Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

ẢNH HƯỞNG của PHÂN rơm hữu cơ đến SINH TRƯỞNG và NĂNG SUẤT lúa MTL392 TRONG vụ hè THU 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.88 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

NGUYỄN BẢO HỘ

ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN RƠM HỮU CƠ ĐẾN SINH
TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT LÚA MTL392
TRONG VỤ HÈ THU 2011

LUẬN VĂN KỸ SƯ NÔNG HỌC

Cần Thơ - 2012


BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN RƠM HỮU CƠ ĐẾN SINH
TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT LÚA MTL392
TRONG VỤ HÈ THU 2011

LUẬN VĂN KỸ SƯ NÔNG HỌC

Giáo viên hướng dẫn:
TS. Nguyễn Thành Hối

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Bảo Hộ
MSSV: 3083641
Lớp: Nông học K34


Cần Thơ - 2012

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ


TRƯỜNG ĐẠI CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG

...............................................................................................................................

Chứng nhận đã chấp thuận luận văn với đề tài:
“Ảnh hưởng của phân rơm hữu cơ đến sinh trưởng và năng suất lúa MTL392
trong vụ Hè Thu năm 2011”

Do sinh viên Nguyễn Bảo Hộ thực hiện
Kính trình hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xem xét.

Cần thơ, ngày ……..tháng ……năm 2012
Cán bộ hướng dẫn

TS. Nguyễn Thành Hối

i


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG
...............................................................................................................................


Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn với đề tài:
“Ảnh hưởng của phân rơm hữu cơ đến sinh trưởng và năng suất lúa MTL392
trong vụ Hè Thu năm 2011”

Do sinh viên: Nguyễn Bảo Hộ thực hiện và bảo vệ trước hội đồng.
Ý kiến hội đồng:……………………………………………………………………
..................................………………………………………………………………
Luận văn đã được hội đồng chấp nhận và đánh giá ở mức:………………………..
…………………………
Cần thơ, ngày ……..tháng ……năm 2012
Thành viên Hội đồng

-------------------------

------------------------

------------------------

DUYỆT KHOA
Trường khoa Nông Nghiệp và SHƯD

-----------------------------------------ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết quả trình
bày trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình luận án nào trước đây.


Tác giả luận văn

Nguyễn Bảo Hộ

iii


QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
I.

LÝ LỊCH SƠ LƯỢC

Họ và tên: Nguyễn Bảo Hộ

Giới tính: Nam

Ngày, tháng, năm sinh: / / 1990

Dân tộc: Kinh

Nơi sinh: Tam Bình - Vĩnh Long
Chỗ ở hoặc địa chỉ liên lạc: ấp Long Công, xã Phú Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh
Long.
Email:
II.

QUÁ TRÌNH HỌC TẬP

1. Tiểu học

Thời gian đào tạo từ 1996 - 2001 học tại trường tiểu học Phú Lộc A.
Địa chỉ : ấp 4, xã Phú Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.
2. Trung học cơ sở
Thời gian đào tạo từ 2001 - 2005 tại trường trung học phổ thông Cấp 2 - 3 Cái
Ngang.
Địa chỉ : ấp 9, xã Mỹ Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.
3. Trung học phổ thông
Thời gian đào tạo từ 2005 - 2008 tại trường trung học phổ thông Cấp 2 - 3 Phan
Văn Hòa.
Địa chỉ : xã Hậu Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.
Từ năm 2008 đến nay học tại trường Đại học Cần Thơ.

Ngày….tháng….năm 2012
Người khai ký tên

Nguyễn Bảo Hộ
iv


Kính dâng cha mẹ đã một đời hy sinh, yêu thương, chăm lo cho tương lai của
con.
Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến sự giúp đỡ của Thầy Nguyễn Ngọc Du cùng
quý Thầy, Cô trường Đại học Cần Thơ, Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng
đã truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong thời gian học ở trường, đặc
biệt là Thầy Nguyễn Thành Hối, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và luôn cho
những lời khuyên bổ ích trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Chân thành cảm ơn tất cả các thành viên lớp Nông học khóa 34 đã giúp tôi
trong thời gian thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Thân gửi về quý Thầy, Cô trường Đại học Cần Thơ, Khoa Nông nghiệp và
Sinh học Ứng dụng, cùng tất cả các bạn sinh viên Nông học khóa 34 lời chúc sức

khỏe, hạnh phúc và thành đạt trong tương lai.
Trong quá trình thực hiện luận văn, dù đã có nhiều nổ lực, cố gắng nhưng do
thời gian và kiến thức còn hạn chế, cũng như cách nhìn nhận vấn đề chưa được sâu
sắc nên không tránh khỏi những sai sót nhất định. Vì vậy, kính mong sự đóng góp ý
kiến của quý Thầy, Cô để luận văn được hoàn thiện và sâu sắc hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Cần Thơ, ngày….tháng….năm 2012
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Bảo Hộ

v


NGUYỄN BẢO HỘ, 2012. “ Ảnh hưởng của phân rơm hữu cơ đến sinh trưởng và
năng suất lúa MTL392 trong vụ Hè Thu 2011”. Luận văn tốt nghiệp Kỹ sư ngành
Nông học. Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng, trường Đại học Cần Thơ. 53
trang .
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Nguyễn Thành Hối.

TÓM LƯỢC
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những vùng trọng điểm trong sản
xuất nông nghiệp của cả nước, trong những năm gần đây do tiến bộ khoa học kỹ
thuật ngày càng cao tạo ra nhiều giống lúa mới có thời gian sinh trưởng ngắn phẩm
chất cao thích hợp cho quá trình thâm canh tăng vụ. Nhưng việc canh tác lúa thâm
canh liên tục trong thời gian dài mà chỉ sử dụng phân vô cơ và thuốc bảo vệ thực
vật, làm cho đất bị thoái hóa bạc màu, cạn kiệt nguồn dinh dưỡng và hệ sinh vật
trong ruộng chết dần làm giảm độ phì nhiêu và khả năng sản xuất của đất. Qua
nhiều nghiên cứu cho thấy phân hữu cơ đóng vai trò quan trọng nhất trong việc cải

