Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Tâm lý học lứa tuổi SP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.23 KB, 62 trang )

CHƯƠNG 1
NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
I. KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ
PHẠM
TLH tách khỏi triết học (1879) nó trở thành một khoa học độc lập và phát
triển mạnh mẽ. Do đó nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi nghiên cứu tâm lý có tính chất
chuyên biệt. TLH lứa tuổi và TLH sư phạm là các chuyên ngành phát triển sớm
nhất của TLH.
1. Đối tượng và nhiệm vụ lứa tuổi và TLH sư phạm:
a. Đối tượng của TLH lứa tuổi và TLH sư phạm:
TLH lứa tuổi và TLH sư phạm nghiên cứu tâm lý người nhưng không phải
là con người trưởng thành mà là con người ở các giai đoạn phát triển (từ 0-18 tuổi)
* Đối tượng của TLH lứa tuổi: Nghiên cứu động lực phát triển tâm lý theo
lứa tuổi của con người, sự phát triển trong nhân cách của con người đang được
phát triển (TLH phát triển).
Tức là nó xem xét quá trình con người trở thành nhân cách như thế nào?
TLH Mác Xít đã khẳng định: Con người lĩnh hội nền văn hóa xã hội biến thành cái
riêng để phát triển tâm lý, nhân cách.
- TLH lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm các quá trình và các phẩm chất tâm lý
riêng lẻ của cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác biệt của chúng ở mỗi cá
nhân trong phạm vi cùng một lứa tuổi, nghiên cứu những khả năng lứa tuổi của
việc lính hội các tri thức, phương thức hành động.
- TLH lứa tuồi nghiên cứu các dạng hoạt động khác nhau của các cá nhân
đang được phát triển (hoạt động: vui chơi, học tập, lao động, hoạt động xã hội…)
Mỗi dạng này có vai trò, tác dụng khác nhau đối với sự phát triển nhân cách ở
từng lứa tuổi. Mỗi giai đoạn phát triển của con người có một dạng hoạt động đặc
trưng, vừa sức với nói (hoạt động chủ đạo).
* Đối tượng TLH sư phạm: Nghiên cứu những quy luật tâm lý của việc dạy
học và giáo dục. Tức là TLH sư phạm nghiên cứu những vấn đề TLH của việc
điều khiển quá trình dạy học, nghiên cứu sự hình thành những quá trình nhận thức,
tìm tòi những tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí tuệ và xác định những


điều kiện để đảm bảo phát triển trí tuệ có hiệu quả trong quá trình dạy học. Xem
xét những vấn đề về mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh
với nhau.


Trẻ em có suy nghĩ và cảm nhận, suy cảm khác nhau với người lớn, người
lớn phải hiểu được trẻ em để có tác động làm phát triển nhân cách. Mặt khác mỗi
lứa tuổi có những khó khăn và thuận lợi riêng vì vậy đòi hỏi có phương pháp đối
xử riêng biệt và thích hợp với từng lứa tuổi.
b. Nhiệm vụ của TLH lứa tuổi và TLH sư phạm:
- Vạch ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi,
những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi.
- Rút ra những quy luật lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong quá trình
dạy học và giáo dục, những biến đổi tâm lý của học sinh do ảnh hưởng của dạy
học và giáo dục.
- Cung cấp những kết quả nghiên cứu để tổ chức hợp lý quá trình sư phạm
nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục và giảng dạy.
2. Mối quan hệ giữa TLH lứa tuổi và TLH sư phạm:
TLH lứa tuổi và TLH sư phạm gắn bó chặt chẽ, bổ sung và thống nhất với
nhau:
TLH lứa tuổi và TLH sư phạm đều có cơ sở là TLH đại cương. TLH đại
cương cung cấp cho 2 chuyên ngành TLH lứa tuổi và TLH sư phạm những khái
niệm cơ bản về các hiện tượng tâm lý để hai chuyên ngành này sử dụng khi đi sâu
vào đối tượng nghiên cứu của mình. Ngược lại nhờ những sự kiện của hai chuyên
ngành TLH lứa tuổi và TLH sư phạm mà những khái niệm cơ bản của TLH đại
cương cũng trở nên phong phú và sâu sắc hơn.
- Hai chuyên ngành TLH lứa tuổi và TLH sư phạm có chung khánh thể
nghiên cứu đó là những con người bình thường có những giai đoạn phát triển khác
nhau (mẫu giáo, tiểu học, THCS, THPT).
+ Là khánh thể của TLH lứa tuổi nếu nghiên cứu động thái của sự phát triển

theo lứa tuổi.
+ Là khánh thể của TLH sư phạm nếu chúng được nghiên cứu với tư cách
là người được dạy và được giáo dục trong quá trình tác động có mục đích của nhà
giáo dục.
- TLH lứa tuổi chỉ có thể được nghiên cứu trong những điều kiện cụ thể của
việc dạy học và giáo dục, trong điều kiện tự nhiên của đời sống của trẻ (vì tách
khỏi những điều kiện đó thì trẻ em không thể phát triển bình thường được). Đồng
thời việc dạy học và giáo dục không thể được xem xét như là những hiện tượng
độc lập tách khỏi đối tượng của dạy học và giáo dục.


Như vậy cả TLH lứa tuổi và TLH sư phạm đều nghiên cứu trẻ em trong quá
trình dạy học và giáo dục, cùng phục vụ cho sự phát triển của đứa trẻ. Do đó việc
phân chia ranh giới hai chuyên ngành chỉ có tính chất tương đối.
II. LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN - TÂM LÝ TRẺ EM
1. Khái niệm chung về sự phát triển tâm lý trẻ em
a. Quan niệm về trẻ em: Dựa trên những quan điểm triết học khác nhau, người ta
hiểu về trẻ em rất khác nhau.
* Quan niệm thứ nhất : Họ không phân biệt trẻ em và người lớn. Quan
điểm này tồn tại chủ yếu ở thời kỳ nguyên thủy.
Trong thời kỳ nguyên thủy, điều kiện xã hội phát triển còn ở mức độ rất
thấp, mọi thứ đều sơ khai, chưa có sự phân công lao động xã hội . Trẻ em và người
lớn sống cùng với nhau, có điều kiện sinh hoạt như nhau. Từ quan điểm này dẫn
đến việc nuôi dạy trẻ em : người ta không nuôi day trẻ em theo một chế độ ưu tiên
đặc biệt nào.
* Quan điểm thứ hai: Cho rằng "Trẻ em là người lớn thu nhỏ lại". Như vậy
sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn về mọi mặt (cơ thể, tư tưởng, tình cảm...)
chỉ ở tầm cỡ, kích thước, chứ không khác nhau về chất. Quan điểm này dẫn đến
việc giáo dục trẻ em mang tính giáo điều , áp đặt.
* Quan niệm thứ ba : Là quan điểm của nhà giáo dục JJ Rút Xô (17121778) cho rằng trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại và người lớn không

phải lúc nào cũng có thể hiểu được trí tuệ, nguyện vọng, tình cảm độc đáo của trẻ
thơ...vì "trẻ em có cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm nhận riêng nó". Ông đã chỉ ra
sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn là khác nhau về chất . Quan điểm này đặt
nền móng cho cách nhìn biện chứng về trẻ em. Do đó ông đòi hỏi việc giáo dục trẻ
em phải lấy trẻ em làm chuẩn.
* Quan niệm thứ tư : Là quan điểm của CNDVBC cho rằng: Trẻ em
không phải là người lớn thu nhỏ lại, trẻ em là trẻ em, nó vận động, phát triển theo
quy luật của trẻ em. Người lớn cần có hình thức riêng, ngôn ngữ riêng để giao tiếp
với trẻ, tác động đến trẻ để phát triển...
Điều kiện sống và hoạt động của các thế hệ người ở các thời kỳ lịch sử
khác nhau là rất khác nhau. Do vậy mỗi thời đại khác nhau lại có trẻ em của riêng
mình.
b. Những quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lý trẻ em
* Quan niệm duy tâm: Sự phát triển tâm lý của trẻ em chỉ là sự tăng hoặc
giảm về số lượng của các hiện tượng đang được phát triển, không có sự chuyển


