Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

NGHIÊN cứu THIẾT kế CẢNH QUAN CÔNG VIÊN TRONG KHU NHÀ ở cán bộ GIẢNG VI ên TRƯỜNG đại học cần THƠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.13 MB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

LÊ THỊ NGỌC CHÂU

NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ CẢNH QUAN CÔNG VIÊN
TRONG KHU NHÀ Ở CÁN BỘ GIẢNG VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: HOA VIÊN và CÂY CẢNH

Cần Thơ, 2009


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: HOA VIÊN và CÂY CẢNH

Tên đề tài:

NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ CẢNH QUAN CÔNG VIÊN
TRONG KHU NHÀ Ở CÁN BỘ GIẢNG VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

Cán bộ hướng dẫn
ThS. Phạm Minh Thịnh

Sinh viên thực hiện:


Lê Thị Ngọc Châu
MSSV: 3053304
Lớp: HV&CC K31

Cần Thơ, 2009


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN SINH LÝ - SINH HOÁ

Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành hoa viên và cây cảnh với đề tài: “NGHIÊN CỨU
THIẾT KẾ CẢNH QUAN CÔNG VIÊN TRONG KHU NHÀ Ở CÁN BỘ GIẢNG
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ”.
Do sinh viên LÊ THỊ NGỌC CHÂU thực hiện kính trình lên hội đồng chấm luận văn
tốt nghiệp.

Cần Thơ, ngày ….. tháng …. năm 2009
Cán bộ hướng dẫn

ThS. Phạm Minh Thịnh

i


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN SINH LÝ - SINH HOÁ

Luận văn tốt nghiệp kèm theo với đề tài: “NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ CẢNH QUAN

CÔNG VIÊN TRONG KHU NHÀ Ở CÁN BỘ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CẦN THƠ”, do sinh viên LÊ THỊ NGỌC CHÂU thực hiện và bảo vệ trước Hội Đồng
chấm luận văn tốt nghiệp và đã được thông qua.
Luận văn tốt nghiệp được Hội Đồng đánh giá ở mức:…………………………..
Ý kiến của Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp:……………………………............
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………

Duyệt Khoa
Trưởng khoa Nông Nghiệp & SHƯD

Cần Thơ, ngày…..tháng…..năm 2009.
Chủ tịch Hội đồng

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Kết quả trình bày
trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình luận
văn nào trước đây.

Tác giả luận văn

Lê Thị Ngọc Châu

iii



TIỂU SỬ CÁ NHÂN
I. LÝ LỊCH SƠ LƯỢC
Họ và tên: LÊ THỊ NGỌC CHÂU
Ngày sinh: 27/04/1987
Nơi sinh: tỉnh Cà Mau
Họ và tên cha: Lê Hùng
Họ và tên mẹ: Mai Hoài Minh
Quê quán: ấp I, xã Hàng Vịnh, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau.
II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
1993 - 1997: học sinh Trường Tiểu học I xã Hàng Vịnh, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau.
1998 - 2001: học sinh Trường Trung học cơ sở xã Hàng Vịnh, huyện Năm Căn, tỉnh Cà
Mau.
2002 - 2004: học sinh Trường Phổ thông trung học bán công Phan Ngọc Hiển, phường
An Cư, TP Cần Thơ.
2005 - 2009: sinh viên Trường Đại học Cần Thơ, ngành Hoa Viên và Cây Cảnh, khóa
31, Khoa Nông Nghiệp & Sinh học Ứng dụng, Ninh Kiều, TP Cần Thơ.

iv


LỜI CẢM TẠ
Kính dâng
Cha, mẹ đã suốt đời tần tảo nuôi dạy con nên người.
Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
Thầy Phạm Minh Thịnh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và động viên em, cung
cấp kiến thức và kinh nghiệm cho em trong suốt thời gian thực hiện đề tài và hoàn
chỉnh bài luận văn tốt nghiệp này.
Cô Lâm Ngọc Phương, thầy Nguyễn Văn Ây cố vấn học tập, đã quan tâm, dìu
dắt, động viên và giúp đỡ em trong suốt khóa học.

