Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

50 Tinh huong dau thau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.99 KB, 42 trang )

1.

Xác định cấp doanh nghiệp để hưởng ưu đãi trong đấu thầu

(BĐT) - Công ty A là doanh nghiệp (DN) chuyên ngành xây dựng, trong năm 2017 có số lao động
tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm là 140 người, tổng doanh thu của năm là 49 tỷ đồng và
tổng nguồn vốn là 19 tỷ đồng.
Hỏi: Công ty A có đủ điều kiện tham gia dự thầu các gói thầu xây lắp có giá gói thầu không quá 5 tỷ đồng dành cho nhà
thầu là DN cấp nhỏ và siêu nhỏ hay không?
Trả lời: Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 6 Khoản 3) quy định đối với gói thầu xây lắp có giá gói thầu không quá 5 tỷ
đồng chỉ cho phép nhà thầu là DN cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về DN tham gia đấu thầu.
Khoản 1 Điều 4 Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa (DNNVV) quy định: DNNVV bao gồm DN siêu nhỏ, DN nhỏ và DN vừa,
có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí sau đây:
(i) Tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng; (ii) Tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng.
Như vậy, tiêu chí lao động là tiêu chí cố định khi xác định DNNVV. Ngoài tiêu chí lao động, DNNVV phải đáp ứng thêm
một tiêu chí về tài chính đó là tổng nguồn vốn hoặc doanh thu của năm trước liền kề.
Nghị định số 39/2018/NĐ-CP (NĐ39) quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV (thay thế Nghị định số
56/2009/NĐ-CP và có hiệu lực từ ngày 11/3/2018) cụ thể hóa tiêu chí xác định DN theo quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa
như sau: DN nhỏ trong lĩnh vực xây dựng theo quy định có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không
quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng (Điều 6
Khoản 2).
Trong đó, số lao động tham gia bảo hiểm xã hội là toàn bộ số lao động do DN quản lý, sử dụng và trả lương, trả công
tham gia bảo hiểm xã hội theo pháp luật về bảo hiểm xã hội (theo quy định tại Điều 8 NĐ39). Số lao động tham gia bảo
hiểm xã hội bình quân năm được tính bằng tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội của năm chia cho số tháng trong
năm và được xác định trên chứng từ nộp bảo hiểm xã hội của năm trước liền kề mà DN nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội.
Trường hợp DN hoạt động dưới 01 năm, số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân được tính bằng tổng số lao
động tham gia bảo hiểm xã hội của các tháng hoạt động chia cho số tháng hoạt động.
Theo quy định tại Điều 9 NĐ39, tổng nguồn vốn được xác định trong bảng cân đối kế toán thể hiện trên Báo cáo tài chính
của năm trước liền kề mà DN nộp cho cơ quan quản lý thuế. Trường hợp DN hoạt động dưới 01 năm, tổng nguồn vốn
được xác định trong bảng cân đối kế toán của DN tại thời điểm cuối quý liền kề thời điểm doanh nghiệp đăng ký hưởng
nội dung hỗ trợ.


Tổng doanh thu của năm là tổng doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ của DN và được xác định trên Báo cáo tài
chính của năm trước liền kề mà DN nộp cho cơ quan quản lý thuế. Trường hợp DN hoạt động dưới 01 năm hoặc trên 01
năm nhưng chưa phát sinh doanh thu thì DN căn cứ vào tiêu chí tổng nguồn vốn quy định tại Điều 9 NĐ39 để xác định
DNNVV.
Việc xác định cấp của DN trong lĩnh vực xây dựng cần căn cứ các quy định nêu trên. Theo đó, trường hợp Công ty A có
số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm lớn hơn 100 người thì không được coi là DN cấp nhỏ và siêu nhỏ.

2.

Làm rõ HSDT sau thời hạn bên mời thầu yêu cầu

(BĐT) - Khoản 1, Điều 16 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định, sau khi mở thầu, nhà thầu có
trách nhiệm làm rõ HSDT theo yêu cầu của bên mời thầu.


Nhà thầu X tham dự một gói thầu do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện A làm bên mời thầu. Trong quá trình
đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT) của Nhà thầu X, ngày 5/9/2017, Bên mời thầu đã phát hành văn bản yêu cầu Nhà thầu X
làm rõ HSDT. Văn bản này nêu rõ: “Trong vòng 3 ngày làm việc (từ ngày 5/9/2017 đến hết ngày 7/9/2017), Nhà thầu X
phải có văn bản gửi Bên mời thầu để làm rõ HSDT. Nếu sau 3 ngày nêu trên, Nhà thầu X không có công văn phản hồi thì
HSDT của Nhà thầu X được coi là không đáp ứng yêu cầu của HSMT và bị loại”.
Do trong thời hạn 3 ngày làm việc nêu trên Nhà thầu X chưa chuẩn bị kịp nội dung làm rõ HSDT nên chỉ nộp một phần
tài liệu làm rõ HSDT, đến ngày thứ 4 nhà thầu này mới nộp đủ tài liệu làm rõ HSDT theo yêu cầu của Bên mời thầu. Bên
mời thầu đã nhận được văn bản làm rõ HSDT kèm theo các tài liệu cần thiết để làm rõ HSDT của Nhà thầu X vào ngày
8/9/2017 và thời điểm này vẫn đang trong quá trình đánh giá HSDT của gói thầu đó.
Hỏi: Bên mời thầu phải tiếp nhận và xử lý tài liệu làm rõ HSDT của Nhà thầu X như thế nào để phù hợp quy định của
pháp luật về đấu thầu?
Trả lời: Khoản 1, Điều 16 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định, sau khi mở thầu, nhà thầu có trách nhiệm làm rõ
HSDT theo yêu cầu của bên mời thầu. Trường hợp HSDT của nhà thầu thiếu tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực
và kinh nghiệm thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung tài liệu để chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh
nghiệm. Đối với các nội dung đề xuất về kỹ thuật, tài chính nêu trong HSDT của nhà thầu, việc làm rõ phải bảo đảm

nguyên tắc không làm thay đổi nội dung cơ bản của HSDT đã nộp, không thay đổi giá dự thầu.
Theo hướng dẫn của Trung tâm Hỗ trợ đấu thầu thuộc Cục Quản lý đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc làm rõ HSDT
chỉ được thực hiện giữa bên mời thầu và nhà thầu có HSDT cần làm rõ. Nội dung làm rõ HSDT được bên mời thầu bảo
quản như một phần của HSDT. Đối với nội dung làm rõ ảnh hưởng trực tiếp đến việc đánh giá tư cách hợp lệ, năng lực,
kinh nghiệm và yêu cầu kỹ thuật, tài chính nếu quá thời hạn làm rõ mà nhà thầu không có văn bản làm rõ hoặc có văn bản
làm rõ nhưng không đáp ứng được yêu cầu làm rõ của bên mời thầu thì bên mời thầu sẽ đánh giá HSDT của nhà thầu
theo HSDT nộp trước thời điểm đóng thầu.
Bên mời thầu cần lưu ý quy định về thời gian dành cho nhà thầu làm rõ HSDT phù hợp, tránh tình trạng quy định thời
gian làm rõ HSDT quá ngắn, không phù hợp, dẫn đến nhà thầu không thể thu thập, chuẩn bị đủ tài liệu để làm rõ HSDT
theo đúng thời hạn bên mời thầu yêu cầu. Trường hợp nhà thầu nộp bổ sung tài liệu làm rõ HSDT sau thời hạn mà bên
mời thầu yêu cầu nhưng vẫn đang trong quá trình đánh giá HSDT thì bên mời thầu vẫn phải tiếp nhận, xem xét và đánh
giá các tài liệu do nhà thầu bổ sung, làm rõ để tăng tính cạnh tranh trong đấu thầu.
Trường hợp cần thiết, bên mời thầu có thể gửi văn bản yêu cầu nhà thầu có khả năng trúng thầu đến làm việc trực tiếp với
bên mời thầu để làm rõ HSDT. Nội dung làm rõ HSDT phải được ghi cụ thể thành biên bản. Việc làm rõ HSDT trong
trường hợp này phải bảo đảm tính khách quan, minh bạch.
Trong trường hợp nêu trên, Nhà thầu X nộp bổ sung tài liệu làm rõ HSDT sau thời hạn mà Bên mời thầu yêu cầu nhưng
vẫn trong quá trình đánh giá HSDT thì Bên mời thầu vẫn phải tiếp nhận, xem xét và đánh giá để tăng tính cạnh tranh
trong đấu thầu.

3.

Tự gửi tài liệu để làm rõ năng lực

(BĐT) - Một nhà thầu vừa có văn bản gửi Báo Đấu thầu hỏi về việc sau khi xem lại hồ sơ dự thầu
(HSDT) đã nộp thì phát hiện ra HSDT của mình thiếu về năng lực và kinh nghiệm theo yêu cầu của
hồ sơ mời thầu (HSMT).


Chẳng hạn như có bằng cấp, chứng chỉ đại học của công nhân nhưng chưa đủ năm (thiếu tháng) theo yêu cầu của HSMT
(ngày cấp bằng là 20/8/2014, ngày đóng thầu là 12/7/2017, thiếu hơn 1 tháng so với yêu cầu 3 năm của HSMT nên chưa

đạt), có hợp đồng tương tự nhưng thiếu giá trị theo yêu cầu của HSMT.
Hỏi: Bên mời thầu có được phép đánh giá nhà thầu trên không đạt về năng lực và kinh nghiệm theo yêu cầu của HSMT
hay phải gửi văn bản yêu cầu nhà thầu làm rõ bổ sung về năng lực và kinh nghiệm? Nhà thầu có được phép thay thế bổ
sung làm rõ hợp đồng tương tự và nhân sự lao động khác không?
Trả lời: Theo quy định tại Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 16 khoản 1 và 2) thì sau khi mở thầu, nhà thầu có trách
nhiệm làm rõ HSDT theo yêu cầu của bên mời thầu, bổ sung tài liệu để chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh
nghiệm. Đối với các nội dung đề xuất về kỹ thuật, tài chính nêu trong HSDT của nhà thầu, việc làm rõ phải bảo đảm
nguyên tắc không làm thay đổi nội dung cơ bản của HSDT đã nộp, không thay đổi giá dự thầu. Trường hợp sau khi đóng
thầu, nếu nhà thầu phát hiện HSDT thiếu các tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm thì nhà thầu
được phép gửi tài liệu đến bên mời thầu để làm rõ tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm của mình. Bên mời thầu có
trách nhiệm tiếp nhận những tài liệu làm rõ của nhà thầu để xem xét, đánh giá; các tài liệu bổ sung, làm rõ về tư cách hợp
lệ, năng lực và kinh nghiệm được coi như một phần của HSDT.
Trao đổi với Báo Đấu thầu, chuyên gia về đấu thầu cho rằng, trong quá trình đánh giá HSDT, nếu thấy nhà thầu không đạt
về năng lực và kinh nghiệm theo yêu cầu của HSMT thì bên mời thầu cần gửi văn bản yêu cầu nhà thầu làm rõ về năng
lực và kinh nghiệm. Nhà thầu được phép bổ sung, thay thế hợp đồng tương tự để chứng minh năng lực của mình vì điều
này không làm thay đổi bản chất của nhà thầu. Còn đối với vấn đề nhân sự thì nhà thầu chỉ được phép bổ sung, làm rõ
năng lực, kinh nghiệm của nhân sự đã đề xuất chứ không được thay đổi nhân sự tham gia đấu thầu.
Về vấn đề nhân sự tham gia đấu thầu có bằng cấp, chứng chỉ đại học nhưng thiếu tháng theo yêu cầu của HSMT (ngày
cấp bằng là 20/8/2014, ngày đóng thầu là 12/7/2017 thiếu hơn 1 tháng so với yêu cầu của 3 năm của HSMT) thì có 2 cách
tính: cách tính tương đối và cách tính tuyệt đối. Nếu tính tương đối thì từ năm 2014 – 2017 được xem là 3 năm; còn nếu
tính tuyệt đối thì 3 năm phải tròn 36 tháng (đối với trường hợp này thì HSMT cần phải nói rõ là bằng cấp, chứng chỉ của
nhân sự có thời hạn đủ 3 năm kinh nghiệm, tính đến thời điểm đóng thầu).

4.

Chỉ định thầu di dời công trình hạ tầng kỹ thuật

(BĐT) - Luật Đấu thầu (Điểm đ Khoản 1 Điều 22) quy định một trong các trường hợp được áp
dụng chỉ định thầu là gói thầu di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật do một đơn vị chuyên ngành
trực tiếp quản lý để phục vụ công tác giải phóng mặt bằng.

