Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Hoàn Thiện công tác tổ chức sự kiện Festival Biển Nha Trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.06 KB, 52 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian từ khi em bước vào học tập tại giảng đường Đại Học đến nay,
em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm và giúp đỡ của thầy cô, gia đình và bạn bè. Với
lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cố trường Đại
học Tài Chính-Marketing nói chung và quý thầy cô khoa Du Lịch nói riêng, đã truyền
đạt lại vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập và rèn luyện
tại trường.
Và đặc biệt, trong học kì này, khoa Du Lịch đã tạo điều kiện, giúp đỡ, hỗ trợ sinh
viên chúng em tham gia vào chuyến đi kiến tập “ Nha Trang- Đà Lạt”, đây là lần đầu
tiên chúng em được tận mắt tận tai trải nghiệm, cảm nhận những điều thực tế, những
thứ nằm trong một phần nghề nghiệp của chúng em sau này. Đây quả là một chuyến đi
trải nghiệm vô cùng quý giá và tuyệt vời của chúng em.
Và sau cùng em xin kính gửi lời cảm ơn đến thầy Nguyễn Công Hoan, không chỉ là
người đã theo sát, chăm sóc, hướng dẫn tận tình và cho chúng em một lượng kiến thức
vô cùng to lớn cho chúng em trong hành trình chuyến đi, mà còn là người đã giúp đỡ
em rất nhiều trong quá trình hoàn thành bài báo cáo kiến tập nghề nghiệp này. Bước
đầu đi vào thực tế, với thời lượng và kiến thức hạn hẹp, bài báo cáo chắc chắn sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự đánh giá, nhận xét cùng ý
kiến đóng góp của thầy để bài báo cáo được hoàn thiện hơn
Xin chân thành cảm ơn

TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 12 năm 2016
Sinh viên làm bài báo cáo
Trần Lệ Tuyết Trâm

1


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
……………………………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
…………………………

2


1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp thống kê, tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp xã hội học
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Festival biển Nha Trang năm 2015 – Hòa bình và Sáng tạo.
2.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Địa điểm: Tại Thành phố Nha Trang thuộc tỉnh Khánh Hòa
- Thời gian: Đêm khai mạc diễn ra vào lúc 20h00 ngày 11/7/2015 tại sân khấu Quảng
trường 2/4 và đêm bế mạc vào ngày 14/7/2015.
2.3.

Mục tiêu nghiên cứu.

- Thông qua sự kiện văn hóa- du lịch “ Festival biển Nha Trang năm 2015” :
- Hiểu được quy trình tổ chức một sự kiện văn hóa- du lịch.
- Nhìn thấy được thực trạng và khả năng tổ chức sự kiện ở nước ta.
- Nhận xét, đánh giá và đề xuất những biện pháp hoàn thiện công tác tổ chức sự kiện
du lịch và dịch vụ như văn hóa nghệ thuật.
3.

BỐ CỤC
3


Gồm 3 chương :
- Chương 1: Cơ sở lí luận về sự kiện và tổ chức sự kiện văn hóa- du lịch
- Chương 2: Đánh giá thực trạng của sự kiện văn hóa- du lịch “Festival biển Nha Trang

năm 2015 – Hòa Bình và Sáng Tạo”.
- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao việc tổ chức sự kiện văn hóa- du lịch “Festival
biển Nha Trang năm 2015”.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ KIỆN VÀ TỔ CHỨC LỄ HỘI
VĂN HÓA- DU LỊCH
1.1.

Khái niệm về sự kiện, tổ chức sự kiện.

1.1.1. Khái niệm sự kiện.
Sự kiện là tên gọi chung của mọi sự việc diễn ra trong đời sống, dẫu nhân tạo hay thiên
tạo, khi chúng có tác động – chi phối (tốt hay xấu) đến bất cứ khía cạnh nào của đời
sống con người trên cả bốn cõi: Trời, đất, cộng sống nhân gian, cõi vĩnh hằng và trên
cả bốn chiều: Quá khứ, hiện tại, tương lai và tâm linh.
Sự kiện là sự việc xảy ra ở bất cứ lĩnh vực nào, vào thời điểm nào trong đời sống
thường nhật (cả đời sống tự nhiên, xã hội và tư duy) của con người – của cộng đồng
người, dù đem lại lợi ích to lớn hay tai hại – nguy hiểm cho cộng đồng. Sự kiện có thể
do con người hay tự nhiên gây ra.
Sự kiện là sự việc quan trọng xảy ra trong tự nhiên hay xã hội, có tác động đến cộng
đồng và các cá nhân trong cộng đồng. Sự kiện có ý nghĩa tốt hoặc xấu, tích cực hoặc
tiêu cực.
1.1.2. Phân loại sự kiện
a. Sự kiện văn hóa:
4


- Sự kiện văn hóa là loại hình sự kiện mang tính phổ hợp, có trước ngành công nghiệp
sự kiện hiện đại, tồn tại trong mọi thời kỳ và trong mọi quốc gia. Sự kiện văn hóa rất
phong phú, đa dạng, mang đậm sắc thái địa phương và trở thành nét đặc trưng của mỗi
nền văn hóa.

- Sự kiện văn hóa càng ngày càng có mối liên kết với du lịch để tạo ra các hoạt động
kinh doanh, mang lại thu nhập cho cộng đồng địa phương.
- Có thể phân chia sự kiện văn hóa thành lễ hội văn hóa dân gian, lễ hội tôn giáo, lễ hội
nghệ thuật, lễ hội ẩm thực, liên hoan phim…
 Lễ hội văn hóa dân gian:
Lễ hội văn hóa dân gian còn được gọi là lễ hội truyền thống, là loại hình sinh hoạt văn
hóa tín ngưỡng do người dân địa phương tổ chức nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh,
giáo dục các chuẩn mực văn hóa, giải trí… Loại sự kiện này rất phong phú, đặc sắc và
càng ngày có mối quan hệ gắn kết với du lịch.
 Lễ hội nghệ thuật:
- Lễ hội nghệ thuật khá phong phú và phổ biến ở các nước Âu Mỹ, có thể gồm nhiều
hình thức nghệ thuật pha trộn và được tổ chức ở nhiều địa điểm.
- Phổ biến nhất của lễ hội nghệ thuật là lễ hội âm nhạc (chẳng hạn lễ hội nhạc Rock, lễ
hội âm nhạc dân gian…). Ở Việt Nam, Hội Lim là lễ hội nghệ thuật dân gian tiêu biểu,
trong đó gần như hội đủ những hoạt động văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh
của các lễ hội trên vùng quê Bắc Ninh.
 Lễ hội ẩm thực:
Loại lễ hội này đã trở nên phổ biến tại nhiều lễ hội lớn ở các quốc gia nhằm giới thiệu
và vinh danh các món ăn nổi tiếng của địa phương và khu vực. Các địa phương nơi sản
xuất các loại đồ uống nổi tiếng cũng tổ chức các lễ hội đồ uống nhằm vinh danh, quảng
bá sản phẩm. Ví dụ: lễ hội rượu vang tại Pháp, tại Tây Ban Nha…
 Liên hoan phim:
Loại sự kiện đã trở thành đặc điểm phổ biến của cảnh quan văn hóa của các nước phát
triển. Sự kiện loại này khá phong phú, đa dạng và mang nét đặc trưng văn hóa địa
phương. Đây là một bộ phận quan trọng, ngày càng tăng trưởng ở các nước phát triển.
b. Sự kiện thể thao

