0
TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ GẮN BÓ MẬT THIẾT GIỮA ĐẢNG VỚI
NHÂN DAANTRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Mở đầu
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn
luyện. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn kiên định, trung thành với những nguyên
lý, nguyên tắc cơ bản của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng, vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước
ta, xây dựng Đảng ta thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ sức
lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách và giành nhiều
thắng lợi to lớn.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và xây dựng Đảng, Đảng ta đặc biệt coi
trọng tăng cường, củng cố mối quan hệ mật thiết, gắn bó giữa Đảng với nhân dân.
Nói đến Đảng không thể không nói đến nhân dân. Gắn bó mật thiết với nhân dân là
thể hiện bản chất giai cấp công nhân, trở thành truyền thống quý báu, là nguồn sức
mạnh vô địch, là vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng, là tiêu chuẩn của một Đảng
mác xít và là một trong những vấn đề cơ bản, cấp bách của công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hiện nay.
Thấy rõ vai trò quyết định của mối quan hệ Đảng – dân đối với sự nghiệp
cách mạng nước ta, những năm qua, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống
phá, chia rẽ giữa Đảng với nhân dân, hòng làm cho Đảng ta suy yếu, mất vai trò lãnh
1
đạo xã hội. Chúng triệt để lợi dụng những hạn chế, yếu kém, khó khăn của ta để
xuyên tạc quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta; bôi
nhọ, nói xấu, hạ uy tín lãnh tụ của Đảng và các cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước…, qua đó gây nên sự hoài nghi, bức xúc trong một bộ phận dân cư, nhất là
những người nhẹ dạ cả tin, thiếu kiến thức xã hội cần thiết; làm giảm lòng tin của
nhân dân đối với Đảng… Đồng thời, chúng ra sức cổ suý, tán dương, kích động
nhân dân đòi thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở nước ta…
Từ tình hình trên, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất
những giải pháp cơ bản không ngừng tăng cường, củng cố mối quan hệ mật thiết,
gắn bó giữa Đảng với nhân dân, góp phần xây dựng Đảng ta thực sự vững mạnh
ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới là một yêu cầu cấp thiết và hết
sức quan trọng hiện nay.
Nội dung
1. Những vấn đề lý luận, thực tiễn về mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa
Đảng với nhân dân
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa đảng với nhân dân
Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ rõ sức mạnh to lớn, vai
trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lao động sản xuất và trong các cuộc
cách mạng xã hội. Bất cứ một đảng phái, giai cấp nào muốn thực hiện những cải
biến có ý nghĩa cách mạng đều phải dựa vào quần chúng và bằng sức mạnh của
quần chúng.
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử. Ăngghen viết: “hoạt động lịch sử càng lớn
2
lao thì do đó, quần chúng, mà hoạt động lịch sử đó là sự nghiệp của mình”1. Đảng
phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng là một tất yếu khách quan, bởi vì: Đảng cộng
sản và quần chúng lao động là hai nhân tố cơ bản của cách mạng vô sản. Đảng là
người lãnh đạo và tổ chức quần chúng, còn quần chúng là lực lượng vật chất tiến
hành cách mạng. Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì quần chúng
nhân dân không thể có phương hướng chính trị đúng để đấu tranh và phong trào
của quần chúng cũng chỉ dừng lại ở “chủ nghĩa công liên”, cách mạng không thể
giành thắng lợi. Mặt khác, nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của quần chúng
thì Đảng không thể có sức mạnh, cách mạng vô sản không thể đi tới thành công;
Đảng sẽ bị cô lập, biệt lập, không thể là đội tiên phong của giai cấp, mọi đường lối
chủ trương của Đảng không thể trở thành hiện thực. Sự lãnh đạo của Đảng kết hợp
với tính tích cực và sáng tạo của quần chúng tạo ra một sức mạnh vô cùng to lớn,
bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng giành thắng lợi. Khi Đảng Bôsêvích Nga đã
nắm chính quyền, V.I.Lênin thường nhấn mạnh rằng: sức mạnh của Đảng bắt
nguồn từ mối liên hệ mật thiết với quần chúng, từ sự đồng tình và ủng hộ của
quần chúng đối với Đảng. Thiếu điều kiện đó, không những không thể xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội mà còn có thể dẫn đến mất chính quyền. V.I.Lênin đã
định nghĩa Đảng Cộng sản như là sự thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa đội tiên
phong của giai cấp công nhân với hàng triệu quần chúng lao động. Người gọi mối
quan hệ đó là mối quan hệ “tin cậy lẫn nhau”, “tín nhiệm lẫn nhau”. Quần chúng
tin tưởng ở Đảng, ủng hộ Đảng và theo Đảng làm cách mạng. Trong khi đó Đảng
phải làm hết sức mình để phát huy vai trò và khả năng sáng tạo không bao giờ cạn
của quần chúng, đấu tranh không mệt mỏi cho hạnh phúc của nhân dân. Sức mạnh
vô địch của Đảng là ở mối liên hệ với quần chúng, cũng như sức mạnh to lớn của
quần chúng được phát huy bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. V.I.Lênin chỉ rõ:
“Đội tiên phong chỉ làm tròn được sứ mệnh của nó khi nó biết gắn bó với quần
chúng mà nó lãnh đạo và thực sự dẫn dắt tập thể quần chúng tiến lên. Nếu không
liên minh với những người không phải là đảng viên cộng sản trong các lĩnh vực
1
C.M¸c vµ Ph.Ang-ghen, Toµn tËp, tËp 2, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 123.