Hỏi: Đối với gói thầu di dời công trình hạ tầng kỹ thuật thì có thể chỉ định thầu cho đơn vị không trực tiếp quản lý công
trình nhưng đáp ứng các điều kiện về năng lực, kinh nghiệm được hay không?
Trả lời: Một trong các trường hợp được áp dụng chỉ định thầu quy định tại Khoản 1 Điều 22 Luật Đấu thầu là gói thầu di
dời các công trình hạ tầng kỹ thuật do một đơn vị chuyên ngành trực tiếp quản lý để phục vụ công tác giải phóng mặt
bằng. Việc chỉ định thầu trong trường hợp này không cần căn cứ hạn mức chỉ định thầu quy định tại Điểm e Khoản này.
Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 55 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, nhà thầu được xác định để nhận hồ sơ yêu cầu
khi có tư cách hợp lệ theo quy định tại các điểm a, b, c, d, e và h Khoản 1 Điều 5 Luật Đấu thầu và có đủ năng lực, kinh
nghiệm thực hiện gói thầu.
Đối với câu hỏi trên, nếu đơn vị chuyên ngành trực tiếp quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật (gọi tắt là đơn vị chuyên
ngành) có đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện gói thầu di dời công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ giải phóng mặt bằng


thì được phép áp dụng hình thức chỉ định thầu. Trong đó, đơn vị chuyên ngành cần được hiểu là đơn vị quản lý công trình
hạ tầng kỹ thuật, đồng thời được giao quản lý, lưu giữ các hồ sơ, tài liệu kỹ thuật liên quan đến công trình, từ đó bảo đảm
tính thống nhất khi đấu nối hạ tầng, hạn chế sự gián đoạn trong cung cấp sản phẩm, dịch vụ. Trong trường hợp này, việc
giao cho các đơn vị khác thực hiện là không khả thi do các đơn vị này không đủ thông tin để thực hiện di dời công trình
trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất trong đấu nối hạ tầng và sự liên tục trong cung cấp sản phẩm, dịch vụ có liên quan.
Trường hợp đơn vị chuyên ngành không đủ năng lực, kinh nghiệm, đồng thời có nhiều doanh nghiệp khác đủ năng lực
thực hiện công việc di dời công trình sau khi chủ đầu tư công bố các hồ sơ, tài liệu kỹ thuật thì không áp dụng hình thức
chỉ định thầu, mà phải áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu khác theo quy định của pháp luật về đấu thầu cho phù
hợp.
Tóm lại, đối với gói thầu di dời công trình hạ tầng kỹ thuật thì việc chỉ định thầu phải đầy đủ hai yếu tố: Thứ nhất, chỉ
định thầu cho đơn vị chuyên ngành trực tiếp quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; thứ hai, đơn vị chuyên ngành trực tiếp
quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật phải đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm của gói thầu.

5.

Phân biệt EPC với PPP

(BĐT) - Công ty tư nhân X đang thực hiện dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng theo hình thức

EPC.
Hỏi: Trường hợp Nhà nước thuê công ty tư nhân thực hiện thì dự án áp dụng gói thầu EPC như trên có được coi là dự án
PPP không?
Trả lời: Gói thầu EPC là gói thầu hỗn hợp. EPC là các chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Engineering - Procurement of
goods - Construction. Khái niệm này được hiểu là trong cùng một gói thầu, một hợp đồng, nhà thầu được giao thực hiện
cả ba nội dung công việc: tư vấn (ví dụ: khảo sát, thiết kế, giám sát); mua sắm hàng hóa mà cụ thể là vật tư, thiết bị cho
dự án; và thi công xây lắp công trình.
Trong khi đó, đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện, quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ tầng,
cung cấp các dịch vụ công.
Trong các dự án áp dụng gói thầu EPC, nhà thầu thực hiện xây dựng công trình, khi hoàn thành, công trình được giao cho
Nhà nước quản lý, vận hành và nhà thầu được thanh toán các chi phí và lợi nhuận hợp lý. Nhà thầu không chia sẻ các rủi
ro xảy ra trong quá trình quản lý, vận hành dự án với Nhà nước sau khi đã hết thời gian bảo trì công trình. Bên cạnh đó,
thời gian thực hiện các dự án này chỉ bao gồm thời gian chuẩn bị dự án và xây dựng công trình, ngắn hơn rất nhiều so với
thời hạn thực hiện của một dự án PPP.
Về tài chính, việc huy động tài chính cho dự án EPC thường đơn giản hơn so với một dự án PPP. Trong các dự án áp
dụng gói thầu EPC, nhà thầu chỉ có trách nhiệm huy động vốn để đảm bảo việc hoàn thành công trình xây dựng và
thường nhận được ngay khoản thanh toán sau khi chuyển giao công trình. Trong khi đó, đối với dự án PPP, nhà đầu tư
phải đàm phán với các tổ chức tài chính để có được những khoản vay dài hạn và được hoàn trả từ nguồn thu của dự án
trong suốt thời hạn hợp đồng.
Vì vậy, trường hợp Nhà nước thuê công ty tư nhân thực hiện dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng áp dụng gói thầu EPC
thì không được coi là dự án PPP.

6.

Phương án thay thế trong HSDT


(BĐT) - Nhà máy in tổ chức lựa chọn nhà thầu Gói thầu Cung cấp và lắp đặt máy in chuyên dùng.
Hồ sơ mời thầu (HSMT) được phát hành từ ngày 16/05/2017; ngày 24/6/2017 sẽ đóng thầu và mở

thầu.
Ngày 25/5/2017, một nhà thầu đã gửi fax cho Nhà máy đề nghị cho phép được chào hai loại máy khác nhau về ý tưởng
thiết kế, nhưng đáp ứng được các tính năng và các yêu cầu kỹ thuật in nêu tại HSMT bằng hai bản chào riêng.
Hỏi: Với tình huống như trên thì Nhà máy nên xử lý như thế nào?
Trả lời: Đây là một tình huống liên quan đến phương án thay thế trong hồ sơ dự thầu (HSDT).
Về nguyên tắc, trong trường hợp nếu HSMT yêu cầu nhà thầu đề xuất các phương án thay thế thì nhà thầu mới được đề
xuất phương án thay thế. Bên cạnh đó, nhà thầu vẫn phải chuẩn bị một HSDT theo phương án chính đáp ứng yêu cầu của
HSMT. Khi đề xuất các phương án thì phải nêu rõ phương án nào là phương án chính, phương án nào là phương án thay
thế. Nếu trong HSMT không yêu cầu nhà thầu đề xuất phương án thay thế, việc đề xuất phương án thay thế trong HSDT
cho phương án nêu trong HSMT sẽ không được xem xét, mà chỉ xem xét phương án chính.
Tuy nhiên, đối với tình huống nêu trên, do thời điểm đóng thầu là ngày 24/6/2017, trong khi bên mời thầu nhận được
thông báo đề xuất phương án thay thế của nhà thầu vào ngày 25/5/2017 (chưa đến ngày đóng thầu) nên chủ đầu tư hoàn
toàn có thể xem xét đề xuất trên của nhà thầu.
Nếu chủ đầu tư xét thấy đề xuất của nhà thầu hợp lý, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho gói thầu thì cần đề nghị người phê
duyệt HSMT xem xét việc sửa đổi HSMT theo hướng cho phép nhà thầu chào phương án thay thế. Phương án thay thế
chỉ được xem xét trong trường hợp nhà thầu được xếp hạng thứ nhất và được mời vào thương thảo, tại bước thương thảo
mới xem xét đến phương án thay thế. Trường hợp phương án thay thế được chấp nhận thì bên mời thầu không sửa lỗi,
hiệu chỉnh sai lệch như HSMT mà lấy giá chào theo phương án thay thế của nhà thầu chào.
Như vậy, trong trường hợp nói trên chủ đầu tư cần khách quan xem xét các đề nghị của nhà thầu, trường hợp cần thiết thì
sửa đổi lại nội dung HSMT theo hướng cho phép chào phương án thay thế để đảm bảo hoạt động đấu thầu cạnh tranh,
công bằng và hiệu quả kinh tế.

7.

Một thành viên liên danh không hoàn thành hợp đồng

(BĐT) - Gói thầu Xây lắp 01 thuộc Dự án X do liên danh Công ty A và Công ty B thi công. Trong
quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty A đã hoàn thành công việc theo phân công trong thỏa thuận
liên danh, Công ty B không hoàn thành phần việc của mình, để ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng
Gói thầu.

Hợp đồng bị chủ đầu tư tuyên bố không hoàn thành và thực hiện chấm dứt trong năm 2015. Hiện tại, chủ đầu
tư đang tổ chức lựa chọn nhà thầu Gói thầu xây lắp số 05 cùng thuộc Dự án và Công ty A tham dự thầu với
tư cách nhà thầu độc lập.
Hỏi: Trong trường hợp này, Công ty A có bị coi là vi phạm tiêu chí “lịch sử không hoàn thành hợp đồng quy
định trong hồ sơ mời thầu (HSMT)” hay không?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại các mẫu HSMT xây lắp ban hành kèm Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày
06/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nội dung đánh giá năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu bao gồm tiêu
chí lịch sử không hoàn thành hợp đồng. Theo đó, trong một số năm (thông thường từ 03 - 05 năm) gần năm
có thời điểm đóng thầu, nhà thầu phải bảo đảm không có hợp đồng không hoàn thành.


Về vai trò của Công ty A trong liên danh Công ty A - Công ty B, theo quy định của Luật Đấu thầu (Điều 4
Khoản 35), khi tham gia đấu thầu thì tất cả thành viên liên danh đều là nhà thầu chính. Trường hợp nhà thầu
trúng thầu thì khi ký kết hợp đồng, các thành viên liên danh là một bên của hợp đồng.
Về vấn đề không hoàn thành hợp đồng, khi nhà thầu liên danh A + B đã bị chủ đầu tư kết luận không hoàn
thành hợp đồng thì tất cả thành viên liên danh đều bị coi là vi phạm tiêu chí này khi tham gia đấu thầu gói
thầu tiếp theo vì: (i) các thành viên liên danh đều là nhà thầu chính khi tham gia đấu thầu theo quy định tại
Khoản 35 Điều 4 Luật Đấu thầu, tất cả nhà thầu chính tham gia đấu thầu đều phải chịu trách nhiệm nếu
không hoàn thành hợp đồng theo quy định của hợp đồng; (ii) các thành viên liên danh đều phải chịu trách
nhiệm chung, trách nhiệm riêng theo văn bản thỏa thuận liên danh nêu tại Khoản 3 Điều 5 Luật Đấu thầu; (iii)
văn bản thỏa thuận liên danh thể hiện sự ràng buộc không thể tách rời của các thành viên để tham gia đấu
thầu và thực hiện hợp đồng, do vậy, việc không hoàn thành hợp đồng của nhà thầu liên danh không thể coi là
hành vi vi phạm của riêng một thành viên nào đó trong liên danh.
Tóm lại, khi một nhà thầu liên danh với nhà thầu khác để tham dự thầu thì mặc dù nhà thầu đó hoàn thành tốt
công việc theo phân công trong nội bộ liên danh nhưng cuối cùng vì lý do nào đó, liên danh vẫn bị tuyên bố
không hoàn thành hợp đồng thì tất cả các nhà thầu trong liên danh đều bị coi là có hợp đồng không hoàn
thành, giảm đi cơ hội khi tham dự thầu các gói thầu tiếp theo.

8.


Yêu cầu về hợp đồng tương tự trong hồ sơ mời thầu

(BĐT) - Bệnh viện chuyên khoa mắt thành phố X tổ chức lựa chọn nhà thầu một số gói thầu mua
sắm vật tư y tế phục vụ công tác khám chữa bệnh trong năm.
Trong đó, đối với nội dung hợp đồng tương tự, Bệnh viện nhận thấy nếu quy định nhà thầu phải có 03 hợp đồng và mỗi
hợp đồng có giá trị tối thiểu 70% giá trị gói thầu đang xét thì các nhà cung cấp rất khó có thể đáp ứng do vật tư cần mua
phục vụ khám chữa bệnh chuyên khoa và số lượng hàng hóa dự kiến mua khá lớn.
Hỏi: Trong trường hợp này, Bệnh viện có thể quy định trong hồ sơ mời thầu (HSMT) về việc cộng gộp hợp đồng đã thực
hiện của nhà thầu khi xem xét hợp đồng tương tự được hay không?
Trả lời: Kinh nghiệm thực hiện hợp đồng tương tự là một trong những nội dung cơ bản khi đánh giá hồ sơ dự thầu
(HSDT) của nhà thầu.
Theo hướng dẫn tại Mục 2.1 Chương III các mẫu HSMT hàng hóa ban hành kèm theo Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT
ngày 16/6/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đối với tiêu chí đánh giá kinh nghiệm thực hiện hợp đồng tương tự, nhà thầu
phải hoàn thành toàn bộ hoặc phần lớn N hợp đồng tương tự với mỗi hợp đồng có giá trị tối thiểu là V (N x V = X) hoặc
số lượng hợp đồng ít hơn hoặc bằng N, mỗi hợp đồng có giá trị tối thiểu là V và tổng giá trị tất cả các hợp đồng X.
Trường hợp trong HSMT yêu cầu nhà thầu đã thực hiện từ hai hợp đồng tương tự trở lên thì nhà thầu phải đáp ứng tối
thiểu một hợp đồng với quy mô, tính chất tương tự gói thầu đang xét. Quy mô của các hợp đồng tương tự tiếp theo được
xác định bằng cách cộng các hợp đồng có quy mô nhỏ hơn nhưng phải bảo đảm các hợp đồng đó có tính chất tương tự
với các hạng mục cơ bản của gói thầu đang xét.
Đối với trường hợp trên, việc quy định về cộng gộp hợp đồng tương tự là phù hợp với hướng dẫn tại các mẫu HSMT nói
trên. Theo đó, nếu yêu cầu nhà thầu phải có kinh nghiệm thực hiện 03 hợp đồng tương tự với giá trị tối thiểu là V thì tiếp
tục quy định rõ nội dung nhà thầu phải đáp ứng tối thiểu một hợp đồng với tính chất tương tự và giá trị là V. Với hợp
đồng tương tự thứ hai, thứ ba, quy mô của các hợp đồng này có thể được xác định trên cơ sở cộng các hợp đồng có quy


mô nhỏ hơn nếu các hợp đồng quy mô nhỏ hơn này vẫn có tính chất tương tự với hạng mục cơ bản của gói thầu đang xét.
Như vậy, với quy định này thì các nhà thầu thực hiện nhiều hợp đồng giá trị nhỏ hơn V nhưng có tính chất tương tự với
các hạng mục cơ bản của gói thầu đang xét vẫn có cơ hội đáp ứng yêu cầu của HSMT.
Ngoài ra, theo hướng dẫn tại Mẫu HSMT đã nêu, đối với các gói thầu có tính chất đặc thù hoặc ở các địa phương mà
năng lực của nhà thầu trên địa bàn còn hạn chế, có thể yêu cầu giá trị của hợp đồng tương tự trong khoảng 50% đến 70%

giá trị của gói thầu đang xét, đồng thời vẫn phải yêu cầu nhà thầu bảo đảm có hợp đồng cung cấp hàng hóa tương tự về
chủng loại và tính chất với hàng hóa của gói thầu. Như vậy, hướng dẫn về giá trị của hợp đồng tương tự tương đối linh
hoạt và không phải bất kì gói thầu nào, nơi nào, lúc nào cũng phải là 70%. Trong một số trường hợp với lý do xác đáng,
hợp lý về tính chất gói thầu, nhà cung cấp tiềm năng, con số khác 70% vẫn có thể được sử dụng.