5



- Các sự kiện thể thao có nguồn gốc và được phát triển từ các sự kiện có tính chất thi
thố về năng lực con người. Loại sự kiện này đã trở thành một lĩnh vực quan trọng và
tăng trưởng của ngành công nghiệp sự kiện.
- Sự kiện thể thao có sức hấp dẫn và khả năng thu hút khách du lịch, sự quan tâm của
các phương tiện truyền thông và mang lại lợi ích kinh tế. Nó được các chính phủ nhấn
mạnh trong các chương trình và chiến lược marketing điểm đến.
- Các sự kiện thể thao không chỉ mang lại lợi ích cho đơn vị chủ nhà, mà cho cả những
người tham gia (vận động viên, huấn luyện viên, nhân viên) sự thích thú, thư giãn từ
các trò chơi.
c. Sự kiện MICE
- Sự kiện MICE là một bộ phận khá lâu đời của ngành công nghiệp sự kiện, loại hình
này đặc trưng bởi những hoạt động công vụ và tập trung vào hoạt động thương mại,
mặc dù du lịch cũng là một phần quan trọng trong các hoạt động của họ.
- MICE là tên ghép của các từ chuyên biệt: Meeting (cuộc họp); Incentive (chuyến du
lịch khen thưởng); Conference/ Convention (hội nghị, hội thảo); Exhibition (triển lãm).
 Meeting: cuộc tập hợp công chúng để biểu đạt về một mối quan tâm nhất định,
thường được tổ chức ngoài trời.
 Incentive: các chuyến du lịch khen thưởng là “ một công cụ quản lý toàn cầu”, sử
dụng trải nghiệm chuyến du lịch đặc biệt để thúc đẩy và/ hoặc nhận biết người tham
gia về mức tăng hiệu quả hoạt động dựa vào “ mục tiêu của tổ chức”.
 Conference/ Convention: các hội nghị, hội thảo… nhằm tập hợp mọi người trong mục
đích chung, để chia sẻ thông tin về sản phẩm mới hay tìm giải pháp cho vấn đề tồn
đọng.
 Exhibition: các triển lãm đóng một phần đáng kể, ngày càng gia tăng của lĩnh vực sự
kiện MICE. Triển lãm là một dạng sự kiện tập hợp các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ
cùng với người mua trong một ngành công nghiệp cụ thể.
- Sự kiện MICE đóng vai trò quan trọng cho sự ra đời ngành công nghiệp sự kiện và
ngày càng tạo ra thu nhập khổng lồ cho các thành phố chủ nhà và các trung tâm khu
vực.
1.1.3. Khái niệm tổ chức sự kiện.

6


Tổ chức sự kiện là một quá trình bao gồm các hoạt động lao động cùng với việc sử
dụng máy móc thiết bị, công cụ lao động thực hiện các dịch vụ đảm bảo toàn bộ các
công việc chuẩn bị và các hoạt độngsự kiện cụ thể nào đó trong một thời gian và không
gian nhất định cụ thể nhằm chuyển tới đối tượng tham dự sự kiện những thông điệp
truyền thông theo yêu cầu của khách hàng mục tiêu.
1.2. Khái niệm lễ hội văn hóa- du lịch
1.2.1. Khái niệm Lễ hội
Lễ: Học giả Đoàn Văn Chúc định nghĩa rằng: “ Cuộc lễ là sự bày tỏ kính ý đối với một
sự kiện xã hội hay tự nhiên, hư tưởng hay cò thật, đã qua hay hiện tại được hình thành
theo nghi điển rộng lớn và theo phương thức thẩm mỹ nhằm biểu hiện giá trị của đối
tượng được cử lễ và diễn đạt thái độ của công chúng hành lễ.
Hội: Theo Từ điển tiếng Việt – Trung tâm từ điển học, Nhà xuất bản Giáo Dục năm
1994, chữ Hội ở đây có nghĩa là (chỉ lấy chữ “Hội” theo nghĩa 1): “Cuộc vui tổ chức
chung cho đông đảo người dự, theo phong tục hoăc nhân dịp lễ hội đặc biệt. Hội mùa.
Ngày hội xuống đồng. Lòng vui như mở Hội. Đông như trẩy hội”. Định nghĩ này đã
nêu ba đặc điểm nhất định: Một là, cuộc tập trung đông người, có tổ chức tại một địa
điểm nhất định; hai là, nhân kỷ niệm sự kiện nào đó có liên quan đến một cộng đồng xã
hội, nhỏ nhất cũng là cộng đồng làng – xã; ba là, để vui chơi.
Lễ hội ở mỗi vùng, miền, mội địa phương, mỗi làng – xã có đề tài, chủ để và mục đích
riêng, trình độ dân trí và các truyền thống văn hóa không hoàn toàn giống những vùng,
miền, địa phương, làng – xã khác, mà có những nét riêng. Nên mọi cuộc lễ hội điều
biểu hiện những nét riêng của địa phương mình.
Phân loại lễ hội:
- Lễ hội truyền thống ở Việt Nam

