Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ VAI TRÒ đầu tư TRỰC TIẾP nước NGOÀI đến PHÁT TRIỂN KINH tế ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.13 KB, 23 trang )

1

MỞ ĐẦU
Ngày nay trước tác động to lớn của toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra ngày
càng sâu rộng đã lôi kéo hầu hết các quốc gia trên thế giới tham gia mở cửa, giao
lưu, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực kinh tế. Trong đó, Việt Nam không phải là
ngoại lệ. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế để nước ta kết hợp nội lực với ngoại
lực thành sức mạnh tổng hợp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức. Đối với nước ta, quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một
điểm xuất phát thấp, cái thiếu và yếu nhất là vốn, trình độ nguồn nhân lực, kinh
nghiệm quản lý và khoa học công nghệ. Do đó, tham gia hội nhập kinh tế quốc
nước ta sẽ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) đang là nguồn bổ sung quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã
hội, góp phần đáng kể thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng lực sản
xuất, đổi mới công nghệ, khai thông thị trường quốc tế, gia tăng kim ngạch
xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đóng góp ngân sách nhà nước,
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện
mức sống của nhân dân.
Chính vì vây, ngày 29 tháng 1987 nước ta đã ban hành Bộ Luật đầu tư
nước ngoài đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng của đất nước trong quá trình mở
cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt, việc ra đời Luật Đầu tư số:
67/2014/QH13 ban hành ngày 26/11/2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/2015 là căn cứ pháp lý quan trọng đem đến thời, vận hội mới cho cả nước
nói chung, các địa phương nói riêng đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn chủ đề: Vai trò của đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) đối với phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, làm tiểu luận
Môn kinh tế chính trị Việt Nam.


2



NỘI DUNG
I. FDI VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1. Khái niệm FDI
Khi bàn về đầu tư trực tiếp nước ngoài, có rất nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), FDI được định nghĩa là: “Một khoản
đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế
(nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một
nền kinh tế khác, mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh
hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó” [9, tr.31].
Định nghĩa này đã nhấn mạnh đến tính lâu dài của quá trình đầu tư, chủ đầu tư
là nước ngoài và việc đầu tư ở đây gắn liền với quyền kiểm soát quản lý.
Theo Ủy ban thương mại và phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD): “FDI
là hoạt động đầu tư bao gồm mối quan hệ dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền
kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư
nước ngoài hoặc công ty mẹ nước ngoài) đối với một doanh nghiệp thường trú
ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh
nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước ngoài) ”[6, tr.80]
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa về FDI như
sau: FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được
một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài
sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản
lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu
tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty
con" hay "chi nhánh công ty”.
Một định nghĩa khác, theo Ngân hàng thế giới (WB), FDI được hiểu là
việc công dân của một nước thành lập hoặc mua lại một phần đáng kể sở hữu
và quản lý ít nhất là 10% vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ở một nước khác.

Trong luật đầu tư nước ngoài năm 1987 của Việt Nam, khái niệm đầu tư


3

nước ngoài (ĐTNN) được quy định trong khoản 3 Điều 2. Luật quy định
“ĐTNN là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam
chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của
Luật này”.
Luật ĐTNN tại Việt Nam năm 1996 và trong Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật ĐTNN năm 2000, tại khoản 1 Điều 2, đưa ra khái niệm về
FDI “FDI là việc nhà ĐTNN đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài
sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”.
Tại Luật Đầu tư năm 2005, khái niệm FDI được làm rõ hơn: “Đầu tư
nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và
các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư” [10, tr.10] và “Đầu
tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản
lý hoạt động đầu tư” [10, tr.8] còn “Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân
nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam” [10, tr.9].
Theo đó có thể hiểu FDI là hình thức nhà ĐTNN bỏ vốn đầu tư và tham gia
quản lý hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Từ những định nghĩa về FDI trên cho thấy, mặc dù có nhiều cách hiểu
khác nhau về FDI, song các định nghĩa trên đều có sự thống nhất về khái
niệm FDI ở hai điểm: quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh và quyền sở hữu
khống chế của các nhà ĐTNN. Quyền kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh
doanh chính là lợi thế mà các nhà đầu tư trực tiếp có được so với các nhà đầu
tư gián tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, quyền kiểm soát kinh doanh lại chịu ảnh
hưởng nhất định bởi tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu hay quyền sở hữu khống

chế của các nhà ĐTNN. Tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu của các nhà đầu tư trực
tiếp nước ngoài là yếu tố quyết định đến tính chất trực tiếp của các nhà ĐTNN
trong việc đưa ra các quyết định đầu tư và quản trị doanh nghiệp, được qui
định bởi luật pháp của từng nước.