Quý thầy cô, anh chị Bộ môn Sinh lý - Sinh hóa và Bộ môn Khoa Học Cây
Trồng, khoa Nông nghiệp & Sinh học ứng dụng, trường Đại học Cần Thơ đã truyền đạt
kiến thức, kinh nghiệm có ích cho em.
Chân thành biết ơn
Các bạn lớp Hoa Viên Cây Cảnh K31 cùng các bạn của tôi đã trao đổi và giúp
đỡ nhiều cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Thân gởi về
Cô cố vấn Lâm Ngọc Phương và các bạn lớp Hoa Viên và Cây Cảnh K31 những lời
chúc sức khỏe và thành đạt.
Lê Thị Ngọc Châu

v


MỤC LỤC
DANH SÁCH BẢNG ............................................................................................... ix
DANH SÁCH HÌNH ................................................................................................. x
TÓM LƯỢC ............................................................................................................. xi
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
1.LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU ................................................................................. 2
1.1 Vài nét về lịch sử phát triển nghệ thuật vườn – công viên trên thế giới ..... 2
1.1.1 Thời kỳ cổ đại (thiên niên kỷ IV TCN – thế kỷ V SCN) ............. 2
1.1.1.1 Vườn Ai Cập ................................................................ 2
1.1.1.2 Vườn Lưỡng Hà và Ba Tư ........................................... 2
1.1.1.3 Vườn Ấn Độ ................................................................. 3
1.1.1.4 Vườn Trung Quốc ........................................................ 4
1.1.1.5 Vườn Nhật Bản ............................................................ 5
1.1.1.6 Vườn Hy Lạp ................................................................. 5
1.1.1.7 Vườn La Mã .................................................................. 6
1.1.2 Thời kỳ trung đại (thế kỷ V – thế kỷ XVII) ................................. 7

1.1.3 Thời kỳ cận đại (thế kỷ XVIII – thế kỷ XIX) ............................... 9
1.1.4 Thời kỳ hiện đại (thế kỷ XX) .................................................... 11
1.2 Vài nét về nghệ thuật vườn – công viên Việt Nam ................................. 12
1.2.1 Vườn cung đình ........................................................................ 12
1.2.2 Vườn lăng ................................................................................ 12
1.2.3 Vườn tôn giáo tín ngưỡng ........................................................ 14
1.2.4 Vườn nhà ở dân gian ................................................................ 14
1.3 Lợi ích cây xanh..................................................................................... 15
1.3.1 Tác dụng cải thiện khí hậu của cây xanh ................................... 15
1.3.1.1 Điều chỉnh nhiệt độ ..................................................... 15
1.3.1.2 Bảo vệ gió và sự di chuyển của không khí................... 16
1.3.1.3 Lượng mưa và độ ẩm .................................................. 16
1.3.2 Công dụng trong kỹ thuật học môi sinh .................................... 16
1.3.2.1 Kiểm soát sự rửa trôi và xói mòn đất ........................... 16
1.3.2.2 Hạn chế tiếng ồn ......................................................... 17
1.3.2.3 Hạn chế ô nhiễm không khí ......................................... 17
1.3.2.4 Giảm sự chói sáng và phản chiếu ................................ 18
vi


1.3.2.5 Kiểm soát giao thông .................................................. 18
1.3.3 Công dụng kiến trúc và cảnh quan ............................................ 18
1.3.4 Công dụng kinh tế và xã hội ..................................................... 19
1.4 Phân loại cây xanh và các yếu tố liên quan ............................................ 19
1.4.1 Phân loại cây xanh.................................................................... 19
1.4.1.1 Phân loại theo mục đích sử dụng ................................. 19
1.4.1.2 Phân loại theo công dụng ............................................ 20
1.4.1.3 Phân loại theo kích thước trưởng thành ....................... 20
1.4.2 Các yếu tố liên quan ................................................................. 20
1.5 Các quy luật bố cục cơ bản của nghệ thuật vườn – công viên ................. 20

1.5.1 Bố cục cân xứng ...................................................................... 20
1.5.2 Bố cục tự do ............................................................................ 20
1.5.3 Bố cục kết hợp đối xứng và tự do ............................................ 21
1.5.4 Trung tâm và trục bố cục chính phụ ......................................... 21
1.6 Các quy luật của nghệ thuật cảnh quan ................................................... 21
1.6.1 Quy luật hài hòa ...................................................................... 21
1.6.2 Quy luật cân bằng .................................................................... 21
1.6.2.1 Cân bằng đối xứng ...................................................... 21
1.6.2.2 Cân bằng không đối xứng ........................................... 22
1.6.2.3 Cân bằng đối tâm ........................................................ 22
1.6.3 Quy luật tương phản ................................................................. 22
1.6.4 Quy luật cân đối và nhất quán................................................... 22
1.7 Điều kiện tự nhiên của khu vực .............................................................. 23
1.7.1 Vị trí địa lý ............................................................................... 23
1.7.2 Địa hình.................................................................................... 23
1.7.3 Thủy văn .................................................................................. 23
1.7.4 Thổ nhưỡng .............................................................................. 23
1.7.5 Khí hậu..................................................................................... 23
1.7.6 Hiện trạng sử dụng đất.............................................................. 24
1.8 Điều kiện xã hội ..................................................................................... 24
2.PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................. 25
2.1 Phương tiện nghiên cứu ......................................................................... 25
2.2 Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 25
3.KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ........................................................................ 26
3.1 Phân khu chức năng ............................................................................... 26
3.2 Thuyết minh ý tưởng thiết kế ................................................................. 27
vii