tạo độ phì nhiêu cho đất và cung cấp những dưỡng chất cần thiết cho cây trồng, cải
thiện tính chất vật lý của đất góp phần tăng năng suất cây trồng cấu trúc. Vì vậy, đề
tài “Ảnh hưởng của phân rơm hữu cơ đến sinh trưởng và năng suất giống lúa
MTL392 trong vụ hè thu 2011” nhằm tìm hiểu xem phân rơm hữu cơ có ảnh
hưởng như thế nào đến sự sinh trưởng và thành phần năng suất của lúa từ đó định
hướng những nghiên cứu tiếp theo.
Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên với 3
nghiệm thức và 3 lần lặp lại, cụ thể như sau: Nghiệm thức 1: Không bón phân rơm
hữu cơ (đối chứng), Nghiệm thức 2: Bón 5 tấn phân rơm hữu cơ/ha, Nghiệm thức 3:
Bón 10 tấn phân rơm hữu cơ/ha. Thí nghiệm được thực hiện tại Trại thực nghiệm,
khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, khu II trường Đại học Cần Thơ. Thời
gian thực hiện từ tháng 6/2011 đến tháng 9/2011.
Kết quả thí nghiệm cho thấy bón phân rơm hữu cơ với liều lượng 5 và 10
tấn/ha vẫn chưa làm khác biệt về sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của lúa so
với nghiệm thức không bón phân rơm hữu cơ.

vi


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Quá trình học tập
Lời cảm ơn
Tóm lược
Mục lục
Danh sách hình
Danh sách bảng
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 CHẤT HỮU CƠ

1.1.1 Khái niệm chất hữu cơ
1.1.2 Nguồn gốc chất hữu cơ
1.1.3 Vai trò chất hữu cơ
1.1.3.1 Tác dụng cải tạo tính chất vật lý của đất
1.1.3.2 Tác dụng cải tạo hóa tính của đất
1.1.3.3 Tác dụng đến vi sinh vật của đất
1.2 PHÂN HỮU CƠ
1.2.1 Khái niệm phân hữu cơ
1.2.2 Vai trò của phân hữu cơ đối với đất trồng lúa
1.3 MỘT SỐ LOẠI PHÂN HỮU CƠ
1.3.1 Phân chuồng
1.3.2 Phân xanh
1.3.3 Phân rơm rạ
1.3.4 Phân vi sinh vật
1.3.5 Than bùn
1.4 MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ HIỆU QUẢ CỦA PHÂN HỮU
CƠ TRONG GIA TĂNG NĂNG SUẤT LÚA
1.5 ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG CỦA CÂY LÚA
1.5.1 Giai đoạn tăng trưởng
1.5.2 Giai đoạn sinh sản
1.5.3 Giai đoạn chín
1.6 MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ NĂNG
SUẤT LÚA
1.6.1 Nhiệt độ
1.6.2 Ánh sáng
1.6.3 Gió
1.6.4 Dinh dưỡng của cây lúa
1.7 CÁC THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT
1.7.1 Số bông trên đơn vị diện tích
1.7.2 Số hạt trên bông

1.7.3 Tỉ lệ hạt chắc
1.7.4 Trọng lượng 1000 hạt
1.7.5 Chỉ số thu hoạch
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
vii

Trang
iii
iv
v
vi
vii
ix
x
1
3
3
3
4
4
5
5
6
7
7
8
10
10
11
12

13
14
14
16
16
16
17
18
18
18
19
19
21
21
21
22
22
23
24


2.1 PHƯƠNG TIỆN THÍ NGHIỆM
2.1.1 Địa điểm và thời gian thực hiện thí nghiệm
2.1.2 Vật liệu thí nghiệm
2.1.2.1 Đất
2.1.2.2 Nước
2.1.2.3 Giống lúa
2.1.2.4 Phân rơm hữu cơ
2.1.2.5 Phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật
2.1.2.6 Một số dụng cụ và thiết bị khác

2.2 PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM
2.2.1 Bố trí thí nghiệm
2.2.2 Kỹ thuật canh tác
2.3 CÁC CHỈ TIÊU THEO DÕI VÀ THU THẬP
2.3.1 Các chỉ tiêu nông học
2.3.2 Các thành phần năng suất và năng suất
2.4 PHÂN TÍCH SỐ LIỆU THỐNG KÊ
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 GHI NHẬN TỔNG QUÁT
3.1.1 Đặc điểm đất đai và khí hậu
3.1.2 Thời gian sinh trưởng
3.1.3 Tình hình sâu bệnh
3.2 CHIỀU CAO CÂY VÀ SỐ CHỒI TRÊN MÉT VUÔNG
3.2.1 Chiều cao cây
3.2.2 Số chồi trên mét vuông
3.3 THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT VÀ NĂNG SUẤT
3.3.1 Thành phần năng suất
3.3.1.1 Số hạt trên bông
3.3.1.2 Phần trăm hạt chắc
3.3.1.3. Trọng lượng 1000 hạt
3.3.1.4 Số bông trên mét vuông
3.3.2 Năng suất
3.3.2.1 Năng suất thực tế
3.3.2.2 Năng suất lý thuyết
3.3.2.3 Chỉ số thu hoạch HI
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1 KẾT LUẬN
4.2 ĐỀ NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


viii

24
24
24
24
25
25
26
27
27
27
27
28
29
29
29
31
32
32
32
32
33
33
33
37
40
40
40

41
42
43
44
44
46
47
49
49
49
50
54


DANH SÁCH HÌNH
Hình
2
3.1

Tên Hình
Sơ đồ bố trí thí nghiệm trồng lúa vụ Hè Thu 2011

28

Năng suất thực tế (tấn/ha) của lúa MTL392 ở các mức phân
rơm hữu cơ khác nhau trong vụ Hè Thu 2011

3.2

Trang


44

Mối tương quan giữa năng suất thực tế (tấn/ha) và số bông/m2
của lúa MTL392 ở vụ Hè Thu 2011

ix

46


DANH SÁCH BẢNG
Bảng

Tên bảng

Trang

1.1

Thành phần dinh dưỡng của phân chuồng (đơn vị %)

10

1.2

Hàm lượng đạm và lân trong một số cây phân xanh (% chất khô)

11


1.3

Thành phần một số nguyên tố dinh dưỡng trong rơm và hạt lúa
(Dobermann và Fairhurst, 2000)

12

1.4

Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong than bùn miền Đông
Nam Bộ

14

2.1

Đặc tính vật lý và hóa học của đất thí nghiệm tại nhà lưới khoa
Nông Nghiệp và SHƯD, ĐHCT (Nguyễn Thành Hối, 2010)

24

2.2

Hàm lượng dinh dưỡng của phân ủ rơm rạ.

