, trong lễ
cưới người Sán Dìu, hát soọng cô còn thay cho lời chúc mừng đám cưới, có hàng
trăm bài hát được đại diện hai họ hát đối đáp trong suốt đêm. Trong đám cưới, hát
soọng cô gồm hai làn điệu không thể thiếu đó là hát nghênh tiếp và hát khai hoa
tửu.
Hát nghênh tiếp, trong quan niệm của người Sán Dìu, lễ chắn cửa mang ý nghĩa
biểu trưng, phải vượt qua những thử thách mới đến được với người bạn đời và vượt
qua những khó khăn trong cuộc sống sau này của đôi vợ chồng trẻ. Khi nhà trai
đến vào tầm xế chiều, nhà gái mang ghế để ở cửa ra vào cùng một ấm trà pha sẵn,
một vài miếng trầu đã têm, ngụ ý nhà trai phải hát đúng những câu hát của nhà gái
đưa ra thì mới được vào nhà, nó như một thử thách cuối cùng đối với chú rể và họ
hàng nhà trai.


Hát khai hoa tửu, thể hiện sự kết giao của đôi bạn trẻ, trở thành vợ chồng chính
thức. Không những thế, lễ này còn là sự kết mối thông gia giữa gia đình nhà trai và
nhà gái, được sự chứng giám của tổ tiên nhà gái và sự công nhận của làng xóm và

bạn bè. Từ đây, nhà trai và nhà gái có mỗi quan hệ bền chặt, gắn bó, là điểm tựa
vững chắc cho đôi vợ chồng trẻ. Lễ vật do nhà trai chuẩn bị gồm: trứng luộc, sợi
chỉ xanh, đỏ, đồng xu, rượu. Khi nhà trai dâng lễ vật trao cho nhà gái, đại diện nhà
gái sẽ hát để hỏi về mùi vị rượu, thời gian làm rượu… Quả trứng luộc được bóc vỏ,
lấy lòng đỏ hòa với rượu mời mọi người. Trong khi uống rượu, hai họ lại tiếp tục
hát đố. Sau khi xong lễ khai hoa tửu, nhà trai xin phép nhà gái được đón dâu.
Người con gái trước khi về nhà chồng thường được mẹ căn dặn đạo làm dâu.
Soọng cô trong đám cưới thường do các cặp nam giới đối đáp nhau, nhà trai cử hai
anh hát, nhà gái cũng cử hai anh. Hát suốt ngày suốt đêm cho đến khi tan tiệc cưới.
Hát trong lao động sản xuất
Nhìn chung, soọng cô có trong lao động sản xuất chiếm số lượng không nhiều, chủ
yếu đề cao lao động, phản ánh kinh nghiệm sản xuất của đồng bào, cũng có bài ca
phản ánh sự gắn bó giữa nhịp điệu lao động và cảm xúc con người trong lao động
như các bài hò của người Kinh. Hình thức diễn xướng chủ yếu là hát đơn, hát đối
đáp trong lúc nghỉ ngơi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất.
2.2.3.Đặc trưng nghệ thuật
Về thể thơ
Soọng cô thường được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, mỗi bài hát có 4 câu tạo
thành một đoạn nhạc và được lặp lại nhiều lần với kết cấu gần giống nhau nhưng
được dệt bằng lời thơ khác. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng tiếng Hán được sử
dụng nhiều khi hát, khi dịch ý, các nghệ nhân dịch theo thể thơ lục bát.


“Sọng cô ben ọi cô lói tọi
Phá then ben ọi sủi líu soi
Thén chông mạo sủi mong dịu sủi
Bi chông mạo sủi mong sủi lói”
(Xướng ca cần đối lời ca
Ruộng thừa nước đủ, bừa là phẳng phiu
Ruộng khô cần nước mưa nhiều

Ao hồ cạn kiệt sớm chiều mong mưa)
Về ngôn từ
Ngôn ngữ trong các làn điệu soọng cô bình dị, mộc mạc nhưng lại rất trang nhã,
mềm mại, khéo léo và tinh tế. Phản ánh cuộc sống từ những chi tiết đời thường
nhất mà không hề thô kệch, vụng về. Mọi cử chỉ, lời nói, giao tiếp đều toát lên vẻ
lịch thiệp và đậm đà tình người. Cùng với những thay đổi trong tập quán sinh hoạt
cũng như sự phát triển của đời sống xã hội, soọng cô đã có những biến đổi nhất
định để phù hợp với con người và thời đại mới. Những câu hát phản ánh đầy đủ
hiện thực cuộc sống và thế giới tâm hồn của người Sán Dìu hiện lên qua những
rung cảm mãnh liệt, tinh tế đa dạng, độc đáo, sâu sắc, tô đậm thêm vẻ đẹp con
người, bộc lộ chất nhân văn cao cả.
Về âm nhạc
Các làn điệu soọng cô mang màu sắc trữ tình nhẹ nhàng, duyên dáng, có sức lôi
cuốn mãnh liệt, gây xúc động lòng người. Thông qua các làn điệu soọng cô, nhiều
thông điệp về cuộc sống đã được truyền tải tới các thế hệ, phát huy được vốn văn