7



Theo quy mô và tầm ảnh hưởng, có lễ hội cấp quốc gia (lễ hội đền hùng) và lễ hội cấp
địa phương: bao gồm cấp tỉnh (lễ hội Lam Kinh, Thanh Hóa: lễ hội đền Trần, Nam
Định), cấp huyện (hội đền Nguyễn Công Trứ, tỉnh Ninh Bình), cấp làng (lễ hội diễn ra
ở các đình làng).
Lễ hội cấp địa phương do chính người dân trong địa phương tổ chức, để thu hút khán
giả địa phương, nhằm vào các mục tiêu xã hội như thỏa mãn nhu cầu tâm linh, có giá
trị giải trí và mang lại niềm vui cho người dân trong phạm vi địa phương. Những sự
kiện này thường tạo ra nhiều lợi ích như tạo dựng niềm tự hào, củng cố sự gắn kết
trong cộng đồng . Ngoài ra, lễ hội địa phương cũng có thể đem lại cho những người
dân những ý tưởng, kinh nghiệm mới, khuyến khích họ tham gia các hoạt động thể
thao, nghệ thuật và khuyến khích tính khoan dung đối với tính đa dạng các sắc thái văn
hóa. Với những mục tiêu đó, chính quyền địa phương thường xuyên hỗ trợ các lễ hội
như một phần của chiến lược phát triển văn hóa của cộng đồng.
Theo chủ thể lễ hội, có lễ hội người Việt và lễ hội đồng bào các dân tộc thiểu số: nhìn
chung, người kinh sống với môi trường đồng bằng yên ả, nhịp điệu cuộc sống gắn liền
với nghề nông trồng lúa nước, tâm lý hướng đến tính ổn định, nên lễ hội thường không
thật sự sôi động:, ngược lại cuộc sống và lễ hội truyền thống của đồng bào ở miền núi
gắn liền với thiên nhiên hoang sơ ( chiến đấu chống các loại thú dữ, săn bắn, vượt
chướng ngại núi cao, suối sâu…) và với cuộc sống lao động cực nhọc, nên lễ hội
thường có những động tác nhảy múa khỏe khoắn và mạnh mẽ.
Theo thời gian các mùa trong năm, có lễ hội mùa xuân (lễ hội chùa Hương), lễ hội mùa
thu (hội trung thu) và lễ hội theo tiết (Tết nguyên đán, Tết Đoan Ngọ). Trong đó, lễ hội
tập trung nhiều nhất vào mùa xuân và mùa thu.
Theo đối tượng tôn vinh và thờ phụng, có lễ hội tín ngưỡng dân gian nhằm tôn vinh
anh hùng lịch sử/ anh hùng huyền thoại (lễ hội Nguyễn Trung Trực, lễ hội Hát Giang),
lễ hội tôn giáo (lễ hội phật đản, Noel), lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội nghề nghiệp…
8



Ngoài ra, còn có thể phân loại theo tính chất lễ hội (có lễ hội cung đình và lễ hội dân
gian); phân loại theo không gian tổ chức lễ hội, có lễ hội vùng đồng bằng, vùng biển,
vùng trung du và vùng núi.

- Lễ hội hiện đại
Lễ hội hiện đại là những lễ hội mới, ra đời dựa trên sự tiếp nối “dòng chảy” của lễ hội
truyền thống, nhưng gắn với đời sống kinh tế xã hội đương đại, nên đã có những thay
đổi nhất định về nội dung và hình thức. Tính “hiện đại” được hiểu là việc ứng dụng các
thành tựu khoa học công nghệ và sự đan xen những hoạt động giải trí hiện đại trong tổ
chức sự kiện (tiêu biểu nhất là màn sân khấu hóa). Đây là mảng phát triển và tăng
trưởng của ngành sự kiện.
Cùng với những biến chuyển nhiều mặt của đất nước, lễ hội hiện đại Việt Nam đang
ngày càng được mở rộng về quy mô, phong phú về số lượng và đa dạng về nội dung và
hình thức biểu hiện. Lễ hội loại này được tổ chức rất hoành tráng. Nội dung và tính
chất lễ hội gắn liền với các sự kiện chính trị, quân sự, văn hóa xã hội nổi bật và du lịch
của những vùng đất. Tiêu biểu trong số đó và các lễ kỷ niệm, lễ hội du lịch…

- Lễ kỷ niệm
Lễ kỷ niệm là những sự kiện được tổ chức nhằm tôn vinh các danh nhân văn hóa hay
danh nhân lịch sử, các nhân vật được thần thánh hóa hoặc để kỷ niệm một mốc lịch sử
trọng đại của dân tộc hoặc địa phương. Chẳng hạn, Đại lễ 1.000 năm Thăng Long năm
2010, lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh, lễ kỷ niệm 350 năm
Khánh Hòa.
- Lễ hội du lịch

9


Lễ hội du lịch là thời điểm diễn ra các hoạt động tập trung tại một địa bàn cụ thể. Về
nội dung đó là tổng hợp những hoạt động, bao gồm trình diễn các sinh hoạt văn hóa

truyền thống mang đậm bản sắc, các hoạt động nghệ thuật… Sự kiện loại này thường
do các cơ quan quản lý du lịch, các doanh nghiệp du lịch và các ban ngành có liên
quan, các cá nhân trong và ngoài nước phối hợp tổ chức để xúc tiến du lịch và quảng
bá hình ảnh của điểm đến. Lễ hội du lịch được tổ chức dựa trên sự kế thừa nét đặc
trưng về văn hóa của điểm đến và sự kết hợp nhuần nhuyễn các thành tựu khoa học kỹ
thuật hiện đại và các hoạt động giải trí hiện đại.

1.2.2. Khái niệm về Văn Hóa
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ
qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con
người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. văn hóa được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong
quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển
của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời
sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do
con người tạo ra.
1.2.3. Khái niệm du lịch
Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. (Theo Luật Du Lịch 2005).

1.2.4. Khái niệm văn hóa du lịch

10


Theo TS.Dương Văn Sáu Văn hóa Du lịch là khoa học nghiên cứu, khai thác các giá trị
văn hóa để phát triển du lịch.
Tóm lại lễ hội văn hóa- du lịch là việc khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật
thể của các đại phương vào hoạt động du lịch thông qua các hoạt động lễ hội vào phục

vụ du khách. những hoạt động như vậy giúp du khách trực tiếp thẩm nhận và hưởng
thụ, trải nghiệm văn hóa.
1.3. Chức năng của lễ hội văn hóa- du lịch.
Lễ hội được coi là một nguồn tài nguyên quý giá trong việc phát triển du lịch. Việc
khai thác đúng hướng này không chỉ góp phần vào việc giữ gin và bảo tồn những giá
trị văn hóa truyền thống tốt đẹp mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển
kinh tế- chính trị.
Lưu giữ và truyền tải nét đẹp văn hóa dân tộc. Mỗi lễ hội mang bản sắc văn hóa đặc
trưng, gắn liền với những đặc điểm cụ thể về địa lý, tập quán, nghi lễ, ẩm thực, tín
ngưỡng,… vì vậy, nếu coi mỗi lễ hội là một màu sắc thì đất nước ta là một bản hòa ca
của những sắc màu. Với sự đa dạng và phong phú ấy, kho tàng lễ hội Việt Nam không
chỉ là những di sản phi vật thể phục vụ đời sống tinh thần của người dân mà còn là tài
nguyên du lịch nhân văn có thể trở thành sản phẩm độc đáo phục vụ du khách. Thực tế
những năm gần đây đã chứng minh rằng, nhiều lễ hội ở nước ta, kể cả lễ hội truyền
thống hay đương tại thì đều đã và đang có sức hút lớn đối với du khách trong và ngoài
nước, điển hình như lễ hội chùa Hương, lễ hội hoa Đà Lạt, lễ hội Đền Hùng, lễ hội
pháo hoa Đà Nẵng,...
Đến với lễ hội, du khách sẽ có những trải nghiệm thú vị và độc đáo về phong tục tập
quán, đời sống tâm linh, văn nghệ, ẩm thực và các trò chơi dân gian. Tất cả những đặc
trưng riêng ấy cần được giữ gìn và phát huy để mỗi lễ hội thực sự trở thành” thương
hiệu” cho một vùng miền, một quốc gia.