27

2.3

Lượng phân vô cơ bón cho lúa vụ Hè Thu 2011


29

3.1

Số liệu khí tượng thủy văn năm 2011 tại TP Cần Thơ

32

3.2

3.3
3.4
3.5

Ảnh hưởng của phân rơm hữu cơ đến chiều cao giống lúa
MTL392 ở vụ Hè Thu 2011 tại nhà lưới khoa Nông Nghiệp,
trường Đại Học Cần Thơ
Số chồi giồng lúa MTL392 ở các mức phân rơm hữu cơ, qua các
giai đoạn sinh trưởng trong vụ Hè Thu 2011
Số hạt/bông, % hạt chắc, trọng lượng 1000 hạt và số bông/m2
của lúa MTL392 ở thời điểm thu hoạch trong vụ Hè Thu 2011
Năng suất lý thuyết (tấn/ha) và chỉ số thu hoach (HI) của lúa
MTL392 ở các mức phân rơm hữu cơ khác nhau trong vụ Hè
Thu 2011

x

35


39
43
47


1

MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, cây lúa được xem là loại cây trồng chính quan trọng nhất trong
hệ thống sản xuất nông nghiệp. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chính là vùng
sản xuất lúa trọng điểm của cả nước, chiếm 52% diện tích, 52,6% sản lượng, 90%
lượng gạo xuất khẩu của cả nước (Tổng cục thống kê, 2009). Trong đó lúa chiếm
99% diện tích cây lương thực và 99,7 % sản lượng cây lương thực của vùng (Đặng
Kiều Nhân và ctv., 2002). Vì vậy, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ
hai trên thế giới, xuất khẩu gạo 6,0 triệu tấn/năm đã mang lại nguồn thu ngoại tệ
đáng kể cho Việt Nam trong những năm gần đây, việc áp dụng những tiến bộ về
khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất cùng với việc thâm canh tăng vụ liên tục 2-3
vụ trong năm làm cho đất bị suy thoái, bạc màu. Với diện tích trồng lúa khá lớn
cùng với nhu cầu xuất khẩu gạo ngày càng cao để đáp ứng tiêu thụ của các nước
trên thế giới. Vì vậy, sản lượng rơm rạ sau khi thu hoạch nông dân đã sử dụng cho
việc sản xuất nấm rơm, che phủ trong trồng trọt, làm thức ăn cho gia súc,…với số
lượng không nhiều. Phần lớn nông dân đốt rơm rạ bỏ hoặc không sử dụng. Chính
điều này, đã làm cho môi trường sinh thái mất cân bằng và quan trọng hơn là mất đi
một lượng đáng kể các chất N, P và C trên đồng ruộng và tăng lượng CO2 làm ô
nhiễm môi trường (Phạm Thị Phấn và Nguyễn Kim Chung, 2005).
Trong trồng trọt phân bón được xem là vật liệu không thể thiếu đối với cây
trồng, nhưng việc lạm dụng quá nhiều phân hoá học không những làm gia tăng kinh
phí mà còn ảnh hưởng đến đất trồng, ô nhiễm môi trường và mất cân đối dinh
dưỡng trong cây. Cho nên, hiện nay thế giới đang có khuynh hướng hướng đến một
nền nông nghiệp bền vững. Tiêu chí của sản xuất nông nghiệp bền vững có nhiều

vấn đề, nhưng tập trung là tạo ra sản phẩm sạch, an toàn và bảo vệ môi trường.
Theo Nguyễn Thành Hối (2008), thì việc đốt rơm rạ có gần như: 100%N, 25%P,
21%K và phần lớn lưu huỳnh bị mất. Điều này dẫn đến sự cạn kiệt độ phì nhiêu của
đất nếu không có cách cải thiện lại tính chất của đất.
Bên cạnh đó, nhu cầu sản xuất lúa gạo ngày càng tăng nhanh dẫn đến việc áp
dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh và tình trạng tăng vụ ngày càng nhiều. Qua
nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy lượng rơm rạ sau khi thu hoạch nếu được giữ lại


2

sẽ có tác dụng làm gia tăng chất hữu cơ, các cation trao đổi (CEC), tính chất vật lý
của đất (Achim Dorbermann và Thomas Fair hurst, 2000, Vũ Hữu Liêm, 1995) và
gia tăng số lượng CO2 hữu dụng cho cây cùng với hoạt động của vi sinh vật. Sử
dụng phân hữu cơ kết hợp phân hóa học sẽ làm tăng độ hữu dụng của đạm hơn là
bón đơn (Phạm Sỹ Tân, 1990). Theo một số kết quả nghiên cứu sử dụng phân hữu
cơ kết hợp với phân hóa học làm gia tăng năng suất lúa cao hơn đối chứng 9,9%
(Phạm Sỹ Tân, 1990, Lưu Hồng Mẫn, 2000).
Vì vậy, nhằm duy trì và phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững, cải
thiện được độ phì nhiêu cho đồng ruộng, giảm chi phí đầu tư, tăng thêm lợi nhuận
trong sản xuất lúa và hạn chế ô nhiễm môi trường từ rơm rạ sau thu hoạch. Vì thế,
đề tài: “Ảnh hưởng của phân rơm hữu cơ tới sự sinh trưởng và năng suất lúa
MTL392 trong vụ Hè Thu 2011” được thực hiện nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của
phân rơm hữu cơ đến sinh trưởng và năng suất lúa như thế nào, để định hướng cho
nghiên cứu tiếp theo.