9.

Đóng, mở thầu trong chào hàng cạnh tranh

(BĐT) - Một bạn đọc có thư gửi Báo Đấu thầu như sau: Ngày 20/3/2017, UBND xã X (Chủ đầu tư) có thông báo
mời thầu gói thầu mua sắm tài sản cho UBND Xã theo hình thức chào hàng cạnh tranh...
Thời gian cuối nhận hồ sơ đề xuất (HSĐX) là 9 giờ ngày 28/3/2017. Đến thời điểm này đã có 4 nhà thầu đến
nộp HSĐX nhưng không biết vì lý do gì mà Chủ tịch UBND Xã không tiến hành mở thầu theo như lịch đã
thông báo. Cho đến 14 giờ ngày 31/3/2017 (sau 3 ngày), Chủ tịch UBND Xã thông báo cho 4 nhà thầu đến để
tiến hành mở thầu.
Hỏi: Với cách làm trên, Chủ tịch UBND xã X có vi phạm Luật Đấu thầu không? Kết quả trúng thầu có được
ghi nhận không? 4 nhà thầu có phải là đã có dấu hiệu thông thầu không?
Trả lời: Trường hợp bạn đọc hỏi trên đây không nói rõ gói thầu áp dụng chào hàng cạnh tranh thông thường
hay rút gọn. Do đó, có 2 khả năng xảy ra như sau:
Nếu là chào hàng cạnh tranh thông thường thì áp dụng theo quy định về quy trình chào hàng cạnh tranh
thông thường tại Điểm d Khoản 2 Điều 58 Nghị định 63/2014/NĐ-CP. Cụ thể: “Ngay sau thời điểm đóng thầu,
bên mời thầu tiến hành mở các HSĐX và lập Biên bản mở thầu...”, do vậy bên mời thầu phải tiến hành mở
thầu ngay sau khi đóng thầu.
Nếu là chào hàng cạnh tranh rút gọn thì theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 59 Nghị định 63/2014/NĐ-CP.
Cụ thể: “Ngay sau khi kết thúc thời hạn nộp báo giá, bên mời thầu lập văn bản tiếp nhận các báo giá được
nộp trước thời điểm đóng thầu...”.
Bên mời thầu cần rút kinh nghiệm trong việc áp dụng quy định về mở thầu nêu trên.
Với các thông tin bạn đọc nêu trên đây, chưa có dấu hiệu để kết luận 4 nhà thầu tham dự gói thầu nêu trên
thông thầu.
Điều 17 Luật Đấu thầu 2013 quy định về các trường hợp hủy thầu gồm: (1) Tất cả hồ sơ dự thầu, HSĐX

không đáp ứng được các yêu cầu của hồ sơ mời thầu (HSMT), hồ sơ yêu cầu (HSYC). (2) Thay đổi mục tiêu,
phạm vi đầu tư đã ghi trong HSMT, HSYC. (3) HSMT, HSYC không tuân thủ quy định của pháp luật về đấu
thầu hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan dẫn đến nhà thầu, nhà đầu tư được lựa chọn không đáp
ứng yêu cầu để thực hiện gói thầu, dự án. (4) Có bằng chứng về việc đưa, nhận, môi giới hối lộ, thông thầu,


gian lận, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu dẫn đến làm sai lệch
kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư.
Như vậy, theo quy định tại Điều 17 Luật Đấu thầu 2013 thì tình huống bạn đọc hỏi không nằm trong các
trường hợp hủy thầu.

10.

Đơn giá dự thầu cao hơn đơn giá kế hoạch

(BĐT) - Theo quy định tại Khoản 1 Điều 43 Luật Đấu thầu, một trong các điều kiện để nhà thầu
được đề nghị trúng thầu là có giá đề nghị trúng thầu (giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch trừ
đi giá trị giảm giá (nếu có) của nhà thầu xếp hạng thứ nhất) không vượt giá gói thầu được phê
duyệt.
Bệnh viện A tổ chức lựa chọn nhà thầu gói thầu gồm 30 hạng mục hàng hóa là đồ dùng cho khu hành chính và khu điều
trị nội trú thông qua hình thức đấu thầu rộng rãi trong nước. Nhà thầu B là nhà thầu chào giá thấp nhất trong số 3 nhà
thầu được đánh giá là đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật. Tuy nhiên, hồ sơ dự thầu của nhà thầu B có chào 5 trong tổng số 30
hạng mục hàng hóa cao hơn đơn giá của hạng mục đó trong phụ lục tính giá gói thầu đính kèm kế hoạch lựa chọn nhà
thầu.
Hỏi: Trong trường hợp này, bệnh viện A có thể lựa chọn nhà thầu B trúng thầu không hay phải lựa chọn nhà thầu khác
chào giá tất cả các hạng mục thấp hơn đơn giá trong phụ lục kế hoạch lựa chọn nhà thầu được duyệt?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 43 Luật Đấu thầu, một trong các điều kiện để nhà thầu được đề nghị trúng thầu
là có giá đề nghị trúng thầu (giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch trừ đi giá trị giảm giá (nếu có) của nhà thầu xếp
hạng thứ nhất) không vượt giá gói thầu được phê duyệt. Trường hợp dự toán của gói thầu được phê duyệt thấp hơn hoặc
cao hơn giá gói thầu được phê duyệt thì dự toán này sẽ thay thế giá gói thầu để làm cơ sở xét duyệt trúng thầu.

Đối với trường hợp của bệnh viện A, nếu nhà thầu B có giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch trừ đi giá trị giảm giá
(nếu có) không vượt giá gói thầu được duyệt thì được coi là đáp ứng yêu cầu xét duyệt trúng thầu ở trên mà không phụ
thuộc vào việc nhà thầu chào giá một số mặt hàng cao hơn giá của mặt hàng đó trong phụ lục kế hoạch lựa chọn nhà thầu.
Có thể hiểu phụ lục này gồm đơn giá cho từng mặt hàng, giúp tính toán để hình thành giá gói thầu.
Tuy nhiên, việc lựa chọn nhà thầu được thực hiện đối với gói thầu trong khoản ngân sách là giá gói thầu, nên bệnh viện A
chỉ cần so sánh giá chào sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch trừ đi giá trị giảm giá (nếu có) của nhà thầu B với giá gói thầu,
mà không cần quá quan tâm tới các đơn giá từng mặt hàng so với đơn giá dự trù ban đầu. Trong trường hợp này, việc đề
nghị cho nhà thầu khác chào giá cao hơn trúng thầu chỉ vì đơn giá từng hạng mục không cao hơn đơn giá ước tính trong
phụ lục kế hoạch lựa chọn nhà thầu rõ ràng là không hiệu quả và không phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu.

11.

Xác định cấp doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ khi tham gia đấu thầu

(BĐT) - Bên mời thầu X đang đánh giá hồ sơ dự thầu Gói thầu Xây lắp có giá gói thầu 4,5 tỷ đồng.
Trong hồ sơ mời thầu (HSMT) quy định một trong các điều kiện để được tham gia đấu thầu là nhà
thầu phải là doanh nghiệp cấp nhỏ, siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
Hỏi: Nhà thầu nào sau đây được coi là đáp ứng điều kiện về cấp doanh nghiệp khi tham gia đấu thầu gói thầu
vừa nêu:


- Nhà thầu A có tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng và có số lao động bình quân năm không quá 200 người
- Nhà thầu B có tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng nhưng có số lao động bình quân năm trên 200 người
- Nhà thầu C có tổng nguồn trên 20 tỷ đồng nhưng có số lao động bình quân năm không quá 200 người.
Trả lời: Một trong các nội dung về ưu đãi doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ trong đấu thầu là đối với gói thầu xây
lắp có giá gói thầu không quá 5 tỷ đồng chỉ cho phép nhà thầu là doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy
định của pháp luật về doanh nghiệp tham gia đấu thầu.
Việc xác định cấp doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp được thực hiện theo Khoản 1
Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP. Theo đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn

(tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc
số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên). Doanh nghiệp nhỏ thuộc khu vực công
nghiệp và xây dựng là doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ 20 tỷ đồng trở xuống hoặc có số lao động từ 10
người đến 200 người.
Quay trở lại việc đánh giá điều kiện tham dự thầu của các nhà thầu trên, cả 3 nhà thầu A, B, C đều được coi
là đáp ứng điều kiện về cấp doanh nghiệp khi tham dự thầu gói thầu xây lắp có giá 4,5 tỷ đồng. Trong đó, nhà
thầu A đáp ứng cả tiêu chí về tổng nguồn vốn và số lao động bình quân, nhà thầu B đáp ứng tiêu chí về tổng
nguồn vốn, nhà thầu C đáp ứng tiêu chí về lao động bình quân năm.
Trong trường hợp này, cần lưu ý là nhà thầu chỉ cần đáp ứng một trong hai tiêu chí tổng nguồn vốn (trong
bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc tổng số lao động bình quân năm đối với doanh nghiệp nhỏ,
siêu nhỏ thì được coi là đáp ứng điều kiện về cấp doanh nghiệp khi tham dự gói thầu xây lắp có giá không
quá 5 tỷ đồng.

12.

Tổ chuyên gia xét thầu tự tính toán thời gian thi công của nhà thầu

(BĐT) - Việc đánh giá HSDT phải tuân thủ theo nguyên tắc đánh giá quy định tại Điều 15 Luật
Đấu thầu 2013.
Ban Quản lý dự án X tổ chức đấu thầu rộng rãi Gói thầu Thi công công trình. Hồ sơ mời thầu (HSMT) có nêu
yêu cầu về thời gian thực hiện hợp đồng là 60 ngày. Hồ sơ dự thầu (HSDT) của nhà thầu A có giá dự thầu
thấp nhất. Kết quả đánh giá HSDT cho thấy nhà thầu A đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm. HSDT của
nhà thầu A cũng có đề xuất thời gian thực hiện hợp đồng là 60 ngày, đúng theo yêu cầu của HSMT.
Tuy nhiên, trong HSDT của nhà thầu A không có phần tính toán diễn giải chi tiết về tiến độ thi công. Tổ
chuyên gia xét thầu đã tự tính toán thời gian thi công của nhà thầu này là 70 ngày, vượt 10 ngày so với quy
định của HSMT. Từ đó, Tổ chuyên gia cho rằng thời gian thực hiện hợp đồng của nhà thầu này không đáp
ứng yêu cầu nêu trong HSMT và quyết định loại HSDT của nhà thầu A.
Hỏi: Việc làm trên của tổ chuyên gia xét thầu có phù hợp với quy định của Luật Đấu thầu không?
Trả lời: Việc đánh giá HSDT phải tuân thủ theo nguyên tắc đánh giá quy định tại Điều 15 Luật Đấu thầu 2013.
Theo đó, việc đánh giá HSDT phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu khác nêu trong

HSMT. Thời gian thực hiện hợp đồng được đề xuất trong đơn dự thầu và tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật (nếu
có). Do đó, Tổ chuyên gia khi đánh giá thì phải căn cứ vào HSDT của nhà thầu và HSMT để đánh giá, trường


hợp không rõ thì yêu cầu nhà thầu giải thích làm rõ trên cơ sở không làm thay đổi nội dung cơ bản của HSDT
đã nộp.
Trong trường hợp nêu trên, nhà thầu A đã đề xuất thời gian thực hiện hợp đồng là 60 ngày đúng theo yêu cầu
của HSMT thì yêu cầu nhà thầu làm rõ việc thi công trong 60 ngày đó ở những tiêu chí đánh giá kỹ thuật chưa
rõ ràng.
Việc Tổ chuyên gia tự tính toán thời gian thi công của nhà thầu như trên để loại nhà thầu là chưa phù hợp với
quy định của pháp luật.