11


Phát triển kinh tế- chính trị
Tạo ra sức hấp dẫn về lâu về dài đối với du khách trong nước, quốc tế để các doanh
nghiệp có điều kiện quảng bá mà thu hút khách thời gian dài. Giúp thúc đẩy phát triển
du lịch Việt Nam.


1.4. Quy trình tổ chức sự kiện lễ hội văn hóa- du lịch.
Về quy trình tổ chức sự kiện theo tác giả Lưu Văn Nghiêm (2009) gồm 10 bước sau:
1. Xác định mục tiêu, mục đích của tổ chức sự kiện
2. Dự toán ngân sách tổ chức sự kiện và lập kế hoạch tổ chức sự kiện.
3. Tính toán thời gian.
4. Danh sách khách mời
5. Địa điểm tổ chức sự kiện.
6. Tổ chức đưa đón khách
7. Khách tới sự kiện.
8. Không gian thực hiện sự kiện.
9. Tổ chức ăn uống trong sự kiện.
10. Những vấn đề quan tâm khác.

12


CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA SỰ KIỆN FESTIVAL BIỂN NHA
TRANG NĂM 2015.
2.1.

Khái quát chung về Nha Trang.

2.1.1. Vị trí địa lí
Thành phố Nha Trang hiện nay có diện tích tự nhiên là 251 km², dân số 392.279
(2009). Phía Bắc giáp thị xã Ninh Hòa , phía Nam giáp huyện Cam Lâm, phía Tây giáp
huyện Diên Khánh, phía Đông giáp Biển Đông có huyện đảo Trường Sa (Khánh Hòa).

2.1.2. Địa hình
Địa hình Nha Trang khá phức tạp có độ cao trải dài từ 0 đến 900 m so với mặt nước
biển được chia thành 3 vùng địa hình. Vùng đồng bằng duyên hải và ven sông Cái có

diện tích khoảng 81,3 km², chiếm 32,33% diện tích toàn thành phố; vùng chuyển tiếp
và các đồi thấp có độ dốc từ 3⁰ đến 15⁰ chủ yếu nằm ở phía Tây và Đông Nam hoặc
trên các đảo nhỏ chiếm 36,24% diện tích, vùng núi có địa hình dốc trên 15⁰ phân bố ở
hai đầu Bắc-Nam thành phố, trên đảo Hòn Tre và một số đảo đá chiếm 31,43% diện
tích toàn thành phố.

2.1.3. Khí hậu
Nha Trang có khí hậu nhiệt đới xavan chịu ảnh hưởng của khí hậu đại dương. Khí hậu
Nha Trang tương đối ôn hòa, nhiệt độ trung bình năm là 26,3⁰C. Có mùa đông ít lạnh
13


và mùa khô kéo dài.Mùa mưa lệch về mùa đông bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào
tháng 12 dương lịch, lượng mưa chiếm gần 80% lượng mưa cả năm (1.025 mm).
Khoảng 10 đến 20% số năm mùa mưa bắt đầu từ tháng 7, 8 và kết thúc sớm vào tháng
11. So với các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, Nha Trang là vùng có điều kiện khí hậu
thời tiết khá thuận lợi để khai thác du lịch hầu như quanh năm. Những đặc trưng chủ
yếu của khí hậu Nha Trang là: nhiệt độ ôn hòa quanh năm (25⁰C - 26⁰C), tổng tích ôn
lớn (> 9.5000C), sự phân mùa khá rõ rệt (mùa mưa và mùa khô) và ít bị ảnh hưởng của
bão.
2.1.4. Dân cư
Theo điều tra dân số năm 2009 thì dân số toàn thành phố có 392.279 người, trong đó
dân số thành thị chiếm 74,6%, dân số nông thôn chiếm 25,4%. Về tỉ lệ giới tính, nam
chiếm 48,5% và nữ chiếm 51,5%. Tuy nhiên theo cách tính quy mô dân số trong phân
loại đô thị (bao gồm cả dân số thường trú và dân số tạm trú quy đổi) thì quy mô dân số
Nha Trang hiện nay khoảng 480.000-490.000 người (bao gồm cả học sinh, sinh viên
các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, lao động tạm trú thường xuyên,
tạm trú vãng lai...nhưng không tính khách du lịch).
Mật độ dân số trung bình toàn thành phố là 1.562 người/km2. Dân cư phân bố không
đều, tập trung chủ yếu ở các phường nội thành. Khu vực trung tâm thành phố thuộc các

phường Vạn Thắng, Vạn Thạnh, Phương Sài, Phước Tân, Phước Tiến, Tân Lập có mật
độ dân cư rất cao với gần 30000 người/km².Tuy nhiên một số xã như Vĩnh
Lương, Phước Đồng với địa hình chủ yếu là núi cao có mật độ dân số thấp, chỉ vào
khoảng 320-370 người/km2.
2.1.5. Văn hóa- du lịch
Các bãi biển dài của thành phố này đã biến nó thành một thành phố du lịch. Nơi đây
cũng đã được chọn làm nơi tổ chức các sự kiện lớn như Festival Biển (Nha Trang), hay

14


các cuộc thi sắc đẹp lớn như Hoa hậu Việt Nam, Hoa hậu Thế giới người Việt
2007, Hoa hậu Hoàn vũ 2008, Hoa hậu Trái Đất 2010,…..
.