hóa truyền thống của dân tộc. Làn điệu của soọng cô thường có 4 âm, đôi khi là 5,
6 âm. Thang âm 4 có mối quan hệ mật thiết với thang âm 5 và 6, được xuất hiện
nhiều hơn và làm nên đặc trưng trong việc sử dụng thang âm, điệu hát soọng cô.
Lời ca của soọng cô giản dị, ít tính nhạc, nhịp điệu không phong phú. Tuy soọng cô
chỉ có 1 làn điệu nhưng nội dung gồm 3 phần rõ rệt: gọi, kể, đáp. Phần kể thường
nhiều hơn so với 2 phần còn lại, nội dung cũng phong phú như để giãi bày tâm
trạng, ước nguyện của người kể…Các nốt luyến láy ở phần đầu câu tạo nên sự
mềm mại trong giai điệu, nhịp trong mỗi bài hát ổn định về trường độ (thường là
nhịp 2/4, 4/4, đôi khi là nhịp tự do).
Âm vực trong bài hát không lớn, quãng âm luôn kế tiếp đều đều, ít lên bổng xuống
trầm đột ngột, ít biến luyến láy dẫn tới cao trào như hát páo dung của người Dao.
Các âm a, ư xuất hiện ở đầu hoặc cuối câu có vai trò làm nốt lấy đà trong bài hát.
2.3. Ý nghĩa văn nghệ dân gian của người Sán Dìu.

2.3.1. Giá trị lịch sử.
Tất cả các loại hình dân gian của người Sán Dìu nói chung và đặc biệt hát soọng cô
nói riêng đều mang những giá trị lịch sử vô cùng to lớn đối với không chỉ đồng bào
dân tộc Sán Dìu mà còn cả với đất nước. nhưng giá trị văn hóa của các dân tộc tạo
nên một nước Việt Nam với nền văn hóa đa dạng.
Đối với giá trị lịch sử của hát soọng cô. Hát Soọng cô ra đời sớm, gắn bó với sự
hình thành và phát triển của cộng đồng người Sán Dìu, dường như mọi thứ được tái
hiện trong điệu hát từ lối sống, nếp nghĩ, lao động sản xuất… phản ánh chân thực
cuộc sống, thế giới tâm hồn của người dân.
Soọng cô không chỉ là sản phẩm nghệ thuật dân gian mà còn là tâm thức dân gian,
phản ánh các hiện tượng lịch sử, xã hội ở những cung độ khác nhau. Các hiện


tượng lịch sử, xã hội trong soọng cô thường không rõ về mốc thời gian, địa điểm
nhưng lại rất dễ nhớ, gần gũi bởi nó được diễn đạt bằng lời ca, tâm hồn, cảm xúc
và hình ảnh đời sống sinh động, chân thực của người Sán Dìu. Bởi vậy, soọng cô
có giá trị tích cực trong giáo dục con người về cội nguồn dân tộc, gìn giữ, phát huy
từ ngữ trong các làn điệu dân ca hàm chứa sâu sắc mối quan hệ trong gia đình, họ
hàng, anh em, tình yêu đôi lứa, trong lao động sản xuất… để truyền lại cho thế hệ
sau.
2.3.2. Giá trị văn hóa, nghệ thuật và ảnh hưởng tới cộng đồng.
Tất cả các truyện thơ , truyền thuyết được chép bằng thể loại thơ ca của người Sán
Dìu đều mang lại những giá trị nghệ thuật đặc sắc và mang tính giáo dục cao cho
các thế hệ tiếp theo.
Soọng cô là di sản văn hóa phi vật thể, món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời
sống của người dân Sán Dìu. Mọi vật như trang phục, nhà ở, kinh nghiệm sản xuất,
môi trường sống, tâm tư tình cảm... đều được tái hiện sinh động trong làn điệu
soọng cô. Người Sán Dìu hát soọng cô bằng tâm hồn, cảm xúc, biểu hiện những
quan niệm đẹp đẽ, trong sáng, chất phác về mối quan hệ giữa người với người
thông qua thái độ tôn trọng nghĩa tình và lòng thủy chung son sắt.