4

Từ những khái niệm trên, có thể hiểu: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là
một hình thức đầu tư quốc tế, trong đó chủ đầu tư góp toàn bộ hay tỉ lệ vốn
theo quy định của nước nhận đầu tư để có được quyền sở hữu và quản lý một
thực thể kinh tế hoạt động lâu dài ở nước nhận đầu tư với mục tiêu lợi nhuận.
2. Các hình thức của FDI
Có nhiều tiêu thức để xác định hình thức FDI, về cơ bản là:
Thứ nhất, theo “cách thức xâm nhập”, FDI được chia thành 2 hình thức:
Đầu tư mới (greenfield investment): Chủ đầu tư nước ngoài góp vốn để
xây dựng một cơ sở sản xuất, kinh doanh mới tại nước nhận đầu tư.
Sáp nhập và mua lại (merger & acquisition): đầu tư nước ngoài mua lại
hoặc sáp nhập một cơ sở sản xuất kinh doanh sẵn có ở nước nhận đầu tư.
Thứ hai, theo “quan hệ về ngành nghề, lĩnh vực giữa chủ đầu tư và đối
tượng tiếp nhận đầu tư”, FDI được chia thành 3 hình thức: FDI theo chiều
ngang, FDI theo chiều dọc và FDI hỗn hợp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang: là việc một công ty tiến
hành đầu tư trực tiếp nước ngoài, vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi
thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế sẵn có họ muốn tìm
kiếm lợi nhuận cao hơn, nên muốn mở rộng và thôn tính thị trường nước
ngoài. Hình thức này phổ biến trong hoạt động FDI tại các nước phát triển và
thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc: Đây là hình thức khá phổ biến
của hoạt động FDI tại các nước đang phát triển. Các nhà đầu tư tập trung khai

thác các lợi thế cạnh tranh về nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào
giá rẻ như lao động, đất đai của nước nhận đầu tư để lắp ráp, hoàn thiện sản
phẩm của mình, sau đó bán sản phẩm trên thị trường quốc tế thu lợi nhuận cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài hỗn hợp: Là sự kếp hợp giữa FDI theo
chiều ngang và FDI theo chiều dọc.
Thứ ba, theo “định hướng của nước nhận đầu tư”, FDI được chia thành 3
hình thức:


5

Đầu tư trực tiếp nước ngoài thay thế nhập khẩu: Là hoạt động FDI được
tiến hành nhằm sản xuất và cung ứng cho thị trường nước nhận đầu tư các sản
phẩm mà trước đây nước này phải nhập khẩu. Các yếu tố ảnh hưởng nhiều
đến hình thức FDI này là dung lượng thị trường, các rào cản thương mại của
nước nhận đầu tư và chi phí vận chuyển.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng cường xuất khẩu: Thị trường mà hoạt
động đầu tư này nhắm tới không phải hoặc không chỉ dừng lại ở nước nhận
đầu tư mà là các thị trường rộng lớn hơn trên toàn thế giới. Các yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến dòng vốn FDI theo hình thức này là khả năng cung ứng
các yếu tố đầu vào với giá rẻ của các nước nhận đầu tư như nguyên, nhiên vật
liệu, bán thành phẩm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo các định hướng khác của Chính phủ:
Chính phủ nước nhận đầu tư có thể áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư
để điều chỉnh dòng vốn FDI theo đúng ý định của mình. Ví dụ tại Việt Nam,
Chính phủ có thể thực hiện các chính sách nhằm tăng cường thu hút FDI vào
lĩnh vực bảo vệ môi trường thay thế cho vốn ODA sau này.
Thứ tư, theo “hình thức pháp lý”, FDI thường có các hình thức sau:
Tùy theo qui định của luật pháp nước nhận đầu tư, FDI có thể được tiến
hành dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau như:

Hợp đồng hợp tác kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BCC): là hình thức
đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi
nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân.
Doanh nghiệpliên doanh: là một công ty trách nhiệm hữu hạn được thành
lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh được ký kết giữa các bên đối tác.
Doanh nghiệp100% vốn nước ngoài: Loại doanh nghiệp này thường trú
đóng trong khu chế xuất hoặc các công ty, xí nghiệp ở các khu công nghiệp, khu
công nghệ cao. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân tại
nước sở tại, thời gian hoạt động thường kéo dài (có thể tới 50 - 70 năm).
Hợp tác liên danh: Doanh nghiệp nước sở tại và doanh nghiệp nước


6

ngoài hợp tác liên danh theo phương thức: Thời gian đầu khai thác sản phẩm
và dịch vụ dựa trên nhãn hiệu, thương hiệu của bên đã nổi tiếng trước. Sau
một khoảng thời gian nhất định, việc khai thác sản phẩm và dịch vụ sẽ tiếp tục
với nhãn hiệu, thương hiệu của đối tác bên kia. Các bên không góp vốn kinh
doanh, không thành lập pháp nhân mới, phân chia lợi nhuận theo thỏa thuận
giữa các bên.
Ngoài ra, FDI cũng còn được tiến hành bằng các hình thức: xây dựng kinh doanh - chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao - kinh doanh
(BTO), xây dựng - chuyển giao (BT). Ngày nay, cùng với sự gia tăng của
dòng vốn FDI, đã xuất hiện nhiều hình thức đầu tư mới, đa dạng nhằm đưa lại
hiệu quả cao cho nhà đầu tư và nước nhận đầu tư.
3. Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
Lịch sử phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài cho thấy thái độ của nước
tiếp nhận đầu tư từ thái độ phản đối, đến thái độ buộc phải chấp nhận, đến thái
độ hoan nghênh. Trong điều kiện thế giới hiện nay đầu tư trực tiếp nước ngoài
được mời chào, khuyến khích mãnh liệt. Trên thế giới thực chất diễn ra trào
lưu cạnh tranh quyết liệt trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sở dĩ

hầu hết các nước đang phát triển có nhu cầu lớn về đầu tư trực tiếp nước
ngoài là vì xuất phát từ vai trò của nó.
Đối với nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là
thời kỳ đầu nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, thì vai trò của FDI là rất lớn:
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng giải quyết có hiệu
quả những khó khăn về vốn cho công nghiệp hoá.
Nước ta cũng như các nước đang phát triển, vốn đuợc xem là yếu tố
cơ bản,là điều kiện khởi đầu quan trọng để thoát khỏi đói nghèo và phát triển
kinh tế. Thế nhưng, đã là nước nghèo thì khả năng tích luỹ vốn hay huy động
vốn trong nước để tập trung cho các mục tiêu cần ưu tiên là rất khó khăn, thị
trường vốn trong nước lại chưa phát triển. Trong điều kiện của thời kỳ đầu