3.2.1 Bể phun nước trung tâm ............................................................ 27

3.2.1.1 Ý nghĩa, công năng ..................................................... 27
3.2.1.2 Nguyên tắc thiết kế ..................................................... 27
3.2.1.3 Dự trù kinh phí ........................................................... 29
3.2.2 Khu vui chơi thiếu nhi .............................................................. 29
3.2.2.1 Ý nghĩa, công năng ..................................................... 29
3.2.2.2 Nguyên tắc thiết kế ..................................................... 29
3.2.2.3 Dự trù kinh phí ........................................................... 31
3.2.3 Khu yên tĩnh ............................................................................. 32
3.2.3.1 Ý nghĩa, công năng ..................................................... 32
3.2.3.2 Nguyên tắc thiết kế ..................................................... 32
3.2.3.3 Dự trù kinh phí ........................................................... 33
3.2.4 Khu trao đổi ............................................................................. 33
3.2.4.1 Ý nghĩa, công năng ..................................................... 33
3.2.4.2 Nguyên tắc thiết kế ..................................................... 33
3.2.4.3 Dự trù kinh phí ........................................................... 34
3.2.5 Khu đồi nghỉ mát ...................................................................... 35
3.2.5.1 Ý nghĩa, công năng ..................................................... 35
3.2.5.2 Nguyên tắc thiết kế ..................................................... 35
3.2.5.3 Dự trù kinh phí ........................................................... 36
3.2.6 Khu quảng trường .................................................................... 36
3.2.6.1 Ý nghĩa, công năng ..................................................... 36
3.2.6.2 Nguyên tắc thiết kế ..................................................... 36
3.2.6.3 Dự trù kinh phí ........................................................... 37
3.3 Dự trù kinh phí....................................................................................... 38
Kết luận và kiến nghị ........................................................................................ 39
Tài liệu tham khảo ............................................................................................ 40
Phụ lục

viii



DANH SÁCH BẢNG
STT
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
3.8
3.9

TÊN BẢNG
Diện tích các phân khu trong công viên
Kinh phí dự trù cho các loại cây trồng, đất, phân trong khu bể
phun nước trung tâm
Kinh phí dự trù cho các loại cây trồng, đất, phân, nọc chống
trong khu vui chơi thiếu nhi
Kinh phí dự trù cho các loại cây trồng, đất, phân, nọc chống
trong khu yên tĩnh
Kinh phí dự trù cho các loại cây trồng, đất, phân, nọc chống
trong khu trao đổi
Kinh phí dự trù cho các loại cây trồng, đất, phân, nọc chống
trong khu đồi nghỉ mát
Kinh phí dự trù cho các loại cây trồng, đất, phân, nọc chống
trong khu quảng trường
Kinh phí dự trù cho các loại cây trồng, đất, phân, nọc chống
trong tất cả các phân khu thiết kế
Diện tích và tỉ lệ các thành phần trong thiết kế công viên


ix

TRANG
26
29
31
33
34
36
37
38
39


DANH SÁCH HÌNH
STT
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7

TÊN HÌNH
Phân khu chức năng
Mặt bằng thiết kế bể phun nước trung tâm
Mặt bằng thiết kế khu vui chơi thiếu nhi
Mặt bằng thiết kế khu yên tĩnh

Mặt bằng thiết kế khu trao đổi
Mặt bằng thiết kế khu đồi nghỉ mát
Mặt bằng thiết kế khu quảng trường

x

TRANG
27
28
30
32
34
35
37


LÊ THỊ NGỌC CHÂU, 2009. “Nghiên cứu thiết kế cảnh quan công viên trong khu nhà
ở cán bộ giảng viên trường Đại học Cần Thơ”. Luận văn tốt nghiệp Kỹ sư ngành Hoa
viên và Cây cảnh, khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng, trường Đại học Cần
Thơ.
______________________________________________________________________