13.

Áp dụng chỉ định thầu rút gọn

(BĐT) - Hạn mức chỉ định thầu được quy định tại Điều 54 Nghị định 63/2014/NĐ-CP ngày 26/06/2014 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu.
Một bạn đọc có thư hỏi Báo Đấu thầu như sau: “Đơn vị tôi đang tiến hành sơn vôi lại khối nhà làm việc với
tổng dự toán được duyệt là 670 triệu đồng. Theo các văn bản hiện hành thì chúng tôi có quyền áp dụng quy
trình chỉ định thầu rút gọn và áp dụng theo Mẫu 06 của Thông tư 11/2015/TT-BKHĐT ngày 27/10/2015 của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết lập hồ sơ yêu cầu chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh. Tuy nhiên, khi
liên lạc hỏi lại người có trách nhiệm ở Vụ Tài chính của bộ chủ quản (đơn vị sẽ quyết toán dự án) thì được trả
lời là phải áp dụng chỉ định thầu thông thường cho an toàn!”.
Hỏi: Ý kiến của đơn vị quyết toán nêu trên có đúng không? Trong trường hợp này, căn cứ pháp lý nào có thể
giúp thực hiện được quyết toán với quy trình chỉ định thầu rút gọn?
Trả lời: Hạn mức chỉ định thầu được quy định tại Điều 54 Nghị định 63/2014/NĐ-CP ngày 26/06/2014 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu. Theo đó, gói thầu
có giá trị trong hạn mức được áp dụng chỉ định thầu theo quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 22 của Luật Đấu
thầu bao gồm: Không quá 500 triệu đồng đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, dịch vụ

công; không quá 01 tỷ đồng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp, mua thuốc, vật tư y tế, sản
phẩm công; không quá 100 triệu đồng đối với gói thầu thuộc dự toán mua sắm thường xuyên.
Trường hợp bạn đọc nêu, gói thầu thuộc hạn mức chỉ định thầu thì theo quy định tại Khoản 2 Điều 56 Nghị
định 63/2014/NĐ-CP, các gói thầu trong hạn mức chỉ định thầu theo quy định tại Điều 54 được áp dụng theo
quy trình chỉ định thầu rút gọn.
Quy trình chỉ định thầu rút gọn đối với gói thầu trong hạn mức chỉ định thầu được quy định tại Khoản 2 Điều
56 Nghị định 63/2014/NĐ-CP. Cụ thể, bên mời thầu căn cứ vào mục tiêu, phạm vi công việc, dự toán được
duyệt để chuẩn bị và gửi dự thảo hợp đồng cho nhà thầu được chủ đầu tư xác định có đủ năng lực và kinh
nghiệm đáp ứng yêu cầu của gói thầu. Nội dung dự thảo hợp đồng bao gồm các yêu cầu về phạm vi, nội
dung công việc cần thực hiện, thời gian thực hiện, chất lượng công việc cần đạt được, giá trị tương ứng và
các nội dung cần thiết khác. Trên cơ sở dự thảo hợp đồng, bên mời thầu và nhà thầu được đề nghị chỉ định
thầu tiến hành thương thảo, hoàn thiện hợp đồng làm cơ sở để phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu và ký kết
hợp đồng. Tiếp đó, hai bên tiến hành ký kết hợp đồng. Hợp đồng ký kết giữa các bên phải phù hợp với quyết
định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu, biên bản thương thảo hợp đồng và các tài liệu liên quan khác.


Trường hợp cần thiết, bên mời thầu vẫn có thể áp dụng quy trình chỉ định thầu thông thường đối với các gói
thầu nằm trong hạn mức được chỉ định thầu rút gọn.
Để thuận tiện trong quá trình thực hiện, khi lập tờ trình Kế hoạch lựa chọn nhà thầu, chủ đầu tư nên ghi rõ
hình thức lựa chọn nhà thầu là chỉ định thầu rút gọn hay chỉ định thầu thông thường và nêu rõ lý do để người
có thẩm quyền phê duyệt.

14.

Đóng, mở thầu khi Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia gặp sự cố

(BĐT) - Bên mời thầu – Ban Quản lý dự án X tổ chức lựa chọn nhà thầu Gói thầu mua sắm thiết bị
Y, áp dụng lựa chọn nhà thầu qua mạng. Gói thầu mua sắm thiết bị Y có thời điểm đóng thầu, mở
thầu nằm trong khoảng thời gian Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia gặp sự cố ngoài khả năng kiểm
soát.

Hỏi: Thời gian đóng, mở thầu và các mốc thời gian liên quan đến hiệu lực của hồ sơ dự thầu và bảo đảm dự
thầu trong trường hợp nêu trên được tính như thế nào?
Trả lời: Việc xử lý kỹ thuật trong trường hợp Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia gặp sự cố ngoài khả năng
kiểm soát được quy định tại Điều 16 Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BKHĐT-BTC ngày 08/9/2015 của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Tài chính quy định chi tiết việc cung cấp, đăng tải thông tin về đấu thầu và lựa chọn
nhà thầu qua mạng (TT07).
Theo đó, Khoản 2 Điều 16 TT07 quy định, trường hợp Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia tạm ngừng cung cấp
dịch vụ tại thời điểm đóng thầu, mở thầu thì thời điểm đóng thầu, mở thầu mới sẽ được lùi đến sau 3 giờ kể
từ thời điểm Hệ thống tiếp tục cung cấp dịch vụ theo thông báo của Tổ chức vận hành Hệ thống.
Hiện tại, Tổ chức vận hành Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia có trách nhiệm thông báo cho các đơn vị có gói
thầu đang đóng thầu, mở thầu biết ngay sau khi Hệ thống hoạt động trở lại bình thường qua tổng đài hỗ trợ
người dùng 1900 6126.
Điều 16 TT07 cũng quy định, nếu thời điểm đóng thầu, mở thầu mới vượt quá thời gian làm việc trong ngày
thì thời gian đóng thầu, mở thầu sẽ được gia hạn đến 09 giờ sáng của ngày làm việc tiếp theo.
Nếu thời điểm đóng thầu, mở thầu cách sau thời điểm thông báo Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia tiếp tục
cung cấp dịch vụ không quá 03 giờ thì thời điểm đóng thầu, mở thầu mới sẽ được kéo dài thêm 03 giờ.
Khoản 3 Điều 16 TT07 quy định, trường hợp phải gia hạn thời điểm đóng thầu vì lý do Hệ thống mạng đấu
thầu quốc gia tạm ngừng cung cấp dịch vụ, các nhà thầu không cần gia hạn thời hạn hiệu lực của hồ sơ dự
thầu và bảo đảm dự thầu nếu các thời hạn hiệu lực này đã đáp ứng yêu cầu trong hồ sơ mời thầu.

15.

Đề xuất gói thầu áp dụng mua sắm tập trung

(BĐT) - Đơn vị A được UBND tỉnh X giao nhiệm vụ làm đầu mối tổ chức thực hiện mua sắm tập trung trên địa
bàn Tỉnh. Một gói thầu mua sắm có giá khoảng 8 tỷ đồng được Đơn vị A trình trong kế hoạch mua sắm tập
trung, trong đó đề xuất áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp cho gói thầu này.
Hỏi: Trường hợp nêu trên có được áp dụng mua sắm tập trung theo hình thức mua sắm trực tiếp hay không?



Trả lời: Mua sắm tập trung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ cần mua sắm đối với số lượng nhiều, chủng
loại tương tự ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoặc chủ đầu tư. Mục đích của việc mua sắm tập trung
thông qua đơn vị mua sắm tập trung là nhằm giảm chi phí, thời gian, đầu mối tổ chức đấu thầu, tăng cường tính chuyên
nghiệp trong đấu thầu, góp phần tăng hiệu quả kinh tế.
Khoản 1 Điều 44 Luật Đấu thầu quy định: “Mua sắm tập trung là cách tổ chức đấu thầu rộng rãi để lựa chọn nhà thầu”.
Do vậy, trường hợp nêu trên, Đơn vị A đề xuất phương án mua sắm trực tiếp là chưa phù hợp với quy định của pháp luật
về đấu thầu. Hay nói cách khác, khi tổ chức lựa chọn nhà thầu theo phương án mua sắm tập trung thì hình thức lựa chọn
nhà thầu luôn luôn là đấu thầu rộng rãi.

16.

Hiệu chỉnh sai lệch khi nhà thầu chào thừa

(BĐT) - Bên mời thầu tổ chức lựa chọn nhà thầu Gói thầu X. Trong hồ sơ mời thầu (HSMT) có ghi rõ số lượng
vật tư do bên A cung cấp, nhưng nhà thầu vẫn tính đơn giá vật tư và quy thành tiền.
Tổ chuyên gia đấu thầu cho rằng căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 17 Nghị định 63/2014/NĐ-CP, bên mời thầu sẽ tự
quyết định trừ đi giá trị phần chào thừa theo mức đơn giá tương ứng trong hồ sơ dự thầu (HSDT) của nhà thầu theo quy
định về sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch. Sau đó, cần tiến hành đánh giá xếp hạng nhà thầu.
Tuy nhiên, khi bên mời thầu có văn bản xác nhận sai lệch với nhà thầu về việc vật tư do bên A cung cấp mà nhà thầu vẫn
tính đơn giá vật tư và quy thành tiền, nhà thầu trả lời như sau: “Về hiệu chỉnh sai lệch, đề nghị giữ nguyên theo giá đã
chào do công ty chúng tôi đã tính toán giảm để tham dự cho gói thầu theo hình thức trọn gói”. Tiếp đó, bên mời thầu từ
chối và loại nhà thầu. Với cách giải quyết như vậy, sẽ không có đánh giá xếp hạng nhà thầu này.
Hỏi: Trường hợp nêu trên, theo quy định hiện hành, bên mời thầu có cần gửi văn bản làm rõ với nhà thầu không? Nhà
thầu nêu trên có được đưa vào đánh giá xếp hạng không?
Trả lời: Theo quy định tại Mục 14 Chương I - Chỉ dẫn cho nhà thầu của Thông tư 03/2015/TT-BKHĐT thì nhà thầu phải
nộp HSDT cho toàn bộ công việc được mô tả trong Mục 1.1 Chỉ dẫn cho nhà thầu và ghi đơn giá dự thầu, thành tiền cho
tất cả các công việc nêu trong cột “Mô tả công việc mời thầu” tại Bảng tổng hợp giá dự thầu theo quy định tại Mẫu số 05
Chương IV – Biểu mẫu dự thầu.
Theo đó, nhà thầu sẽ chỉ được chào cho những phần công việc được mời thầu. Việc nhà thầu chào thừa, thiếu khối lượng,
số lượng sẽ được hiệu chỉnh sai lệch theo quy định tại Khoản 2 Điều 17 Nghị định 63/2014/NĐ-CP. Trường hợp nhà thầu

không chấp thuận với kết quả sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch theo thông báo của bên mời thầu thì HSDT của nhà thầu đó sẽ
bị loại theo quy định tại Khoản 3 Điều 17 Nghị định 63/2014/NĐ-CP.
Nhà thầu bị loại tại bước đánh giá về giá sẽ không được tiếp tục đánh giá để xếp hạng.

17.

HSMT tải lên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia bị thiếu

(BĐT) - Thông tư số 07/2016/TT-BKHĐT ngày 29/6/2016 của Bộ KH&ĐT (TT07/2016) có quy định về tính hợp lệ
của HSMT, hồ sơ yêu cầu, HSDT, hồ sơ đề xuất mua sắm hàng hóa đối với đấu thầu qua mạng.