Các địa điểm du lịch nổi tiếng tại Nha Trang:

 Vịnh Nha Trang
Vịnh Nha Trang có diện tích khoảng 507 km² bao gồm 19 hòn đảo lớn nhỏ, trong
đó Hòn Tre là đảo lớn nhất, với diện tích 32,5 km2; đảo nhỏ nhất là Hòn Nọc chỉ
khoảng 4 ha. Vịnh có khí hậu hai mùa rõ rệt Mùa khô kéo dài từ tháng giêng đến tháng
8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12; nhiệt độ bình quân hàng năm là 26⁰C; nóng nhất
39⁰C, lạnh nhất 14,4⁰C. Về mặt sinh thái, vịnh Nha Trang là một trong những hình
mẫu tự nhiên hiếm có của hệ thống vũng, vịnh trên thế giới bởi nó có hầu hết các hệ
sinh thái điển hình, quý hiếm của vùng biển nhiệt đới. Đó là hệ sinh thái đất ngập nước,
rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, hệ sinh thái cửa sông, hệ sinh thái đảo biển,
hệ sinh thái bãi cát ven bờ. Đặc biệt khu vực Hòn Mun của Vịnh Nha Trang có đa dạng
sinh học cao nhất với 350 loài rạn san hô chiếm 40% san hô trên thế giới. Trong số các
đảo trong vịnh có nhiều đảo là các thắng cảnh nổi tiếng như:
 Hòn Mun là một đảo nhỏ trong Vịnh, sở dĩ có tên là "Hòn Mun" vì phía đông nam của

đảo có những mỏm đá nhô cao, vách dựng hiểm trở tạo thành hang động, đặc biệt đá ở
đây đen tuyền như gỗ mun, rất hiếm thấy ở những nơi khác. Kết quả khảo sát đa dạng
sinh học Khu bảo tồn biển cho thấy Hòn Mun là nơi có rạn san hô phong phú và đa
dạng nhất Việt Nam. người ta cũng đã tìm thấy 340 trong tổng số hơn 800 loài san hô
cứng trên thế giới. Từ năm 2001, Khu bảo tồn biển Hòn Mun ra đời bao gồm các đảo
như Hòn Tre, Hòn Miễu, Hòn Tằm, Hòn Một, Hòn Mun, Hòn Cau, Hòn Vung, Hòn
15


Rơm, Hòn Nọc và vùng nước xung quanh. Diện tích khoảng 160km2 bao gồm khoảng
38 km2 mặt đất và khoảng 122 km2 vùng nước xung quanh các đảo. Đây là khu bảo
tồn biển duy nhất tại Việt Nam hiện nay.
 Hòn Miễu (còn gọi đảo Bồng Nguyên) nơi có Thủy Cung Trí Nguyên với những sinh
vật biển kỳ lạ. Cách hồ là bãi sỏi đủ màu, đủ dáng, trải thành từng lớp trên bờ thay cho
cát trắng
 Hòn Tằm một điểm du lịch sinh thái biển đảo hấp dẫn, nơi đây vẫn còn lưu lại vẻ
hoang sơ của thiên nhiên với thảm rừng nhiệt đới xanh mướt, bờ cát dài lãng mạn. Phía
sau đảo này có một hang đá rất đặc biệt, kỳ bí mới được ngành du lịch phát hiện và đưa
vào khai thác. Đó là hang Dơi, nơi có rất nhiều đàn dơi cư trú trên những vách đá cheo
leo ở độ cao 60m. Đảo được đầu tư phát triển nhiều loại hình thể thao bãi biển như dù
bay, bóng chuyền bãi biển, đua xuồng Kayak, leo núi….
 Hòn Tre đảo lớn nhất trong vịnh Nha Trang với diện tích trên 32.5 km², nằm cách
trung tâm thành phố Nha Trang khoảng 5 km về phía Đông, cách cảng Cầu Đá 3,5 km
vị trí tương đối biệt lập, có bãi tắm thiên nhiên đẹp vào bậc nhất Việt Nam, thảm thực
vật trong khu vực còn nguyên sơ, khí hậu ôn hoà, ít gió bão, rất thuận lợi cho việc phát
triển du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng biển. Khu vực quy hoạch đảo bao gồm 2 khu vực
chức năng: Khu Vũng Me - Bãi Trũ - Đầm Già - Bãi Rạn được quy hoạch hướng tới
một quần thể các dự án du lịch cao cấp bao gồm 7 dự án hiện có: Khu du lịch Con sẻ
tre, Vinpearl resort & spa, Khu du lịch sinh thái và Thế giới nước Vinpearl, Công viên
văn hóa Vinpearl, Công viên văn hóa Hòn Tre, Khu du lịch sinh thái Bãi Sỏi, Khu biệt

thự và sân golf Vinpearl, giao thông đối ngoại của phân khu chủ yếu thông qua 2 cảng
du lịch tại Vũng Me và tuyến cáp treo Vinpear (tuyến cáp treo vượt biển dài nhất thế
giới). Khu Đầm Bấy được quy hoạch theo mô hình khu du lịch cộng đồng bao gồm khu
vực dự án Khu du lịch thế giới biển và dự án Làng du lịch sinh thái Đầm Bấy.
16


 Hòn Chồng-Hòn Vợ gồm 2 cụm đá lớn nằm bên bờ biển dưới chân đồi Lasan. Dưới
chân đồi là bãi đá ngổn ngang có thể là do sự xâm thực của thủy triều lên ngọn đồi này.
Cụm đá lớn ở ngoài biển gọi là Hòn Chồng, gồm một khối đá lớn vuông vức nằm trên
một tảng đá bằng phẳng và rộng hơn, phía mặt đá quay ra biển có một vết lõm hình bàn
tay rất lớn Cụm đá thứ hai có hình dáng một người phụ nữ ngồi trông ra biển - được đặt
một cái tên có ý nghĩa gần gũi với Hòn Chồng - đó là Hòn Vợ, cụm đá này ít được du
khách để ý hơn.
 Đảo yến: đây không phải là tên riêng của một đảo nào, mà cứ đảo nào có yến làm tổ
thì gọi vậy. Nhưng trong 19 hòn đảo ở Vịnh Nha Trang thì Hòn Nội và Hòn Ngoại là
nơi có nhiều yến nhất. Hòn Nội là đảo nằm phía trong, còn Hòn Ngoại nằm phía ngoài.
Hòn Nội có bãi tắm đôi (có hai bờ biển một mặt hướng ra Vịnh Nha Trang mặt còn lại
hướng vào một vũng lớn bị cô lập trong đảo mùa nước lên, nước sẽ tràn qua doi cát vào
vũng) với cát trắng rất đẹp nhưng ít dùng cho du lịch chủ hoạt động chủ yếu trên đảo là
khai thác Yến sào
Chạy dọc theo bờ biển Vịnh Nha Trang dài khoảng 7 km, trải dài từ xóm Cồn đến cảng
Cầu Đá là đoạn đường Trần Phú con đường đẹp nhất Nha Trang nằm lượn theo bờ biển
với rất nhiều ngôi biệt thự xinh xắn, những khách sạn cao cấp, nhà hàng sang trọng nối
liền nhau. Xen vào đó là một hệ thống dịch vụ gồm bưu điện, nhà bảo tàng, thư viện,
câu lạc bộ, các cửa hàng bán đồ lưu niệm.
- Các danh lam thắng cảnh trong Thành phố:
- Chợ Đầm, chợ trung tâm của thành phố biển Nha Trang, là một công trình kiến trúc
đẹp, độc đáo. Đây là chợ lớn nhất và cũng là biểu tượng thương mại của thành phố biển
này. Đây là trung tâm thương mại mua sắm và cũng là điểm tham quan du lịch. Chợ có