3
hoạt động hết sức khác nhau thì không thể nói tới một thành công nào trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản cả”2.
Theo Lênin, Đảng có địa vị, vai trò rất quan trọng trong cách mạng vô
sản. Đảng là đội tiên phong, là người lãnh đạo, là lãnh tụ chính trị của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Đảng chỉ trở thành lãnh tụ chính trị, đội tiên
phong khi Đảng gắn bó mật thiết với giai cấp và quần chúng. Nếu cắt đứt mối
liên hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân và quần chúng thì Đảng không còn tồn
tại với tư cách là người lãnh đạo, đội tiên phong nữa. V.I.Lênin khẳng định:
“Những người lãnh đạo không được tách rời quần chúng bị lãnh đạo, đội tiên
phong không được tách rời khỏi toàn bộ đội quân lao động”3. Nói cách khác,
liên hệ với quần chúng là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng
Cộng sản, là nguồn gốc sức mạnh của Đảng, là bảo đảm cho sự thành công của
toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Đảng muốn tồn tại, phát triển, xứng đáng là đội
tiên phong và có đủ lực lượng, đủ sức mạnh hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình thì Đảng phải liên hệ chặt chẽ với giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và phải được sự đồng tình, ủng hộ của họ. Đó là một trong những điều kiện
quan trọng bảo đảm cho Đảng có sức mạnh và phát triển, là nhân tố cơ bản
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng; là nguyên tắc bất di bất dịch
trong công tác xây dựng đảng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Muốn trở thành một Đảng dân
chủ-xã hội thì cần phải được sự ủng hộ của chính giai cấp”4.
Sau khi đập tan bộ máy nhà nước cũ giành chính quyền về tay nhân dân,
thiết lập nền chuyên chính vô sản, sự lãnh đạo của Đảng ngày càng lớn về quy mô,
phong phú và phức tạp về nội dung, bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Chính vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục
mở rộng và củng cố mối liên hệ với nhân dân. V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Chúng ta là
đảng của giai cấp, bởi vậy hầu như toàn bộ giai cấp (và trong thời kì chiến tranh,
trong thời kì nội chiến thì toàn bộ giai cấp không trừ một người nào cả) cần phải
2
V.I. Lªnin, Toµn tËp, tËp 8, Nxb TB, M. 1979, tr. 28-29.
3
V.I. Lªnin, Toµn tËp, tËp 44, Nxb TB, M. 1979, tr. 608.
V.I. Lªnin, Toµn tËp, tËp 8, Nxb TB, M. 1979, tr. 293.
4
4
hoạt động dưới sự lãnh đạo của đảng ta, phải triệt để siết thật chặt hàng ngũ chung
quanh đảng”5.
Mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân không phải do số lượng đảng viên nhiều
hay ít mà do chất lượng đội ngũ đảng viên quyết định. “Các tổ chức đảng của
chúng ta bao gồm những người dân chủ-xã hội chân chính mà càng mạnh mẽ bao
nhiêu, và trong nội bộ đảng càng ít có tình trạng dao động và không kiên định bao
nhiêu, thì ảnh hưởng của đảng đối với những người trong quần chúng công nhân
chung quanh đảng và chịu sự lãnh đạo của đảng, sẽ càng rộng rãi, càng nhiều mặt,
càng phong phú, càng hiệu quả bấy nhiêu”6.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn
đề củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân càng trở nên cấp
bách và quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi vì cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là
một cuộc cách mạng sâu sắc nhất, toàn diện nhất, triệt để nhất và do đó cũng gay
go nhất, phức tạp nhất trong lịch sử loài người. Nói như V.I,Lênin, đó là thời đại
rung chuyển vũ bão về chính trị và kinh tế, thời đại đấu tranh giai cấp cực kì sâu
sắc. Cuộc cách mạng này đòi hỏi Đảng Cộng sản phải động viên và phát huy đến
mức cao nhất tính tích cực và sáng tạo của quần chúng nhân dân. Không như thế
thì không thể có chủ nghĩa xã hội được. V.I.Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội
chỉ có thể xây dựng được khi quần chúng đông đảo gấp 10 gấp 100 lần trước tự bắt
tay vào việc xây dựng nhà nước và một đời sống kinh tế mới”7, “chủ nghĩa xã hội
sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”8. Xã hội xã
hội chủ nghĩa là một xã hội tốt đẹp nhất trong lịch sử loài người. Đó là một xã hội
thực sự vì con người, giải phóng con người, một xã hội mang lại hạnh phúc cho
nhân dân. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ và vô cùng
khó khăn. Sự nghiệp đó chỉ có thể thành công nếu Đảng tổ chức và phát huy được
tính sáng tạo cách mạng của quần chúng. V.I.Lênin dạy rằng: những người cộng sản
chỉ như những giọt nước trong đại dương nhân dân mênh mông và chỉ riêng với bàn
5
V.I. Lªnin, Toµn tËp, tËp 8, Nxb TB, M. 1979, tr. 289.
6
V.I. Lªnin, Toµn tËp, tËp 8, Nxb TB, M. 1979, tr. 288-289.
V.I. Lªnin, Toµn tËp, tËp 37, Nxb TB, M. 1978, tr. 523.
V.I. Lªnin, Toµn tËp, tËp 35, Nxb TB, M. 1978, tr. 64.