biến về chất lượng. Sự phát triển tâm lý của trẻ em là sự mở rộng, khai triển những
thuộc tính tâm lý sẵn có từ lúc đứa trẻ mới sinh ra.
Họ đã nhìn nhận sai lầm về nguồn gốc của sự phát triển tâm lý. Sự phát
triển diễn ra dưới ảnh hưởng của một sức mạnh nào đó mà người ta không thể điều
khiển được, không thể nghiên cứu được, không nhận thức được.
* Thuyết tiền định cho rằng: Sự phát triển tâm lý trẻ em có nguồn gốc là
yếu tố sinh vật, trước hết là yếu tố duy truyền.
Mọi đặc điểm tâm lý chung và có tính chất cá thể đều là tiền định, đều có
sẵn trong các cấu trúc sinh vật và sự phát triển chỉ là quá trình trưởng thành, chín
muồi của những thuộc tính có sẵn ngay từ đầu và được quyết định bằng con đường
di truyền. Họ đã hạ thấp vai trò của giáo dục.
* Thuyết duy cảm: Đối lập với thuyết tiền định, họ cho rằng sự phát triển
tâm lý của trẻ nhờ những tác động của môi trường xung quanh, môi trường là nhân

tố quyết định sự phát triển tâm lý của trẻ. Vì vậy muốn nghiên cứu con người chỉ
cần phân tích cấu trúc môi trường mà họ sống.
Những người theo quan điểm này họ ví trẻ em như "tờ giấy trắng"
* Thuyết hội tụ hai yếu tố: Họ cho rằng sự phát triển tâm lý trẻ em do tác
động máy móc của hai yếu tố môi trường và di truyền. Trong đó di truyền giữ vai
trò quyết định còn môi trường là điều kiện để biến những đặc điểm tâm lý đã được
vạch sẵn thành hiện thực.
Vậy tác động của môi trường, ảnh hưởng của yếu tố sinh vật định trước sự
phát triển của trẻ, sự phát triển của trẻ không phụ thuộc vào hoạt động sư phạm
của nhà giáo dục, tính tích cực hoạt động của trẻ.
* Những quan điểm trên về thực chất đều có sai lầm giống nhau:
- Họ đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến hoặc tiền
định (do di truyền hoặc do tác động của môi trường một cách máy móc).
- Các quan niệm này đều hạ thấp vai trò của giáo dục và đều phủ nhận tính
tích cực của cá nhân.
c. Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý trẻ em
- Phát triển là quá trình biến đổi của sự vật từ thấp đến cao từ đơn giản đến
phức tạp, là quá trình tích lũy dần về số lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng,
là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ do sự thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật hiện tượng.


- Quan điểm này được các nhà tâm lý học Xô Viết vận dụng vào việc xem
xét sự phát triển tâm lý trẻ em. Họ cho rằng : Sự phát triển tâm lý trẻ em là quá
trình biến đổi về chất lượng tâm lý, sự thay đổi về số lượng của các chức năng tâm
lý dẫn đến sự thay đổi về chất lượng và đưa đến sự hình thành cái mới – mhững
cấu tạo tâm lý mới một cách nhảy vọt. VD ngôn ngữ của trẻ lên 3; nhu cầu giao
tiếp của thiếu niên…
- Sự phát triển tâm lý của trẻ em chịu sự chi phối của ba loại yếu tố : sinh
học , môi trường, hoạt động của chính đứa trẻ.

+ Yếu tố sinh học : Yếu tố sinh học bao gồm : cái di truyền, cái bẩm sinh
như cấu tạo cơ thể, cấu trúc hệ thần kinh, các nhu cầu bản năng, tư chất…Những
yếu tố này có ảnh hưởng tới tối độ, đỉnh cao của những thành tựu của con người
cụ thể trong một lĩnh vực nào đó, có thể ảnh hưởng tới con đường và phương thức
khác nhau của sự phát triển các thuộc tính tâm lý…
Nhưng tự nó không quyết định trước sự phát triển tâm lý. Chúng chỉ có vai
trò là tiền đề, cơ sở vật chất của sự phát triển tâm lý trẻ em.
+ Yếu tố môi trường: Yếu tố môi trường bao gồm: môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội.
- Môi trường tự nhiên bao gồm những điều kiện thời tiết, khí hậu, sinh
thái…Môi trường tự nhiên có vai trò quan trọng đến sự phát triển tâm lý trẻ em,
nhưng nó thường ảnh hưởng một cách gián tiếp đến sự phát triển tâm lý trẻ em
thông qua môi trường xã hội, thông qua hoạt động của con người.
- Môi trường xã hội gồm toàn bộ nền văn hóa – xã hội do loài người sáng
tạo ra. Bằng lao động của mình, loài người ghi lại những kinh nghiệm, năng lực…
trong các công cụ sản xuất, các dụng cụ, vật dụng hằng ngày; trong các tác phẩm
văn hóa - nghệ thuật, khoa học – kỹ thuật và đặc biệt là mối quan hệ người –
người. Ngay từ khi đứa trẻ ra đời đã được sống trong thế giới đối tượng và mối
quan hệ xã hội. Đứa trẻ không chỉ thích nghi với thế giới đồ vật và những hiện
tượng do con người tạo ra mà còn lĩnh hội thế giới đó. Đứa trẻ tiến hành những
hoạt động căn bản tương ứng với những hoạt động mà trước đó loài người đã thể
hiện vào trong đồ vật, hiện tượng...Nhờ đó mà nó lĩnh hội những kinh nghiệm,
năng lực...cho mình để phát triển tâm lý. Môi trường XH là nguồn gốc cho sự phát
triển các thuộc tính đặc thù của con người. Đây chính là cơ chế tồn tại và phát
triển đặc trưng của loài người, cơ chế di sản. Tuy nhiên môi trường XH khong tác
động đến sự phát triển tâm ly trẻ em một cách cơ học mà nó tác động thông qua
hoạt động của chính đứa trẻ.
+ Yếu tố hoạt động của chính trẻ em:



.
Đứa trẻ không chỉ thích nghi với thế giới đồ vật và những hiện tượng do
con người tạo ra mà còn lĩnh hội thế giới đó để biến nó thành tài sản riêng, thành
tâm lý của mình.
Để lĩnh hội, đứa trẻ tiến hành những hoạt động căn bản tương ứng với
những hoạt động mà trước đó loài người đã thể hiện vào trong đồ vật, hiện tượng...
tái tạo những nét căn bản của hoạt động tích tụ trong các sự vật. Đây chính là cơ
chế lĩnh hội của loài người.
Sự phát triển tâm lý là kết quả hoạt động của chính đứa trẻ với những đối
tượng do sự phát triển văn hóa loài người tạo ra. Hoạt động này được tiến hành với
vai trò trung gian của người lớn. Nhờ sự tiếp xúc với người lớn và hướng dẫn của
người lớn mà những quá trình nhận thức, kỹ năng, kỹ xảo và cả những nhu cầu xã
hội của trẻ được hình thành. Người lớn giúp trẻ nắm được ngôn ngữ và phương
thức hành động. Do vậy kết quả của hoạt động của trẻ còn phụ thuộc vào mối quan
hệ của nó với người lớn. Đó chính là mối quan hệ : Trẻ em – người lớn – thé giới
đồ vật.
Như vậy, chính trong hoạt động diễn ra sự thống nhất, sự tác động của các
yếu tố sinh học, môi trường. Đứa trẻ sử dụng tiền đề vật chất của cơ thể để tiếp
nhận kinh nghiệm người. Tóm lại sự phát triển tâm lý trẻ em là quá trình trẻ em
lĩnh hội nền văn hóa xã hội của loài người.
Động lực của sự phát triển tâm lý trẻ em là việc giải quyết mâu thuẫn cơ
bản giữa yêu cầu mới của hoàn cảnh và khả năng tâm lý chưa tương ứng với hoàn
cảnh đó. Giải quyết được mâu thuẫn đó sẽ dẫn đến cái mới được hình thành. Vì
vậy việc điều khiển quá trình phát triển tâm lý trẻ em trong dạy học và giáo dục
phải tính đến mâu thuẫn cơ bản của mỗi lứa tuổi.


Từ những yếu tố chi phối sự phát triển tâm lý trẻ em và động lực của sự
phát triển tâm lý trong công tác dạy học và giáo dục học sinh chúng ta
cần quan tâm một số vấn đề sau:

-

Cần quan tâm đến sự phát triển thể chất của trẻ, nhất là bảo vệ hệ
thần kinh, các giác quancho trẻ, cũng như phát hiện ra những tư
chất, năng khiếu bẩm sinh của trẻ và đưa vào bồi dưỡng kịp thời
để giúp tyer phát triển.