TÓM LƯỢC
Đề tài “Nghiên cứu thiết kế cảnh quan công viên trong khu nhà ở cán bộ giảng
viên trường Đại học Cần Thơ” được thực hiện tại công viên trong khu nhà ở cán bộ
giảng viên trường Đại học Cần Thơ từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 6 năm 2009 nhằm
mục tiêu đưa ra được ý tưởng thiết kế cảnh quan phù hợp cho công viên trong khu nhà
ở cán bộ giảng viên trường Đại học Cần Thơ.
Đề tài được bắt đầu từ việc tìm hiểu, điều tra về hiện trạng, điều kiện tự nhiên
của khu vực đang nghiên cứu thiết kế. Từ đó giúp có những nhận định thiết thực về

khu vực và qua thời gian nghiên cứu, phân tích với các phương pháp và phương tiện hỗ
trợ, đã xây dựng nên được ý tưởng thiết kế cảnh quan phù hợp cho công viên trong khu
nhà ở cán bộ giảng viên trường Đại học Cần Thơ.

xi


MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng Tổ quốc, hòa mình cùng không khí hội nhập của đất
nước, Cần Thơ đã có những thay đổi rất đáng kể. Sự chuyển mình đi lên của Cần Thơ
được thể hiện qua rất nhiều lĩnh vực trong đó có ngành giáo dục với sự đóng góp to lớn
của Đại học Cần Thơ, trường đại học lớn nhất của đồng bằng sông Cửu Long. Hiện
nay, nhằm thu hút cán bộ trẻ giỏi ở lại phục vụ cho trường và nhằm nâng cao chất
lượng cuộc sống cho các cán bộ giảng viên, dự án quy hoạch khu nhà ở cán bộ giảng
viên trường Đại học Cần Thơ đã được hình thành. Bởi ở luôn là nhu cầu cơ bản của
con người.
Dự án khu nhà ở cán bộ giảng viên trường Đại học Cần Thơ nằm trên địa bàn
phường Hưng Lợi, xã An Bình, thành phố Cần Thơ. Dự án bao gồm các dãy nhà phố
liên kế và các dãy biệt thự đơn lập. Nằm giữa các dãy nhà phố liên kế là công viên, một
trong những khu quan trọng không thể thiếu. Bởi theo đà phát triển của xã hội, con
người ngoài những lo toan vật chất, mưu cầu hạnh phúc và đóng góp cho sự phát triển
giàu mạnh của đất nước thì nhu cầu thư giãn, nghỉ ngơi để giảm bớt sự căng thẳng
trong công việc hàng ngày cũng là một yếu tố quan trọng trong đời sống. Đặc biệt,
trong xã hội công nghiệp hiện đại phát triển thì nhu cầu thỏa mãn về mặt tinh thần cũng
ngày càng đòi hỏi mạnh mẽ hơn. Vì thế, ngoài không gian lao động, không gian sống
thì không gian phục vụ đời sống tinh thần, nghỉ ngơi thư giãn của con người cũng rất
quan trọng. Sự kết hợp giữa không gian và thời gian nghỉ ngơi một cách khoa học có
thể tạo nên môi trường hữu ích về nhiều mặt như: tăng sự gắn bó, đoàn kết, trau dồi tri
thức, nâng cao tầm hiểu biết và sức khỏe của người dân trong khu dân cư. Vì vậy, việc
tạo ra một công viên yên tĩnh, nhẹ nhàng để mọi người có thể tận hưởng được những

giây phút thật thoải mái và lấy lại sức lực đã tiêu hao vì cuộc sống là việc hết sức cần
thiết. Vì lý do đó, tôi nhận đề tài “Nghiên cứu thiết kế cảnh quan công viên trong khu
nhà ở cán bộ giảng viên Đại học Cần Thơ”.
Đề tài được sự hướng dẫn của Thạc sĩ Phạm Minh Thịnh, Giảng viên bộ môn
Cảnh quan và Kỹ Thuật Hoa Viên, Trường Đại Học Nông Lâm TP.HCM.

1


Chương 1: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT VƯỜN – CÔNG
VIÊN TRÊN THẾ GIỚI
Theo sự phát triển của xã hội, có thể chia làm 4 thời kỳ:
- Thời kỳ cổ đại (Thiên niên kỷ IV TCN – Thế kỷ V SCN)
- Thời kỳ trung đại (Thế kỷ V – XVII)
- Thời kỳ cận đại (Thế kỷ XVIII – XIX)
- Thời kỳ hiện đại (Thế kỷ XX)
1.1.1 Thời kỳ cổ đại (Thiên niên kỷ IV TCN – Thế kỷ V SCN)
Vườn – công viên được hình thành từ các quốc gia Cổ đại phương Đông (Ai
Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ) và 30 thế kỷ sau, vườn – công viên xuất hiện ở
các quốc gia Cổ đại phương Tây (Hy Lạp, La Mã). Tiêu biểu cho thời kỳ này là các
vườn bên công trình thờ cúng và các vườn trong dinh thự vua chúa và tầng lớp quý tộc
giàu có (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1997).
1.1.1.1 Vườn Ai Cập
Bố cục vườn cổ Ai Cập theo xu hướng cân xứng, chính giữa vườn là một bể
nước lớn hình chữ nhật (80 x 120m). Bể nước, theo các bức họa còn giữ được cho tới
ngày nay, là nơi diễn ra các hoạt đông vui chơi – giải trí chính trong những ngày hội lễ.
Bố cục đơn giản nhưng rất chặt chẽ bởi các yếu tố như: công trình chính (đền thờ hay
dinh thự) nằm trên trục chính; đường dạo thẳng hàng; cây hoa trang trí ở trung tâm,đặc
biệt là hoa huệ (theo tín ngưỡng hoa huệ tượng trưng cho niềm hy vọng và cuộc sống