3

CHƯƠNG 1

LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 CHẤT HƯU CƠ
1.1.1 Khái niệm chất hữu cơ
Chất hữu cơ của đất là hàm lượng chất hữu cơ có trong đất bao gồm xác bã
động thực vật chưa được phân hủy, sản phẩm chưa phân hủy của chúng và cả sinh
khối trong đất. Tuy nhiên, cần xác định rõ chất hữu cơ của đất bao gồm toàn bộ vật
liệu hữu cơ có trong đất gồm cả chất mùn (Dương Minh Viễn, 2003).
Chất hữu cơ là thành phần cơ bản trong đất, là yếu tố quyết định độ phì nhiêu
của đất, không có thành phần hữu cơ thì mẩu chất không thể biến thành đất. Thành
phần hữu cơ không chỉ là kho dinh dưỡng của cây trồng mà còn là tác nhân điều tiết
nhiều đến tính chất vật lý, hóa, sinh của đất theo hướng tích cực, ảnh hưởng rõ rệt
đến việc làm đất và sức sản xuất của đất (Ngô Thị Đào và Vũ Hữu Yêm, 2005).
Theo Nguyễn Thế Đặng (1999), thì chất hữu cơ là một thành phần cơ bản với
các sản phẩm phong hóa từ đá mẹ để tạo thành đất. Chất hữu cơ là một đặc trưng để
phân biệt đất với đá mẹ và một nguồn nguyên liệu để tạo nên độ phì của đất. Số
lượng và tính chất của chất hữu cơ có tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành
đất, quyết định nhiều tính chất: lý học, hóa học, sinh học và độ phì của đất.
Chất hữu cơ trong đất có thành phần phức tạp và có thể được chia làm 2
phần chính: Chất hữu cơ dễ phân hủy bao gồm tàn dư thực vật, xác động vật và vi
sinh vật, là nguồn cung cấp đạm và nhiều khoáng chất khác cho đất làm ảnh hưởng
đến năng suất cây trồng. Phần thứ 2 là chất hữu cơ khó phân hủy làm sự phóng
thích dinh dưỡng chậm nhưng đóng vai trò ổn định cấu trúc vật lý của đất.
Theo Lê Văn Khoa (2000), thành phần chất hữu cơ khó phân hủy có vai trò
quan trọng về mặt lý học đất như làm giảm dung trọng đất, tăng độ xốp, tăng cường
cấu trúc đất. Còn thành phần chất hữu cơ dễ phân hủy có nguồn gốc chủ yếu từ xác
bã thực vật, có vai trò quan trọng về mặt hóa học đất và được gọi là mùn của đất,
trong phân tích đất gọi là chất hữu cơ trong đất.


4


Chất hữu cơ khó phân hủy sẽ liên kết với khoáng sét tạo nên chất hữu cơ
chiếm từ 80 - 90% lượng C trong đất. Chất hữu cơ khi phân hủy có 60 - 80% tạo
thành khí CO2, 3 - 8% chuyển thành sinh khối của sinh vật trong đất, 3 - 8% hợp
chất không phải mùn và 10 - 30% hợp chất mùn. (Võ Thị Gương, 2006).
Hệ thống canh tác như hiện nay thì vấn đề duy trì độ phì nhiêu đất là không
thể thiếu nhằm đạt năng suất ổn định cho cây trồng. Độ phì nhiêu của đất là yếu tố
quyết định đến năng suất của cây trồng bao gồm nhiều yếu tố, trong đó hàm lượng
mùn trong đất được xem là yếu tố hàng đầu (Phạm Tiến Hoàng, 2003).
1.1.2 Nguồn gốc chất hữu cơ
Sinh vật sống trong đất, lấy dinh dưỡng từ đất để sinh trưởng và phát triển
khi chết để lại tàn tích hữu cơ. Trong quá trình sống chúng quang hợp tạo ra chất
hữu cơ khi chết chúng cũng để lại cho đất: thân, rễ, lá,.... (Trần Văn Chính, 2006).
Trong tự nhiên nguồn gốc chất hữu cơ duy nhất là tàn tích sinh vật, trong đó 4/5 do
thực vật cung cấp. Đất trồng trọt, ngoài tàn tích sinh vật ra còn nguồn bổ sung
thường xuyên là phân hữu cơ (Ngô Thị Đào và Vũ Hữu Yêm, 2005).
Theo Ngô Ngọc Hưng và ctv (2004), cho rằng dư thừa thực vật, phân xanh
thường chứa trung bình 75% H2O và 25% chất khô. Trong chất khô, chứa khoảng
90 - 95% các nguyên tố C, H, O khi đốt cháy sẽ tạo ra CO2, H2O. Ngoài ra, trong tro
còn lại sau khi đốt cháy, có thể tìm thấy nhiều nguyên tố dinh dưỡng thiết yếu được
cây trồng hấp thu từ đất như N, S, P, K và các nguyên tố vi lượng khác nhau.
1.1.3 Vai trò của chất hữu cơ
Chất hữu cơ có vai trò quan trọng đối với độ phì của đất là một trong những
yếu tố duy trì sản xuất và sử dụng đất bền vững góp phần cải thiện một số đặc tính
vật lý của đất, gắn kết các hạt đất làm cho đất tơi xốp, tế bào khổng trong đất được
duy trì, tăng khả năng giữ nước và giúp cây trồng phát triển tốt. Bên cạnh đó, theo
Nguyễn Thế Đặng và Nguyễn Thế Hùng (1999), cho rằng chất hữu cơ ít hay nhiều
ảnh hưởng đến tốc độ thấm của đất. Khi nhiều chất hữu cơ thì thấm nhanh hơn làm
giảm xói mòn đất và ngược lại khi nghèo chất hữu cơ thì thấm chậm gây dòng chảy