7
8
5
tay những người cộng sản thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản được. Tính sáng tạo sinh động của quần chúng, đó là nhân tố cơ
bản của xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ
trên ban xuống. Tính chất máy móc, hành chính và quan liêu không dung hợp được
với tinh thần chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp
của bản thân quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng có những điều kiện mới, công cụ
mới thuận lợi cho việc tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng. Tuy
nhiên, trong Đảng cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng,
không quan tâm đầy đủ tới lợi ích quần chúng. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Đối với
Đảng cộng sản … thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự
cắt đứt liên hệ với quần chúng”9. Nếu những ai quên mất những mối liên hệ khăng
khít giữa đội tiên phong và toàn thể nhân dân “thì đó là một tai hoạ thật sự”10.
Quan liêu xa rời quần chúng chính là nguy cơ làm cho Đảng dễ phạm sai lầm về
đường lối, vì nó làm cho đường lối của Đảng không phản ánh đúng đắn và đầy đủ
tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của quần chúng. Vì vậy,
Đảng không thể xây dựng được niềm tin, sự tín nhiệm của quần chúng; không
được quần chúng đồng tình ủng hộ, quyết tâm biến đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng thành hiện thực. Đồng thời, quan liêu xa rời quần chúng còn là
nguyên nhân làm cho cán bộ, đảng viên khi có chức, có quyền rất dễ sinh ra sa đọa,
hư hỏng, thoái hoá, biến chất. Điều đó cực kỳ nguy hiểm, bởi nó trái với bản chất
của Đảng, làm tổn hại đến uy tín và thanh danh của Đảng đối với quần chúng. Vì
vậy, V.I.Lênin yêu cầu trong công tác xây dựng đảng, Đảng phải kiên quyết chống
mọi biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu, xa rời quần chúng.
Kế thừa và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai
trò của quần chúng trong lịch sử và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân,
Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân;
Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
9
V.I. Lªnin, Toµn tËp, tËp 44, Nxb TB, M. 1979, tr. 426.
V.I. Lªnin, Toµn tËp, tËp 45, Nxb TB, M. 1979, tr. 128.
10
6
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân
dân là nguồn gốc chủ yếu tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng, là một trong những
điều kiện và nguyên nhân quan trọng làm cho Đảng ta giữ vững vai trò lãnh đạo và
làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Đảng cộng sản và quần chúng lao động
là hai nhân tố cơ bản của cách mạng vô sản. Đảng là người lãnh đạo và tổ chức
quần chúng, còn quần chúng là lực lượng vật chất tiến hành cách mạng. Như vậy,
cách mạng muốn thành công, theo Hồ Chí Minh, trước hết phải có người lãnh đạo
cách mạng đó là Đảng Cộng sản và phải có lực lượng cách mạng đó là nhân dân.
Nếu Đảng không gắn bó mật thiết với nhân dân, không có sự đồng tình và ủng hộ
của nhân dân thì Đảng không thể có sức mạnh, sự nghiệp cách mạng không thể đi
tới thành công.
Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân, bởi vì, theo Hồ Chí Minh, trong bầu
trời không có gì quí bằng nhân dân, không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân. Quần chúng nhân dân rất sáng suốt, rất anh hùng. Họ là lực lượng đông
đảo, có sức mạnh vô địch. “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản
đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi
không ra”11 bởi “tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy”12. Do đó, Đảng
không được xem nhẹ, lơ là mối quan hệ với quần chúng nhân dân. Để tăng cường
mối quan hệ đó, đòi hỏi cả Đảng và quần chúng đều phải nỗ lực phấn đấu hết sức
mình, nhưng trước hết, trách nhiệm đó thuộc về phía Đảng. Đảng phải “giữ chặt
mối liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe dân chúng, đó là nền tảng lực lượng
của Đảng và nhờ đó mà Đảng ta thắng lợi”13. Vì vậy, Người luôn phê phán cách làm
việc quan liêu làm cho dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công,
nhưng về mặt chính trị, là thất bại.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã
hội mà ra. Cán bộ, đảng viên của Đảng là “con nòi” xuất thân từ nhân dân lao
động. Do đó, Đảng và dân vốn có mối liên hệ gắn bó mật thiết. Tuy nhiên sự gắn
bó đó có cơ sở sâu xa ở sự thống nhất về những lợi ích căn bản. Mối quan hệ gắn
bó mật thiết giữa Đảng và dân được Bác ví như quan hệ giữa người “cầm lái” với
11
12
13
1, 2, 3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 2009, tr. 295, 296, 286
7
người “chèo” trên con thuyền cách mạng. Đảng là người “cầm lái”, còn nhân dân
là người “chèo”. Nếu người “chèo” ủng hộ người “cầm lái” là thành công. Ngược
lại, người “chèo” không ủng hộ người “cầm lái”, không tuân thủ người “cầm lái”
cách mạng sẽ thất bại. Vì vậy, Đảng phải dựa vào nhân dân để lãnh đạo nhân dân,
làm cho nhân dân có độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Nhưng Bác cũng chỉ rõ:
nhân dân phải được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo thì mới trở thành lực
lượng cách mạng thật sự.
Hồ Chí Minh cho rằng, muốn quy tụ được lực lượng cách mạng để giành độc
lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân ở một nước thuộc địa cần phải có quan niệm
rộng rãi hơn về nhân dân cho phù hợp với đặc điểm truyền thống dân tộc và cách
mạng Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, nhân dân là “quốc dân”, là “đồng bào”, là người trong
một nước, là con Lạc, cháu Hồng. Mà “đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít
hay nhiều lòng ái quốc”. Dù ai đó là thân hào, là người trong hoàng tộc, quốc
thích, trí thức tiểu tư sản, tư sản dân tộc, địa chủ... dù họ thuộc giai cấp, tầng lớp
nào nhưng có lòng yêu nước, thương nòi, có chung mối thù với thực dân đế quốc
và bè lũ tay sai thì đều là thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc. Người cho
rằng, sự áp bức giai cấp và áp bức dân tộc đều có chung một nguồn gốc là chủ
nghĩa đế quốc. Người đã rút ra cái bản chất chung nhất của mỗi con người Việt
Nam là nỗi đau mất nước, nỗi nhục làm nô lệ. Người đã làm thức tỉnh khát vọng
giải phóng dân tộc và biến khát vọng của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội thành
sức mạnh đoàn kết vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã
giúp cho Đảng quy tụ được lực lượng của cả dân tộc làm cho mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân trở nên gần gũi, gắn bó máu thịt.