con người); cây to bóng mát trồng thành hàng xa trung tâm. Nguyên nhân tạo bố cục
dạng hình học của vườn là do hệ thống tưới quy định (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
Cho đến nay vườn cổ Ai Cập không còn nữa nhưng trong sử sách vẫn còn lưu
truyền tinh hoa nghệ thuật và ý nghĩa xã hội của nó. Tính cân xứng - ổn định trong bố
cục vườn cho cả hai trục bố cục dọc ngang làm hoàn chỉnh, trọn vẹn tổng thể vườn, là
những đóng góp lớn lao vào kho tàng lý luận nghệ thuật hiện đại. Lối bố cục trên rất
thích hợp với tính chất vườn trước các công trình có ý nghĩa trang nghiêm, như trụ sở
hay các vườn – công viên tưởng niệm (Hàn Tất Ngạn, 2000).
1.1.1.2 Vườn Lưỡng Hà và Ba Tư
Nói đến văn minh Lưỡng Hà, ta không thể không thấy sự đóng góp vô giá của
kiến trúc đền đài (kim tự tháp nhiều cấp). Nó là mầm mống cho những quả núi nhân
tạo mà đỉnh núi xa xa được tô điểm bằng chòi hóng mát, hay như vườn treo Xemiramid
nổi tiếng thế giới – một trong bảy kỳ quan cổ (Hàn Tất Ngạn, 2000).

2


Vườn Xemiramid có dạng hình học, nằm trên một tòa nhà cao bốn tầng cũng
chính là bốn tầng vườn treo, nối với nhau bằng những cầu thang lớn. Vườn được xây
dựng trên một gò cao bên sông Euphrates, gần cung điện nhà vua, đầu hướng gió để tỏa
hương thơm cho toàn thành phố Babylon. Sở dĩ vườn được gọi là vườn treo vì cấu trúc
tầng bậc và vị trí của vườn nên nhìn từ xa trông như một khu vườn bát ngát xanh tươi
đang treo lơ lửng trên không trung. Vườn có chiều dài 42m, chiều rộng 14m (chiều
rộng của mỗi tầng bậc vườn là 3,5m). Vườn treo được xây dựng bằng những phiến đá
lớn tựa trên cột, vòm cuốn to khỏe. Trước khi đổ đất, sân được lót lớp sậy tẩm nhựa
cây và hai lần gạch lót vôi để chống dột khi tưới cây. Cây trồng được sưu tầm tìm kiếm
từ khắp mọi nơi, rất nhiều giống cây hoa quý, các loài kỳ hoa dị thảo. Cây được trồng
tự do và theo điều kiện sinh thái tự nhiên. Cây vùng núi cao được trồng ở sân trên; cây
miền hạ du trồng ở sân dưới như cọ, bách, tuyết tùng, hoàng dương, và nhiều loài hoa
đẹp (Lê Đàm Ngọc Tú, 2006).

Từ vườn này người ta có thể bao quát được cảnh quan toàn thành phố Babylon
và dòng sông Euphrates trong xanh. Đây cũng có thể là cái nôi của vườn trên mài hiện
đại (Hàn Tất Ngạn, 2000).
Năm 553 trước Công nguyên, ở Ba Tư việc xây dựng vườn đền không phát triển
mà dồn vào kiến trúc lâu đài, nên kiến trúc bằng đá đạt nhiều công trình đáng kể. Gắn
liền với lâu đài là công viên rộng lớn với nhiều loài cây và hoa cỏ đẹp. Các loài động
vật như sư tử, báo, lợn rừng,… sinh sống trong công viên rất “thoải mái”. Người Ba Tư
cổ đặt tên công viên kiểu này là Paradise (thiên đường cho các loài thú). Việc quy
hoạch công viên cân xứng, đều đặn một cách cứng nhắc, để bù vào đó, người ta đã chia
công viên thành nhiều phần riêng biệt hình tứ giác không đều nhau. Ngoài ra còn có
những đường cây xanh lớn và các kênh nước chạy dọc trục vườn có vòi phun trang trí
(Hàn Tất Ngạn, 2000).
Tóm lại, nghệ thuật vườn – công viên Lưỡng Hà và Ba Tư đã để lại những vốn
quý để ứng dụng cho vườn – công viên hiện đại. Đó là không gian bậc thang, vườn treo
trên mái Zigurat của đền đài, sân trên địa hình dốc, lối bố cục cân xứng mà tinh tế của
vườn Ba Tư, phóng khoáng tự do của vườn Lưỡng Hà và việc sử dụng cây trồng, mặt
nước, đặc biệt trong tạo hình nước (Hàn Tất Ngạn, 2000).
1.1.1.3 Vườn Ấn Độ
Theo Lê Đàm Ngọc Tú (2006) nghệ thuật vườn Ấn nổi bật với hai đặc điểm
chính:
- Bố cục hình học chặt chẽ với mặt nước ở giữa tòa nhà.
- Bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tôn giáo.