Ban Quản lý dự án X (bên mời thầu) tổ chức lựa chọn nhà thầu gói thầu mua sắm hàng hóa, áp dụng đấu thầu điện tử trên
Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia (dưới đây viết tắt là Hệ thống). Bên mời thầu đã phát hành hồ sơ mời thầu (HSMT) và
đang trong giai đoạn đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT). Tổ chuyên gia phát hiện HSMT tải lên Hệ thống thiếu Chương III Tiêu chuẩn đánh giá HSDT và Chương V - Phạm vi cung cấp, do đó HSDT của các nhà thầu không đáp ứng đầy đủ yêu
cầu đặt ra ban đầu và nếu lựa chọn nhà thầu trong trường hợp này sẽ không đáp ứng yêu cầu để thực hiện gói thầu, ảnh
hưởng đến hiệu quả của dự án.
Hỏi: Trong trường hợp này, Bên mời thầu phải xử lý như thế nào để phù hợp quy định của pháp luật về đấu thầu?
Trả lời: Thông tư số 07/2016/TT-BKHĐT ngày 29/6/2016 của Bộ KH&ĐT (TT07/2016) có quy định về tính hợp lệ của
HSMT, hồ sơ yêu cầu, HSDT, hồ sơ đề xuất mua sắm hàng hóa đối với đấu thầu qua mạng. Theo đó, tại Khoản 1 Điều 7
TT07/2016 quy định: “Các thông tin và các file đính kèm của HSMT, hồ sơ yêu cầu được coi là có giá trị pháp lý khi
được bên mời thầu đăng tải thành công trên Hệ thống thông qua chứng thư số của bên mời thầu. Bên mời thầu chịu trách
nhiệm về tính chính xác giữa nội dung HSMT, hồ sơ yêu cầu đăng tải trên Hệ thống và nội dung HSMT, hồ sơ yêu cầu
được chủ đầu tư phê duyệt”.
Khoản 1 Điều 10 Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BKHĐT-BTC (TT07/2015) quy định: “Thông tin không hợp lệ
trong việc cung cấp, đăng tải thông tin về đấu thầu trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia là thông tin do bên mời thầu tự
đăng tải trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia không tuân thủ các quy định của pháp luật về đấu thầu”.
Đối với trường hợp nêu trên, gói thầu được tổ chức đấu thầu trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, nhưng HSMT tải lên
Hệ thống thiếu Chương III - Tiêu chuẩn đánh giá HSDT và Chương V - Phạm vi cung cấp, theo quy định tại Khoản 1
Điều 10 TT07/2015 và Khoản 1 Điều 7 TT07/2016 thì HSMT gói thầu nêu trên được coi là không hợp lệ, không đủ cơ sở

để lựa chọn nhà thầu.
Về giải pháp xử lý tình huống nêu trên, theo quy định tại Khoản 3 Điều 17 Luật Đấu thầu 2013, hủy thầu được áp dụng
trong trường hợp HSMT không tuân thủ quy định của pháp luật về đấu thầu hoặc quy định khác của pháp luật có liên
quan dẫn đến nhà thầu, nhà đầu tư được lựa chọn không đáp ứng yêu cầu để thực hiện gói thầu, dự án.
Còn tại Điều 18 Luật Đấu thầu 2013 quy định: Tổ chức, cá nhân vi phạm quy định pháp luật về đấu thầu dẫn đến hủy
thầu theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều 17 luật này phải đền bù chi phí cho các bên liên quan và bị xử lý theo
quy định của pháp luật.
Để khắc phục sai sót trong tình huống nêu trên, chủ đầu tư báo cáo người có thẩm quyền để người có thẩm quyền ban
hành quyết định hủy thầu. Ngoài việc khắc phục sai sót, chủ đầu tư lưu ý cần nghiêm túc nhắc nhở bên mời thầu rà soát
kỹ trong việc lập HSMT, rà soát trước khi đăng tải HSMT lên Hệ thống cho các gói thầu tiếp theo.

18.

Số lượng bản chụp HSDT khác nhau

(BĐT) - Theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định 63/2014/NĐ-CP, việc đánh giá HSDT cần tuân thủ theo quy
định tại Tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu của HSMT.
Ban Quản lý dự án tỉnh X mời thầu Gói thầu Xây lắp. Tại trang 33 của hồ sơ mời thầu (HSMT) gói thầu này, mục Chỉ
dẫn nhà thầu 20.1 đưa ra quy định: “Số lượng bản chụp HSDT là 3 bản. Trường hợp sửa đổi, thay thế HSDT thì nhà thầu
phải nộp các bản chụp hồ sơ sửa đổi, thay thế với số lượng bằng số lượng bản chụp HSDT”. Nhưng ở trang 36 của


HSMT (mục điều kiện tiên quyết) thì yêu cầu nhà thầu phải nộp 4 bản chụp HSDT. 2 trong số 3 nhà thầu tham dự thầu đã
nộp 4 bản chụp HSDT, nhà thầu còn lại chỉ nộp 3 bản chụp HSDT (nhà thầu A).
Hỏi: Liệu nhà thầu A có bị loại vì chỉ nộp 3 bản chụp HSDT? Cách xử lý tình huống của bên mời thầu như thế nào để
đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật về đấu thầu?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định 63/2014/NĐ-CP, việc đánh giá HSDT cần tuân thủ theo quy định
tại Tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu của HSMT.
Tại Điểm a Khoản 2 Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP và Điểm 1.2 Mục 1 Kiểm tra và đánh giá tính hợp lệ của
HSDT thuộc Chương III Tiêu chuẩn đánh giá HSDT của Thông tư số 03/2015/TT-BKH ngày 6/5/2015 quy định về việc

kiểm tra và đánh giá tính hợp lệ của HSDT. Theo đó, Tổ chuyên gia sẽ kiểm tra việc có bản gốc HSDT hay không. Việc
thiếu số lượng bản chụp HSDT không bị đánh giá là HSDT không hợp lệ, do đó không loại nhà thầu vì việc nộp không
đủ số lượng bản chụp HSDT.
Do đó, đối với tình huống nêu trên, các nhà thầu nộp thiếu số lượng HSDT vẫn được tiếp tục đánh giá mà không bị loại vì
thiếu số lượng bản chụp HSDT.
Mặt khác, theo quy định tại Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13, Nghị định số 63/2014/NĐ-CP và Thông tư số 03/2015/TTBKH ngày 06 tháng 5 năm 2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết lập HSMT gói thầu xây lắp thì không được
quy định về điều kiện tiên quyết đối với bản chụp HSDT. Việc Ban Quản lý dự án tỉnh X đưa yêu cầu về số lượng bản
chụp HSDT vào mục điều kiện tiên quyết trong HSMT là không phù hợp.

19.

Công thức tính ưu đãi đối với gói thầu MSHH

(BĐT) - Cách tính điểm ưu đãi đối với hồ sơ dự thầu của nhà thầu thuộc đối tượng ưu đãi khi áp dụng phương
pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá như sau...
Theo hướng dẫn tại Mục Chỉ dẫn nhà thầu 31.3 Chương II Bảng Dữ liệu đấu thầu thuộc Mẫu Hồ sơ mời thầu mua sắm
hàng hóa áp dụng phương thức 1 giai đoạn 2 túi hồ sơ ban hành kèm Thông tư số 05/2016/TT-BKHĐT ngày 16/6/2016
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cách tính điểm ưu đãi đối với hồ sơ dự thầu của nhà thầu thuộc đối tượng ưu đãi khi áp dụng
phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá như sau:
Điểm ưu đãi = 0,075 x (giá hàng hóa ưu đãi/giá gói thầu) x điểm tổng hợp [1]
Trong đó: Giá hàng hóa ưu đãi là giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch, trừ đi giá trị giảm giá của hàng hóa thuộc
đối tượng ưu đãi.
Trong khi đó, tại Chương III Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu của gói thầu nêu trên có quy định cách xác định điểm
tổng hợp như sau:
Điểm tổng hợpđang xét= (K x Điểm kỹ thuậtđang xét+ G x Điểm giáđang xét) + ∆ưu đãi [2]
Trong đó: Điểm kỹ thuậtđang xét là số điểm được xác định tại bước đánh giá về kỹ thuật;


Điểm giáđang xét là số điểm được xác định tại bước đánh giá về giá;
K, G lần lượt là tỷ trọng điểm về kỹ thuật và về giá quy định trong thang điểm tổng hợp;

∆ưu đãi là điểm giá trị được cộng thêm đối với đối tượng được hưởng ưu đãi theo Mục 31.3 của Chỉ dẫn nhà thầu.
Hỏi: Vậy, điểm tổng hợp trong công thức [1] và [2] có phải là một hay không? Nếu có, tổ chuyên gia phải bắt đầu từ
công thức nào?
Trả lời: Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 24 Khoản 2 Điểm d) quy định công thức tính điểm tổng hợp đối với phương
pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá như sau:
Điểm tổng hợpđang xét = K x Điểm kỹ thuật đang xét + G x Điểm giá đang xét (*)
Trong đó: Điểm kỹ thuật đang xét là số điểm được xác định tại bước đánh giá về kỹ thuật; điểm giá đang xét là số điểm
được xác định tại bước đánh giá về giá.
K, G lần lượt là tỷ trọng điểm về kỹ thuật và về giá quy định trong thang điểm tổng hợp; K + G = 100%. Tỷ trọng điểm
về kỹ thuật (K) và về giá (G) phải được xác định cụ thể trong hồ sơ mời thầu.
Đối với trường hợp trên, nếu gói thầu áp dụng phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá thì trước hết cần xác định điểm
tổng hợp của nhà thầu theo công thức (*) vừa nêu. Trường hợp hàng hóa do nhà thầu chào thuộc đối tượng ưu đãi thì
việc tính điểm ưu đãi cho hàng hóa đó thực hiện theo công thức [1]. Sau đó, điểm tổng hợp để làm cơ sở so sánh, xếp
hạng nhà thầu được tính theo công thức số [2]. Ngoài ra, cũng cần lưu ý là điểm ưu đãi nêu tại công thức [1] là điểm ưu
đãi tính cho một loại hàng hóa cụ thể, ∆ ƯĐ nêu tại công thức số [2] là tổng số điểm ưu đãi của tất cả các loại hàng hóa
thuộc đối tượng ưu đãi.
Đối với tình huống trên, thoạt nhìn thì có thể có thành viên tổ chuyên gia đấu thầu lúng túng đối với các công thức tính
điểm tổng hợp và điểm ưu đãi (công thức [1] và công thức [2]) vì công thức nào cũng bao gồm nội dung điểm tổng hợp,
điểm ưu đãi. Tuy nhiên, nếu áp dụng đúng nguyên tắc xác định điểm tổng hợp nêu tại Điều 24 Nghị định số 63/2014/NĐCP thì sẽ dễ dàng cho ra điểm của từng nhà thầu sau khi đã xét đến yếu tố ưu đãi bằng đúng các công thức nêu trong Mẫu
Hồ sơ mời thầu.

20.

Đề xuất nhân sự chủ chốt giống nhau trong 2 hồ sơ dự thầu

(BĐT) - Theo hướng dẫn tại các Mẫu hồ sơ mời thầu (HSMT) xây lắp ban hành kèm Thông tư số 03/2015/TTBKHĐT ngày 06/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhà thầu phải đề xuất một số vị trí nhân sự chủ chốt tham
gia thực hiện gói thầu theo yêu cầu của HSMT...
Hỏi: Dự án xây lắp A thuộc ngành nông nghiệp, cần hoàn thành trong năm. Các hạng mục công việc được thực hiện rải
rác trong phạm vi địa lý rộng nên để bảo đảm việc hoàn thành trong năm, chủ đầu tư đã tiến hành chia dự án làm 2 gói
thầu. Các gói thầu có nội dung, quy mô, tính chất như nhau và thời gian phải hoàn thành là giống nhau.



Nhà thầu X tham dự cả 02 gói thầu thuộc dự án nêu trên. Khi đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT) của nhà thầu, tổ chuyên gia
nhận thấy trong cả 02 HSDT, các nhân sự chủ chốt mà nhà thầu đề xuất đều giống nhau. Tuy nhiên, nếu nhà thầu trúng
thầu cả 02 gói thì khó có thể bố trí nhân sự, từ đó không bảo đảm tiến độ dự án.
Trong trường hợp này, tổ chuyên gia cần xem xét HSDT của nhà thầu X như thế nào?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại các Mẫu hồ sơ mời thầu (HSMT) xây lắp ban hành kèm Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT
ngày 06/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhà thầu phải đề xuất một số vị trí nhân sự chủ chốt tham gia thực hiện gói
thầu theo yêu cầu của HSMT. Theo đó, nhà thầu phải kê khai những nhân sự chủ chốt có năng lực phù hợp, đáp ứng các
yêu cầu quy định tại HSMT và có thể sẵn sàng huy động cho gói thầu; không được kê khai những nhân sự đã huy động
cho gói thầu khác có thời gian làm việc trùng với thời gian thực hiện gói thầu này. Trường hợp kê khai không trung thực
thì nhà thầu sẽ bị đánh giá là gian lận.
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định việc đánh giá HSDT phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu
khác trong HSMT, căn cứ vào HSDT đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ HSDT của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được
nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.
Đối với các gói thầu trên, việc đánh giá HSDT (trong đó có nội dung nhân sự chủ chốt) vẫn thực hiện theo tiêu chuẩn
đánh giá quy định trong HSMT. Trường hợp nhà thầu được xếp hạng thứ nhất trong cả hai gói thầu với đề xuất về nhân
sự chủ chốt giống nhau, trong quá trình thương thảo hợp đồng, bên mời thầu cần yêu cầu nhà thầu làm rõ về khả năng
huy động nhân sự cùng lúc thực hiện cả hai gói thầu. Theo đó:
- Nếu thời gian làm việc của từng nhân sự chủ chốt cho các gói thầu không trùng lặp, bảo đảm việc huy động đầy đủ nhân
sự chủ chốt để thực hiện cả hai gói thầu theo tiến độ thì nhà thầu được đề xuất trúng thầu các gói thầu này;
- Nếu thời gian làm việc của từng nhân sự chủ chốt cho các gói thầu có sự trùng lặp, dẫn tới không huy động được đầy đủ
nhân sự chủ chốt để thực hiện các gói thầu theo tiến độ thì nhà thầu được lựa chọn trúng thầu một trong hai gói thầu.
Nhìn chung, khi tham dự thầu, các nhà thầu thường kê khai các nhân sự đáp ứng tốt nhất HSMT nhằm được trúng thầu.
Trong tình huống trên, do 02 gói thầu có nội dung, quy mô, tính chất giống nhau nên việc đề xuất nhân sự giống nhau là
dễ hiểu và không vi phạm nguyên tắc kê khai nhân sự đã đề cập. Tuy nhiên, đối với mọi gói thầu thì việc đánh giá tính
đáp ứng của nhân sự mới chỉ là bước đầu, điều quan trọng là cần làm rõ khả năng huy động nhân sự đó trong bước
thương thảo hợp đồng (nếu nhà thầu được xếp hạng thứ nhất). Thêm nữa, để bảo đảm tiến độ, chất lượng gói thầu thì việc
giám sát tình hình huy động của các nhân sự chủ chốt mà nhà thầu đề cập trước đây cũng rất quan trọng.