Hồ Chí Minh quan niệm: Đảng ra đời là do dân tổ chức nên và vì lợi ích của
nhân dân. Một Đảng như vậy phải trở lại phục vụ cho dân, cho Tổ quốc. Đảng vừa
là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh - với tư cách là người lãnh đạo, Đảng phải thuyết phục,
thu phục được quần chúng. Muốn vậy, đường lối, chính sách của Đảng phải thực
sự đúng đắn, cách mạng và khoa học, phản ánh đúng tâm tư nguyện vọng của nhân
8
dân, là ngọn đèn dẫn lối, soi đường cho nhân dân hành động. Đội ngũ cán bộ, đảng
viên phải thực sự gương mẫu trước nhân dân, nói đi đôi với làm, phải có cái tâm,
cái trí, cái đức. Đảng phải luôn tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân
tộc, đạo đức, văn minh của toàn xã hội. Đảng phải là người lãnh đạo xứng đáng
của nhân dân chứ không phải theo đuôi quần chúng. Là người đầy tớ trung thành
của nhân dân, Đảng phải là “công bộc” tin cẩn của nhân dân. Mục đích hoạt động
lãnh đạo của Đảng là phục vụ nhân dân, đem lại quyền lợi cho nhân dân chứ không
nhằm mục đích nào khác. Để làm tròn vai trò người lãnh đạo, người đầy tớ của
nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu, Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; chăm lo xây dựng Nhà nước của dân,
do dân và vì dân. Mọi cán bộ của Đảng, của Nhà nước phải thực sự là công bộc
của nhân dân. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng vừa
chuyên” và kiên quyết đấu tranh loại trừ chủ nghĩa cá nhân mà Hồ Chí Minh coi là
thứ giặc nội xâm, là nguồn gốc của các căn bệnh kiêu ngạo cộng sản, bệnh dốt nát,
tham nhũng, xa hoa, lãng phí tiền bạc của cải của nhân dân, quan liêu, hống hách,
xa rời nhân dân. Người yêu cầu Đảng phải thường xuyên làm trong sạch nội bộ
Đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tận trung với Đảng, phải tận hiếu với dân,
phải cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, nói đi đôi với làm. Việc gì có lợi cho
dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Suốt cả cuộc đời
mình, Hồ Chí Minh luôn phấn đấu để cho đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành. Người coi mình như một người lính vâng lệnh quốc dân ra
trận. Khi phải từ biệt thế giới này, Người vẫn còn nuối tiếc không được phục vụ
nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.
Nghiên cứu, làm sáng tỏ và vận dụng đúng đắn quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng
với nhân dân để khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, củng cố lòng tin của nhân dân là
một đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp đổi mới, là đòi hỏi của lương tâm, trách nhiệm
của Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên.
1.2. Thực tiễn công tác xây dựng Đảng và thực trạng mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân hiện nay
9
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Do vậy, vấn
đề xây dựng Đảng có tầm quan trọng đặc biệt.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta thường xuyên quan
tâm đến vấn đề xây dựng Đảng; công tác xây dựng Đảng luôn được coi là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ ta. Trong thời
kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt, cùng với đó Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, tổ chức các cuộc vận
động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ra nghị
quyết: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Trung ương đã
khẳng định, trải qua 25 năm đổi mới, công tác xây dựng Đảng đã thu được những
thành tựu quan trọng, đó là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nghị
quyết khẳng định, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả
tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng
cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của
Đảng được giữ vững, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa
số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối
sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn
còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài
qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của
Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ
vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào
10
chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa
địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...
Đội ngũ cán bộ các cấp, kể cả cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được
xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ chưa được chú trọng đúng
mức dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công
tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật
công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường,
năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa
phương và cả nước.
Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trên thực tế ở nhiều nơi rơi
vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể
và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có
hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến
khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho
cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu
cầu lợi ích cá nhân.
Tình hình trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên
nhân chủ quan là chủ yếu, quyết định. Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI của Đảng
đã chỉ rõ những nguyên nhân chủ quan là: Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn
luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước
nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa
đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc
làm chiếu lệ.
Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa
bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho
công tác kiểm tra, giám sát. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách,
pháp luật thích ứng với quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể. Đánh giá,
sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế
11
thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm,
uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều
khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách
mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có tình trạng những việc làm đúng, gương
người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được phê phán,
xử lý nghiêm minh. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều
nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể
nang, không nghiêm túc. Vai trò giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa được phát huy, hiệu quả chưa cao.
Những hạn chế yếu kém của công tác xây dựng Đảng thời gian qua đã làm
ảnh hưởng không nhỏ đến nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
làm cho lòng tin của nhân dân đối với Đảng bị giảm sút, cản trở sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để khắc phục những hạn chế yếu kém
đó, cùng với việc thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách mà Nghị quyết Trung ương 4
khoá XI đề ra, cần phải biết dựa vào dân, coi trọng củng cố, tăng cường mối quan
hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Tin
vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết.