3


Thế kỷ III TCN đến thế kỷ VI SCN, Phật giáo là Quốc giáo Ấn Độ. Thời kỳ
này, công viên ngoại ô được xây dựng với chức năng nghỉ ngơi suy tưởng theo tinh
thần Phật giáo. Đến thế kỷ XVI, Hồi giáo phát triển mạnh dưới thời các Hoàng đế
Mogol thì ý nghĩa nghỉ ngơi suy tưởng của vườn bị thay đổi. Ở Ấn Độ lúc này xuất

hiện các đền thờ Hồi giáo. Đền có hình tròn ở vòm mái và tường xây theo mặt bằng
hình tứ giác hoặc bát giác, dẫn đến đền là một con đường rợp bóng cây, hai bên có
kênh nước, đáy lát bằng đá hoa óng ánh nên thơ với những vòi phun nước trang trí. Khi
còn sống người chủ dùng nhà làm nơi tổ chức những ngày lễ hội, lúc chết, chủ được
mai tang dưới vòm nhà trung tâm – ngôi nhà trở thành lăng mộ (Lê Đàm Ngọc Tú ,
2006).
Lăng Taj Mahal ở Agra là một tuyệt tác của thể loại này. Công trình nguy nga
được xây bằng đá cẩm thạch, do đó người ta còn gọi Hoàng Lăng là “hòn ngọc của Ấn
Độ”. Mặt tường được chạm trổ gây cảm giác như ren thêu của món đồ nữ trang. Vị trí
lăng không phải ở trung tâm mà ở cuối vườn trên một sân cao bên bờ sông. Trước mặt
công trình là một con kênh hẹp, đáy được lát toàn đá hoa. Dọc con kênh là các bồn hoa
và dãy cây bách xanh đen tương phản mạnh mẽ với Hoàng Lăng có màu trắng. Con
kênh phía trước là chiếc gương soi bóng công trình, làm cho Hoàng Lăng thêm lung
linh, đồ sộ với chiều cao được nhân lên. Toàn bộ khu vườn phía trước sân có bố cục
cân xứng đều đặn qua kênh nước, làm cho Lăng thêm trang nghiêm. Toàn bộ vườn
Lăng khoảng 17 ha gồm ba khu: cổng, vườn và Lăng mộ (Hàn Tất Ngạn, 2000).
1.1.1.4 Vườn Trung Quốc
Nghệ thuật vườn cảnh Trung Quốc bắt nguồn từ hội họa phong cảnh và được
xem là “bức tranh phong cảnh ba chiều”. Vườn cảnh Trung Quốc không phải là một sự
bắt chước thiên nhiên, mà là sản phẩm của trí tưởng tượng, tái tạo một thiên nhiên điển
hình, lý tưởng và chắt lọc tinh túy hơn thiên nhiên thật. Tính đồ sộ, mênh mông của
vườn – công viên Trung Quốc thì không đâu sánh nổi. Trung Quốc là quê hương của
nghệ thuật vườn mô phỏng tự nhiên (Lê Đàm Ngọc Tú, 2006).
Nguyên lý bố cục của vườn Trung Quốc là lấy thiên nhiên đa dạng của đất nước
làm cơ sở sáng tạo. Việc tạo cảnh vườn luôn thay đổi rất thích hợp cho người vừa đi
dạo vừa ngắm. Lối đi dạo thường có mái che (trường lang) để sử dụng được cả bốn
mùa. Nghệ thuật tạo cảnh dùng thủ pháp gây sự thay đổi trong cảm giác: đồi vực xen
lẫn thung lũng, đồng cỏ; dòng nước chảy mạnh xen lẫn mặt nước phẳng lặng; cánh
rừng thông xanh thẫm xen lẫn rừng lá màu sáng tràn ánh nắng. Thủ pháp còn dùng hiệu
quả của âm thanh: tiếng gió, tiếng vọng, tiếng chim hót, tiếng suối róc rách, âm thanh