21.

Nhà thầu phụ và chuyển nhượng thầu

(BĐT) - Bạn đọc Hoàng Long gửi đến Báo Đấu thầu câu hỏi tình huống sau đây: Chủ đầu tư có Kế hoạch lựa chọn
nhà thầu cho một dự án A, trong đó có Gói thầu số 1: Cung cấp vật tư thiết bị điện với giá trị khoảng 40 tỷ đồng.
Chủ đầu tư ký hợp đồng với nhà thầu X là nhà thầu trúng thầu Gói thầu số 1 với giá trị 36 tỷ đồng. Nhà thầu X
lại ký hợp đồng mua bán thiết bị giá trị 34 tỷ đồng cho đúng Gói thầu số 1 của dự án A với một nhà thầu Y.
Hỏi: Trường hợp nêu trên có phải là hành vi chuyển nhượng thầu?


Sau đó, nhà thầu X và nhà thầu Y nêu trên lại sử dụng hợp đồng thực hiện Gói thầu số 1 của dự án A để làm
hợp đồng tương tự khi tham gia dự thầu một gói thầu khác. Trong trường hợp này, chủ đầu tư phải đánh giá 2
hợp đồng của 2 nhà thầu này như thế nào?
Trả lời: Trường hợp bạn Hoàng Long nêu trên đây liên quan đến nhà thầu chính và nhà thầu phụ. Do đó,
trước hết phải làm rõ khái niệm nhà thầu chính và nhà thầu phụ. Theo quy định tại Khoản 35 Điều 4 Luật Đấu
thầu 2013, nhà thầu chính là nhà thầu chịu trách nhiệm tham dự thầu, đứng tên dự thầu và trực tiếp ký, thực
hiện hợp đồng nếu được lựa chọn.
Khoản 36 Điều 4 Luật Đấu thầu 2013 quy định nhà thầu phụ là nhà thầu tham gia thực hiện gói thầu theo hợp
đồng được ký với nhà thầu chính. Theo câu hỏi của bạn thì nhà thầu X là nhà thầu chính.
Hiện nay pháp luật về đấu thầu không quy định một mức tỷ lệ cụ thể về việc tham gia thực hiện hợp đồng
giữa nhà thầu phụ và nhà thầu chính; tỷ lệ này có thể quy định theo các pháp luật liên quan (nếu có). Trường
hợp pháp luật liên quan không quy định thì sẽ do chủ đầu tư tự quyết định.
Trường hợp khi tham gia dự thầu nhà thầu chính được phép sử dụng nhà thầu phụ theo một tỷ lệ nhất định
quy định trong hồ sơ mời thầu thì nhà thầu phụ này phải được nêu tên, giá trị thực hiện trong hồ sơ dự thầu.
Chủ đầu tư phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu cho nhà thầu chính X được hiểu là đã chấp thuận nhà thầu
phụ thực hiện gói thầu này. Ngoài ra, nhà thầu chính X được phép sử dụng nhà thầu phụ khác (gọi là nhà
thầu phụ Z) ngoài nhà thầu phụ đã kê khai và phải được chủ đầu tư chấp thuận. Giá trị phần công việc dành
cho nhà thầu phụ Z này phải đảm bảo không quá 10% (hoặc không quá 50 tỷ đồng) giá trị sau khi trừ phần
công việc thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ đã kê khai trong hồ sơ dự thầu.

Đối chiếu quy định tại Điểm a Khoản 8 Điều 89 của Luật Đấu thầu 2013 về các hành vi bị cấm trong đấu thầu,
trường hợp nhà thầu chính không kê khai nhà thầu phụ trong hồ sơ dự thầu, sau đó chuyển nhượng cho nhà
thầu khác phần công việc thuộc gói thầu có giá trị từ 10% trở lên hoặc dưới 10% nhưng trên 50 tỷ đồng (sau
khi trừ phần công việc thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ) tính trên giá trị hợp đồng đã ký kết thì bị coi là vi
phạm quy định của Luật (hành vi chuyển nhượng thầu).
Sau khi thực hiện hợp đồng, nhà thầu chính và nhà thầu phụ được kê khai năng lực khi tham gia dự thầu một
gói thầu khác tùy và theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu mà được đánh giá là đạt hay không đạt.

22.

Đơn giá dự thầu một hạng mục cao hơn đơn giá dự toán

(BĐT) - Bên mời thầu tổ chức đấu thầu rộng rãi một gói thầu. Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT)
của nhà thầu A, Tổ chuyên gia phát hiện, tại hạng mục X có đơn giá dự thầu cao hơn ba lần so với đơn giá dự
toán được duyệt.
Hỏi: Đơn giá tại hạng mục X trong HSDT của nhà thầu A có phải hiệu chỉnh lại theo đơn giá dự toán được
duyệt hay không? Nếu qua quá trình đánh giá, nhà thầu A được xếp hạng thứ nhất thì khi mời vào thương
thảo hợp đồng có thể thương thảo để giảm giá tại hạng mục X này hay không?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 17 Điều 4 Luật Đấu thầu năm 2013, giá dự thầu là giá do nhà thầu ghi trong
đơn dự thầu, bao gồm toàn bộ các chi phí để thực hiện gói thầu theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu (HSMT).


Khi tham gia dự thầu, nhà thầu có quyền chào đơn giá đối với các hạng mục công việc trong gói thầu khác
với giá dự toán. Việc tính toán giá dự thầu trong HSDT là do nhà thầu tự quyết định để đảm bảo cạnh tranh
về giá với các nhà thầu khác, đồng thời đảm bảo thực hiện gói thầu hiệu quả, chất lượng theo yêu cầu. Trong
tình huống này, việc nhà thầu tham gia đấu thầu rộng rãi và được xếp thứ nhất nghĩa là mặc dù có một số
đơn giá cao bất thường nhưng giá dự thầu của nhà thầu vẫn bảo đảm cạnh tranh về giá so với các nhà thầu
còn lại.
Khoản 3 Điều 19 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định nguyên tắc thương thảo hợp đồng là không tiến hành
thương thảo đối với các nội dung mà nhà thầu đã chào đúng yêu cầu của HSMT. Việc thương thảo hợp đồng

không được làm thay đổi đơn giá dự thầu của nhà thầu sau khi sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch và trừ đi giá trị
giảm giá (nếu có). Do vậy, trường hợp nhà thầu chào hạng mục, công việc đúng theo yêu cầu của HSMT
(mặc dù đơn giá nhà thầu chào cho hạng mục, công việc này cao bất thường) thì không tiến hành thương
thảo về giá đối với nội dung này.

23.

Hồ sơ dự thầu và bảo đảm dự thầu có hiệu lực bằng nhau

(BĐT) - Nội dung hiệu lực HSDT và bảo đảm dự thầu được quy định tại Khoản 42 Điều 4 và Khoản 4 Điều 11 Luật
Đấu thầu...
Hỏi: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 11 Luật Đấu thầu, thời gian có hiệu lực của bảo đảm dự thầu được quy định trong
hồ sơ mời thầu (HSMT), hồ sơ yêu cầu bằng thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu (HSDT), hồ sơ đề xuất cộng thêm 30
ngày. Như vậy, trường hợp nhà thầu chào hiệu lực bảo đảm dự thầu bằng hiệu lực HSDT thì cần được xem xét như thế
nào?
Tổ chuyên gia đang đánh giá HSDT một gói thầu thuộc dự án điện lực. HSMT quy định HSDT của nhà thầu phải có hiệu
lực tối thiểu 40 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu (ngày 22/12/2016). Bảo đảm dự thầu của nhà thầu phải có hiệu
lực không ít hơn 70 ngày kể từ ngày 22/12/2016.
Trong HSDT nhà thầu ghi thời gian có hiệu lực của HSDT là 60 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu. Bảo đảm dự
thầu đính kèm HSDT của nhà thầu ghi thời gian có hiệu lực của bảo đảm dự thầu là 70 ngày kể từ ngày 22/12/2016.
Trong trường hợp này, hiệu lực của HSDT và bảo đảm dự thầu có được coi là đáp ứng yêu cầu của HSMT hay không?
Trả lời: Nội dung hiệu lực HSDT và bảo đảm dự thầu được quy định tại Khoản 42 Điều 4 và Khoản 4 Điều 11 Luật Đấu
thầu. Theo đó, thời gian có hiệu lực của HSDT là số ngày được quy định trong HSMT và được tính kể từ ngày có thời
điểm đóng thầu đến ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định trong HSMT. Từ thời điểm đóng thầu đến hết 24 giờ của
ngày đóng thầu được tính là 01 ngày. Thời gian có hiệu lực của bảo đảm dự thầu được quy định trong HSMT bằng thời
gian có hiệu lực của HSDT cộng thêm 30 ngày. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, trường
hợp hiệu lực của HSDT, hiệu lực của bảo đảm dự thầu không đáp ứng yêu cầu của HSMT thì HSDT sẽ bị đánh giá là
không hợp lệ.
Đối với tình huống trên, khi HSMT quy định thời gian có hiệu lực của HSDT tối thiểu 40 ngày và thời gian có hiệu lực
của bảo đảm dự thầu không ít hơn 70 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu thì việc nhà thầu chào thời gian có hiệu lực



của HSDT 60 ngày và thời gian hiệu lực của bảo đảm dự thầu 70 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu phải được đánh
giá đáp ứng yêu cầu của HSMT về thời gian có hiệu lực của HSDT và bảo đảm dự thầu.
Trở lại quy định tại Khoản 4 Điều 11 Luật Đấu thầu, quy định này được hiểu là áp dụng cho bên mời thầu, chủ đầu tư khi
xây dựng HSMT. Chẳng hạn, khi đã quy định hiệu lực HSDT là 40 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu thì cần quy
định hiệu lực của bảo đảm dự thầu là 70 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu. Các yêu cầu về hiệu lực nêu trong
HSMT sẽ được đem ra đối chiếu khi đánh giá HSDT; theo đó, hiệu lực HSDT, bảo đảm dự thầu được coi là đáp ứng yêu
cầu nếu không ngắn hơn quy định ghi trong HSMT mà không xét đến việc cái này phải dài hơn cái khác 30 ngày.

24.

Nhà thầu nộp cam kết tín dụng có điều kiện của ngân hàng

(BĐT) - Nếu nhà thầu cung cấp cam kết tín dụng của tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam với giá
trị đáp ứng yêu cầu của HSMT thì được đánh giá là đạt đối với nội dung này...
Hỏi: Sở Y tế tỉnh X đang tổ chức lựa chọn nhà thầu gói thầu mua sắm hàng hóa thuộc dự án xây dựng một
bệnh viện đa khoa huyện. Trong tiêu chí yêu cầu về nguồn lực tài chính cho gói thầu, hồ sơ mời thầu (HSMT)
có quy định nhà thầu phải chứng minh khả năng tài chính cho gói thầu với số tiền 5,5 tỷ đồng và một trong
các cách chứng minh là nộp cam kết tín dụng của ngân hàng, tổ chức tín dụng hợp pháp.
Nhà thầu A tham dự thầu gói thầu nêu trên và chứng minh nguồn lực tài chính của mình bằng cam kết tín
dụng từ ngân hàng và hạn mức tín dụng đúng bằng số tiền yêu cầu trong HSMT. Tuy nhiên, cam kết tín dụng
có ghi nội dung sau: Ngân hàng cam kết cấp tín dụng nếu nhà thầu đáp ứng đầy đủ các điều kiện về cấp tín
dụng theo quy định của pháp luật và quy định của ngân hàng.
Trong trường hợp này, cam kết tín dụng mà nhà thầu đã nộp có được coi là hợp lệ hay không?
Trả lời: Theo hướng dẫn tại Mục 2.1 Chương III Mẫu HSMT gói thầu mua sắm hàng hóa một giai đoạn một túi
hồ sơ ban hành kèm Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT ngày 16/6/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, khi tham
dự thầu, nhà thầu phải chứng minh có các tài sản có khả năng thanh khoản cao hoặc có khả năng tiếp cận
với tài sản có khả năng thanh khoản cao sẵn có, các khoản tín dụng hoặc các nguồn tài chính khác (không kể
các khoản tạm ứng thanh toán theo hợp đồng) để đáp ứng yêu cầu về nguồn lực tài chính thực hiện gói thầu

theo quy định của HSMT.
Theo hướng dẫn tại Mẫu số 15 mẫu HSMT nêu trên, trường hợp trong hồ sơ dự thầu nhà thầu có nộp kèm
theo bản cam kết tín dụng của tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, trong đó cam kết sẽ cung
cấp tín dụng cho nhà thầu để thực hiện gói thầu đang xét với hạn mức tối thiểu bằng giá trị yêu cầu quy định
tại tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng thì nhà thầu được đánh giá là
đáp ứng yêu cầu về nguồn lực tài chính cho gói thầu.
Đối với trường hợp trên, khi tham dự thầu, nếu nhà thầu cung cấp cam kết tín dụng của tổ chức tín dụng hoạt
động hợp pháp tại Việt Nam với giá trị đáp ứng yêu cầu của HSMT thì được đánh giá là đạt đối với nội dung
này. Một thực tế hiển nhiên là việc thực hiện cam kết tín dụng của ngân hàng cho nhà thầu phải tuân thủ theo
quy định của pháp luật về tín dụng, trong đó có sự ràng buộc và điều kiện giữa hai bên. Do vậy, trên thực tế
thì các ngân hàng sẽ không cấp cam kết tín dụng vô điều kiện cho nhà thầu nộp cùng với hồ sơ dự thầu.