Soọng cô đồng hành với người dân Sán Dìu trong suốt chiều dài lịch sử, là nơi gửi
gắm tâm tư, nguyện vọng, chia sẻ vui buồn của người dân. Soọng cô hướng con
người tới chân – thiện – mỹ, không ngừng tự hoàn thiện bản thân. Với làn điệu nhẹ
nhàng, da diết, câu từ mộc mạc, giản dị, nội dung phong phú, soọng cô góp phần
khích lệ, động viên tinh thần người dân Sán Dìu trong cuộc sống, lao động sản
xuất.


Soọng cô có vai trò rất lớn trong việc đáp ứng nhu cầu giải trí của người dân, góp
phần gắn kết cộng đồng, là nơi để trao đổi tình cảm, phản ánh nét đẹp văn hóa
truyền thống của người dân Sán Dìu.
Xưa kia, người Sán Dìu chỉ cất tiếng hát soọng cô trên những đỉnh núi như Phượng
Hoàng, Hông Vong Lẹng..., nhưng giờ đây, họ lại gặp gỡ nhau bên những căn nhà
nổi trên sông để thả tiếng hát theo dòng nước. Tết đến xuân về và suốt cả tháng
Chạp mưa phùn gió bấc, người Sán Dìu ngồi quanh bếp lửa với vò rượu thóc cùng
nhau uống, hát cho nhau nghe. Không bài hát, giọng ca nào giống nhau, tất cả đều
có đặc trưng riêng thể hiện cho tâm hồn, tình cảm và khát vọng con người.
Vào dịp mùa xuân, thời điểm nông nhàn, lễ hội hay các đám cưới, hỏi… thanh niên
nam nữ người dân tộc Sán Dìu thường rủ nhau đi hát soọng cô. Qua mỗi làng, họ
dừng lại hát một đêm, hôm sau cùng rủ thanh niên nơi đó nhập vào đám hát đến
các làng khác. Theo lời những người già trong làng: “Trước đây, đã là con trai
người Sán Dìu mà không biết hát soọng cô thì không đi tìm hiểu các cô gái được
đâu!”.
3. Đánh giá và đề xuất biện pháp để quản lý, bảo tồn, phát huy các giá trị về
văn nghệ dân gian của người Sán Dìu ở Tuyên Quang.
3.1. Ưu nhược điểm.
3.1.1. Ưu điểm.
Nhìn chung tất cả các giá trị về văn nghệ dân gian của người Sán Dìu đều mang
nhưng giá trị nhất định đối với văn hóa xã hội của cả nước , và hiện nay nhưng giá
trị này đang được nhà nước quan tâm hơn chú trọng vào việc bảo tồn nhưng giá trị

này một cách có chủ trương đề an. Nhất là về hát soọng cô đã trở thành đặc trưng
văn hóa phi vật thể của cộng đồng người Sán Dìu ở Tuyên Quang. Ngày 8-6-2015,


Bộ VHTTDL ra Quyết định số 1877/QĐ-BVHTTDL về việc công bố Danh mục di
sản văn hóa phi vật thể quốc gia, đã công nhận hát soọng cô là DSVH-PVT cần
được bảo tồn.
3.1.2. Nhược điểm.
Tuy đã được nhà đảng và nhà nước công nhận nhưng giá trị văn nghệ dân gian và
đưa vào chính sách bảo tồn nhưng hiện nay nhưng bản truyện thơ , truyền thuyết
của người Sán Dìu cũng không còn nhiều. Với sự phát triển của nền kinh tế và xã
hội thì các giá trị văn nghệ dân gian không chỉ của người Sán Dìu mà của nhiều tộc
người khác cũng đang bị mai một dần dần. Hiện tại soọng cô của người Sán Dìu đã
phần nào bị mai một, lối hát chỉ còn lại trong những câu chuyện của người già.
Còn nam nữ thanh niên dường như không còn biết hát soọng cô. Trong những đêm
hội, đám cưới, hát soọng cô được thay thế dần bằng những bài hát mới.
3.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn nghệ dân gian truyền thông của
người Sán Dìu.
3.2.1. Nâng cao công tác tổ chức và quan lý.
Tiếp tục tăng cường nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng,
chính quyền và các cơ quan liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ khoa học về
văn hoá, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá đặc sắc của tỉnh; tổ chức thực hiện
có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá, quy hoạch, dự án phát
triển văn hoá.
Coi trọng và làm tốt công tác bảo tồn di sản văn hoá của các dân tộc; Thống kê,
lập hồ sơ các di sản văn hóa; khuyến khích tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân
nghiên cứu, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể; áp dụng
các biện pháp cần thiết của chính quyền các cấp để bảo vệ các giá trị văn hóa