7

tiến hành công nghiệp hoá, nhìn chung các nước đang phát triển đều gặp rất
nhiều khó khăn như: mức sống thấp, khả năng tích luỹ thấp, cơ sở hạ tầng chưa
phát triển, công nghệ kỹ thuật chưa phát triển, mức đầu tư thấp nên kém hiệu
quả, ít có điều kiện để xâm nhập, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thiếu khả
năng tiếp cận với khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới…chính vì lý do đó,
R.Nurke đã lấy vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói làm lý luận tạo vốn: xét về
lượng cung, người ta thấy khả năng tiết kiệm ít ỏi, tình hình đó là do mức độ
thu nhập thực tế thấp, mức thu nhập thấp phản ánh năng suất lao động thấp ,
đến lượt mình năng suất lao động thấp phần lớn do tình trạng thiếu tư bản gây
ra. Thiếu tư bản lại là kết quả của khả năng tiết kiệm ít ỏi đưa lại. Và thế là cái
vòng được khép kín. Trong cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói đó, nguyên
nhân cơ bản là thiếu vốn. Do vậy, mở của cho đầu tư trực tiếp nước ngoài được
ông xem là giải pháp thực tế nhất đối với các nước đang phát triển. Theo ông,
mở cửa cho FDI có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển có thể vươn đến

những thị trường mới cũng như khuyến khích việc mở rộng kỹ thuật hiện đại
và những phương pháp quản lý có hiệu quả. FDI giúp cho các nước đang phát
triển tránh được những đòi hỏi về lãi suất chặt chẽ. Các nước có thu nhập thấp
được chuyên môn hoá sản xuất nguyên liệu và thực phẩm xuất khẩu, được
chuyên môn hoá dựa trên nguyên tắc bât di bất dịch của lợi thế so sánh trong
thương mại quốc tế, dù rằng FDI trước hết cho lợi ích các nước xuất khẩu vốn
chứ không phải của các nước nhận vốn, thế nhưng mở cửa vẫn còn hơn là đóng
cửa. R.Nurke cho rằng, FDI mang lại lợi ích chung cho cả hai bên, dù chẳng
bao giờ cân bằng tuyệt đối nhưng không thể làm khác được vì nó là đòi hỏi tự
nhiên, tất yếu của quá trình vận động thị trường.
Quan điểm của R.Nurke đứng trên lập trường của giai cấp tư sản,
quan điểm của ông cổ vũ cho xuất khẩu tư bản, những trên khía cạnh nào đó
nó đã phản ánh được vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển.


8

Hiện nay, trong xua thế toàn cầu hóa kinh tế, giải pháp của các nước ta
lúc này là tìm đến với các nguồn đầu tư quốc tế. Nhưng trong số các nguồn
đầu tư quốc tế thì vốn viện trợ tuy có được một số vốn ưu đãi nhưng lại đi
kèm với một số ràng buộc về chính trị, xã hội, thậm chí cả về quân sự. Còn
vốn vay thì thủ tục vừa khắt khe mà lại phải chịu lãi xuất cao. Nguồn vốn
đuợc đánh giá có hiệu quả nhất đối với giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp
hoá của nước ta vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khi nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư
cũng đồng thời họ hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu quả của đồng vốn mà
mình bỏ ra, do đó truớc khi đầu tư thì họ buộc phải tính toán kỹ các điều kiện
cần thiết cho việc thực hiện dự án .Hay nói cách khác, các nhà đầu tư chỉ xin
phép và triển khai dự án khi họ tính toán thấy độ rủi ro ít và khả năng thu lợi
cao. Đây là ưu thế hơn hẳn của loại vốn đầu tư trực tiếp so với các loại vốn
vay khác.

Thứ hai, đầu tư trực tiếp nước ngoài cung cấp công nghệ mới cho sự
phát triển.
Một đặc điểm tương đối phổ biến ở các nước đang phát triển là sự lạc
hậu và thiếu thốn công nghệ và kỹ thuật. FDI có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với quá trình phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao năng suất lao
động tại nước tiếp nhận đầu tư. Cùng với việc thu hút, sử dụng FDI nước nhận
đầu tư tiếp nhận được công nghệ hiện và phương pháp quản lý tiên tiến của nước
đầu tư, từ đó nội địa hoá và phát triển công nghệ của mình. Một mặt, thông qua

FDI công nghệ hiện đại được nước đầu tư trực tiếp đưa vào sử dụng trong
nước nhận đầu tư. Mặt khác, trong quá trình sử dụng các công nghệ nước
ngoài (nhất là ở các doanh nghiệp liên doanh) các doanh nghiệp tại nước nhận
đầu tư nắm bắt được phương pháp sử dụng, thiết kế, chế tạo công nghệ mới
phù hợp với điều kiện sử dụng của mình. Quá trình chuyển giao công nghệ
thông qua FDI đã làm cho “khoảng cách công nghệ” giữa nước đi đầu tư và
nước nhận đầu tư được thu hẹp lại.
Thứ ba, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp phát triển nguồn nhân lực.