tên chợ Đầm là vì chợ nằm trên một cái đầm cũ rộng đến 7 mẫu tây, ăn thông ra cửa
sông Nha Trang dưới chân cầu Hà Ra nay đã bị lấp. Chợ hiện nay bán rất nhiều sản
17


phẩm gia dụng lẫn những mặt hàng lưu niệm, hải sản... rất phong phú. Ngay tại cửa ra
vào, bãi đậu xe là tới khu vực chợ, tại các cánh cung bọc 2 bên chợ là bán hải sản, khô,
nem nướng và các mặt hàng lưu niệm. Trung tâm chợ bán các mặt hàng thiết yếu.
- Chùa Long Sơn hay còn gọi là Chùa Phật trắng trước có tên là Đăng Long Tự, tọa lạc
ở số 22 đường 23 tháng 10, phường Phương Sơn dưới chân đồi Trại Thủy ở Nha Trang.
Ngôi chùa này được xây dựng cách đây hơn một trăm năm, trải qua nhiều lần trùng tu,
và đến nay là ngôi chùa nổi tiếng nhất Khánh Hòa. Trên đỉnh đồi là bức tượng Kim
Thân Phật tổ (còn gọi là tượng Phật trắng) ngồi thuyết pháp, tượng cao 21 m, đài sen
làm đế cao 7 m, rất dễ nhìn thấy tại một khu vực rộng xung quanh Chùa. Tượng được
xây từ năm 1963 do sự đóng góp của tăng ni phật tử của vùng lân cận. Xung quanh đài
sen là chân dung bảy vị hòa thượng, đại đức đã tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp
Phật giáo của Ngô Đình Diệm trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 9 năm
1963, Dưới chân đài sen là bức tường chia thành những ngăn nhỏ để chứa hài cốt do
các gia đình Phật tử gửi.
- Nhà thờ Núi (tên chính thức là: Nhà thờ Chánh tòa Kitô Vua) là một nhà thờ Công
giáo ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Nhà thờ này còn có nhiều tên gọi bình
dân như: Nhà thờ Nha Trang (vì trước đây nó thuộc họ đạo Nha Trang); Nhà thờ Ðá (vì
nó được xây bằng đá); Nhà thờ Ngã Sáu (vì nó tọa lạc gần một vòng xoay giao thông);
nhưng phổ biến hơn cả là tên gọi Nhà thờ Núi (vì nó được xây trên một núi nhỏ).Nhà
thờ này được xây dựng theo phong cách kiến trúc nhà thờ phương Tây. Nhìn tổng thể,
công trình có bố cục chắc khỏe với những khối lập thể nhỏ dần từ thấp vươn cao, nổi
bật giữa trời xanh. Ðiểm cao nhất là nơi đặt thánh giá trên đỉnh tháp chuông, cao 38
mét, tính từ mặt đường.
- Viện Hải dương học Nha Trang là một viện nghiên cứu đời sống động thực vật hải
dương. Viện Hải dương học được người Pháp thành lập năm 1922, được xem là một

18


trong những cơ sở nghiên cứu sớm nhất ở Việt Nam và là nơi có bộ sưu tầm các hiện
vật về cuộc sống hải dương lớn nhất Đông Nam Á. Hiện nay viện không những là một
viện nghiên cứu mà còn là điểm tham quan hấp dẫn đối với du khách yêu thích sinh vật
biển.
- Diamond Bay (Wonderpark Resort), một resort trên đại lộ Nguyễn Tất Thành,xã
Phước Đồng,Nha Trang, Khánh Hòa là nơi diễn ra lễ đăng quang của cuộc thi Hoa hậu
Hoàn vũ 2008, được hoàn thành chỉ sau bốn tháng xây dựng, khánh thành vào ngày 30
tháng 6, 2008.

- Biệt thự Cầu Đá (Lầu Bảo Đại) tọa lạc trên đỉnh núi Chụt (núi Cảnh Long), là một di
tích lịch sử văn hóa khá nổi tiếng, nằm cách trung tâm thành phố Nha Trang khoảng
6 km. Đây là một công trình kiến trúc độc đáo, có sự kết hợp hài hòa giữa phong cách
kiến trúc phương Tây với nghệ thuật hoa viên phương Đông. Lầu Bảo Đại được người
Pháp đã xây dựng năm 1923 ban đầu là một cụm 5 biệt thự trên núi Chụt để làm nơi ăn
ở cho các nhà hải dương học đến nghiên cứu vùng biển Đông Nam Á tại Viện hải
dương học Đông Dương (hiện là Viện hải dương học Nha Trang) người Pháp đặt tên
cho các ngôi biệt thự này theo tên các loài cây và hoa trồng xung quanh. Lần lượt từ
mỏm núi trở vào là biệt thự Xương Rồng, Bông Sứ, Bông Giấy, Phượng Vĩ, Cây Bàng.
Từ năm 1940 đến 1945, hoàng đế Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương thường đến nghỉ
ngơi ở biệt thự Xương Rồng và Bông Sứ nên từ đó cụm di tích này được gọi là Lầu
Bảo Đại.
- Tháp bà do vua Chămpa là Harivácman xây dựng vào những năm 813 - 817. Trải qua
mưa nắng của thời gian, tháp bị hư hại nhiều. Thời Pháp thuộc, trường Viễn Đông Bác
Cổ đã tổ chức dùng gạch xây lại nhiều phần và đắp một số tượng lên thân tháp. Mặt
bằng thứ nhất của tháp được lát gạch, có 14 trụ và các bậc liên tiếp. Mặt bằng thứ hai là
19



một cụm gồm bốn tháp, cả bốn tháp đều được xây dựng theo kiểu tháp của người
Chăm gạch xây rất khít mạch, không nhìn thấy chất kết dính. Lòng tháp rỗng tới đỉnh,
cửa tháp quay về hướng Đông. Mặt ngoài thân tháp có nhiều gờ, trụ và đấu. Trên đỉnh
các trụ thường đặt gạch trang trí hoa văn hình vòm tháp, trông như chiếp tháp nhỏ đặt
trên một tháp lớn trên thân tháp còn có nhiều tượng và phù điêu bằng đất nung, trong
đó có hình thần Ponagar, thần Tenexa, các tiên nữ, các loài thú như nai, ngỗng vàng, sư
tử...Tháp chính thờ thần Ponagar, tượng trưng cho sắc đẹp, nghệ thuật và sự sáng tạo.
Các tháp khác thờ thần Siva, thần Sanhaka và thần Ganeca. Hàng năm, vào tháng 3 âm
lịch người dân đến lễ bái ở Tháp Bà rất đông