-

Cần tạo ra môi trường trong sáng, lành mạnh, thuận lợi cho sự
phát triển tâm lý trẻ em.

-

Cần phải chú ý đến đặc điểm tâm lý lứa tuổi và đặc điểm tâm lý
cá nhân, coi đó là cơ sở khoa học của mọi hành động sư phạm
nhằm phát huy tối đa tính tích cực của học sinhtrong dạy học và
giáo dục, tạo động lực cho sự phát triển tâm lý trẻ em.


2. Các quy luật chung của sự phát triển tâm lý trẻ em:
a. Quy luật về tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý
- Sự phát triển tâm lý của trẻ em có tính không đồng đều, tính không đồng
đều đó được biểu hiện.
Trong điều kiện bất kỳ, ngay cả trong điều kiện thuận lợi nhất của việc giáo
dục thì những biểu hiện tâm lý, những chức năng tâm lý khác nhau...cũng không
thể phát triển ở mức độ như nhau. Có những thời kỳ tối ưu đối với sự phát triển
một hình thức hoạt động tâm lý nào đó.
VD: Giai đoạn thuận lợi nhất cho sự phát triển ngôn ngữ là lứa tuổi 1-5.
Cho sự hình thành kỹ xảo hành động là lứa tuổi học sinh tiểu học. Cho sự hình

thành tư duy toán học là lứa tuổi từ 15-20 tuổi.
- Sự phá triển tâm lý không đồng đều còn thể hiện ở trong cùng lứa tuổi
nhưng mỗi đứa trẻ phát triển khác nhau.
b. Quy luật về tính toàn vẹn của tâm lý
- Cùng với sự phát triển, tâm lý càng có tình toàn vẹn, thống nhất và bền
vững.
- Sự phát triển tâm lý là sự chuyển biến dần các trạng thái tâm lý thành các
đặc điểm tâm lý cá nhân. Tâm lý trẻ nhỏ phần lớn là một tổ hợp nhiều hệ thống
những tâm trạng rời rạc khác nhau, sự phát triển thể hiện ở chỗ tâm trạng đó dần
dần chuyển thành nét nhân cách.
VD: Tâm trạng vui vẻ, thoải mái trong lao động, nếu được lặp lại thường
xuyên sẽ chuyển thành lòng yêu lao động.
- Tính toàn vẹn của tâm lý phụ thuộc phần lớn vào động cơ chỉ đạo hành vi
của trẻ. Cùng với giáo dục, cùng với sự mở rộng kinh nghiệm sống, những động
cơ hành vi của trẻ ngày càng trở nên tự giác có ý nghĩa xã hội và ngày càng bộc lộ
rõ trong nhân cách của trẻ.
c. Tính mềm dẻo tạo ra khả năng bù trừ
- Hệ thần kinh của trẻ em rất mềm dẽo, dựa vào tính mềm dẻo đó mà giáo
dục có thể làm thay đổi tâm lý trẻ em.
- Tính mềm dẻo tạo ra khả năng bù trừ khi một chức năng tâm lý hoặc sinh
lý nào đó yếu hoặc thiếu thì chức năng tâm lý khác cũng tăng cường, phát triển
mạnh hơn để bù vào hoạt động không đầy đủ của chức năng bị yếu.


Những quy luật trên là quy luật cơ bản của sự phát triển tâm lý trẻ em.
Nhưng những quy luật đó chỉ là một xu thế của sự phát triển tâm lý trẻ em. Những
quy luật đó có sau so với ảnh hưởng của môi trường. Sự phát triển tâm lý trẻ em
không tuân theo quy luật sinh học mà tuân theo quy luật xã hội.
3. Dạy học, giáo dục và sự phát triển tâm lý
- Trẻ em chỉ có thể lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội có hiệu quả trong

quá trình hoạt động sư phạm. Do vậy giáo dục giữ vai trò chỉ đạo đối với sự phát
triển tâm lý trẻ em.
- Dạy học, giáo dục và phát triển tâm lý có mối quan hệ biện chứng với
nhau: Hai quá trình này không diễn ra song song mà chúng có mối quan hệ chặt
chẽ, bổ sung cho nhau và thống nhất với nhau. Sự phát triển tâm lý trẻ em chỉ có
thể diễn ra tốt đẹp trong điều kiện dạy học và giáo dục. Nhưng dạy học và giáo
dục phải kích thích, dẫn dắt sự phát triển chứ không phải chờ đợi sự phát triển.
Giáo dục, dạy học phải đi trước một bước, phải đón trước sự phát triển. Ngược lại,
dạy học và giáo dục cần tính đến những đặc điểm của mức độ đã đạt được ở trẻ,
tính đến đặc điểm lứa tuổi và quy luật bên trong của sự phát triển. Do vậy dạy học
và giáo dục giữ vai trò chủ đạo nhưng không quyết định hoàn toàn sự phát triển
tâm lý. Muốn phát triển tâm lý trẻ em đúng đắn rất cần có sự tự giáo dục.
III. SỰ PHÂN CHIA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
1. Quan điểm về giai đoạn phát triển tâm lý
a. Quan điểm sinh vật: Coi sự phát triển tâm lý như là một quá trình sinh vật tự
nhiên. Quan niệm này khẳng định tính bất biến, tính tuyệt đối của các giai đoạn
lứa tuổi.
b. Quan niệm của các nhà TLH Mác Xít: Coi lứa tuổi là một thời kỳ phát triển
nhất định đóng kín một cách tương đối, mà ý nghĩa của nó được quyết định bởi vị
trí của thời kỳ đó trong cả quá trình phát triển chung, ở đó quy luật phát triển
chung bao giờ cũng thể hiện một cách độc đáo về chất.
- Khi chuyển từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác bao giờ cũng xuất hiện
những cấu tạo tâm lý mới chưa từng có trong thời kỳ trước. Những cấu tạo mới
này cải tổ lại và làm biến đổi chính tiến trình phát triển.
- Mỗi giai đoạn được quyết định bởi một tổ hợp những điều kiện:
+ Điều kiện sống
+ Hoạt động
+ Hệ thống yêu cầu đề ra cho trẻ trong giai đoạn đó



+ Đặt điểm của sự phát triển cơ thể trẻ ở giai đoạn đó.
- Những đặc điểm lứa tuổi là đặc điểm chung, đặc trưng điển hình nhất, chỉ
ra phương hướng phát triển chung. Nhưng lứa tuổi không phải là một phạm trù
tuyệt đối, bất biến. Giai đoạn lứa tuổi chỉ có ý nghĩa tương đối.
- Tuổi chỉ có ý nghĩa như là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của
trẻ. Trẻ cần thời gian để chuẩn bị về mọi mặt để chuyển sang một giai đoạn phát
triển mới (lớn về cơ thể, mở rộng được quan hệ, tích lũy tri thức, phương thức
hành động...). Tuổi không quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Tuổi có thể
phù hợp với trình độ phát triển tâm lý của trẻ, hoặc có thể nhanh hơn hay chậm
hơn là do ta có biết vận dụng thời gian và điều kiện giáo dục để tổ chức cuộc sống
của trẻ.
2. Phân chia giai đoạn phát triển tâm lý trẻ em
Căn cứ vào những thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt động của
trẻ, căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý của trẻ, vào sự trưởng thành
của cơ thể trẻ em. Người ta chia ra một số thời kỳ chủ yếu trong sự phát triển tâm
lý trẻ em:
- Giai đoạn tuổi đi học:
+ Thời kỳ tuổi sơ sinh

: 0 - 2 tháng tuổi

+ Thời kỳ tuổi hài nhi

: 2 - 12 tháng tuổi

+ Thời kỳ tuổi vườn trẻ

: 1 - 3 tuổi

+ Thời kỳ tuổi mẫu giáo


: 3 - 6 tuổi

- Giai đoạn tuổi học sinh:
+ Thời kỳ tuổi học sinh tuổi học

: 6 - 11,12 tuổi

+ Thời kỳ tuổi học sinh trung học cơ sở

: 12 - 15 tuổi

+ Thời kỳ tuồi học sinh trung học phổ thông

: 15 - 18 tuổi

* Mỗi thời kỳ có một vị trí, vai trò nhất định trong quá trình chuyển từ đứa
trẻ mới sinh ra sang một nhân cách trưởng thành. Mỗi thời kỳ phát triển có những
nét tâm lý đặc trưng của nó. Sự chuyển biến từ thời kỳ này sang thời kỳ khác bao
giờ cũng gắn với sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới về chất.
CÂU HỎI
1. Phân tích đối tượng, nhiệm vụ của TLH lứa tuổi và TLH sư phạm