5

mạnh dẫn tới xói mòn. Chất hữu cơ là nguồn cung cấp dưỡng chất cho cây do mùn
bị phân hủy và hòa tan các chất có lợi trong đất (Hoàng Minh Châu, 1998).
1.1.3.1 Tác dụng cải tạo tính chất vật lý của đất
Theo Nguyễn Thế Đặng (1999), chất hữu cơ và mùn làm cải thiện thành
phần cơ giới và trạng thái kết cấu của đất. Chất hữu cơ ảnh hưởng rất tốt đến tính
chất vật lý của đất. Một trong những ảnh hưởng quan trọng nhất là cải thiện cấu trúc
đất. Việc tăng hàm lượng chất hữu cơ trong đất giúp tăng độ xốp của đất, giảm mật
độ và kích thướt các nhóm hạt đất aggregate, giảm dung trọng của đất, tăng độ phì
nhiêu, tăng tính ổn định của đoàn lạp (Võ Thị Gương, 2006).
Chất hữu cơ liên kết các hạt đất thành một tập hợp, làm tăng cấu trúc và độ
xốp của đất, là những đặc tính quan trọng quyết định đến sự sinh trưởng của rễ, trao
đổi khí, giữ nước và di chuyển nước trong đất. Theo kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Văn Tạo và ctv (2006), thì việc bón phân hữu cơ làm gia tăng hàm lượng
lân trong đất. Chất hữu cơ và mùn có tác dụng cải thiện trạng thái kết cấu đất, các
keo mùn gắn các hạt đất với nhau tạo thành những hạt kết tốt, bền vững, từ đó ảnh
hưởng đến toàn bộ lý tính đất như chế độ nước, chế độ khí, chế độ nhiệt, các tính
chất vật lý phổ biến của đất, việc làm đất cũng dễ dàng hơn (Trần Văn Chính, 2006).
Keo mùn kết hợp với cation và khoáng sét tạo ra các phức hệ keo ngưng tụ
giúp cho kết cấu đất tốt hơn. Mùn làm gia tăng khả năng thu nhiệt và giữ nhiệt, điều
hòa nhiệt độ đất, tránh sự thay đổi đột ngột về nhiệt độ đất (Ngô Thị Đào và Vũ
Hữu Yêm, 2005).
Theo Lê Hồng Tịch (1997), phân hữu cơ đóng vai trò quan trọng trong việc
phục hồi và nâng cao độ phì nhiêu đất thoái hóa, khối lượng phân hữu cơ vùi vào
đất càng lớn thì độ phì nhiêu phục hồi càng nhanh.
1.1.3.2 Tác dụng cải tạo hóa tính của đất
Theo Võ Thị Gương (2010), chất hữu cơ và mùn tham gia vào các phản ứng
hóa học của đất. Đặc biệt, mùn có tác dụng nâng cao tính đệm của đất, ảnh hưởng

đến trạng thái oxy hóa khử của đất, ảnh hưởng đến dung tích hấp thu và chi phối các
chỉ tiêu hóa tính khác của đất.


6

Chất hữu cơ có vai trò quan trọng về mặt hóa học đất như: Gia tăng CEC,
tăng khả năng giữ chất dinh dưỡng, tăng cường sự phóng thích chất dinh dưỡng từ
các thành phần khoáng trong đất bị hòa tan bởi các acid hữu cơ. Chất mùn của đất
bảo vệ các chất N, P, S chống lại sự phân hủy của vi sinh vật, cung cấp từ từ cho
cây. Chất mùn còn tạo thành các hợp chất chelate với các nguyên tố vi lượng, giữ
cho các chất này hiện diện ở dạng dễ hữu dụng cho cây (Lê Văn Khoa, 2000). Theo
Trần Văn Chính (2006), chất hữu cơ và mùn tham gia vào các phản ứng hóa học
của đất, cải thiện điều kiện oxy hóa, gắn liền với sự di động và kết tủa của các
nguyên tố vô cơ trong đất.
Theo Mai Văn Quyền (2007), đất lúa có nhiều chất hữu cơ so với các đất
khác nhưng cần bón thêm phân hữu cơ vì chất hữu cơ như là chất đệm ở trong đất
làm cho đất không chua ngay cả khi khô nước. Tuy nhiên, hàm lượng chất hữu cơ
trong đất cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: khí hậu, sa cấu và khả năng thoát
nước trong đất, thảm thực vật, sự luân canh, sự hoàn trả lại rơm rạ, việc bón phân
cho cây trồng (Lê Văn Khoa, 2000).
Sự phân hủy của phân hữu cơ ngoài việc cung cấp chất dinh dưỡng, năng
lượng cho cây trồng và vi sinh vật đất nó còn thúc đẩy sự cố định đạm từ khí quyển
nhưng chỉ xảy ra với chất mùn chứa hàm lượng đạm thấp, đồng thời giảm chỉ số
C/N của đất đặc biệt trên vùng đất phèn và lượng N, P, K tăng dần.
1.1.3.3 Tác dụng đến vi sinh vật của đất
Chất hữu cơ là nguồn cung cấp thức ăn quan trọng cho vi sinh vật đất, thức
ăn khoáng hóa lẫn thức ăn hữu cơ nên sau khi bón phân hữu cơ vào đất mật số vi
sinh vật tăng nhanh (Vũ Hữu Yên và ctv., 2001; Hà Thị Thanh Bình và ctv., 2002;
Nguyễn Như Hà và ctv., 2006). Chất hữu cơ còn là nguồn cung cấp CO2 cho thực

vật quang hợp (Trần Văn Chính, 2006). Chất hữu cơ đất chứa một số chất có hoạt
tính sinh học, kích thích sự phát sinh và phát triển của bộ rễ, làm nâng cao tính thẩm
thấu của màng tế bào, huy động dinh dưỡng. Bón phân hữu cơ đơn thuần hoặc bón
kết hợp với phân hóa học thì hệ vi sinh vật đất phát triển ổn định hơn dẫn đến sự
cân bằng sinh học trong đất bền vững hơn.


7

Trong quá trình phân giải, chất hữu cơ cung cấp thêm cho vi sinh vật cả thức
ăn khoáng lẫn thức ăn hữu cơ. Vì vậy, khi vùi phân hữu cơ vào đất thì vi sinh vật
trong đất sẽ phát triển nhanh. Một số chất có hóa tính sinh học được hình thành lại
tác động lên tăng trưởng và trao đổi của cây ( Ngô Ngọc Hưng, 2004).
Vi sinh vật đất có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì và nâng cao độ phì
nhiêu đất. Trong quá trình phân hủy chất hữu cơ, vi sinh vật có vai trò quan trọng
nhờ vậy mà chất hữu cơ được phân hủy và tạo nên chất hữu cơ mới gọi là mùn,
chiếm khoảng 85 - 90% chất hữu cơ được phân giải và cung cấp một số chất có hoạt
tính sinh học làm tăng cường sự trao đổi chất và sinh trưởng của cây. Vi sinh vật
mùn hóa hoạt động tốt khi tỷ lệ C/N từ 10 - 20, (Nguyễn Thế Đặng và Nguyễn Thế
Hùng, 1999; Hà Thị Thanh Bình và ctv., 2002; Nguyễn Như Hà và ctv., 2006).
Theo Võ Thị Gương và ctv., (2004), sự giảm mật số nấm, vi khuẩn ngoài
việc ảnh hưởng bất lợi đến các tiến trình sinh học như sự phân hủy xác bả hữu cơ,
tham gia vào các phản ứng sinh hóa trong đất làm tăng độ phì của đất nên ảnh
hưởng đến tính chất vật lý và hóa học của đất gây bất lợi cho cây trồng
1.2 PHÂN HỮU CƠ
1.2.1 Khái niệm phân hữu cơ
Phân hữu cơ là tên gọi chung cho các loại phân được sản xuất từ các vật liệu
hữu cơ như: Các dư thừa thực vật, rơm rạ; Phân súc vật, phân chuồng; Phân rác và
phân xanh (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004). Các loại phân hữu cơ khác nhau thì
chúng có thành phần và tính chất khác nhau. Phân hữu cơ được đánh giá chủ yếu