thác đổ,… Đặc biệt còn có thủ pháp mở rộng không gian: dùng cận cảnh để tạo phối
cảnh sâu, dùng mặt nước phản chiếu, dùng tấm lát đường từ thô tới mịn,màu sắc từ
4


nóng đến lạnh, vòi phun nước cao ở ngoài thấp dần vào trong,… Tất cả các thủ pháp
trên đã gây được ảo giác hư hư thực thực, như xa như gần (Nguyễn Thị Thanh Thủy,
1980).
Vườn cổ Trung Quốc thường được xây dựng nhiều ở phương Nam (Hàng Châu,
Tô Châu), cổ nhất là Chuyết chính viên. Bố cục vườn lấy cảnh đẹp của nước làm chính,
giữa vườn có ngôi nhà tạ đứng bên làn nước. Toàn cảnh vườn được bố trí rất khéo léo
và tinh tế, tạo nên “bức tranh đẹp như trong mơ” (Lê Đàm Ngọc Tú, 2006).
Ngoài ra còn có Lưu viên đã biểu hiện được điển hình kiểu vườn cổ Trung Quốc (tuy
vườn xây dựng ở thế kỷ XVIII).
1.1.1.5 Vườn Nhật Bản
Người Nhật đã chịu ảnh hưởng xu hướng nghệ thuật vườn Trung Quốc nhưng
để phù hợp với thiên nhiên đất nước mình họ đã tạo nên kiểu nghệ thuật phong cảnh
đặc sắc với những nguyên lý riêng: phong cảnh vườn cổ Nhật không phải để đi vào
ngắm mà chỉ để ngồi thưởng thức. Vì vậy không gian vườn chan hòa với không gian
bên trong nhà. Vườn được xem như một phần của nhà. Nghệ thuật vườn Nhật độc đáo
nhất là tạo cảnh khô. Người Nhật đã dùng thủ pháp tượng trưng cao: đá được sắp xếp
cẩn thận tượng trưng cho những hòn đảo trong sông “khô” bằng sỏi hay cát, hay tượng
trưng cho núi trên nền là rêu (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
Do đất đai ít nên qui mô vườn Nhật thường nhỏ. Để có được một hình ảnh thực của
thiên nhiên đất nước, người Nhật còn dùng thủ pháp hãm cảnh: hãm cây bé lại có dáng
đại thụ, có thể dùng trang trí trong nhà, hay rêu phủ vách đá, phủ lên cây để gây cảm
giác về bề dày thời gian của cây (Hàn Tất Ngạn, 2000).
Trong mỹ thuật, xuất hiện ba nguyên tắc nghệ thuật mới: “shin”, “gyo”, “so”
được sử dụng trong hội họa; Ikebana (tiếng Nhật có nghĩa là “sự giữ gìn hoa cho cuộc
sống thứ hai”) và nghệ thuật vườn – công viên. Trong nghệ thuật vườn – công viên,

nguyên tắc “shin” phản ánh sự chân thực và chính xác việc thể hiện cảnh. Nguyên tắc
bán tượng trưng là phong cách “gyo”, còn nguyên tắc “so” là sự tượng trưng thuần túy,
cô đọng cực độ nhưng hình thức hết sức truyền cảm (Hàn Tất Ngạn, 2000).
Mẫu mực cho nguyên tắc “so” là vườn Ryoan-ji nổi tiếng trên thế giới với diện
tích chỉ có 218,8m2 . Chỉ với hai yếu tố cát trắng và đá nhưng khu vườn đã thể hiện
sinh động cảnh quan đất nước Nhật – một nước có nhiều đảo trên biển cả mênh mông:
15 hòn đá hình dạng khác nhau được sắp xếp thành 5 quần đảo trên sóng biển cát trắng
ở toàn bộ nền vườn, sóng được tượng trưng bằng cách cào cát trắng theo hình sóng
lượn (Lê Đàm Ngọc Tú, 2006).
1.1.1.6 Vườn Hy Lạp