2. Ý nghĩa của TLH lứa tuổi và TLH sư phạm trong công tác giảng dạy học và
giáo dục.
3. Phân tích quy luật chung về sự phát triển tâm lý trẻ em
4. . Phân tích mối quan hệ giữa dạy học và sự phát triển tâm lý
5. . Phân tích sự phân chia các giai đoạn sự phát triển tâm lý trẻ em



CHƯƠNG 2 : TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI HỌC SINH THCS

I. VỊ TRÍ Ý NGHĨA CỦA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ Ở LỨA
TUỔI HỌC SINH THCS
- Lứa tuổi lứa tuổi học sinh THCS còn gọi là lứa tuổi thiếu niên bao gồm
những em có độ tuổi từ 11, 12 đến 14, 15 tuổi. Đó là những em đang theo học từ
lớp 6 đến 9 ở trường THCS.
- Lứa tuổi này là một thời kỳ quan trọng trong cuộc đời của một con người,
một mức phát triển đòi hỏi phải được đặt biệt quan tâm.
- Học sinh THCS có một vị trí đặc biệt trong thời kỳ phát triển của trẻ
em.Vị trí đặc biệt này được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau của nó như:
"thời kỳ quá độ", "tuổi khó bảo", "tuổi khủng hoảng"...chính những tên gọi này đã
trong quá trình phát triển của trẻ em.
- Học sinh THCS là thời kỳ chuyển từ tuổi ấu thơ sang tuổi trưởng thành,
nó "vừa mang tính trẻ con, vừa mang tính người lớn".
II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TUỔI HỌC SINH
THCS
Bước sang lứa tuổi học sinh THCS, các em có những biến đổi đột ngột,
mạnh mẽ, rõ rệt về cấu tạo cơ thể và những chức năng sinh lý cũng như tâm lý,
nhân cách.
1. Sự biến đổi về mặt giải phẫu sinh lý lứa tuổi học sinh THCS:
- Đây là lứa tuổi phát triển mạnh nhưng không đồng đều về mặt cơ thể.
Tầm vóc vác em lớn trông thấy, chiều cao tăng nhanh, trung bình một năm các em
tăng từ 5 - 6 cm. Về trọng lượng cơ thể tăng nhanh, trung bình mỗi năm từ 2,5 - 6
kg. Điều này đã làm cho các em nảy sinh cảm giác mình là người lớn.
- Hệ xương của em phát triển mạnh, nhất là xương chân, tay phát triển rất
nhanh, xương ngón chân, ngón tay phát triển rất chậm. Vì vậy các em ở lứa tuổi
này thương cao, gầy thiếu cân đối, các em có vẻ lóng ngóng vụng về khi làm việc.
Các em đã ý thức được điều này và rất khó chịu về điều đó, do đó người lớn không

nên chế giễu,mỉa mai về hình thể, không chê bai về sự vụng về của các em, nếu
không các em sẽ phản ứng gay gắt.
- Sự phát triển của hệ tim mạch không cân đối, thể tích của tim tăng nhanh,
hoạt động của tim mạnh mẽ hơn, nhưng kích thước của mạch máu lại phát triển
chậm. Do đó có một số rối loạn của hệ tuần hoàn, tăng huyết áp, tim đập nhanh,
gây nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi khi làm việc.


- Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng)
thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần kinh, hưng phấn mạnh hơn ức chế.
Do đó các em dễ xúc động, dễ bực tức, dễ nổi khùng.
- Lứa tuổi học sinh THCS còn gọi là lứa tuổi dạy thì đó là thời kỳ phát dục,
sự phát dục ở lứa tuổi này là một hiện tượng sinh lý bình thường. Đây là một yếu
tố quan trọng có ảnh hưởng tới sự phát triển tâm lý và nhân cách của học sinh
THCS.
Vậy sự thay đổi về thể chất của lứa tuổi học sinh THCS đã làm cho các em
có những đặc điểm tâm lý, nhân cách thay đổi về chất so với lứa tuổi trước. Các
nhà giáo dục cần phải nắm được những đặc điểm này để giúp cho công tác dạy
học, giáo dục có hiệu quả, tránh có những định kiến đối với các em.
2. Sự thay đổi điều kiện của lứa tuổi học sinh THCS:
a. Đời sống gia đình của học sinh THCS:
Khi bước sang tuổi thiếu niên thì vị trí của các em trong gia đình đã được
thay đổi, được gia đình thừa nhận như là một thành viên tích cực. Các em đã được
gia đình giao cho một số công việc, nhiệm vụ quan trọng trong gia đình như đi
chợ, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, chăn nuôi gia súc...Có những em còn có thể tham
gia lao động để có thêm thu nhập cho gia đình. Các em đã ý thức được điều này và
tham gia tích cực.
Đặc biệt một số em ở lứa tuổi này được tham gia bàn bạc một số công việc
quan trọng của gia đình. Điều này đã động viên, kích thích các em hoạt động tích
cực, độc lập, tự chủ.

b. Đời sống trong nhà trường của học sinh THCS
Hoạt động học tập của học sinh THCS có nhiều thay đổi. Do đó đã ảnh
hưởng mạnh mẽ đến việc hình thành những đặc điểm tâm lý của các em.
* Sự thay đổi về nội dung dạy học: Khi bước vào nhà trường THCS các em
đã được tiếp xúc với nhiều môn học khác nhau, mỗi môn bao gồm một hệ thống tri
thức với những khái niệm trừu tượng, khái quát, nội dung phong phú, sâu sắc. Do
đó các em phải thay đổi cách học mới hiểu được tri thức đó. Khối lượng tri thức
các em lĩnh hội được tăng lên vì vậy tầm hiểu biết của các em được mở rộng.
* Sự thay đổi về phương pháp và hình thức dạy học: khi bước vào nhà
trường THCS các em được học nhiều môn, thầy cô giảng dạy, mỗi môn học có
phương pháp phù hợp riêng, mỗi thầy, cô giáo có phương pháp dạy độc đáo và sử
dụng các hình thức dạy học khác nhau. Điều này đã ảnh hưởng đến việc lĩnh hội
tri thức, đến sự phát triển trí tuệ và nhân cách của các em.


Như vậy môi trường sống và hoạt động của các em ở nhà trường THCS đã
có nhiều thay đổi so với lứa tuổi trước đó là điều kiện rất quan trọng làm cho hoạt
động nhận thức và nhân cách của học sinh THCS có sự thay đổi về chất.
c. Đời sống của học sinh trong xã hội.
Ở lứa tuổi này các em đã được xã hội thừa nhận như một thành viên tích cực và
được giao một số công việc xã hội nhất định như tuyên truyền, cổ động...
Các em ở lứa tuổi này rất thích tham gia công tác xã hội vì:
+ Các em đã có sức lực, có hiểu biết nhiều, muốn được mọi người thừa
nhận mình là người lớn, muốn làm những công việc được mọi người biết đến, nhất
là những công việc làm cùng với người lớn.
+ Các em cho rằng công tác xã hội là công tác của người lớn. Do đó làm
công tác xã hội là thể hiện mình đã là người lớn, đó là một nhu cầu của các em, vì
thế nhiều em đã bỏ cả việc nhà, bỏ cả học tập để tham gia hoạt động xã hội.
+ Hoạt động xã hội là hoạt động có tính chất tập thể, các em rất thích làm
những công việc có tính chất tập thể.