dựa vào hàm lượng chất hữu cơ (%), hoặc chất mùn có trong phân, sau khi phân
giải có khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng, đặc biệt hơn nó có khả
năng tăng hiệu lực phân hóa học, cải tạo và nâng cao độ phì nhiêu của đất.
Theo Ngô Thị Đào và Vũ Hữu Yêm (2005), có thể xem tất cả các loại chất
hữu cơ vùi vào đất sau khi phân giải có khả năng cung cấp thức ăn cho cây và cải
tạo đất là phân hữu cơ. Phân hữu cơ là những chất tươi hay đã hoai có nguồn gốc từ
động vật, thực vật bám vào đất để tăng năng suất cây trồng và tăng độ phì nhiêu cho
đất (Lê Văn Khoa và ctv, 1996).


8

1.2.2 Vai trò của phân hữu cơ đối với đất trồng lúa
Theo Nguyễn Hữu Chiếm và ctv (1999), sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
trong việc cải tiến các giống lúa cao sản cùng với sự phát triển nhanh của hệ thống
thủy lợi trong sản xuất nông nghiệp, dẫn đến quá trình thâm canh tăng vụ ngày càng
phát triển nhanh chóng.
Ở những vùng canh tác lúa 3 - 4 vụ/năm, người dân thường đốt rơm hoặc
dọn sạch để tranh thủ cho vụ tiếp theo, vì vậy dần dần làm cho hàm lượng chất hữu
cơ trong đất nghèo đi, lớp đất canh tác mỏng dần. Do đó, năng suất lúa ngày càng
giảm cho dù chúng ta có bón phân hóa học với liều lượng cao. Cung cấp phân hữu
cơ là một biện pháp kỹ thuật có hiệu quả cao trong việc tăng độ phì nhiêu của đất,
ổn định năng suất lúa, giúp tăng hoạt động của vi sinh vật và cải thiện các tính chất
vật lý, hóa học của đất. (Phạm Thị Phấn và ctv, 2002; Nguyễn Kim Chung, 2005).
Độ phì nhiêu đất ảnh hưởng lớn đến năng suất lúa, do vậy khi đất đã suy
giảm độ phì nhiêu dù có cung cấp một lượng lớn chất đạm, lân, kali thì năng suất
lúa vẫn đạt rất thấp (Võ Thị Gương, 2000; Vo Thi Guong & Jean Claude Revel,
2001). Việc giữ lại rơm rạ sau khi thu hoạch làm gia tăng hàm lượng hữu cơ bao
gồm cả trung lượng và vi lượng, các cation trao đổi (CEC), tính chất vật lý của đất
(Achim Dorbermanm và Thomas Fair hurst, 2000; Vũ Hữu Liêm, 1995). Ngoài ra,

còn làm tăng số lượng CO2 hữu dụng cho cây và hoạt động của vi sinh vật. Sử dụng
phân hóa học kết hợp với phân hữu cơ làm tăng độ hữu dụng của đạm hơn là bón
đơn (Phạm Sỹ Tân, 1990).
Sự hoàn trả chất mùn cho đất qua con đường chuyển hóa các phế phẩm hữu
cơ không những làm tăng năng suất lúa mà còn cải tạo đất, giúp cây tăng sức đề
kháng sâu bệnh, thúc đẩy hoạt động mạnh của vi sinh vật đất và sẽ tiết kiệm chi phí
đầu tư, phân bón, thuốc hóa học và giảm chi phí sản xuất. Ngoài ra còn có tác dụng
ngăn cản các nguyên tố gây độc trong sản phẩm nông nghiệp làm cho sản phẩm
được sạch hơn ( Vũ Hữu Yên, 1995). Đây cũng là một biện pháp quản lý dinh
dưỡng tổng hợp cho cây trồng theo hướng phát triển nền nông nghiệp bền vững
(Tran Thi Ngoc Son & Ranmaswami, 1997).


9

Việc thâm canh có thể làm cạn kiệt các nguyên tố khoáng, nhất là các nguyên
tố không được bổ sung vào đất (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004). Đất bị suy thoái sẽ
là điều kiện không thuận lợi cho các quá trình, phản ứng hóa học có liên quan đến
sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng (Ngô Thị Hồng Liên, 2006).
Theo Đỗ Thị Thanh Ren (1999), chất lân được tìm thấy nhiều nhất trong các
loại phân hữu cơ nhất là trong mùn và các vật liệu hữu cơ khác. Ở tầng canh tác lân
hữu cơ chiếm 50% tổng số lân trong đất và là nguồn cung cấp lân chủ yếu cho cây
lúa (Hà Thị Thanh Bình và ctv, 2002). Đối với năng suất lúa, đạm được xem là
nguyên tố hàng đầu ảnh hưởng đến năng suất lúa, tuy nhiên việc bón phân vô cơ
cao sẽ làm cho ruộng lúa mất đạm càng cao và sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng phân
bón. Nguồn đạm hữu cơ chiếm khoảng 95% đạm tổng số trong đất thông qua sự
khoáng hóa từ các hợp chất hữu cơ rất quan trọng, đáp ứng nguồn đạm cho cây lúa
khoảng 80% (Đỗ Thị Thanh Ren, 1999).
Trên thế giới, nhiều kết quả nghiên cứu đã chứng minh dinh dưỡng cung cấp
từ rơm rạ được xác định là bền bỉ và ổn gần như suốt vụ lúa. Trên cơ sở 5 tấn rơm