9

Để tối đa hóa lợi nhuận, các nhà đầu tư nước ngoài thường đặc biệt quan tâm
đến việc tận dụng nguồn lao động giá rẻ ở nước nhận đầu tư. Do đó, sự có
mặt và hoạt động của các doanh nghiệp FDI đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm
cho nguồn lao động dư thừa ở nước sở tại. FDI không chỉ tạo cơ hội việc làm
cho người lao động mà còn góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Bởi lẽ, để người lao động có thể sử dụng thành thạo công nghệ tiên tiến buộc
các doanh nghiệp FDI phải đào tạo họ, nhờ vậy trình độ lao động ở nước nhận
đầu tư ngày càng được nâng lên. Việc đào tạo lao động không chỉ dừng lại đối
với người sản xuất trực tiếp mà còn đào tạo cả kỹ năng, trình độ cho các đối

tượng lao động quản lý. Do đó, nước nhận đầu tư không chỉ nâng cao được
trình độ người lao động nói chung mà quan trọng hơn là còn tiếp thu được
kinh nghiệm tổ chức và quản lý sản xuất. Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu của
các doanh nghiệp FDI công nhân phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao,
buộc người lao động phải tự đào tạo để đáp ứng yêu cầu đó. Điều này cũng
góp phần nâng cao trình độ nguồn nhân lực tại các nước nhận đầu tư.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp mở rộng thị trường và thúc
đẩy xuất khẩu. Thông qua việc tiếp nhận FDI các nước đang phát triển có thể
tiếp cận, mở rộng thị trường xuất khẩu, vì hầu hết các hoạt động FDI đều do
các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Với vị thế và uy tín sẵn có trong hệ
thống sản xuất và thương mại quốc tế, các công ty xuyên quốc gia đóng vai
trò quan trọng trong việc sản xuất hàng xuất khẩu và mở rộng thị truờng cho
nước nhận đầu tư. Ngược lại, đối với các công ty xuyên quốc gia, hoạt động
xuất khẩu đem lại nhiều lợi nhuận cho họ do sử dụng được các yếu tố đầu vào
rẻ và được hưởng nhiều ưu đãi từ nước chủ nhà.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại là đòi hỏi khách quan
của mỗi quốc gia trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay. FDI góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước tiếp nhận đầu tư làm cho cơ cấu ngành, vùng ở
nước nhận đầu tư thay đổi theo hướng hiện đại hơn. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh


10

tế được thể hiện ở việc chuyển đổi năng suất lao động từ thấp đến cao, đa
dạng về mẫu mã và chủng loại sản phẩm, công nghệ hiện đại và sử dụng ít lao
động trực tiếp, tính chuyên sâu cao và dịch vụ hoàn hảo. Đồng thời, thay đổi
cơ cấu các ngành, vùng bên trong của một lĩnh vực sản xuất thông qua việc thay đổi
công nghệ sản xuất. Ngược lại, chính sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi
quốc gia phù hợp với xu thế chung của thế giới lại tạo điều kiện thuận lợi hơn

cho hoạt động FDI.
II. NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP THU HÚT FDI
VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

1. Những đóng góp của FDI vào phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
Sau gần 30 năm thực hiện chính sách mở cửa, thu hút FDI với việc ban
hành Luật Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) năm 1987, khu vực kinh tế có vốn
ĐTNN ngày càng phát huy vai trò quan trọng và có những đóng góp đáng kể
trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, cụ thể:.
Thứ nhất, ĐTNN góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn lực đầu tư trong nước
Tính đến tháng 8/2012, cả nước có 14.095 dự án ĐTNN còn hiệu lực,
với tổng vốn đăng ký đạt 206,8 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đã giải ngân
được 97,4 tỷ USD (chiếm 47% vốn đăng ký). ĐTNN là khu vực phát triển
năng động nhất với tốc độ tăng GDP cao hơn tốc độ tăng trưởng cả nước: năm
1995 GDP của khu vực ĐTNN tăng 14,98% trong khi GDP cả nước tăng
9,54%; tốc độ này tương ứng là 11,44% và 6,79% (2000), 13,22% và 8,44%
(2005), 8,12% và 6,78% (2010). Tỷ trọng đóng góp của khu vực ĐTNN trong
GDP tăng dần, từ 2% GDP (1992), lên 12,7% (2000), 16,98% (2006) và
18,97% (2011). Tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế thể hiện rõ hơn
thông qua:
Bổ sung cho tổng vốn đầu tư xã hội, vốn FDI thực hiện tăng nhanh qua
các thời kỳ, từ khoảng 20,67 tỷ USD, chiếm 24,32% tổng vốn đầu tư xã hội


11

(1991 – 2000) lên 69,47tỷ USD, chiếm 22,75% tổng vốn đầu tư xã hội (2001
– 2011). Tỷ trọng khu vực ĐTNN trong cơ cấu kinh tế giai đoạn 2000 – 2011
tăng 5,4%.