Nhờ tham gia hoạt động xã hội mà mối quan hệ của học sinh THCS được
mở rộng, các em được tiếp xúc với nhiều người, nhiều vấn đề của xã hội. Vì vậy
mà tầm hiểu biết của các em được mở rộng, kinh nghiệm sống phong phú và nhân
cách của các em được hình thành và phát triển.
Tóm lại: Sự thay đổi điều kiện sống, hoạt động của các em trong gia đình,
nhà trường, xã hội mà vị trí của các em được nâng lên, các em đã ý thức được điều
đó và rất tích cực hoạt động cho phù hợp. Nhờ đó mà đặc điểm tâm lý, nhân cách
của học sinh THCS được hình thành và phát triển phong phú.
III. HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ
1. Đặc điểm hoạt động ở nhà trường THCS
Hoạt động học tập ở lứa tuổi học sinh THCS có sự thay đổi cơ bản so với
lứa tuổi học sinh tiểu học.
Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng:
+ Ở thời kỳ đầu của lứa tuổi học sinh THCS chưa có kỹ năng cơ bản để tổ
chức tự học (các em chỉ học những bài được giao), sau đó chuyển sang mức độ
cao hơn (độc lập nắm vững tài liệu mới, tri thức mới).
+Ở lứa tuổi này bắt đầu hình thành mức độ hoạt động học tập cao nhất.


+ Động cơ học tập của học sinh THCS rất phong phú đa dạng nhưng chưa
bền vững, nhiều khi còn thể hiện sự mâu thuẩn.
+ Thái độ học tập của học sinh THCS cũng rất khác nhau, nhìn chung tất cả
các em đều ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của học tập, nhưng thái độ
biểu hiện rất khác nhau. Sự khác nhau đó được thể hiện như sau:
- Trong thái độ học tập: Từ thái độ tích cực, có trách nhiệm đến thái độ lười
biếng, thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong học tập.
- Trong sự hiểu biết chung: Từ mức độ phát triển cao và sự ham hiểu biết
nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau ở một số trẻ em, nhưng một số em khác thì mức
độ phát triển yếu, tầm hiểu biết hạn chế.
- Trong phương thức lĩnh hội tài liệu học tập: Từ chỗ có kỹ năng học độc

lập, có nhiều cách học đến mức chưa có kỹ năng học tập độc lập, chỉ biết học
thuộc lòng từng bài, từng câu, từng chữ.
- Trong hứng thú học tập: Từ hứng thú hiểu biết rõ rệt đối với một lĩnh vực
tri thức nào đó và có những việc làm có nội dung cho đến mức độ hoàn toàn
không có những thú nhận thức, cho việc học hoàn toàn không có những thú nhận
thức, cho việc học hoàn toàn gò ép, bắt buộc.
Vậy để giúp các em có thái độ đúng đắn với việc học tập thì phải có yêu
cầu:
+ Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học
+ Tài liệu học tập phải gắn với cuộc sống của các em làm cho các em hiểu
rõ ý nghĩa của tài liệu học tập.
+ Tài liệu phải gợi cảm, gây cho học sinh hứng thú học tập.
+ Trình bày tài liệu phải gợi cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu tài liệu đó
+ Phải giúp đỡ các em biết cách học, có phương pháp học phù hợp.
2. Sự phát triển trí tuệ của học sinh Trung học cơ sở
Do có sự thay đổi về chất hoạt động học tập của học sinh THCS mà trí tuệ
của các em phát triển hơn lứa tuổi trước.
* Về tri giác:
Các em có khả năng phân tích tổng hợp phức tạp hơn khi tri giác sự vật
hiện tượng. Khối lượng tri giác tăng lên, tri giác có kế hoạch, có trình tự hoàn
thiện hơn. Tri giác có chủ định phát triển.


* Về trí nhớ:
Trí nhớ của học sinh THCS được thay đổi về chất, trí nhớ có chủ định phát
triển. Học sinh THCS có nhiều tiến bộ trong ghi nhớ tài liệu trừu tượng. Các em
đã biết sử dụng những phương pháp đặc biệt để ghi nhớ và nhớ lại. Khi ghi nhớ
các em đã biến tiến hành các thao tác như so sánh, hệ thống hóa phân loại. Tốc độ
ghi nhớ và khối lượng tài liệu được ghi nhớ tăng lên. Ghi nhớ máy móc giảm dần,
ghi nhớ ý nghĩa ngày càng tăng.

* Về tư duy và tưởng tượng
- Các em đã có khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa phát triển cao. Do
đó các em có khả năng tiếp thu các khái niệm trừu tượng trong nội dung các môn
học, có khả năng độc lập tiến hành các thao tác tư duy, bước đầu biết vận dụng các
tri thức đã học vào thực tiễn. TD lý luận, tư duy trừu tượng của các em đang phát
triển.
- Khả năng tưởng tưởng tượng ở học sinh THCS khá phong phú, nhưng còn
bay bỗng, thiếu thực tiễn.
* Về chú ý:
- Sự phát triển chú ý của học sinh THCS diễn ra rất phức tạp. Một mặt chú
ý có chủ định bền vững được hình thành. Mặt khác sự phong phú của những ấn
tượng, sự rung động mạnh mẽ của lứa tuổi này đã dẫn đến sự chú ý không bền
vững.
- Lứa tuổi học sinh THCS khối lượng chú ý tăng lên rõ rệt, khả năng di
chuyển chú ý nhanh, chú ý của các em đã có tính lựa chọn.
Biện pháp tốt nhất để tổ chức sự chú ý của học sinh THCS là tổ chức những
giờ học gây hứng thú có tác dụng gây sự say mê, tập trung chú ý của các em. Giờ
học có nội dung hấp dẫn, có sự thay đổi phương pháp và hình thức, đòi hỏi các em
phải hoạt động nhận thức tích cực.
IV. HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP CỦA LỨA TUỔI HỌC SINH THCS
1. Đặc điểm giao tiếp của học sinh THCS với người lớn
- Học sinh THCS có nhu cầu mở rộng quan hệ với người lớn và mong
muốn người lớn quan hệ với mình một cách bình đẳng, không muốn người lớn coi
mình là trẻ em nữa.
- Kiểu quan hệ của người lớn với trẻ em trước đây không còn thích hợp với
lứa tuổi này. Vì thế các em mong muốn cải tổ quan hệ này, các em mong muốn
người lớn tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng và mở rộng tính độc lập của
các em.



- Nếu người lớn mà không chịu thay đổi quan hệ với các em thì các em sẽ
trở thành người khởi xướng thay đổi mối quan hệ này. Còn người lớn cứ duy trì
mối quan hệ người lớn trẻ con như trước đây các em sẽ phản đối gay gắt. Gây ra
xung đột giữa các em với người lớn, là nảy sinh những hành vi: Xa lánh người lớn,
không tin tưởng vào người lớn, khó chịu với những yêu cầu, những đánh giá, nhận
xét của người lớn, tác động giáo dục của người lớn đối với các em giảm.
- Để giải quyết mâu thuẩn đó, xung đột với các em thì người lớn và các em
xây dựng được mối quan bạn bè, hoặc mối quan hệ hợp tác trên cơ sở tôn trọng,
tin tưởng giúp đỡ lẫn nhau. Sự hợp tác này người lớn đặt các em vào vị trí mới, vị
trí của người bạn trong công việc, người lớn trở thành người mẫu mực, người bạn
tin cậy của các em.
2. Đặc điểm giao tiếp của học sinh THCS với bạn bè
Bước sang lứa tuổi học sinh THCS, các em có nhu cầu giao tiếp với bạn bè
mạnh mẽ, mối quan hệ của các em với bạn bè cùng lứa tuổi phức tạp đa dạng hơn
nhiều so với học sinh tiểu học, các em đã có mối quan hệ mới trong đời sống của
các em.
- Các em có nhu cầu rất lớn trong giao tiếp với bạn bè vì các em khao khát
được giao tiếp và cùng hoạt động chung với nhau, có nguyện vọng được sống
trong tập thể để có những đồng chí, bạn bè thân thiết tin cậy, được bạn bè tôn
trọng, công nhận và thừa nhận mình.
- Học sinh THCS coi quan hệ bạn bè cùng tuổi là quan hệ riêng của cá
nhân, các em cho rằng mình có quyền hành động độc lập trong quan hệ này và bảo
vệ quyền đó của mình. Nếu có sự can thiệp thô bạo của người lớn thì sẽ làm cho
các em cảm thấy bị xúc phạm, các em sẽ chống đối gay gắt.
- Sự bất hòa trong quan hệ bạn bè, sự thiếu thốn bạn thân, tình bạn bị phá
vở thì các em có cảm xúc nặng nề như bi kịch, hình phạt nặng nề nhất đối với lứa
tuổi này là bị bạn bè tẩy chay.
- Các em có những yêu cầu, những chuẩn mực nhất dịnh khi kết bạn đó là
sự tôn trọng lẫn nhau, quan hệ bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau. Các em thích giao tiếp
và kết bạn với nhau, nhưng không phải mọi em ở trong lớp đều được các em yêu

cầu thích giao tiếp như nhau mà các em chỉ kết bạn với những em được mọi người
tôn trọng, có uy tín và tiến bộ về mặt nào đó.
- Học sinh THCS muốn có bạn thân để trò chuyện, kể cho nhau nghe những
điều bí mật, điều này các em không kể cho người thân trong gia đình. Các em cho
rằng đã là bạn của nhau thì phải cởi mở, hiểu nhau, tế nhị, vị tha, đồng cảm và giữ
bí mật cho nhau.