Chúng ta có khuyết điểm thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng… Dựa vào ý
kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta. Bất cứ việc gì cũng đều
phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế
hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân
ra thi hành.
Thấy rõ vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng và
tầm quan trọng của mối quan hệ Đảng – dân, từ khi ra đời và trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn coi trọng và không ngừng tăng cường, củng
cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Một trong những bài học kinh
nghiệm lớn mà Đảng ta đã rút ra từ thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam
là: “Sự nghiệp cách mạng là của dân, do dân và vì dân. Chính nhân dân là người
12
làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi
ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó
mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những
tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và
của Đảng”14.
Toàn bộ thực tiễn phong phú và sinh động của cách mạng nước ta do Đảng
lãnh đạo trong hơn 80 năm qua là sự kiểm nghiệm rõ ràng và minh chứng hùng
hồn về sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đó là nhân tố hết sức quan
trọng đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng, cả khi cách mạng thành công cũng
như lúc đứng trước khó khăn thử thách. Nhờ gắn bó máu thịt với dân, được nhân
dân tin tưởng, nên mới 15 tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc Cách
mạng Tháng Tám thắng lợi, lập nên Nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á
và trở thành một Đảng cầm quyền.
Nhờ gắn bó máu thịt với dân, được nhân dân tin tưởng, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân trên khắp hai miền Nam - Bắc đồng tâm, nhất trí “thà hy sinh tất cả chứ
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, cùng bền gan, quyết chí, tiến hành
hai cuộc kháng chiến thần thánh, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành lại
độc lập tự do và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần quan trọng
làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới,
đưa dân tộc Việt Nam trở thành chiến sĩ tiên phong chống chủ nghĩa đế quốc.
Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, Đảng đã lãnh đạo
cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và tiến hành
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, giành nhiều thành tựu quan trọng. Đặc biệt,
vào đầu thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, đất nước ta phải đối mặt với “cơn chấn
động chính trị” thế giới dữ dội - chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu sụp đổ và
Liên bang Xô viết tan rã, làm cho chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào.
Tình thế đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhờ được nhân dân đồng tình, ủng
hộ, Đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua “bão tố” và giành được nhiều
thắng lợi to lớn, làm cho vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng tăng.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 65
13
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính
sách nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân dân, vai trò
giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước,
cán bộ, đảng viên. Công tác dân vận của hệ thống chính trị có nhiều đổi mới cả về
nội dung và hình thức. Các cấp uỷ đảng, chính quyền lắng nghe, tăng cường đối
thoại với các tầng lớp nhân dân. Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội
được mở rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân tốt hơn… Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc…; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích
cực vào những thành tựu của đất nước15.
Tuy nhiên, thực tế trong những năm gần đây, mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân đang đặt ra nhiều vấn đề đáng lo ngại, đó là uy tín của Đảng trước nhân
dân có lúc chưa cao, niềm tin của nhân dân đối với Đảng có nơi chưa thật sự vững
chắc; điều này không chỉ đáng lo ngại cho Đảng mà còn đối với cả chế độ mà
chúng ta đã lựa chọn. Hiện nay, bên cạnh những thành tựu của công cuộc đổi mới
đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước ta thì cũng xuất hiện không ít
các vấn đề bức xúc nổi lên như phẩm chất đạo đức của một số cán bộ, đảng viên
đang bị xói mòn, vấn đề lợi ích đâu đó đang có tính chất cục bộ mà chưa vì lợi ích
của nhân dân và lợi ích chung của đất nước; nhiều nơi mất dân chủ, giải quyết các
vấn đề liên quan đến dân còn chậm dẫn đến nhiều bức xúc trong nhân dân, vấn đề
đơn thư khiếu kiện của nhân dân vẫn còn diễn ra phức tạp; hoạt động của các đoàn
thể, mặt trận còn mang tính chất hành chính, chậm đổi mới phương thức vận động
quần chúng. “Một số tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân dân
chưa quan tâm đúng mức công tác dân vận. Nội dung, phương thức vận động, tập
hợp quần chúng vẫn nặng tính hành chính”16. “Quyền làm chủ của nhân dân ở một
số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang
tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ,
15
Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG-ST, H.
2011, tr. 158- 159
16
Sđd, tr. 175
14
gây rối, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội… Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp,
thu hút nhân dân tham gia các phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở”17.
Từ thực trạng trên, đặt ra đối với công tác xây dựng Đảng hiện nay là phải
tiếp tục tăng cường, củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân
và đưa mối quan hệ đó đi vào chiều sâu, thiết thực.
17
Sđd, tr. 171
15
2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường, củng cố mối quan hệ gắn bó
mật thiết giữa Đảng với nhân dân hiện nay
Để tăng cường, củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân
dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản
chủ yếu sau đây:
2.1. Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất
phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của quần chúng nhân dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
Đây là giải pháp quan trọng, bảo đảm cho mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân ngày càng gắn bó, bền chặt. Đảng ta là Đảng cầm quyền, mọi đường lối, chủ
trương, chiến lược, sách lược của Đảng đúng đắn phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân là định hướng quan trọng cho mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá
và xã hội của đất nước.
Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ
thực tiễn đời sống của nhân dân, phù hợp với tâm tư nguyện vọng của nhân dân,
bởi mục tiêu của Đảng là vì nhân dân, ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có
lợi ích nào khác. Nếu đường lối của Đảng không phù hợp với nguyện vọng, lợi ích
chính đáng của nhân dân, không được nhân dân tổ chức thực hiện thì đường lối đó
không có sức sống. Hồ Chí Minh đã dạy: “Đảng phải khéo léo tập trung ý kiến của
quần chúng, hoá nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem các nội
dung so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề mà hoá nó thành cái chỉ đạo nhân
dân”18. Đảng ta khẳng định: “mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đều vì lưọi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải… tôn
trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân”19
Ngày nay, đường lối đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do
Đảng ta đề sướng phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp
nhân dân. Do đó, Đảng đã tập hợp và lãnh đạo nhân dân ta giành được nhiều thành
tựu quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh.
18
19
Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, tËp 5, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 298.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 238-239
16
Tuy nhiên, thực tế ở không ít nơi, nghị quyết lãnh đạo của các tổ chức cơ sở
đảng chưa thực sự vì lợi ích chính đáng của quần chúng, thậm chí ở một số nơi chủ
trương của cấp uỷ, chính quyền còn có biểu hiện đi ngược lại lợi ích chính đáng
của nhân dân.
Trong chiều quan hệ giữa dân với Đảng cũng có những biểu hiện mới. Trong
khi đại bộ phận nhân dân tin cậy, ủng hộ các tổ chức đảng, chấp hành nghiêm túc
chính sách, pháp luật và sự quản lí của chính quyền. Đã xuất hiện hiện tượng một
số quần chúng vì lợi ích cá nhân, cục bộ, cơ hội đã có những lời nói, hành động
thiếu ý thức xây dựng, gây rối, làm phức tạp thêm tình hình; có nơi khiếu kiện
vượt cấp, khiếu kiện tập thể kéo dài. Một số người bất mãn, quá khích đã lợi dụng
dân chủ để vu cáo cán bộ, kích động nhân dân, tập hợp phe cánh gây mất đoàn kết,
chống đối chủ trương của chính quyền, chống người thi hành công vụ, vi phạm
pháp luật. Ý thức công dân của một bộ phận nhân dân suy giảm, chỉ chú trọng đòi
hỏi quyền và lợi ích, coi nhẹ trách nhiệm và nghĩa vụ.
Xét đến cùng, những biểu hiện tiêu cực trong nhân dân và sự yếu kém của
chính quyền và các đoàn thể cũng là khuyết điểm của Đảng. Bởi vậy, đường lối
chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân
dân, khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của nhân dân. Đảng phải chăm lo lợi
ích thiết thực của nhân dân. Đảng phải luôn khắc cốt ghi tâm quan điểm lấy dân
làm gốc mà ông cha ta đã dạy.
Đảng phải đổi mới tư duy về công tác quần chúng theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 8b (khoá VI) của Đảng. Phải thấy được động lực thúc đẩy phong trào
quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích,
thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ.
Mọi đảng viên của Đảng phải có đủ phẩm chất và năng lực vận động quần
chúng, phải thực sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của
nhân dân. Đảng phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đảng phải
lãnh đạo xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
17
Ta ang hon thin Nh nc phỏp quyn xó hi ch ngha nhm xõy dng mt
Nh nc tht s dõn ch, ca dõn, do dõn v vỡ dõn, chu s giỏm sỏt ca dõn. Cỏn
b cụng chc phi l cụng bc ca dõn, lm vic vỡ li ớch ca dõn20. ng cn
phi t chc cho qun chỳng tham gia xõy dng ng thnh ch vi nhiu hỡnh
thc phong phỳ, t vic phờ bỡnh s lónh o ca chi b, ca cỏc cp u ng; phờ
bỡnh ng viờn; tham gia ý kin vo vic la chn ng viờn mi; kin ngh vic
bu c cp u v b trớ cỏn b; n vic tham gia ý kin vo ng li, chớnh sỏch
ca ng. Vn quan trng sp ti l ng phi chỳ ý phỏt huy dõn ch mnh
m hn na trờn nhng c s phỏp lý minh bch, bng nhng thit ch, c ch,
chớnh sỏch rừ rng. ng thi, phi u tranh vi cỏc quan im v hot ng sai
trỏi ca cỏc phn t chng i, thự ch li dng vn dõn ch hũng gõy ri,
ũi a nguyờn, a ng, thc cht l mun xoỏ b s lónh o ca ng v ch
xó hi ch ngha nc ta 21.
Trong iu kin ng cm quyn, cng phi gn xõy dng ng vi phong
tro cỏch mng ca qun chỳng v thụng qua phong tro cỏch mng ca qun
chỳng xõy dng ng li, chớnh sỏch ca ng. Cú nh vy ng li, chớnh
sỏch ca ng mi bo m c tớnh thc tin, tớnh chin u cao v mi
phũng c nhng phn t c hi chui vo ng.
Ngh quyt ca ng, nht l ca cỏc t chc c s ng phi th hin s
chm lo i sng vt cht v tinh thn ca nhõn dõn, tt c vỡ nhõn dõn m phc v.
Phi thc hin ỳng nguyờn tc: chớnh sỏch ca ng phi xut phỏt t li ớch,
nguyn vng v trỡnh ca nhõn dõn. V.I.Lờnin ó dy: mt chớnh sỏch m khụng
phự hp vi trỡnh qun chỳng l mt chớnh sỏch phiờu lu22. Ngay c trng
hp chớnh sỏch ỳng ri m nhõn dõn cha hiu, cha ng tỡnh thỡ phi ra sc giỏo
dc, gii thớch, vn ng nhõn dõn thc hin; cú khi phi iu chnh chớnh sỏch cho
phự hp vi thc t v vi trỡnh ca nhõn dõn.