Góp phần quan trọng vào xuất khẩu: Chủ trương khuyến khích ĐTNN
hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho Việt Nam trong việc nâng cao năng
lực xuất khẩu, qua đó giúp chúng ta từng bước tham gia và cải thiện vị trí
trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Trước năm 2001, xuất khẩu của khu vực ĐTNN chỉ đạt 45,2% tổng
kim ngạch, kể cả dầu thô. Từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu
vượt khu vực trong nước và dần trở 10 thành nhân tố chính thúc đẩy xuất
khẩu, chiếm khoảng 64% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012. Bên cạnh đó,
ĐTNN góp phần làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ
trọng sản phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng hàng chế tạo
FDI tác động tích cực tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu nhất là sang Hoa
Kỳ, EU, làm thay đổi đáng kể cơ cấu xuất khẩu, đưa Hoa Kỳ trở thành thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Ngoài ra, FDI còn góp phần ổn định thị trường trong nước, hạn chế
nhập siêu thông qua việc cung cấp cho thị trường nội địa các sản phẩm chất
lượng cao do doanh nghiệp (DN) trong nước sản xuất thay vì phải nhập khẩu
như trước đây.
Đóng góp vào nguồn thu ngân sách: Đóng góp của FDI vào ngân sách
ngày càng tăng, từ 1,8 tỷ USD (1994-2000) lên 14,2 tỷ USD (2001 – 2010).
Năm 2012, nộp ngân sách của khu vực FDI (không kể dầu thô) là 3,7 tỷ USD,
chiếm 11,9% tổng thu ngân sách (18,7% tổng thu nội địa, trừ dầu thô).
Thứ hai, FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa - điện đại hóa


12

Hiện nay, 58,4% vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp -xây
dựng với trình độ công nghệ cao hơn mặt bằng chung của cả nước. Tốc độ
tăng trưởng công nghiệp - xây dựng của khu vực FDI đạt bình quân gần

18%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành. Đến nay, khu vực FDI đã
tạo ra gần 45% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số
ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông, khai thác, chế
biến dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi măng...
FDI đã góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa
dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và tiếp thu
một số công nghệ tiên tiến, giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao
đạt tiêu chuẩn quốc tế, tạo ra một số phương thức mới, có hiệu quả cao, nhất là
các dự án đầu tư vào phát triển nguồn nguyên liệu, góp phần cải thiện tập quán
canh tác và điều kiện hạ tầng yếu kém, lạc hậu ở một số địa phương.
Khu vực FDI đã tạo nên bộ mặt mới trong lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao
như khách sạn, văn phòng căn hộ cho thuê,ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư
vấn luật, vận tải biển, lô-gi-stíc, siêu thị... Các dịch vụ này cũng góp phần tạo ra
phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, kích thích hoạt động
thương mại nội địa và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.
Thứ ba, đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo việc làm, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và thay đổi cơ cấu lao động
Hiện nay khu vực FDI tạo ra trên 2 triệu lao động trực tiếp và khoảng
3- 4 triệu lao động gián tiếp, có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao
động theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. DN ĐTNN được xem là tiên
phong trong việc đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài, nâng cao trình độ của
công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ quản lý, trong đó một bộ phận đã có năng
lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước
ngoài. Ngoài ra, ĐTNN đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất


13

lượng lao động thông qua hiệu ứng lan tỏa lao động, cập nhật kỹ năng cho
bên cung ứng và bên mua hàng.

Thứ tư, FDI là kênh chuyển giao công nghệ quan trọng, góp phần nâng
cao trình độ công nghệ của nền kinh tế
Khu vực FDI sử dụng công nghệ cao hơn hoặc bằng công nghệ tiên tiến
đã có trong nước và thuộc loại phổ cập trong khu vực. Từ năm 1993 đến nay,
cả nước có 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được phê duyệt/đăng ký,
trong đó có 605 hợp đồng của doanh nghiệp ĐTNN, chiếm 63,6%.
Thông qua hợp đồng chuyển giao công nghệ, khu vực ĐTNN đã góp
phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, nâng cao năng
lực công nghệ trong nhiều lĩnh vực. Xét về cấp độ chuyển giao công nghệ,
công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hiệu quả cao nhất. Theo Bộ Khoa học và
Công nghệ, một số ngành đã thực hiện tốt chuyển giao công nghệ như dầu
khí, điện tử, viễn thông, tin học, cơ khí chế tạo, ô tô, xe máy và dệt may, giày
dép, trong đó viễn thông, dầu khí được đánh giá có hiệu quả nhất.
Tác động lan tỏa công nghệ của khu vực ĐTNN được thực hiện thông
qua mối liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp ĐTNN với DN trong nước, qua đó
tạo điều kiện để DN trong nước tiếp cận hoạt động chuyển giao công nghệ.
Nhìn chung, khu vực FDI có tác động lan tỏa gián tiếp tới khu vực
doanh nghiệp sản xuất trong nước cùng ngành và doanh nghiệp dịch vụ trong
nước khác ngành. Bên cạnh đó, thông qua mối quan hệ với doanh nghiệp
ĐTNN, doanh nghiệp trong nước ứng dụng công nghệ sản xuất tương tự để
sản xuất sản phẩm/dịch vụ thay thế và sản phẩm/dịch vụ khác để tránh cạnh
tranh. Đồng thời có tác động tạo ra các ngành sản xuất, dịch vụ khác trong
nước để hỗ trợ cho hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN.
Thứ năm, FDI có tác động nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả ba cấp
độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm


14

Nhiều sản phẩm xuất khẩu Việt Nam đủ sức cạnh tranh và có chỗ đứng

vững chắc trên các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Kết quả phân tích các chỉ
tiêu về vốn, công nghệ, trình độ quản lý, khả năng tiếp cận thị trường (đầu vào
và tiêu thụ sản phẩm) và năng lực tham gia mạng sản xuất toàn cầu cho thấy
năng lực cạnh tranh của khu vực ĐTNN cao hơn so với khu vực trong nước.
Đồng thời, khu vực FDI đã và đang có tác động thúc đẩy cạnh tranh của
khu vực trong nước nói riêng và của nền kinh tế nói chung thông qua thúc đẩy
năng suất, tăng trưởng xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, nâng
cao trình độ công nghệ, trình độ lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thứ sáu, FDI góp phần nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị
doanh nghiệp, tạo thêm áp lực đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh.
Thực tiễn ĐTNN đã cho nhiều bài học, kinh nghiệm bổ ích về công tác
quản lý kinh tế và DN, góp phần thay đổi tư duy quản lý, thúc đẩy quá trình
hoàn thiện luật pháp, chính sách theo hướng bình đẳng, công khai, minh bạch,
phù hợp với thông lệ quốc tế; đào tạo được đội ngũ cán bộ quản lý phù hợp
với xu thế hội nhập.
Thứ bảy, FDI đã góp phần quan trọng vào hội nhập quốc tế
Hoạt động thu hút FDI đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi để Việt Nam gia nhập ASEAN, ký
Hiệp định khung với EU, Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 62 quốc gia/vùng lãnh thổ và Hiệp định
đối tác kinh tế (EPA) với Nhật Bản và nhiều nước.
2. Một số giải pháp thu hút FDI ở nước ta trong thời gian tới
Một là, Thống nhất nhận thức về vai trò, tác động của đầu tư trực

tiếp nước ngoài đến tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm thống nhất nhận thức và
hành động của Đảng, Nhà nước và nhân, trên cơ sở đó phát huy tốt vai trò của
FDI đối với quá trình phát triển kinh tế của đất nước.



15

Để thực hiện tốt giải pháp trên cần:
Tích cực, chủ động tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước về mở rộng kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân trong cả nước.
Thường xuyên giáo dục để cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ vai trò,
sự cần thiết của việc thu hút, sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá
trình phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, Nhà nước cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển các
dự án đầu tư nước ngoài
Đây là biện pháp quan trong nhằm khắc phục những tình trạng cạnh
tranh thiếu lành mạnh của các địa phương trong cả nước trong việc thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để thực hiện tốt giải pháp này, Nhà nước cần: rà soát, bổ sung hoàn
thiện quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH của cả nước, quy hoạch các
ngành, sản phẩm chủ yếu đến năm 2020. Khắc phục tình trạng “quy hoạch
theo phong trào”, quy hoạch chồng chéo. Đồng thời, Chính phủ phê duyệt
Chương trình đầu tư, quy hoạch của các địa phương trong cả nước, tránh
mạnh ai ấy làm, thu hút bằng mọi giá. Thường xuyên đánh giá thực tiễn, rút
kinh nghiệm, chỉ đạo các địa phương.
Ba là; Tiếp tục hoàn thiện, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật
Đây là một trong những điều kiện thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, để
thực hiện tốt giải pháp này, nước ta cần ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng quan
trọng tạo sự kết nối giữa các vùng kinh tế, tập trung vào kết cấu hạ tầng giao
thông, sân bay, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc.
Bốn là;Tiếp tục hoàn thiện cơ chế và chính sách thu hút vốn đầu tư
Đây là một trong những giải pháp quan trọng quyết định đến thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này, chúng ta cần:
Thứ nhất, cần đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính.



16

Thủ tục hành chính rườm rà là một trong những rào cản lớn nhất làm
nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay mặc dù nước ta có nhiều cải
cách thủ tục hành chính theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, nhanh chóng và hiệu
quả, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Thủ tục hành chính
vẫn còn rườm rà, phiền phức, gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ
hội đầu tư. Xây dựng bộ máy hiệu quả sẽ quyết định sự thành công không
những trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy
động, sử dụng vốn cho đầu tư phát triển.
Chính vì vậy, trong thời gian tới nước ta cần phải xây dựng bộ máy
hành chính công phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt và nhạy bén về chính
sách, với những thủ tục hành chính, những qui định pháp lý có tính chất tối
thiểu, đơn giản, công khai và nhất quán. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
có phẩm chất đạo đức trong sáng, có kỷ luật, tôn trọng pháp luật, có trình độ
chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thứ hai, cải thiện môi trường đầu tư
Để cải thiện môi trường đầu tư, trước hết đất nước phải ổn định về kinh
tế và chính trị; đây là điều kiện tiên quyết nhằm tránh rủi ro kinh tế chính trị
của FDI, vì ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định về chính trị vượt khỏi tầm kiểm
soát của nhà đầu tư nước ngoài. Nếu bất ổn định về kinh tế chính trị sẽ làm
cho dòng vốn FDI chững lại, thu hẹp mà làm cho các nhà đầu tư rút vốn tìm
đến những nơi đầu tư mới an toàn.
Thực hiện giải pháp này, yêu cầu đặt ra là duy trì ổn định phát triển
kinh tế và trật tự cần thiết cho sự vận hành bình thường của đất nước, sự hoàn
chỉnh hữu hiệu và phải dự báo được hệ thống pháp luật đầu tư theo xu hướng
ngày càng tiếp cận tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Hơn nữa cần duy trì được
dư luận và tâm lý xã hội chung thuận lợi và ủng hộ các nhà đầu tư nước ngoài

trong mọi tầng lớp dân cư. Bất kỳ sự bất ổn nào về chính trị, xung đột trong
khu vực hay sự hoài nghi, tẩy chay thiếu thiện cảm của chính quyền và nhân
dân đối với nhà ĐTNN đều là những nhân tố nhạy cảm tác động tiêu cực đến