- Lý tưởng tình bạn ở lứa tuổi này là "Sống chết có nhau", "chia bùi, sẻ
ngọt" tuân theo bộ luật tình bạn.
Tóm lại: Sự giao tiếp ở lứa tuổi này là hoạt động đặc biệt. Nhờ hoạt động
giao tiếp các em nhận thức được người khác nhận thức được bản thân mình. Đồng
thời qua đó làm phát triển một số kỹ năng so sánh, phân tích, khái quát hành vi của
bản thân của bạn làm phong phú thêm những biểu tượng về nhân cách của bạn,
của bản thân. Đó chính là ý nghĩa to lớn của giao tiếp ở lứa tuổi này đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách. Vì vậy nhà giáo dục phải tạo điều kiện để các
em giao tiếp với nhau, đồng thời hướng dẫn, kiểm tra mối quan hệ của các em,
tránh tình trạng ngăn cấm và hạn chế giao tiếp ở lứa tuổi này.
3. Đặc điểm tình bạn khác giới ở lứa tuổi học sinh THCS
- Do sự phát dục bắt đầu, sự phát triển sinh lý của thiếu niên bắt đầu mang
sắc thái giới tính. Các em đã ý thức về bản thân mình phát triển mạnh mẽ, do đó
các em đã nhanh chóng nhận thức được đặc điểm giới tính của mình. Từ đó các
em tỏ thái độ khác với bạn khác giới.
- Thiếu niên đã bắt đầu quan tâm đến bạn khác giới được thể hiện: Các em
quan tâm đến vẻ ngoài của mình hơn quan tâm lẫn nhau và ưa thích nhau, làm
dáng hơn và cảm thấy ngại khi tiếp xúc với bạn khác giới.
- Sự quan tâm của bạn khác giới của thiếu niên còn mang tính trẻ con. Các
em trai thì thể hiện thái độ này tự nhiên hơn, hơi thô bạo như giật bím tóc, giấu
cặp sách, giấu dép…Còn các em nữ tỏ ra tế nhị, kín đáo hơn như ngại ngùng khi
tiếp xúc với bạn trai, các em thường tìm cách che giấu những rung cảm của mình

trước những bạn trai bằng cách cố ý tỏ ra thờ ơ, lãnh đạm, chỉ để ý đến công việc,
hoặc chỉ để ý đến những bạn gái của mình. Tuy biểu hiện hành vi bề ngoài khác
nhau, có vẻ đối lập nhưng chứa ẩn một hiện tượng tâm lý giống nhau là điều quan
tâm đến bạn khác giới.
- Một số em ở các lớp 8 - 9 (Đặc biệt là các em gái) đã quan tâm đến vấn đề
tình yêu (Còn bí mật) chỉ kể cho bạn thân nghe.
- Sự xuất hiện tình cảm khác giới có ý nghĩa rất lớn đến sự hình thành và
phát triển nhân cách của các em. Tình bạn thân thiết hồn nhiên, lành mạnh đã động
viên nhau, gợi cho nhau, kích thích nhau làm điều tốt như một động lực từ hoàn
thiện bản thân mỗi em. Các em gái thì biết tế nhị hơn. Khéo léo hơn, còn các em
trai thì nhanh nhẹn, tháo vát hơn biết giúp đỡ các bạn gái trong công việc.
Tuy nhiên trong quan hệ nam nữ ở lứa tuổi này còn có những sai lệch,
nhiều khi các em quan niệm về bạn khác giới không đúng ảnh hưởng đến việc học
tập. Vì vậy nhà giáo dục cần phải hiểu được điều này để uốn nắn, tổ chức các hoạt


động để lôi kéo các em và tạo ra cái mà chúng ta gọi là "Chuyển hướng trọng tâm
tình cảm". Tuyệt đối không dùng bạo lực, ắp đặt.
V. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA HỌC SINH THCS
1. Sự hình thành tự ý thức của học sinh THCS.
Khi bước sang tuổi học sinh THCS, các em ý thức về bản thân mình phát
triển mạnh. Do thấy cơ thể mình lớn vổng, đồng thời trong học tập, lao động trong
gia đình, nhà trường và xã hội, các em thấy vị trí của mình quan trọng hơn trước.
Các em có tâm lý cảm thấy mình đã lớn khôn, không còn trẻ con nữa.
- Các em đã ý thức về bản thân mình phát triển mạnh mẽ được biểu hiện:
Các em bắt đầu quan tâm hơn đến bản thân, đến những phẩm chất nhân cách của
mình như các em có nhu cầu tự đánh giá, tự so sánh mình với người khác, muốn
biết mình có những mặt mạnh, mặt yếu nào.
Sự hình thành và phát triển tự ý thức đã gây nhiều ấn tượng sâu sắc đến
toàn bộ đời sống tâm lý của thiếu niên.

- Sự tự ý thức của lứa tuổi này được bắt đầu từ sự tự nhận thức hành vi của
mình, lúc đầu các em tự nhận thức những hành vi riêng lẻ, sau đó là toàn bộ hành
vi của mình. Cuối cùng là các em nhận thức về những phẩm chất đạo đức, tính
cách và khả năng của mình.
- Sự hình thành tự ý thức của các em là một quá trình diễn ra dần dần. Cơ
sở đầu tiên của sự tự ý thức của các em là sự nhận xét đánh giá của người khác,
nhất là người lớn.
- Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra: Không phải toàn bộ những nét tính
cách được các em ý thức được cùng một lúc mà biểu hiện như sau:
+ Những phẩm chất được các em ý thức trước là những phẩm chất có liên
quan đến nhiệm vụ học tập như tính kiên trì, sự chú ý, sự chuyên cần…
+ Tiếp theo là thái độ đối với người khác: tình bạn, tính vị tha, tính khiêm
tốn, tính tự cao, tự phê bình…
+ Cuối cùng là những nét tính cách tổng hợp thể hiện nhiều mặt của nhân
cách: Tình cảm trách nhiệm, lòng tự trọng, danh dự, tính nguyên tắc, tính mục
đích…
Vậy để phát triển tự ý thức ở lứa tuổi này là đưa các em vào cuộc sống tập
thể, nơi mà nhiều mối quan hệ giá trị đúng đắn. Qua đi hình thành ở các em lòng
tự tin sự tự đánh giá mình, những yêu cầu ngày càng cao đối với hành vi, hoạt
động của các em, nguyện vọng tìm kiếm một vị trí trong hệ thống những mối quan
hệ xã hội đúng đắn đối với các em.


2. Sự hình thành tình cảm ở lứa tuổi học sinh THCS
Tình cảm của học sinh THCS sâu sắc và phức tạp hơn học sinh tiểu học:
- Tình cảm của học sinh THCS có đặc điểm là dễ xúc động dễ bị kích động,
vui buồn chuyển hóa dễ dàng, có tính chất bồng bột (do ảnh hưởng của sự phát
dục và sự thay đổi một số cơ quan nội tạng).
- Do hoạt động thần kinh không cân bằng (hưng phấn mạnh hơn ức chế), do
đó khi tham gia lao động, vui chơi, học tập…các em thể hiện tình cảm rất mạnh

mẽ, xúc cảm của các em rất đa dạng, khi hồi hộp cảm động khi vui tươi, khi ồn ào.
- Tâm trạng của các em thay đổi dễ dàng: Khi vui chơi quá trớn, khi buồn ủ
rủ, lúc thì quá say lúc thì quá chán nản. Tình cảm của các em thay đổi dễ dàng,
nhiều lúc tình cảm của các em còn mâu thuẩn.
Tóm lại: Ở lứa tuổi học sinh THCS tình cảm đã được hình thành và phát
triển phong phú, sâu sắc hơn học sinh tiểu học. Tình cảm mang tính bồng bột, sôi
nổi dần dần giảm đi, tình cảm có ý thức đang phát triển. Đây là lứa tuổi đang phát
triển mạnh mẽ tình cảm đạo đức, tình cảm bạn bè, tình đồng chí và tập thể.
Câu hỏi
1/ Nêu vị trí ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm lý ở lứa tuổi học sinh THCS?
2/ Nêu những điều kiện phát triển tâm lý ở lứa tuổi học sinh THCS?
3/ Trí tuệ của học sinh THCS phát triển như thế nào?
4/ Tình cảm của học sinh THCS phát triển như thế nào?
5/ Phân tích đặc điểm của hoạt động giao tiếp của lứa tuổi học sinh THCS. Từ đó
rút ra kết luận sư phạm cần thiết?
6/ Nhân cách của học sinh THCS phát triển như thế nào?
Câu hỏi thảo luận
Dựa vào những đặc điểm thể chất và tâm lý của lứa tuổi học sinh THCS, anh (chị)
hãy chứng minh lứa tuổi học sinh THCS là thời kỳ chuyển từ trẻ con sang người
lớn.