2.1.6. Văn hóa ẩm thực
Ngoài các sản vật biển, Nha Trang có nước yến/yến sào (hay tổ chim yến được chúng
làm từ nước dãi của mình) và nem nướng Ninh Hòa. Ngoài ra, nói đến các món dân dã
Nha Trang còn nổi tiếng qua món bún cá hay bánh căn. Với món bánh canh Nha Trang
thì không giống với bất kỳ ở một địa phương nào khác, nước lèo được làm từ chất ngọt
của cá cộng với bột bánh canh tạo nên một hương vị khó quên. Ngoài ra tại Nha Trang
còn có bong bóng cá, vi cá, nước mắm, khô cá thu được xếp vào loại ngon. Hải sản
Nha Trang đa dạng và phong phú với rất nhiều loại và vô số những món ăn khác nhau,
nổi tiếng có món nhum - còn gọi là cầu gai hay nhím biển ăn sống với cải bẹ xanh.
2.1.7. Kinh tế
Nha Trang là thành phố có nền kinh tế tương đối phát triển ở khu vực miền Trung.
Năm 2011, GDP bình quân đầu người của thành phố đạt 3184 USD , tốc độ tăng
trưởng GDP tăng bình quân hàng năm từ 13- 14%.Cơ cấu kinh tế chuyển đổi tích cực
theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. năm 2011, tỷ trọng công nghiệp-xây
dựng chiếm 32%, du lịch-dịch vụ 63,77% và nông nghiệp là 4,23%. trong đó công
nghiệp tăng 7,97%, dịch vụ tăng 7,01% so với năm 2010, Ngược lại ngành nông
20



nghiệp tiếp tục suy giảm 12,46% do quá trình đô thị hóa khiến quỹ đất nông nghiệp
ngày càng bị thu hẹp. Là trung tâm kinh tế của tỉnh Khánh Hòa, Nha Trang có nhiều
đóng góp đáng kể, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn Khánh
Hòa. Tuy diện tích chỉ chiếm 4,84%, Nha Trang chiếm đến hơn 1/3 dân số và hơn
2/3 tổng sản phẩm nội địa của Khánh Hòa. Ngoài ra Nha Trang cũng đóng góp 82,5%
doanh thu du lịch-dịch vụ và 42,9% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Là trung tâm
khai thác, chế biến thủy-hải sản lớn, sản lượng thủy-hải sản của thành phố cũng chiếm
41,7% tổng sản lượng toàn tỉnh.

2.1.8. Thương mại- dịch vụ- du lịch
Thương mại- Dịch vụ- Du lịch là ngành kinh tế đóng vai trò quan trọng tạo động lực
phát triển đô thị và mang lại vị thế quan trọng cho Nha Trang. Đặc biệt các hoạt động
du lịch, văn hóa, vui chơi giải trí phát triển đa dạng, phong phú, nhờ đó Nha Trang thu
hút ngày càng nhiều du khách trong nước và quốc tế đến tham quan -nghỉ dưỡng.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa năm 2010 ước đạt 9350 tỷ đồng, tăng 20,54% so năm
2009. Hoạt động thương mại tư nhân phát triển mạnh, tạo nên một thị trường cạnh
tranh. Xu hướng kinh doanh hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện
lợi...phát triển nhanh. Việc coi trọng khách hàng, phong cách phục vụ văn minh, lịch sự
ngày càng được chú trọng hơn. Các khu thương mại trên các tuyến phố chính được đầu
tư xây dựng tạo nên bộ mặt đô thị và thu hút nhiều khách đến mua sắm. Một số tuyến
phố chuyên doanh bước đầu được hình thành như phố xe máy- điện lạnh (đường
Quang Trung), phố trang trí nội thất (đường Thống Nhất), phố thời trang (đường Phan
Chu Trinh, Lý Thánh Tôn), phố dịch vụ ăn uống- khách sạn (Trần Phú, Biệt Thự, Trần
Quang Khải, Hùng Vường, Nguyễn Thiện Thuật...), Tài chính-Ngân hàng (Yersin, Lê
Thành Phương)...Nha Trang hiện có 24 chợ, trong đó 3 chợ loại I, 2 chợ loại II, 18 chợ
21


loại III và một số siêu thị, trung tâm thương mại lớn như Nha Trang,
Center, Fahasa, Co.opmart, Maximark, Metro và các hệ thống cửa hàng tiện lợi như AMart, Thế giới di động... Mặc dù hiện nay nhiều loại hình mua bán hiện đại, tiện ích ra

đời nhưng các chợ truyền thống vẫn là nơi thu hút đông đảo người dân và du khách đến
tham quan, mua sắm đặc biệt là chợ Đầm.
Trong ngành Du lịch, toàn thành phố hiện có 455 khách sạn, với tổng số gần 10.000
phòng. năm 2011, Nha Trang đón hơn 2 triệu lượt khách du lịch (tăng 18,54% so với
năm 2010), trong đó hơn 440.000 lượt khách quốc tế (tăng 13,5%), số ngày lưu trú
bình quân của du khách là 2,09 ngày/khách; tổng doanh thu du lịch và dịch vụ ước đạt
2.142,9 tỷ đồng (tăng 20,28%)…Ngành du lịch cũng thu hút khoảng gần 9.000 lao
động trực tiếp.
Về Xuất khẩu, năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn thành phố đạt 424
triệu USD với khoảng 50 loại sản phẩm xuất đến trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ
trên thế giới. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là thủy sản, may mặc, thủ công mỹ nghệ...
trong đó thủy sản là mặt hàng đóng góp giá trị xuất khẩu lớn, năm 2010 đạt khoảng
215 triệu USD, chiếm 50,7% tổng kim ngạch.
2.1.9. Công nghiệp
Công nghiệp cũng là một ngành kinh tế quan trọng của thành phố. Năm 2011, Nha
Trang có 1.694 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhà
nước là 12 cơ sở, tập thể 06 cơ sở, tư nhân hỗn hợp 400 cơ sở, cá thể 1.269 cơ sở và 9
cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2010 giá trị sản xuất công nghiệp đạt 7.546 tỷ
đồng, tăng 10,16%, năm 2011 tăng 9,5% so năm 2010 đạt 8.107 tỷ đồng . Tuy Nha
Trang là thành phố chủ yếu phát triển về du lịch và dịch vụ, giá trị sản xuất công
nghiệp của riêng thành phố vẫn cao hơn giá trị công nghiệp toàn tỉnh của nhiều tỉnh lớn
trong cùng khu vực Đồng bằng duyên hải miền Trung như Thừa Thiên Huế , Bình
Định , Bình Thuận..Cơ cấu công nghiệp chủ yếu là các ngành chế biến thực
22


phẩm, thuốc lá, dệt may, đóng tàu.... Một số sản phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu
duy trì được tốc độ tăng cao như thủy sản đông lạnh, dệt may, nước mắm, hàng mỹ
nghệ. Chế biến thủy sản là ngành công nghiệp thế mạnh của Nha Trang, tạo ra nhiều
việc làm và đạt kim ngạch xuất khẩu cao. Trên địa bàn thành phố có 35 xưởng chế biến

thủy sản xuất khẩu, trong đó 18 xưởng chế biến đông lạnh, 3 phân xưởng chế biến đồ
hộp và 13 cơ sở chế biến thủy sản khô.