25.

Nêu nhãn hiệu hàng hóa trong chào hàng cạnh tranh

(BĐT) - Luật Đấu thầu (Điều 89 Khoản 6 Điểm i) quy định một trong các hành vi bị cấm trong đấu thầu là nêu
yêu cầu cụ thể về nhãn hiệu, xuất xứ hàng hoá trong hồ sơ mời thầu đối với gói thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp
hoặc gói thầu hỗn hợp khi áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế.
Hỏi: Bên mời thầu là đơn vị X đang thực hiện gói thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức chào hàng cạnh tranh. Khi lập
hồ sơ yêu cầu, đơn vị X dự kiến quy định rõ xuất xứ, nhãn hiệu và mô tả chi tiết đặc tính kỹ thuật, thiết kế công nghệ, tiêu
chuẩn công nghệ của hàng hóa để các nhà thầu làm cơ sở chào giá trong hồ sơ đề xuất.
Việc quy định cụ thể xuất xứ, nhãn hiệu hàng hóa trong hồ sơ yêu cầu chào hàng cạnh tranh có phù hợp với quy định của
pháp luật về đấu thầu hay không?
Trả lời: Luật Đấu thầu (Điều 89 Khoản 6 Điểm i) quy định một trong các hành vi bị cấm trong đấu thầu là nêu yêu cầu cụ
thể về nhãn hiệu, xuất xứ hàng hoá trong hồ sơ mời thầu đối với gói thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp hoặc gói thầu hỗn
hợp khi áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế.
Đối với trường hợp của đơn vị X, việc nêu nhãn hiệu hàng hóa khi lập hồ sơ yêu cầu chào hàng cạnh tranh không thuộc
sự điều chỉnh của quy định nêu trên. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 11/2015/TT-BKHĐT quy định chi

tiết lập hồ sơ yêu cầu chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh, đối với gói thầu áp dụng hình thức chào hàng cạnh tranh, khi
đưa ra yêu cầu đối với hàng hóa cần quy định đặc tính kỹ thuật, tiêu chuẩn sản xuất, tiêu chuẩn chế tạo, công nghệ mang
tính chất trung tính, không đưa ra các đặc tính kỹ thuật, tiêu chuẩn mang tính cá biệt hóa mà không phải là đặc tính cơ
bản của sản phẩm để chỉ một hoặc một số ít nhà thầu đáp ứng yêu cầu, làm hạn chế sự tham gia của các nhà thầu, gây ra
sự cạnh tranh không bình đẳng. Trường hợp không thể mô tả được hàng hóa cần mua theo đặc tính kỹ thuật, thiết kế công
nghệ, tiêu chuẩn công nghệ thì mới được phép nêu nhãn hiệu, catalô của một sản phẩm cụ thể để tham khảo, minh họa
cho yêu cầu về kỹ thuật của hàng hóa nhưng phải ghi kèm theo cụm từ “hoặc tương đương” sau nhãn hiệu, catalô, đồng
thời quy định rõ nội hàm tương đương với hàng hóa đó về đặc tính kỹ thuật, tính năng sử dụng, tiêu chuẩn công nghệ và
các nội dung khác (nếu có) mà không quy định tương đương về xuất xứ.
Như vậy, khi bên mời thầu X đã mô tả được hàng hóa cần mua theo đặc tính kỹ thuật, thiết kế công nghệ, tiêu chuẩn công
nghệ thì việc quy định nội dung xuất xứ, nhãn hiệu trong hồ sơ yêu cầu là không phù hợp với quy định của pháp luật đấu
thầu. Ngoài ra, cần lưu ý việc mô tả hàng hóa cần mua phải bảo đảm không mang tính cá biệt hóa, làm cho chỉ một hoặc
một số ít sản phẩm đáp ứng yêu cầu, làm hạn chế sự tham gia của các nhà thầu khác.

26.

Sai sót khi ghi tên gói thầu, tên nhà thầu liên danh trong đơn dự thầu

(BĐT) - Theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, việc đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT)
phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu...
Hỏi: Nhà thầu A tham dự thầu gói thầu của một bên mời thầu (BMT) nhưng trong đơn dự thầu nhà thầu ghi
tên gói thầu từ “Mua sắm, vận chuyển các thiết bị trạm biến áp 110kV” thành “Mua sắm, vận chuyển thiết bị
trạm biến áp 110 KV”. Cũng trong gói thầu này, nhà thầu X liên danh với nhà thầu Y để tham dự thầu gói thầu
và thống nhất tên gọi của thành viên liên danh trong văn bản thỏa thuận liên danh là Liên danh Công ty X Công ty Y. Tuy nhiên, đơn dự thầu của nhà thầu liên danh ghi là Liên danh Công ty Y - Công ty X.


Trong trường hợp này, đơn dự thầu của nhà thầu A và nhà thầu liên danh Công ty X - Công ty Y có được
đánh giá là hợp lệ hay không?
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, việc đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT)
phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu (HSMT), căn cứ vào

HSDT đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ HSDT của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ
năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu. Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều
18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, HSDT hợp lệ phải có đơn dự thầu được đại diện hợp pháp của nhà thầu ký
tên, đóng dấu (nếu có) theo yêu cầu của HSMT; thời gian thực hiện gói thầu nêu trong đơn dự thầu phải phù
hợp với đề xuất về kỹ thuật; giá dự thầu ghi trong đơn dự thầu phải cụ thể, cố định bằng số, bằng chữ và phải
phù hợp, logic với tổng giá dự thầu ghi trong biểu giá tổng hợp, không đề xuất các giá dự thầu khác nhau
hoặc có kèm theo điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư, BMT. Đối với nhà thầu liên danh, đơn dự thầu phải do
đại diện hợp pháp của từng thành viên liên danh ký tên, đóng dấu (nếu có) hoặc thành viên đứng đầu liên
danh thay mặt liên danh ký đơn dự thầu theo phân công trách nhiệm trong văn bản thỏa thuận liên danh.
Ngoài ra, việc xác định các sai khác, đặt điều kiện và bỏ sót nội dung (gọi chung là sai sót) cơ bản được
hướng dẫn tại Chương I các Mẫu HSMT mua sắm hàng hóa ban hành kèm Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Đối với tình huống vừa nêu, việc đánh giá HSDT, trong đó bao gồm kiểm tra tính hợp lệ của đơn dự thầu,
phải căn cứ các quy định nêu trên. Đối với đơn dự thầu đã đầy đủ các nội dung nêu tại Điểm b Khoản 2 Điều
18 Nghị định 63/2014/NĐ-CP nhưng ghi thiếu 1 chữ “các” trong tên gói thầu, nếu HSDT của nhà thầu vẫn
chào đủ số lượng thiết bị trạm biến áp 110 kV theo yêu cầu của HSMT thì đơn dự thầu vẫn được coi là hợp
lệ.
Đối với nhà thầu X, trường hợp trong văn bản thỏa thuận liên danh nhà thầu ghi tên là Liên danh Công ty X Công ty Y thì HSDT ghi tên nhà thầu là Liên danh Công ty Y - Công ty X vẫn thể hiện được bản chất liên danh
của hai nhà thầu thành viên. Do vậy, HSDT của liên danh này vẫn được tiếp tục đánh giá theo các yêu cầu
của HSMT.
Nhìn chung, trong quá trình lập HSDT, một số nhà thầu sẽ có những sai sót không mong muốn, tương tự như
các trường hợp nêu trên. Tuy nhiên, việc xem xét, đánh giá từng sai sót phải được thực hiện cẩn trọng, không
vội lấy đó làm căn cứ để loại nhà thầu. Suy cho cùng, việc tham dự của mỗi nhà thầu đều góp phần làm tăng
tính cạnh tranh, hiệu quả của gói thầu.

27.

Nhà thầu chào giá thấp nhất không đáp ứng yêu cầu về năng lực tài
chính


(BĐT) - Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (NĐ63) quy định việc đánh giá HSDT phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá
HSDT và các yêu cầu khác trong HSMT để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm, có giải
pháp khả thi để thực hiện gói thầu.
Hỏi: Bên mời thầu X tổ chức lựa chọn nhà thầu cho một gói thầu và áp dụng Mẫu hồ sơ mời thầu (HSMT) gói thầu mua
sắm hàng hóa ban hành kèm Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT (TT05). Trong yêu cầu về năng lực tài chính có yêu cầu
giá trị tài sản ròng của nhà thầu trong năm gần nhất phải dương.


Nhà thầu A tham dự thầu gói thầu này và chào giá thấp nhất theo kết quả ghi nhận tại lễ mở thầu. Tuy nhiên, khi đánh giá
hồ sơ dự thầu (HSDT) thì các tài liệu chứng minh năng lực tài chính thể hiện nhà thầu A không đáp ứng yêu cầu về năng
lực tài chính nêu trên. Trong trường hợp này, bên mời thầu X cần đánh giá HSDT của nhà thầu A như thế nào?
Trả lời: Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (NĐ63) quy định việc đánh giá HSDT phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT
và các yêu cầu khác trong HSMT để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm, có giải pháp khả thi
để thực hiện gói thầu. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 18 NĐ63, nhà thầu có năng lực, kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu
được xem xét, đánh giá về kỹ thuật. Nội dung này đồng thời được đưa vào quy định tại Chương I, Chương III các Mẫu
HSMT gói thầu mua sắm hàng hóa ban hành kèm TT05.
Đối với chỉ tiêu tài chính giá trị tài sản ròng, đó là sự so sánh giữa tổng tài sản và tổng nợ của doanh nghiệp. Khi tổng tài
sản ít hơn nợ phải trả thì giá trị tài sản ròng sẽ âm (giá trị tài sản ròng = tổng tài sản – tổng nợ), chỉ tiêu giá trị tài sản ròng
âm phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp là không lành mạnh, từ đó có thể dẫn tới không bảo đảm khả năng tài
chính để thực hiện gói thầu.
Đối với trường hợp trên, việc đánh giá năng lực tài chính của nhà thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá đã quy định
trong HSMT. Khi HSMT quy định nhà thầu phải có giá trị tài sản ròng năm gần nhất dương thì nhà thầu không có giá trị
tài sản ròng dương trong năm gần nhất bị coi là không đáp ứng yêu cầu của HSMT đối với nội dung này. Các nhà thầu
không đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm (bao gồm năng lực tài chính) thì không được xem xét ở bước tiếp theo.
Tóm lại, đấu thầu là một cuộc thi minh bạch và bình đẳng, trong đó các nhà thầu đã được thông báo rõ thể lệ trong
HSMT. Do vậy, trong trường hợp này, bên mời thầu phải tôn trọng quy định do chính mình đưa ra, nghĩa là không được
đánh giá nhà thầu A là đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm vì thấy nhà thầu đó chào giá thấp nhất theo thông tin
ghi nhận tại lễ mở thầu.

28.


Hồ sơ dự thầu có hiệu lực từ thời điểm mở thầu

(BĐT) - Luật Đấu thầu (Điều 4 Khoản 42) quy định thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu là số ngày được quy
định trong hồ sơ mời thầu và được tính kể từ ngày có thời điểm đóng thầu đến ngày cuối cùng có hiệu lực theo
quy định trong hồ sơ mời thầu.
Hỏi: Bên mời thầu X tổ chức lựa chọn nhà thầu một gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu. Hồ sơ mời
thầu quy định hồ sơ dự thầu phải có hiệu lực 120 ngày và thời điểm đóng thầu là 9h ngày 07/9/2016. Trong quá trình
đánh giá hồ sơ dự thầu, tổ chuyên gia nhận thấy Nhà thầu A chào thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu là 120 ngày, từ
thời điểm mở thầu là 9h30 ngày 07/9/2015. Trong trường hợp này, việc Nhà thầu A chào thời gian hiệu lực của hồ sơ dự
thầu có được coi đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu hay không?
Trả lời: Luật Đấu thầu (Điều 4 Khoản 42) quy định thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu là số ngày được quy định
trong hồ sơ mời thầu và được tính kể từ ngày có thời điểm đóng thầu đến ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định trong
hồ sơ mời thầu. Từ thời điểm đóng thầu đến hết 24 giờ của ngày đóng thầu được tính là 01 ngày.
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 18 Khoản 2 Điểm c) quy định hồ sơ dự thầu hợp lệ phải có hiệu lực đáp ứng yêu cầu
theo quy định của hồ sơ mời thầu.