CHƯƠNG 3: TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI HỌC SINH THPT

1. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý học sinh THPT
1.1. Khái niệm tuổi thanh niên:
* TLH lứa tuổi đinh nghĩa tuổi thanh niên là giai đoạn phát triển bắt đầu từ
lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn.
Qua định nghĩa cho thấy tính phức tạp và nhiều mặt của thanh niên
- Tâm lý học Macsxit cho rằng cần phải nghiên cứu tuổi thanh niên một

cách phức hợp, kết hợp quan điểm TLH xã hội với việc tính đến những quy luật
bên trong của sự phát triển. Đó là một vấn đề phức tạp và khó khăn vì không phải
lức nào nhịp điệu và các giai đoạn của sự phát triển tâm, sinh lý cũng trùng với các
thời hạn trưởng thành về mặt xã hội.
- Các nhà sinh lý học phân chia quá trình thanh niên làm 3 giai đoạn: Giai
đoạn trước dậy thì, dậy thì và sau dậy thì. 2 giai đoạn đầu gắn với tuổi thiếu niên
còn giai đoạn sau gắn với lứa tuổi thanh niên học sinh.
- Tính phức tạp của lứa tuổi thanh nien do một số yếu tố
+ Sự phát triển sớm về thể chất
+ Sự học tập phát triển về trí tuệ, nhưng lại chậm phát triển về mặt xã hội.
Do đó mà có sự kéo dài của thời kỳ tuổi thanh niên và tính không xác định của các
giới hạn lứa tuổi.
Từ việc phân tích trên cho thấy tuổi thanh niên là một hiện tượng tâm lý xã
hội.
1.2. Đặc điểm cơ thể của tuổi thanh niên học sinh
Khi bước sang tuổi thanh niên đạt được sự trưởng thành về mặt vóc
- Tuổi thanh niên bắt đầu thời kỳ phát triển êm ả về sinh lý
- Nhịp độ tăng trưởng chiều cao và trọng lượng chậm lại
- Hệ thần kinh phát triển đạt mức gần như người lớn (về cấu trúc tế bào, số
lượng dây thần kinh)
- Đa số các em ở lứa tuổi này đã qua tuổi dạy thì


Nhìn chung đây là lứa tuổi có cơ thể phát triển cân đối, khỏe, đẹp.
1.3. Điều kiện của sự phát triển tâm lý
Hoạt động của thanh niên ngày càng phong phú và phức tạp ảnh hưởng đến
sự phát triển tâm lý.
a. Vị trí của học sinh THPT trong gia đình có sự thay đổi
Các em đã được tham gia bàn bạc nhiều vấn đề quan trọng trong gia đình,
các em đã biết quan tâm đến nhiều mặt trong gia đình. Một số em đã phải cáng

đáng, gánh vác nhiều việc lớn trong gia đình như nội trợ chăm sóc em nhỏ, tham
gia lao động sản xuất để tăng thêm thu nhập cho gia đình.
b. Trong xã hội vị trí của học sinh THPT có sự thay đổi lớn
- Các em đủ tuổi gia nhập đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Trong tổ
chức Đoàn các em có thể tham gia công tác tập thể, công tác xã hội một cách độc
lập hơn và có trách nhiệm hơn.
- Khi 18 tuổi các em có quyền bầu cử
- Ngoài ra các em có thể tham gia một số công việc xã hội như công tác văn
hóa xã hội, xóa mù chữ, làm từ thiện.
Tuy nhiên học sinh THPT còn phụ thuộc vào người lớn, người lớn quyết
định nội dung và xu hướng chính hoạt động của các em. Các em vẫn đến trường
học tập dưới sự lãnh đạo của người lớn, phụ thuộc vào cha mẹ về vật chất.
Người lớn phải tìm cách tạo điều kiện cho việc xây dựng một phương thức
sống mới phù hợp với mức độ phát triển chung của thanh niên bằng cách khuyến
khích hành động có ý thức trách nhiệm của thanh niên và khuyến khích sự giáo
dục lẫn nhau trong tập thể thanh niên.
2. Hoạt động học tập và sự phát triển trí tuệ của học sinh THPT
2.1. Đặc điểm hoạt động của học tập
- Nội dung và tính chất của hoạt động học tập ở thanh niên học sinh khác xa
so với hoạt động học tập của thiếu niên
Hoạt động học tập của thanh niên đòi hỏi tính năng động sáng tạo và tính
độc lập ở mức độ cao hơn, đòi hỏi tư duy lý luận phát triển.
- Thái độ có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát triển, thái độ
của các em đối với môi học có tính lựa chọn hơn. Các em có hứng thú học tập gắn
liền với khuyn hướng nghề nghiệp. Các em đã hứng thú với những môn học nhất


định liên quan đến nghề mình chọn. Nhìn chung hứng thú của học sinh THPT
mang tính chất rộng rãi, sâu sắc và bền vững.
- Động cơ học tập của các em, quan trọng nhất là động cơ thực tiễn. Đặc

biệt các em rất tích cực học một số môn quan trọng, liên quan đến nghề mình
chọn, có những môn khóa các em chỉ học lấy mức trung bình. Vì vậy giáo viên
cần giúp các em hiểu được ý nghĩa và chức năng của giáo dục phổ thông đối với
mỗi một giáo dục chuyên ngành.
2.2. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ của học sinh THPT
* Đối với cảm giác, tri giác
- Cảm giác của học sinh THPT đã đạt đến mức hoàn thiện
- Tri giác: có tính mục đích, tính toàn vẹn, tính lựa chọn của tri giác đã phát
triển mạnh mẽ vì kinh nghiệm của các em đã phong phú. Các em đã phân biệt rõ
ràng cái chính, cái phụ, cái bản chất và không bản chất.
* Về trí nhớ
- Ghi nhớ có chủ định tăng lên rõ rệt nhờ sự phát triển của chú ý có chủ
định
- Trí nhớ có ý nghĩa chiếm ưu thế so với trí nhớ máy móc
- Tuy nhiên các em còn có những khuyết điểm, thiếu sót thường mắc phải
như ghi nhớ đại khái, xem thường ghi nhớ máy móc.
* Về tư duy
Học sinh THPT chủ yếu là tư duy trừu tượng. Do đó các em đòi hỏi phải
luận chứng được ý kiến của mình và đòi hỏi người khác phải có luận chứng vững
vàng khi đề xuất ý kiến. Tuy nhiên đôi khi các em còn đưa ra kết luận vội vàng,
hấp tấp, cảm tính.
3. Những đặc điểm nhân cách chủ yếu
3.1. Sự phát triển tự ý thức
Sự tự ý thức có cấu trúc phức tạp bao gồm
- Ý thức về tính đồng nhất (phân biệt được nguồn gốc nảy sinh cảm giác)
- Ý thức về cái tôi
- Ý thức về phẩm chất tâm lý
- Hệ thống những ý kiến đánh giá về đạo đức xã hội