20
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 344
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 345
22
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 25, Nxb TB, M. 1978, tr. 225.
21
18
ng phi i mi cụng tỏc vn ng qun chỳng, tụn trng tớnh t ch v t
chc v hot ng ca Mt trn T quc v cỏc on th nhõn dõn, to iu kin
cho cỏc t chc ú i mi ni dung, phng thc hot ng ỳng hng v t
hiu qu. ng coi trng vic t chc ng viờn qun chỳng tham gia xõy dng
ng v xõy dng Nh nc. ng lónh o v Nh nc qun lý l bo m
quyn lm ch ca nhõn dõn. Cỏn b, ng viờn va l ngi lónh o, va l cụng
bc ca nhõn dõn. Hot ng ca ng v Nh nc phi chu s giỏm sỏt ca
nhõn dõn, s tin tng ng h, giỳp ca nhõn dõn l ci ngun ca sc mnh, l
cỏi gc ca thng li, l ti sn quý bỏu ca ng23
ng phi kiờn quyt u tranh chng t tham nhng, bnh quan liờu,
chuyờn quyn c oỏn, xa ri thc t, xa ri qun chỳng; sỏch nhiu, c hip, gõy
phin h cho nhõn dõn; khc phc tỡnh trng vi phm dõn ch, dõn ch hỡnh thc;
ng thi chng dõn ch cc oan hoc li dng dõn ch gõy ri trong xó hi.
2.2. Tip tc y mnh xõy dng, hon thin Nh nc phỏp quyn xó
hi ch ngha ca dõn, do dõn, vỡ dõn
Quyn lm ch ca nhõn dõn, trỡnh dõn ch trong nhõn dõn trong iu
kin ng cm quyn phi c th hin trc ht, tp trung Nh nc. ng
cm quyn c hin thõn mt nh nc tht s ca dõn, do dõn, vỡ dõn, trong
sch, vng mnh. Nh nc phỏp quyn xó hi ch ngha va th hin s lónh o
ca ng, va th hin li ớch, ý chớ, quyn lc ca nhõn dõn. Nh nc l tr ct
ca h thng chớnh tr, l trung tõm quyn lc ca nhõn dõn. Vai trũ, uy tớn v sc
chin u ca ng v quyn lc ca nhõn dõn u c th hin thụng qua Nh
nc phỏp quyn xó hi ch ngha. ng ta khng nh: tip tc y mnh vic
xõy dng v hon thin Nh nc phỏp quyn xó hi ch ngha, bo m Nh
nc ta thc s l ca nhõn dõn, do nhõn dõn v vỡ nhõn dõn, do ng lónh o...
Nh nc chm lo, phc v nhõn dõn, bo m quyn, li ớch chớnh ỏng ca mi
ngi dõn24. ng phi tip tc i mi ni dung v phng thc lónh o ca
ng i vi Nh nc. Phỏt huy mnh m vai trũ ch ng, sỏng to v tinh thn
23
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 303,304.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 246 247.
24
19
trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội theo pháp luật; tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật kỷ cương. Dân chủ của dân, quyền lực
của dân phải được bảo đảm bằng một hệ thống pháp luật, một nền pháp chế thể
hiện đúng ý chí của dân. Một số chính sách quan trọng của Nhà nước phải được
nghiên cứu, hoàn thiện, bổ sung để giải quyết những bức xúc của dân như: Chính
sách quản lý đất đai; quy hoạch phát triển sản xuất và ổn định dân cư; chăm lo các
vùng dân tộc, vùng đặc biệt khó khăn; chính sách đối với người có công, người
nghèo, người tàn tật …
Xây dựng ý thức, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân của công chức nhà
nước; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ thục hành chính để tạo thuận lợi cho nhân
dân. Đội ngũ cán bộ do nhân dân lựa chọn bầu ra để uỷ quyền cho họ phải là
những người của dân, do dân thực sự.
Chính quyền các cấp, nhất là ở cơ sở phải sát dân, chăm lo lợi ích thiết thực
của nhân dân. Nâng cao trình độ dân trí và hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện
nghiêm quy chế dân chủ ở cơ sở…
Đề phòng và khắc phục nguy cơ quan liêu, xa dân trong điều kiện Đảng cầm
quyền.
2.3. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội đảm bảo cho các tổ chức đó thực sự là cầu nối giữa Đảng
với nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân; nơi phối hợp thống nhất hành động của các tầng lớp nhân
dân trong thực hiện đường lối, chính sách; tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước;
thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ; chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng
của các tầng lớp nhân dân; bảo vệ Đảng và chính quyền; góp phần tăng cường mối
liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Trong thời gian qua, bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ, thì ở nhiều nơi,
“Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào,
cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế. Hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân ở
20
c s25. Cú ni, chớnh quyn cha ý thc y bng vic lm tớch cc ỳng n
ca mỡnh gúp phn tng cng quan h gia ng vi nhõn dõn, nờn ú chớnh
quyn cũn coi nh vic tuyờn truyn, vn ng; nng v cỏc bin phỏp hnh chớnh
cng ch; cũn cú nhiu qui nh gõy phin h cho nhõn dõn; thiu ch ng phi
hp cụng tỏc vi Mt trn T quc v cỏc on th nhõn dõn; khụng nghiờm khc
vi nhng sai phm ca cỏn b, cụng chc.