Đối với trường hợp trên, nếu hồ sơ mời thầu quy định hồ sơ dự thầu phải có hiệu lực 120 ngày và thời điểm đóng thầu là
9h ngày 07/9/2016 thì các hồ sơ dự thầu ghi thời gian có hiệu lực là 120 ngày kể từ ngày 07/9/2016 hoặc kể từ 9h ngày
07/9/2016 được coi là đáp ứng yêu cầu về thời gian có hiệu lực. Trường hợp hồ sơ dự thầu ghi thời gian có hiệu lực với
điểm bắt đầu muộn hơn thời điểm đóng thầu (ví dụ: 9h30 ngày 07/9/2015) bị coi là không đáp ứng yêu cầu về thời gian
có hiệu lực.
Hiện nay, một trong các sai sót thường gặp khi nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu là ghi sai hiệu lực của hồ sơ dự thầu. Vì
vậy, để hạn chế các sai sót này, nhà thầu khi chuẩn bị hồ sơ dự thầu, nên đọc kỹ thông tin trong chỉ dẫn nhà thầu về thời
điểm đóng thầu, mở thầu, ngày bắt đầu và số ngày có hiệu lực. Ngoài ra, chỉ cần ghi ngày bắt đầu có hiệu lực (không cần
ghi cụ thể thời điểm, giờ bắt đầu) và số ngày có hiệu lực thì hồ sơ dự thầu đã được đánh giá đáp ứng yêu cầu về thời gian
có hiệu lực, ví dụ: Có thể ghi là 120 ngày kể từ ngày 07/9/2016, không nhất thiết phải ghi là 120 ngày kể từ 9h00 ngày
07/9/2016.


29.

Xử lý vi phạm đối với từng thành viên trong liên danh

(BĐT) - Luật Đấu thầu (Điều 4 Khoản 35) quy định nhà thầu chính là nhà thầu chịu trách nhiệm tham dự thầu,
đứng tên dự thầu và trực tiếp ký, thực hiện hợp đồng nếu được lựa chọn. Nhà thầu chính có thể là nhà thầu
độc lập hoặc thành viên của nhà thầu liên danh.
Hỏi: Công ty A liên danh với Công ty B để tham dự thầu gói thầu do bên mời thầu X tổ chức và đã được trao hợp đồng
vào năm 2015.
Trong quá trình tham dự thầu, thành viên liên danh A, B đều tham gia lập hồ sơ dự thầu và mỗi thành viên ký vào phần kê
khai năng lực, kinh nghiệm của mình.
Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, tổ chuyên gia đấu thầu phát hiện thành viên liên danh B thuộc nhà thầu liên danh
A - B đã kê khai không trung thực nhiều thông tin, làm giả hồ sơ liên quan đến năng lực, kinh nghiệm của mình khi tham
dự thầu nên đã báo cáo bên mời thầu. Trong trường hợp này, bên mời thầu X cần xử lý vi phạm đối với thành viên liên
danh B hay với nhà thầu liên danh A - B?
Trả lời: Luật Đấu thầu (Điều 4 Khoản 35) quy định nhà thầu chính là nhà thầu chịu trách nhiệm tham dự thầu, đứng tên
dự thầu và trực tiếp ký, thực hiện hợp đồng nếu được lựa chọn. Nhà thầu chính có thể là nhà thầu độc lập hoặc thành viên
của nhà thầu liên danh. Như vậy, khi tham gia đấu thầu thì tất cả thành viên liên danh đều là nhà thầu chính.
Luật Đấu thầu (Điều 89) quy định một trong các hành vi bị cấm trong đấu thầu là trình bày sai một cách cố ý hoặc làm sai
lệch thông tin, hồ sơ, tài liệu của một bên trong đấu thầu nhằm thu được lợi ích tài chính hoặc lợi ích khác hoặc nhằm
trốn tránh bất kỳ một nghĩa vụ nào.
Đối với trường hợp nêu trên, nhà thầu liên danh sử dụng hồ sơ giả do thành viên liên danh B cung cấp để làm sai lệch kết
quả lựa chọn nhà thầu thì nhà thầu liên danh này bị coi là vi phạm Điều 89 Luật Đấu thầu. Trong trường hợp này, hồ sơ
dự thầu của nhà thầu bị loại và việc xử phạt phải được áp dụng với tất cả các nhà thầu liên danh, bao gồm Công ty A và
Công ty B vì (i) các thành viên liên danh đều là nhà thầu chính khi tham gia đấu thầu và đều phải chịu trách nhiệm nếu vi
phạm pháp luật về đấu thầu; (ii) văn bản thỏa thuận liên danh thể hiện sự ràng buộc không thể tách rời của các thành viên
để tham gia đấu thầu, do vậy, hành vi vi phạm pháp luật đấu thầu của nhà thầu liên danh không thể coi là hành vi vi phạm


của riêng một thành viên nào đó trong liên danh. Do vậy, khi tìm kiếm đối tác để liên danh tham dự thầu thì các nhà thầu

phải có các thông tin chính xác về đối tác của mình, nhất là về năng lực, kinh nghiệm để tránh các rủi ro đáng tiếc như
Công ty A khi liên danh với Công ty B trong tình huống này.

30.

Kế thừa năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu sau khi sáp nhập

(BĐT) - Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 18 Khoản 1 và Khoản 3) quy định, HSDT của nhà thầu phải bao gồm
các tài liệu chứng minh năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu, đồng thời việc đánh giá HSDT bao gồm bước đánh
giá về năng lực và kinh nghiệm.
Hỏi: Nhà máy in C trước đây là đơn vị hạch toán phụ thuộc Tập đoàn B. Khi đó, Tập đoàn B tham gia đấu thầu và nếu
trúng thầu thì giao một số gói thầu cho Nhà máy in C thực hiện. Do cơ cấu lại Tập đoàn B, Nhà máy in đã được tách ra
thành một pháp nhân độc lập, sau đó tiếp tục được điều chuyển nguyên trạng, sáp nhập về Nhà thầu A. Trong trường hợp
này, khi chuẩn bị hồ sơ dự thầu (HSDT) tham gia đấu thầu, Nhà thầu A có được kế thừa năng lực, kinh nghiệm của Nhà
máy in C khi còn trực thuộc Tập đoàn B không?
Trả lời: Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 18 Khoản 1 và Khoản 3) quy định, HSDT của nhà thầu phải bao gồm các tài
liệu chứng minh năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu, đồng thời việc đánh giá HSDT bao gồm bước đánh giá về năng lực
và kinh nghiệm.
Liên quan đến việc tách, sáp nhập pháp nhân, có thể tìm hiểu quy định tại Điều 89 và Điều 91 Bộ luật Dân sự 2015. Theo
đó, sau khi tách, pháp nhân bị tách và pháp nhân được tách thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình phù hợp với mục
đích hoạt động. Sau khi sáp nhập, pháp nhân được sáp nhập chấm dứt tồn tại; quyền và nghĩa vụ dân sự của pháp nhân
được sáp nhập được chuyển giao cho pháp nhân sáp nhập. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp, việc tách, sáp nhập được
quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014 (Điều 193 và Điều 195).
Đối với trường hợp nêu trên, Nhà máy in C trước đây trực thuộc Tập đoàn B và đã được Tập đoàn B giao thực hiện một
số hợp đồng in mà Tập đoàn trúng thầu. Vì vậy, sau khi tách ra thành pháp nhân độc lập thì Nhà máy in C được hiểu là có
kinh nghiệm thực hiện các hợp đồng mà trên thực tế nhà máy này đã thực hiện khi còn trực thuộc Tập đoàn B. Tiếp đó,
khi Nhà máy được sáp nhập vào Nhà thầu A thì năng lực, kinh nghiệm của Nhà thầu A được hiểu là bao gồm năng lực,
kinh nghiệm của Nhà máy in C trước khi được sáp nhập. Tóm lại, khi Nhà máy in C có năng lực, kinh nghiệm thực hiện
hợp đồng thì năng lực, kinh nghiệm thực hiện hợp đồng này sẽ được tính vào năng lực, kinh nghiệm của Nhà thầu A sau
khi Nhà máy in C được sáp nhập vào nhà thầu này.


31.

Văn bản xác nhận của cơ quan thuế gửi sau thời điểm đóng thầu

(BĐT) - Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 15 Khoản 1) quy định việc đánh giá HSDT phải căn cứ vào tiêu chuẩn
đánh giá HSDT và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu...
Hỏi: Công ty X tham dự đấu thầu rộng rãi trong nước gói thầu xây lắp. Do sơ suất, trong hồ sơ dự thầu (HSDT) của Công
ty nộp cho bên mời thầu không đóng kèm văn bản xác nhận của cơ quan thuế về việc Công ty đã hoàn thành nghĩa vụ
thuế đối với Nhà nước. Vì vậy, sau khi đóng thầu (9h ngày 25/8/2016), Công ty mới gửi văn bản xác nhận của cơ quan
thuế (văn bản xác nhận của cơ quan thuế ký ngày 26/8/2016) trong đó xác nhận tính đến ngày 25/8/2016, Công ty đã
hoàn thành nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Vậy, Công ty có được dùng văn bản xác nhận của cơ quan thuế sau thời điểm


đóng thầu như nêu trên để chứng minh năng lực về tài chính của mình và văn bản xác nhận này có được chấp nhận, đánh
giá hay không?
Trả lời: Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 15 Khoản 1) quy định việc đánh giá HSDT phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh
giá HSDT và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu (HSMT), căn cứ vào HSDT đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ
HSDT của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện
gói thầu.
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 16 Khoản 1 và Khoản 2) quy định sau khi mở thầu, nhà thầu có trách nhiệm làm rõ
HSDT theo yêu cầu của bên mời thầu. Trường hợp HSDT của nhà thầu thiếu tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực
và kinh nghiệm thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung tài liệu để chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh
nghiệm. Đối với các nội dung đề xuất về kỹ thuật, tài chính nêu trong HSDT của nhà thầu, việc làm rõ phải bảo đảm
nguyên tắc không làm thay đổi nội dung cơ bản của HSDT đã nộp, không thay đổi giá dự thầu. Trường hợp sau khi đóng
thầu, nếu nhà thầu phát hiện HSDT thiếu các tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm thì nhà thầu
được phép gửi tài liệu đến bên mời thầu để làm rõ về tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm của mình. Bên mời thầu có
trách nhiệm tiếp nhận những tài liệu làm rõ của nhà thầu để xem xét, đánh giá; các tài liệu bổ sung, làm rõ về tư cách hợp
lệ, năng lực và kinh nghiệm được coi như một phần của HSDT.
Đối với trường hợp nêu trên, việc sau thời điểm đóng thầu, nếu nhà thầu phát hiện trong HSDT đã nộp thiếu văn bản xác

nhận của cơ quan thuế thì nhà thầu được phép bổ sung văn bản xác nhận đã hoàn thành nghĩa vụ thuế của cơ quan thuế để
chứng minh năng lực tài chính của mình sau thời điểm đóng thầu. Trong trường hợp này, bên mời thầu phải tiếp nhận văn
bản xác nhận của cơ quan thuế để làm cơ sở đánh giá HSDT của nhà thầu.
Trường hợp việc xác nhận của cơ quan thuế diễn ra sau thời điểm đóng thầu thì bên mời thầu, tổ chuyên gia phải xem xét
đến các yếu tố về thời điểm lập tờ khai nộp thuế, thời điểm nộp tiền đóng thuế của nhà thầu. Nếu thời điểm lập tờ khai
nộp thuế, thời điểm nộp tiền đóng thuế của nhà thầu được thực hiện trước thời điểm đóng thầu thì văn bản xác nhận việc
nộp thuế của cơ quan thuế được coi là hợp lệ để xem xét, đánh giá; ngược lại, nếu là sau thời điểm đóng thầu thì được coi
là không hợp lệ.
Ngoài ra, để nâng cao tính cạnh tranh trong đấu thầu, trường hợp sau khi đóng thầu, nếu nhà thầu không phát hiện ra
HSDT của mình thiếu văn bản xác nhận của cơ quan thuế thì trong quá trình đánh giá HSDT, bên mời thầu cần yêu cầu
nhà thầu làm rõ, bổ sung tài liệu chứng minh đến trước thời điểm đóng thầu, nhà thầu đã hoàn thành nghĩa vụ thuế theo
quy định (yêu cầu nhà thầu bổ sung văn bản xác nhận của cơ quan thuế) để làm cơ sở đánh giá về năng lực tài chính của
nhà thầu.

32.

Xử lý gói thầu khi chấm dứt hợp đồng đối với nhà thầu vi phạm

(BĐT) - Nghị định 63/2014/NĐ-CP (Điều 117 Khoản 11) quy định về cách thức xử lý tình huống trường hợp nhà
thầu thực hiện gói thầu vi phạm hợp đồng, không còn năng lực để tiếp tục thực hiện hợp đồng, làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tiến độ, chất lượng, hiệu quả của gói thầu.
Hỏi: Trường hợp chấm dứt hợp đồng đối với nhà thầu vi phạm hợp đồng thì khối lượng công việc còn lại có
phải hình thành gói thầu mới để tổ chức lựa chọn nhà thầu hay không? Hình thức lựa chọn nhà thầu nào sẽ
được áp dụng?


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×