a. Hình ảnh về thân thể mình
Đây là một thành tố quan trọng của sự tự ý thức của thanh niên mới lớn
Ngay ở lứa tuổi học sinh THCS, các em đã bắt đầu nảy sinh ý thức về bản
thân mình (Về hình ảnh của thân thể mình) và tiếp tục phát triển ở học sinh THPT.
Khi xem xét sự thay đổi về cơ thể mình. Nhiều em chậm lớn cảm thấy khổ
tâm, sự chậm xuất hiện những dấu hiệu giới tính làm các em đó nảy sinh tự ti.
b. Tự ý thức và tự đánh giá về phẩm chất cá nhân
Thanh niên khao khát muốn biết mình là người như thế nào, xứng đáng với
cái gì, có năng lực gì? Điều này khiến các em quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm
lý, phẩm chất nhân cách và năng lực riêng.
- Đặc điểm quan trọng trong sự tự ý thức của thanh niên là xuất phát từ yêu
cầu cuộc sống và hoạt động địa vị mới trong tập thể, những quan hệ mới với thế
giới xung quanh làm cho thanh niên phải chú ý đến nhân cách của mình. Các em
hay ghi nhật ký, so sánh mình với nhân vật được coi là tấm gương.
- Nội dung của tự ý thức cũng khá phức tạp, các em không chỉ nhận thức về
cái tôi trong hiện tại mà còn nhận thức cái tôi trong tương lai.
- Thanh niên không chỉ đánh giá những hành vi, cử chỉ riêng lẻ, tùy thuộc
tính riêng biệt, mà biết đánh giá nhân cách mình.
- Thanh niên không chỉ có nhu cầu đánh giá, mà còn có khả năng đánh giá
sâu sắc và tốt về những phẩm chất, những mặt mạnh, mặt yếu của người khác và
của chính mình.
Tuy nhiên thanh niên còn có những sai lầm khi tự đánh giá, nhưng vấn đề
cơ bản là tự phân tích có mục đích là một dấu hiệu cần thiết của một nhân cách
đang trưởng thành và là tiêu đề của sự tự giáo dục. Do vậy chúng ta có thái độ
nghiêm túc khi nghe các em phát triển, không được chế diễu ý kiến đánh giá của
họ mà cần phải giúp đỡ thanh niên một cách khéo léo để họ hình thành được một
biểu tượng khách quan về nhân cách của mình.
3.2. Sự hình thành thế giới quan
Tuổi thanh niên mới lớn là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế giới
quan. Đó là hệ thống quan điểm về xã hội, tự nhiên, các nguyên tắc và quy tắc cư

xử.
- Cơ sở của thế giới quan được hình thành dần dần từ rất sớm, hình thành
trong suốt thời gian học tập ở phổ thông. Nhưng đến giai đoạn học sinh THPT
nhân cách đã được phát triển cao thì các em mới xuất hiện những nhu cầu đưa ra


những tiêu chuẩn nguyên tắc hành vi đó vào một hệ thống hoàn chỉnh, khi các em
có được hệ thống quan điểm riêng thì em không chỉ hiểu về thế giới khách quan
mà còn đánh giá được nó.
- Sự hình thành thế giới qua là rất chủ yếu trong sư phát triển tâm lý của
thanh niên.
- Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan là sự phát triển hứng thú
nhận thức. Các em đã cố gắng xây dựng quan điểm riêng trong lĩnh vực khoa học,
đối với các vấn đề xã hội, tư tưởng, chính trị, đạo đức.
- Các em còn quan tâm nhiều đến các vấn đề có liên quan đến con người,
vai trò của con người trong lịch sử.
Tuy nhiên một bộ phận thanh niên chưa được giáo dục đầy đủ về thế giới
quan. Thế giới quan của họ còn chịu ảnh hưởng của tâm tư tiêu cực của quá khứ
(Say mê những tác phẩm nghệ thuật không lành mạnh…)
3.3. Giao tiếp với đời sống tình cảm của học sinh THPT
a. Giao tiếp trong nhóm bạn
- Tuổi thanh niên mới lớn là tuổi mang tính chất tập thể cao nhất: Điều này
có ý nghĩa quan trọng là các em được sinh hoạt với các bạn cùng tuổi, cảm thấy
mình cần cho nhóm, có uy tín có vị trí nhất định trong nhóm.
- Ở lứa tuổi này quan hệ với bạn bè chiếm vị trí quan trọng hơn hẳn so với
người lớn tuổi hoặc ít tuổi hơn.
Vì vậy trong công tác giáo dục cần quan tâm đến ảnh hưởng của nhóm bạn
tự phát bằng cách: Một mặt tôn trọng mối quan hệ của các em, mặt khác tổ chức
các hoạt động tập thể để lôi cuốn các em vào hoạt động.
b. Đời sống tình cảm

Đời sống tình cảm của thanh niên mới lớn rất phong phú và nhiều vẻ. Đặc
điểm này được thể hiện rõ nhất trong tình bạn của các em.
- Thanh niên mới lớn nhu cầu về tình bạn tâm tình cá nhân được tăng lên rõ
rệt. Tình bạn sâu sắc đã được bắt đầu từ tuổi thiếu niên sang lứa tuổi thanh niên
tình bạn của các em sâu sắc hơn nhiều. Các em có yêu cầu cao về tình bạn, tình
bạn bền vững, tình bạn mang tính cảm xúc cao.
- Tình bạn khác giới phát triển mạnh. Các em xuất hiện nhu cầu về tình yêu
chân chính và đã nẩy nở mối tình đầu.
* Đặc điểm của mối tình đầu


Tình yêu của thanh niên mới lớn tạo ra nhiều cảm xúc: Căng thẳng vì còn
thiếu kinh nghiệm, lo lắng vì sợ bị từ chối, cảm giác sung sướng khi được đáp lại
tình yêu thương. Tình yêu ở thanh niên mới lớn cơ bản là tình cảm lành mạnh,
trong trắng.
* Người lớn không nên can thiệp một cách thô bạo vào thế giới tình cảm
thiêng liêng này, cần phải có thái độ trân trọng và tế nhị, đồng thời cũng không
được thờ ơ, mà phải hướng tình yêu của các em, làm tăng nghị lực phấn đấu của
các em trong học tập, lao động và cố gắng hạn chế những tính cách xấu của mình
làm hoàn thiện nhân cách cho các em.
4. Hoạt động lao động , sự lựa chọn nghề nghiệp
- Lao động tập thể có vai trò to lớn trong sự hình thành nhân cách của thanh
niên mới lớn. Hoạt động lao động được tổ chức đúng đắn sẽ giúp các em hình
thành tinh thần tập thể, lòng yêu lao động, tôn trọng lao động, người lao động và
thành quả lao động. Đặc biệt làm cho các em có nhu cầu lao động.
- Việc lựa chọn nghề nghiệp là vấn đề cần thiết cấp bách của học sinh mới
lớn. Các em đã quan tâm đến việc lựa chọn nghề cho mình. Nhiều em đã biết căn
cứ vào sức khỏe tâm lý, năng lực của mình để chọn nghề phù hợp.
- Hiện nay đa số thanh niên muốn vào trường đại học hơn là trường dạy
nghề. Vì vậy cha mẹ, nhà trường, thầy cô giáo cần phải hướng nghiệp cho các em

để giúp các em nhận thức rõ về yêu cầu của mỗi nghề đối chiếu với nhu cầu, năng
lực của mình để các em có cách chọn nghề đúng đắn, phù hợp hơn.
5. Một số vấn đề giáo dục lứa tuổi học sinh THPT
- Để giáo dục thanh niên mới lớn trước hết người lớn cần chú ý xây dựng
mối quan hệ tốt giữa thanh niên và người lớn. Đó là mối quan hệ bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau, người lớn thực sự tin tưởng vào thanh niên tạo điều kiện để họ
được thỏa mãn tính tích cực, độc lập trong hoạt động tạo điều kiện nâng cao tinh
thần trách nhiệm của thanh niên.
Người lớn cần giúp đỡ tổ chức Đoàn một cách khéo léo tế nhị để hoạt động
của Đoàn được phong phú hấp dẫn, độc lập. Người lớn không được quyết định
thay, làm thay, nếu làm như vậy các em sẽ mất hết hứng thú và cảm thấy phiền toái
khi có người lớn bên cạnh. Thái độ đỡ đầu quá cặn kẽ của người lớn sẽ củng cố ở
thanh niên tính trẻ con, làm cho các em thờ ơ, vô trách nhiệm, các em sẽ rụt rè,
không dám quyết định không dám nhận trách nhiệm về mình.
Người lớn cần tổ chức các hoạt động chung để lôi cuốn các em vào, kích
thích được tinh thần trách nhiệm của các em kích thích các em giáo dục lẫn nhau
và tự giáo dục.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×