17

tâm lý và những hành động của nhà ĐTNN, cũng làm chậm lại các cải cách
chính sách cần thiết trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Nhà nước cần xây dựng luật đầu tư nước ngoài đồng bộ, chặt chẽ, tiến
bộ nhưng phải cởi mở, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế thì khả năng
hấp dẫn của FDI ngày càng cao.
Thứ ba, có chính sách thúc đẩy khu vực kinh tế có FDI phát triển
Muốn thu hút nhà ĐTNN thì Nhà nước cần đầu tư xây dựng các khu
công nghiệp hoặc khu chế xuất để khuyến khích các nhà ĐTNN. Vì quá trình
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và cải thiện môi trường đầu tư cho toàn bộ nền
kinh tế cần rất nhiều thời gian và chi phí, bởi vậy biện pháp trước mắt đối với
nước ta nên làm là xây dựng những khu riêng biệt có vị trí gần các cảng vận
chuyển với cơ sở hạ tầng tương đối tốt, tiện ích, đáng tin cậy và chi phí tương
đối thấp.
Nhà nước cũng nên có chính sách ưu đãi tài chính – tiền tệ dành cho
vốn đầu tư nước ngoài, trước hết phải bảo đảm cho các nhà ĐTNN tìm kiếm
được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực để
khuyến khích họ đầu tư vào trong nước và vào những nơi mà nước ta khuyến
khích đầu tư.
Bên cạnh đó cần có những chính sách ưu đãi về thuế; đây là chính sách
chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số những ưu đãi tài chính giành cho
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhà nước nên ưu đãi mức thuế cao cho các dự án
đầu tư có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, qui mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường
xuất khẩu, sử dụng nhiều nguyên vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư

lợi nhuận và có mức độ nội địa hóa sản phẩm và công nghệ cao hơn. Cần xây
dựng hệ thống thuế khi thi hành phải rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng và mức
thuế không quá cao (so với lợi nhuận bình quân, lãi suất, so với mức thuế
chung của khu vực và quốc tế...). Các thủ tục thuế, cũng như các thủ tục quản
lý đầu tư nước ngoài phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng vèo nhiều khâu
trung gian, phải công khai và thuận lợi cho các nhà ĐTNN.


18

Năm là; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đẩy mạnh thu hút FDI
Để thu hút FDI nước ta cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Xác định rõ con người là nguồn lực cơ bản nhất
và là mục tiêu lâu dài của sự phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa
quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế
nói chung và thu hút FDI nói riêng. Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, vấn đề chất lượng nguồn nhân lực càng phải được chú trọng, việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực là điểm mấu
chốt cần giải quyết để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực không chỉ tác động đến tăng
năng suất lao động, thực hiện tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập quốc dân
mà còn giúp phát triển hoàn thiện con người, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động và nâng cao chỉ số phát triển con người (HDI).
Phát triển nguồn nhân lực là giải pháp đảm bảo mang tính bền vững của
sự phát triển kinh tế, đồng thời cùng tạo điều kiện để tăng tính hấp dẫn đối với
việc thu hút FDI. Để từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cần có
những biện pháp sau:
- Phát triển mở rộng mạng lưới các cơ sở giáo dục và dạy nghề phù hợp
với quy hoạch điều chỉnh mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung cấp
và dạy nghề trong cả nước; mở rộng quy mô, đa dạng ngành nghề và loại hình

đào tạo; gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng theo ngành nghề và trình độ đào tạo;
tránh tình trạng đào tạo tràn lan, gây dư thừa lao động qua đào tạo ở ngành
này và thiếu hụt lao động qua đào tạo ở ngành khác.
- Đổi mới nội dung chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tiếp thu có chọn lọc những chương trình đào
tạo tiên tiến, phục vụ thiết thực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội, gắn với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế; xây dựng cơ chế, chính sách liên kết các doanh nghiệp với cơ sở đào
tạo, huy động tối đa sự tham gia của các doanh nghiệp trong việc xác định


19

nhu cầu đào tạo, tổ chức đào tạo và tuyển dụng lao động. Trong đó, đặc biệt
coi trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ doanh nhân; ưu tiên đào tạo
lao động cho các ngành kinh tế mũi nhọn.
- Các cơ sở đào tạo phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp để giúp học
sinh, sinh viên lựa chọn ngành nghề, tạo đầu ra cho sinh viên tốt nghiệp; nắm
bắt thông tin phản hồi từ doanh nghiệp về nhu cầu đào tạo, kết quả đào tạo
trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch và tổ chức đào tạo đáp ứng nhu cầu của
doanh nghiệp; chú trọng việc đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động xây dựng kế hoạch quản lý và
phát triển nhân lực của đơn vị mình; tăng cường hợp tác với các cơ sở đào tạo
để đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu; phối hợp với các cơ sở đào tạo xây dựng
các chuẩn đầu ra của ngành, nghề đào tạo; tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở
thực tập, thực tế cho học sinh, sinh viên của các cơ sở đào tạo.
Sáu là; Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước đối
với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên phạm vi cả nước
Đây là một trong những nội dung quan trọng nhất nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng FDI, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cũng như tạo lòng tin cho nhà

ĐTNN. Hiện các cơ quan quản lý nhà nước ta mới chỉ chú ý đến việc ra quyết
định cấp Giấy chứng nhận đầu tư, chưa thực hiện tốt việc quản lý, giám sát các
dự án sau khi đi vào triển khai hoạt động, dẫn đến nhiều doanh nghiệp FDI chưa
tuân thủ theo đúng các qui định hiện hành của pháp luật Việt Nam và các cam
kết ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, cần có
các giải pháp cụ thể sau:
- Tăng cường thông tin bằng nhiều kênh khác nhau để các nhà ĐTNN có
điều kiện tiếp cận, cập nhật những chủ trương, chính sách, pháp luật hiện hành
của nước ta cũng như những thay đổi về cơ chế quản lý để giúp các nhà đầu tư
hiểu và tự giác chấp hành.