Vỡ vy, tng cng v i mi phng thc lónh o ca ng trong vic
xõy dng, ban hnh c ch, chớnh sỏch, to iu kin cho cỏc t chc ny hot
ng ỳng nh hng chớnh tr, ỳng phỏp lut v cú hiu qu26. ng tụn trng,
phỏt huy vai trũ ca Mt trn, on th, khụng can thip vo cụng vic ni b ca
cỏc t chc ú. ng lónh o Mt trn, on th v chớnh tr, t tng, t chc v
thc hin s lónh o thụng qua i ng cỏn b, ng viờn hot ng trong Mt
trn, on th ú. Khc phc tỡnh trng ng bao bin, lm thay hoc buụng lng
lónh o cỏc c quan qun lý nh nc.
Xõy dng ng trong sch vng mnh phi gn lin vi vic xõy dng v
phỏt huy hiu lc ca b mỏy Nh nc v cỏc t chc qun chỳng, gn lin vi
vic xõy dng c ch lm ch ca nhõn dõn. ng chm lo lónh o, gii thiu i
ng cỏn b, ng viờn tiờu chun sang hot ng Mt trn, on th. ng tụn
trng quy ch tuyn dng, b nhim, min nhim cỏn b ca cỏc on th ú.
ng thng xuyờn i mi phng thc lónh o theo hng dõn ch hoỏ,
tip xỳc, i thoi tranh lun, lng nghe ý kin ca Mt trn v cỏc t chc chớnh
tr - xó hi. ng tụn trng tớnh t ch ca Mt trn v on th. Chng ỏp t mt
chiu, chng coi nh v ph nhn s lónh o ca ng.
T chc ng, cỏn b, ng viờn hot ng trong Mt trn v on th phi
nghiờm chnh chp hnh ngh quyt ca ng, qui tc v ch hot ng ca
on th. Phi coi cụng tỏc vn ng nhõn dõn l trỏch nhim ca ng, chớnh
quyn v cỏc on th nhõn dõn.
25
26
ng Cng sn Vit Nam, Vn kin i hi i biu ton quc ln th XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 171
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 310.
21
Thông qua phong trào cách mạng của quần chúng và việc xây dựng chế độ
làm chủ của nhân dân mà tiến hành công tác xây dựng Đảng, tổ chức cho quần
chúng tham gia xây dựng Đảng. Đảng phải lãnh đạo và tổ chức phát huy mặt tích
cực của phong trào quần chúng nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thông qua
phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng bổ sung đường lối chính trị của mình
và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên; lựa chọn kết nạp đảng viên mới; đề bạt cán
bộ; phát hiện và loại trừ ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội, thoái hoá biến chất.
Thông qua đó góp phần quan trọng tăng cường, củng cố mối liên hệ giữa Đảng với
quần chúng ngày càng chặt chẽ. Như vậy, Đảng là người lãnh đạo phong trào cách
mạng của quần chúng, nhưng chính phong trào cách mạng của quần chúng lại làm
cho Đảng mạnh lên.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết
nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám
sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vũng mạnh;
tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện
các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thực sự có phẩm chất,
năng lực, tiến hành có hiệu quả công tác vận động quần chúng.
Phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực của cán bộ, đảng viên là vấn đề có
ảnh hưởng quyết định đến uy tín, danh dự của Đảng, tác động trực tiếp đến mối
liên hệ giữa Đảng với nhân dân. Quần chúng nhìn nhận, đánh giá Đảng thông qua
cán bộ, đảng viên của Đảng. Thực tế ở một số nơi, quần chúng giảm sút lòng tin
đối với Đảng không phải là giảm sút lòng tin với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng
của Đảng, mà là đối với những cán bộ, đảng viên đã thoái hoá, biến chất. Đảng ta
chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn đẩy lùi mà còn tiếp tục
22
diễn biến phức tạp… làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước,
đe doạ sự ổn định, phát triển của đất nước.”27
Vì vậy, hơn lúc nào hết, “mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên
xuống dưới đều phải hiểu rằng: mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân … làm
đày tớ nhân dân chứ không phải là “quan” nhân dân”28. Mỗi cán bộ, đảng viên phải
tích cực học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, không ngừng tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng, thực sự là tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống.
Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, trước đảng viên và nhân
dân. Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước
Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; đổi mới,
nâng cao chất lượng công tác vận động quần chúng.
Các tổ chức đảng cần tạo điều kiện để đảng viên học tập, công tác, lao động
có năng suất, chất lượng, hiệu quả. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt đảng. Định kỳ lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách đạo đức của cán
bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm
chất, đạo đức, lối sống.
Kết luận
Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là cơ bản, là trục chính, là xương sống
của cơ thể xã hội nước ta từ khi có Đảng, đặc biệt là từ khi trở thành Đảng cầm
quyền. Củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân
dân là một vấn đề vừa có ý nghĩa thiết thực cấp bách lại vừa có ý nghĩa chiến lược
lâu dài, là điều kiện cơ bản đảm bảo thắng lợi sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta do Đảng lãnh đạo. Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Đảng ta đã rút ra bài
học kinh nghiệm: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động
của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức
mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa
rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước,
27
28
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 171
Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, tËp 12, Nxb CTQG, H. 2002, tr.222.
23
của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng
thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu
sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Ngày nay, nhiệm vụ của Đảng rất nặng nề, trọng trách của Đảng rất lớn lao,
đòi hỏi Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, trong đó, vấn đề quan trọng hàng đầu là
phải tăng cường củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết máu thịt với nhân dân. Đó
là yêu cầu vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp thiết trong tình hình hiện nay; đồng thời, là
trách nhiệm của các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến cơ sở, trách nhiệm của mọi
cán bộ, đảng viên, của mọi cấp, mọi ngành, trong đó có đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong quân đội.