rạ có chứa khoảng 30 kg đạm sẽ cung cấp bổ sung cùng với phâm đạm hóa học để
tạo nên năng suất lúa, đồng thời sử dụng rơm rạ lâu ngày còn giúp gia tăng hàm
lượng chất hữu cơ trong đất và đây cũng là nguồn cung cấp chất đạm quan trọng
cho cây lúa. Ngoài ra, trong rơm rạ lúa có chứa kali hữu dụng khoảng 1,0 đến 3,7%
sẽ cung cấp khoảng 100 kg kali và giúp tăng kali hữu dụng trong đất lúa. Các
nguyên tố dinh dưỡng khác cũng được ghi nhận trong rơm rạ như lân (7 kg), lưu
huỳnh (6 kg), magie (5 kg), calci (20 kg) và silic (350 kg) vì thế khi vùi rơm rạ
giúp gia tăng năng suất 0,4 tấn/ha/vụ so với việc đốt cháy và lấy rơm ra khỏi ruộng.
Các chất dinh dưỡng trong rơm rạ được vùi vào đất góp phần gia tăng hiệu quả phân
bón (Ponnamperuma, 1984). Kết quả phân tích đất trong thí nghiệm dài hạn năm
(1994-1999) ở Parwanipur, Nepal cho thấy ruộng được cung cấp phân hữu cơ làm
gia tăng lượng carbon tổng số từ 18% đến 62% và đạm tổng số từ 15% đến 48%
trong đất so với ruộng chỉ bón phân hóa học.
Hiện nay, tại Việt Nam nguồn rơm rạ được sử lý bằng phươg pháp sinh học
nhờ vào các vi sinh vật có sẳn trong tự nhiên và vi sinh vật thuần chủng bổ sung
trong quá trình xử lý là chủ yếu giảm sự ô nhiễm môi trường và đáp ứng nhu cầu về


10

phân bón hữu cơ sinh học. Thêm vào đó rơm rạ là nguồn nguyên liệu sạch, rất thích
hợp cho việc làm phân ủ hữu cơ sinh học. Theo Đỗ Ánh (1999), một số nghiên cứu
gần đây cho ta thấy nhờ sử dụng cân đối phân khoáng và phân rơm ủ mà năng suất
lúa tăng đến 30% ngoài ra phân ủ còn là nguồn cung cấp hữu cơ quan trọng cho đất
đồng thời cải tạo tính chất lý hóa của đất, góp phần đảm bảo nền nông nghiệp bền
vững, bảo đảm năng suất cao ổn định và nâng cao độ phì nhiêu đất).
1.3 MỘT SỐ LOẠI PHÂN HỮU CƠ
1.3.1 Phân chuồng
Phân chuồng là một hỗn hợp phân gia súc, gia cầm với xác bả thực vật. Phân
chứa đủ ba chất dinh dưỡng cơ bản là đạm, lân, kali cần thiết cho tất cả các loại cây

trồng. Ngoài ra phân còn chứa nhiều nguyên tố vi lượng như B, Cu, Mo, Mn, …và
những chất kích thích sinh trưởng như Auxin, heteroauxin, các loại vitamin B,
vitamin C…. (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004). Hằng năm, thế giới sản xuất 14 tỉ tấn
tương đương 7 - 8 triệu tấn N, 3 - 4 triệu tấn P2O5 và 8 - 9 triệu tấn K2O. Ở nước ta,
hàng năm nông dân sản xuất và sử dụng khoảng 50 triệu tấn, chủ yếu là phân heo và
trâu bò, tương đương với 270.000 tấn đạm (Nguyễn Thị Quí Mùi, 1999).
Những chất dinh dưỡng có trong phân chuồng đều là những chất tương đối
dễ tiêu, nhận được từ sự khoáng hóa các hợp chất hữu cơ. Do đó, bón phân chuồng
với liều lượng thích hợp sẽ cung cấp thức ăn từ từ cho cây trồng, không gây hiện
tượng héo lá, hoặc lốp đổ như trường hợp bón nhiều phân đạm hóa học dễ hòa tan.
Bảng 1.1 Thành phần dinh dưỡng của phân chuồng (đơn vị %)

Loại phân H2O

N

P2O5

K2O

CaO

MgO

Lợn

82.0

0.80


0.41

0.26

0.09

0.10

Trâu bò

83.1

0.29

0.17

1.00

0.35

0.13

Ngựa

75.7

0.44

0.35


0.35

0.15

0.12



56.0

1.63

1.54

0.85

2.40

0.74

Vịt

56.0

1.00

1.40

0.62


1.70

0.35

(Nguồn: Cục Khuyến nông Khuyến lâm, 2004)


11

Trong 10 tấn phân chuồng có thể có một số nguyên tố vi lượng như sau:
Bo: 50 – 200 g;

Mn: 500 – 2000 g;

Co: 2 – 10 g

Cu: 50 – 150 g;

Zn: 200 – 1000 g;

Mo: 2 – 25 g

Muốn cho phân chuồng có hiệu quả cao, cần phải bảo quản tốt. Phân chuồng
dùng để bón lót, liều lượng bón tùy theo loại cây và loại đất. Phân chuồng có thể
bón vãi, sao đó vùi lấp đất ngay để tránh mất đạm. Đối với phân chuồng chưa hoai
mục, nên bón từ 7 - 15 ngày trước khi gieo.
1.3.2 Phân xanh
Phân xanh là loại phân hữu cơ, sử dụng các loại bộ phận trên mặt đất của cây.
Phân xanh thường được sử dụng tươi, không qua quá trình ủ. Cây phân xanh thường
là cây họ đậu, ngoài ra một số loài cây thuộc các họ khác như cỏ lào, cây quỳ dại,

v.v... để làm phân xanh. Các loại cây họ đậu thường có các vi sinh vật cộng sinh
sống trên rễ và giúp cây hút đạm từ không khí. Cây họ đậu còn có khả năng hút lân
khó tiêu và kali từ những lớp đất sâu mạnh hơn nhiều loài cây khác (Ngô Ngọc
Hưng và ctv, 2004).
Bảng 1.2 Hàm lượng đạm và lân trong một số cây phân xanh (% chất khô)

Cây phân xanh

Đạm (N)