truyền thống đặc sắc, ngăn chặn nguy cơ làm mai một, sai lệch hoặc thất truyền.
Có chính sách tạo điều kiện bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc.
Khuyến khích sưu tầm, biên soạn, dịch thuật, thống kê, phân loại và lưu giữ các tác
phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân
gian...Khuyến khích việc duy trì những phong tục tập quán lành mạnh của các dân
tộc; phục hồi và phát triển các nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu;
nghiên cứu và ứng dụng các tri thức về y, dược học cổ truyền; khôi phục và nâng
cao các lễ hội truyền thống ,bài trừ hủ tục có hại đến đời sống văn hóa của nhân
dân; chống các biểu hiện tiêu cực, thương mại hóa trong tổ chức và các hoạt động
lễ hội; duy trì và phát huy các giá trị văn hóa ẩm thực, giá trị về trang phục truyền
thống dân tộc và các tri thức dân gian khác.
Coi trọng và làm tốt công tác bảo tồn di sản văn hoá của các dân tộc; Thống kê,
lập hồ sơ các di sản văn hóa; khuyến khích tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân
nghiên cứu, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể; áp dụng
các biện pháp cần thiết của chính quyền các cấp để bảo vệ các giá trị văn hóa
truyền thống đặc sắc, ngăn chặn nguy cơ làm mai một, sai lệch hoặc thất truyền.
Có chính sách tạo điều kiện bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc.
Khuyến khích sưu tầm, biên soạn, dịch thuật, thống kê, phân loại và lưu giữ các tác
phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân
gian...Khuyến khích việc duy trì những phong tục tập quán lành mạnh của các dân
tộc; phục hồi và phát triển các nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu;
nghiên cứu và ứng dụng các tri thức về y, dược học cổ truyền; khôi phục và nâng
cao các lễ hội truyền thống ,bài trừ hủ tục có hại đến đời sống văn hóa của nhân
dân; chống các biểu hiện tiêu cực, thương mại hóa trong tổ chức và các hoạt động
lễ hội; duy trì và phát huy các giá trị văn hóa ẩm thực, giá trị về trang phục truyền
thống dân tộc và các tri thức dân gian khác.


3.2.2. tuyên truyền vận động nâng cao ý thức của người dân.
Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa. Tuyên truyền cho đồng bào các dân tộc

biết tự hào và trân trọng những giá trị tinh thần, đạo đức, phong tục tốt đẹp của
mình, phát huy các giá trị văn hóa tích cực truyền thống trong cuộc sống mới. Xây
dựng và thực hiện quy ước văn hóa trên cơ sở kết hợp những yếu tố truyền thống
tốt đẹp. Tổ chức hình thức hoạt động văn hóa lành mạnh để thu hút nhân dân tham
gia.
Khơi dậy sức sáng tạo chủ động của nhân dân trong các hình thức sinh hoạt cộng
đồng nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa trong thời kỳ mới. Giữ gìn truyền
thống văn hoá trong gia đình, trong làng, bản, tạo điều kiện cho quần chúng tiếp
nhận thông tin về mọi mặt đời sống kinh tế xã hội và thực hiện quyền làm chủ của
mình.


KẾT LUẬN
Văn nghệ dân gian của hầu hết các tộc người ở Việt Nam nói chung và tộc người
Sán Dìu nói riêng đầu đang ngày càng bị mai một theo sự phát triển, nhu cầu về
kinh tế xã hội. Việc bảm tồn phát triển những giá trị văn hóa văn nghệ dân gian của
các dân tộc là việc vô cùng cần thiết hiện nay. Đối với các bạn sinh viên chuyên
ngành quản lý văn hóa những cán bộ quản lý văn hóa trong tương lại cần phải được
trang bị đầy đủ kiến thức cung như cơ sở lý luận để phục vụ cho việc tìm hiểu
nghiên cứu cũng như đề xuất ý kiến bảo tồn các giá trị văn hóa tại nơi mình công
tác và làm việc sau nay. Muốn có được những kiến thức cơ sở lý luận vững chắc thì
ngay từ bây giờ khi còn là sinh viên còn ngồi trên giảng đường đại học chúng ta
cần có những phương pháp học tập và nghiên cứu một các cụ thể và đúng đắn.


TÀi LIỆU THAM KHẢO

1.

Link của sở văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Tuyên Quang :


2.

/>Link Facebook trang dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam :

3.
4.

/>Trần Bình, Các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Lao Động.
Nịnh Văn Độ, Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày, Dao, San Dìu ở Tuyên

5.

Quang, NXB Văn hóa dân tộc.
Dân ca Sán Dìu, NXB Văn hóa dân tộc Hà Nội.

6.


×