2.1.10.Nông- lâm- ngư nghiệp.
- Sản xuất nông, lâm nghiệp không phải là thế mạnh của thành phố, chủ yếu tập trung
tại 6 xã phía Tây. Ngành nông nghiệp đang trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
theo hướng tập trung trồng hoa, cây cảnh, rau thực phẩm cao cấp tạo được hàng hóa
phục vụ cho tiêu thụ của dân cư và du khách, đồng thời cải thiện môi trường và trang
trí cảnh quan đô thị. Công tác bảo vệ rừng cũng được thực hiện hiệu quả. Diện tích
rừng tự nhiên và rừng trồng hiện nay là 2332,7 ha, vào thời điểm cuối năm 2010 độ che
phủ rừng của thành phố đạt 9,2%. Thảm thực vật rừng Nha Trang đang được phục hồi
xanh trở lại, góp phần tạo phong cảnh Nha Trang xanh sạch đẹp. Đặc biệt là dự án
trồng phục hồi cây Dó trầm, loài cây đặc sản của Khánh Hòa.
- Nghề nuôi cá lồng trên biển: khai thác Thủy sản có xu hướng rất phát triển nhầm
phục vụ cho các ngành công nghiệp chế biến và du lịch, ngư dân tập trung chủ yếu ở
các phường Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trường, Vĩnh Thọ và 2 xã Phước Đồng, Vĩnh Lương.
Tổng sản lượng thủy sản năm 2010 đạt 38926 tấn, trong đó sản lượng khai thác đạt
38621 tấn, tăng bình quân 6,4% mỗi năm. Khai thác và đánh bắt xa bờ được khuyến
23


khích đầu tư phát triển. Diện tích nuôi trồng thủy sản có chiều hướng giảm do thực
hiện các dự án di dời lồng bè ra khỏi Vịnh Nha Trang để tập trung phát triển Du lịch.
Sản lượng tôm nuôi năm 2012 đạt 295 tấn. Nghề nuôi cá lồng trên biển bước đầu góp
phần tăng thu nhập cho ngư dân. Nghề đăng - một nghề truyền thống của ngư dân Nha
Trang có sản lượng hàng năm đạt 200-250 tấn, trong đó cá thu xuất khẩu chiếm khoảng
60%. Thành phố đã hoàn thành dự án quy hoạch chi tiết nuôi trồng thủy sản vịnh Nha
Trang tại 5 khu vực: Bích Đầm, Đầm Bấy, Vũng Ngán (đều thuộc Hòn Tre), Hòn
Một và Hòn Miễu.




Nha Trang là một thành phố ven biển và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa,

khoa học, kĩ thuật của tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam. Nha Trang được Thủ tướng chính
phủ Việt Nam công nhận là đô thị loại 1 vào ngày 22 tháng 4 năm 2009. Đây là một
trong các đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh của Việt Nam. Nha Trang được mệnh danh là hòn
ngọc của biển Đông Viên ngọc xanh vì là kiệt tác thiên nhiên hoàn mĩ, vẻ đẹp két hợp
màu xanh của biển, màu xanh của núi rừng và xanh mát long người. Nha Trang với rất
nhiều điểm du lịch nổi tiếng cùng với nền văn hóa đặc sắc thu hút khách du lịch khắp
nơi trên Thế Giơí vì vậy nơi đây rất thích hợp và thuận lợi cho việc tổ chức Festival
biển Nha Trang.
2.2.

Khái quát về festival biển Nha Trang.

2.2.1. Festival biển Nha Trang.
- Festival biển Nha Trang là ý tưởng độc đáo được Hội Mặt trời Pháp ngữ và chính
quyền vùng Morbihon (Pháp) cùng phối hợp với tỉnh Khánh Hòa tổ chức thực hiện lần
đầu tiên vào mùa hè năm 2003, định kỳ 2 năm một lần. Đã thành thông lệ, cứ hai năm
một lần vào năm lẻ, tỉnh Khánh Hòa tổ chức Festival biển như một hoạt động văn hóa

24


nhằm phát huy những giá trị văn hóa truyền thống và quảng bá tiêm năng cùng thế
mạnh về văn hóa, du lịch của vùng đất Nha Trang- Khánh Hòa.
- Festival biển Nha Trang là hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao hiện đại gắn liền
với lễ hội truyền thống của người dân miền biển; qua đó du khách gần xa có điều kiện
tiếp cận và khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người Nha Trang - Khánh

Hòa.
Đây cũng là dịp cộng đồng doanh nghiệp cùng người dân địa phương chuyên hoạt
động trên lĩnh vực dịch vụ du lịch được gặp gỡ, giao lưu và học hỏi kinh nghiệm bạn
bè quốc tế, đồng thời quảng bá sản phẩm, thương hiệu… Đặc biệt, trong thời gian diễn
ra festival còn có nhiều hoạt động thu hút quần chúng nhân dân và du khách chung tay
đóng góp bảo vệ môi trường và hòa bình trên biển.”
Địa điểm diễn ra các hoạt động Festival biển là dọc bờ biển TP. Nha Trang, trong đó
Quảng trường 2.4 là trung tâm tổ chức các sự kiện. Ngoài ra, còn có các địa điểm khác
như Nhà thiếu nhi tỉnh, Nhà thi đấu thể thao tỉnh, Khu Resort Vịnh Kim Cương
(Diamond Bay), Khu du lịch Hòn Tằm, Khu Du lịch Vinpearl, Khu du lịch Thác Yang
Bay (Khánh Vĩnh), Khu du lịch Cát Trắng (White Sand Doclet Resort & Spa) – Ninh
Hòa… Kinh phí tổ chức lễ hội dựa từ nguồn xã hội hóa.
2.2.2. Festival biển Nha Trang qua từng thời kì
Lần 1: được tổ chức vào năm 2003 với chủ đề: “ Festival biển Nha Trang- Tuần lễ du
lịch” được diễn ra vào ngày 23/3/2003 đồng thời tổ chức song song với lễ hội “ Khánh
Hòa 350 năm”.
Lần 2: được tổ chức vào năm 2005 với chủ đề “Vịnh Nha Trang lung linh thuyền hội”
diễn ra vào ngày 30/3/2005 đến ngày 2/4/2005 với sự tham dự của tổng lãnh sự Pháp

25


×