Lân (P2O5)

Muồng lá tròn

2,74

0,39

Điền thanh

2,66

0,28

Keo dậu

2,85

0,62


Cốt khí

2,43

0,27

Muồng sợi

1,22

0,17

Đậu đen

1,70

0,32

Bèo hoa dâu

4,75

0,64

Bèo tấm

2,80

0,39


(Cục Khuyến nông Khuyến lâm, 2004)

Các loại cây phân xanh rất phong phú, có vai trò rất lớn trong việc giữ gìn
dinh dưỡng cho đất. Ngoài việc được sử dụng làm phân bón cho cây trồng, các loài
cây phân xanh còn được dùng để làm cây phủ đất, cây che bóng mát, cây giữ đất


12

chống xói mòn, cây cải tạo đất và nâng cao độ phì nhiêu của đất (Ngô Ngọc Hưng
và ctv, 2004).
Nhằm hạn chế sự gây hại của acid hữu cơ sinh ra trong quá trình phân hủy và
giúp cho cây phân xanh phân hủy nhanh, nên bón kết hợp 5kg vôi /100kg phân xanh
tươi (Watanabe, 1984).
1.3.3 Phân rơm rạ
Việt Nam là một nước nông nghiệp, có diện tích trồng lúa đáng kể. Rơm rạ
được xem là nguồn cung cấp chất hữu cơ chủ yếu cho ngươi dân trồng lúa, thành
phần dinh dưỡng trong rơm rạ chứa khoảng 0.6% N; 0,1% P; 0,1% S; 1,5% K; 5%
Si và 40% C. Nếu tỉ lệ rơm : hạt là 2:3 thì tổng lượng rơm rạ khoảng 600 triệu tấn
(Đỗ Thị Thanh Ren, 1999). Việc loại bỏ rơm rạ ra khỏi ruộng cũng là nguyên nhân
làm cạn kiệt nguồn Kali trong đất và việc đốt rơm rạ sau thu hoạch sẽ làm mất đạm
(N) và mất ít nhất 25%P, 20%K. Vì vậy, nếu sau khi thu hoạch lúa lượng rơm rạ
được giữ lại và có biện pháp xử lý thích hợp thì lượng dinh dưỡng từ rơm rạ được
giữ lại sẽ góp phần cung cấp thêm chất dinh dưỡng cho đất từ 28,8 - 33,5 kg N/ha;
10 - 11,8% kg P2O5/ha và 38,5 - 49,3 kg K2O/ha.
Bảng 1.3 Thành phần một số nguyên tố dinh dưỡng trong rơm và hạt lúa (Dobermann và
Fairhurst, 2000)

Đề mục


Đơn vị

N

P

K

S

Si

Rơm khô

%

0,5 - 0,8

0,07 - 0,12

1,2 -1,7

0,05 - 0,1

4 -7

Lượng lấy đi

Kg/ha


5-8

0,7 - 1,2

12 -17

0,5 - 1,0

40 -70

Kg/ha

40

6

85

5

380

bởi 1 tấn
rơm/ha
Lượng lấy đi
bởi 6 tấn
rơm/ha
HI = 0,5
Ghi chú: HI (Harvest Index) = Chỉ số thu hoạch


Trong điều kiện hiện nay việc quản lý nguồn rơm rạ có sẵn trên đồng ruộng
rất có ý nghĩa để bù trả lại chất hữu cơ cho đất. Trên thế giới, nhiều kết quả nghiên


13

cứu đã chứng minh dinh dưỡng cung cấp từ rơm rạ là bền bỉ và ổn định. Bên cạnh
đó, các chất dinh dưỡng trong rơm rạ được vùi vào đất góp phần làm gia tăng hiệu
quả của các loại phân bón khác (Võ Thị Gương, 2000).
1.3.4 Phân vi sinh vật
Phân vi sinh vật là những chế phẩm trong đó có chứa các loài vi sinh vật có
ích. Có nhiều nhóm vi sinh vật có ích bao gồm vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn được sử
dụng để làm phân bón. Trong số đó quan trọng là các nhóm vi sinh vật cố định đạm,
hoà tan lân, phân giải chất hữu cơ, kích thích sinh trưởng cây trồng, v.v …
Theo Ngô Ngọc Hưng và ctv, (2004) thông thường có 3 nhóm vi sinh vật
được dùng trong sản xuất phân sinh học:
Phân vi sinh vật cố định đạm. Phần lớn các loài vi khuẩn cố định đạm
thường sống cộng sinh với các cây họ đậu các loài như: tảo lam (Cyanobacterium),
vi khuẩn Azotobacter, Bradyrhizobium, Rhyzobium; xạ khuẩn Actinomyces,
Klebsiella. Chúng xâm nhập vào rễ cây và sống cộng sinh trong đó, tạo thành các
nốt sần ở rễ cây. Sử dụng phân vi sinh vật cố định đạm có thể làm giảm lượng đạm
vô cơ bón cho cây, nên ít gây ô nhiễm môi trường và ít tốn kém.
Vi sinh vật hoà tan lân. Cây chỉ có thể hút được lân từ đất dưới dạng hoà tan
trong dung dịch đất. Nhóm vi sinh vật này được các nhà khoa học đặt tên cho là
nhóm HTL (hoà tan lân, các nước nói tiếng Anh đặt tên cho nhóm này là PSM –
phosphate solubilizing microorganisms). Chúng có khả năng hòa tan phosphate sắt,
phosphorit, apatite, chuyển lân không ta thành lân dễ tan. Sử dụng các chế phẩm vi
sinh vật HTL đem lại hiệu quả cao ở những vùng đất cây bị thiếu lân (Nguyễn Thị
Quí Mùi, 1999).
Vi sinh vật kích thích tăng trưởng cây. Gồm một nhóm nhiều loài vi sinh

vật khác nhau, trong đó có vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn, v.v.. Nhóm này được các nhà
khoa học phân lập ra từ tập đoàn vi sinh vật đất.
Người ta sử dụng những chế phẩm gồm tập đoàn vi sinh vật được chọn lọc
để phun lên cây hoặc bón vào đất làm cho cây sinh trưởng và phát triển tốt, ít sâu
bệnh, tăng năng suất. Chế phẩm này còn làm tăng khả năng nảy mầm của hạt, tăng


×