20

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư với chức năng là cơ quan đầu mối giúp Chính
phủ cung cấp thông tin đầu tư và giải quyết các vấn đề liên quan đến thủ tục đầu
tư, cần phải thường xuyên rà soát các dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư
theo tiến độ triển khai, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan trong tỉnh để
có những biện pháp xử lý kịp thời và kiên quyết đối với những dự án vi phạm
pháp luật, vi phạm cam kết trong Giấy chứng nhận đầu tư, kiên quyết chấm dứt
thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư các dự án không có triển vọng, dành địa điểm
cho các nhà đầu tư có thực lực. Đối với các dự án có khả năng triển khai, nhưng
gặp khó khăn vướng mắc, cần tập trung tìm giải pháp hỗ trợ, giải quyết dứt điểm
để các dự án sớm đi vào triển khai hoạt động.
- Rà soát các chính sách, qui định hiện hành, cơ chế quản lý các doanh
nghiệp FDI đang triển khai hoạt động trên địa phạm vi cả nước và phát hiện
những sai trái, không phù hợp hay trùng lặp, kiến nghị các cơ quan có thẩm
quyền loại bỏ; đề xuất các chính sách, qui định còn thiếu để tạo ra một hệ thống
chính sách đồng bộ, phù hợp với sự vận động phát triển của các doanh nghiệp
FDI ở các địa phương trong cơ chế quản lý chung của cả nước.

- Khuyến khích và có chính sách hỗ trợ kịp thời cho các doanh nghiệp
FDI, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị, xã hội hoạt động trong các doanh
nghiệp này, nhằm động viên các cán bộ, công nhân viên thực hiện tốt các cam
kết trong Hợp đồng lao động với các nhà đầu tư; xây dựng mối quan hệ đồng
thuận, hợp tác gắn bó lâu dài giữa người lao động với chủ doanh nghiệp. Mặt
khác, thay mặt công nhân viên chức bàn bạc với chủ doanh nghiệp nhằm tháo gỡ
những vướng mắc về lợi ích giữa người lao động với chủ doanh nghiệp; hạn chế
bãi công, đình công gây thiệt hại cho cả doanh nghiệp và người lao động.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vực
quản lý đầu tư. Để đáp ứng ngày càng cao của nền kinh tế đang hội nhập quốc
tế, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước phải được đào tạo nâng cao trình độ về mọi
mặt, trước hết về năng lực chuyên môn phải đạt trình độ quản lý tiên tiến hiện


21

đại phù hợp với trình độ quản lý của đối tác, thường xuyên cập nhật kiến thức
liên quan đến thu hút đầu tư nước ngoài.

KẾT LUẬN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. FDI đã đóng góp lượng vốn
đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thúc đẩy chuyển giao công nghệ,
phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá; góp phần nâng cao sức cạnh tranh,
năng lực xuất khẩu, tạo ra những cơ hội và ưu thế mới để Việt Nam hội nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới.
Vì vậy, trong những năm tiếp theo nước ta tiếp tục đẩy mạnh
CNH,HĐH để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, thì nước ta vẫn cần một lượng vốn lớn, trong khi đó nguồn

vốn đầu tư trong nước hạn hẹp, các khoản vay nước ngoài ngày càng khó
khăn và sử dụng kém hiệu quả đang để lại khoản nợ lớn cho đất nước. Do đó,
giải pháp quan trọng nhất lúc này cho huy động vốn để đẩy mạnh quá trình
CNH,HĐH đất nước vẫn là FDI. Để thu hút FDI trong thời gian tới, nước ta
cần có những chủ trương chính sách đúng tạo động lực cho nhà ĐTNN, góp
phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.


22

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Vũ Hoàng Dương (2011), Một số vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 7/2011.

2. Đặng Vũ Chư (1997), “Ngành công nghiệp đi đầu trong sự nghiệp CNH-

HĐH đất nước”, Tạp chỉ Cộng sản, (5).
3. Lê Nguyên Minh (2008), “Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Trọng tâm vẫn

là giải ngân vốn”, Báo Tuổi trẻ (11/2008).
4.

Giáo trình, Kinh tế học phát triển (2011), Học Viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

5.

Giáo trình, Kinh tế Đầu tư (2012), Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Nxb

Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

6. Bộ kế hoạch và đầu tư (2013), Những đóng góp tích cực của đầu tư trực

tiếp nước ngoài đối với kinh tế - xã hội của Việt Nam, Tạp chí Kinh
tế và Phát triển (182).
7.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội.

8.

Nguyễn Hoài Long, Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của
địa phương trong việc thu hút đầu tư, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số
5/2008.

9. Bùi Tất Thắng, Nguyễn Hoàng Hà (2012), Định hướng thu hút FDI trong

tình hình mới, Tạp chí Kinh tế và Phát triển (165).
10.Quốc

Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Đầu tư
59/2005/QH11, Hà Nội.


23




×