5


Đất nước Hy Lạp nằm trên vùng núi cao, thung lũng hẹp, địa hình chia cắt
mạnh, nhưng khí hậu thuận lợi, đất đai màu mỡ và động thực vật phong phú. Hy Lạp
nằm giữa vùng tiếp giáp của ba châu nên sớm tiếp thu những thành tựu của văn minh
phương Đông cổ đại. Và với sự sáng tạo của mình, Hy Lạp đã bắt đầu con đường nghệ
thuật và cực thịnh ở thời kỳ Cổ điển. Tuy nhiên, nếu ta coi thời Cổ điển là thời kỳ
Vàng của nghệ thuật kiến trúc, thì giai đoạn cường thịnh của nghệ thuật vườn – công
viên mãi tới thời kỳ Hy Lạp hóa mới phát sinh (Hàn Tất Ngạn, 2000).
Đối với người Hy Lạp, việc rèn luyện thân thể có ý nghĩa to lớn trong đời sống
xã hội, trong công tác giáo dục con người phát triển toàn mỹ. Nhiều cuộc thi thể thao
toàn quốc được thực hiện. Các cuộc biễu diễn trên sân khấu, thi hát trong các buổi lễ
hay rước Thần cũng là kho tàng vô tận cho nghệ thuật phát triển. Tính chất xã hội và
các hoạt động của con người là tiền đề nảy sinh vườn mang ý nghĩa công cộng. Vườn
công cộng kết hợp với Thánh đường đầu tiên xuất hiện ở cổ Hy Lạp. Bố cục vườn bao
gồm nơi tổ chức các cuộc thi đấu thể thao, vui chơi – giải trí và nơi thờ cúng. Một dạng
bố cục khác là Thánh đường Nim-pha, toàn bộ khu vườn “rất tự nhiên” và gây ấn
tượng huyền bí. Nước từ trên những vách đá cheo leo ẩn hiện trong hương khói của

bàn thờ, đổ xuống hồ nước nằm giữa những cây trăn có màu đen thẫm (Lê Đàm Ngọc
Tú, 2006).
Đến thời Cổ điển, vườn công cộng không tổ hợp với chức năng thờ cúng nữa.
Do chức năng chính của vườn là nơi chơi thể thao nên mạng lưới đường thẳng tắp. Để
bù lại hệ thống quy hoạch cứng nhắc đó là sự phong phú về hình thức nghệ thuật của
các công trình thể thao, bể bơi, tượng đài, vòi phun. Các công trình đó được xây dựng
xen kẽ với cánh rừng nhiều loài cỏ cây đã làm cho phong cảnh vườn thêm sinh động
(Hàn Tất Ngạn, 2000).
Vào thời Hy Lạp hóa, thể loại vườn cây xanh Pompeii xuất hiện. Vườn – cây
xanh chiếm ¼ công viên. Vườn có đồi nhân tạo, có những con đường uốn quanh xoắn
ốc dẫn lên đỉnh đồi (Lê Đàm Ngọc Tú, 2006).
1.1.1.7 Vườn La Mã
Nghệ thuật vườn – công viên La Mã chịu ảnh hưởng của vườn cổ Hy Lạp nhưng
mang ý nghĩa thực dụng cao hơn, sử dụng nhiều loại cây ăn quả như ô-liu, táo,lê,…Bố
cục thường có hàng rào cây cắt xén bao quanh, có chòi nghỉ, có giàn nho leo. Phát triển
kiểu “vườn trong” cổ Hy Lạp thành mô-típ vườn sân trong (theo dạng parterre) có
trồng cây trang trí thấp và hoa, trung tâm vườn là bể trang trí có vòi phun. Về sau môtíp này được phổ biến rộng rãi trên các quảng trường thành phố và trở thành phong
cách chính của vườn trước công trình công cộng (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).

6


Theo Nguyễn Thị Thanh Thủy (1980) cơ cấu vườn chia làm ba phần chính:
phần vườn trang trí, phần rào và phần cây ăn quả. Phần vườn trang trí chia thành ba
khu vực:
- Khu dạo, trực tiếp trước nhà: bố trí các đường thẳng trồng các cây cắt xén hai bên tạo
thành đường kín khoanh các vùng riêng trồng hoa. Khu dạo bố trí bên sân cao có thể
mở không gian về phía cảnh đẹp xa. Các vườn nhỏ như vậy được gọi là Viridarium,
dùng để tổ chức các tiệc trà ngoài trời.
- Khu đi chơi bằng xe ngựa hay kiệu có người khiêng.

- Khu công viên có thú rừng hay gia cầm, mang tính chất rừng, chiếm tỉ lệ lớn.
Vườn La Mã cổ rất phong phú về các loại cây trồng. Tuy vậy, khi đế quốc La
Mã bị sụp đổ thì vườn cũng bị mai một đi cho đén thời kỳ phục hưng nghệ thuật vườn
trang trí ở đây lại phát triển mạnh mẽ ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật vườn – công viên
trên thế giới (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
1.1.2 Thời kỳ trung đại (Thế kỷ V – XVII)
Nghệ thuật vườn – công viên thời kỳ này chia làm ba giai đoạn.
Ở giai đoạn Tiền – Trung đại, vườn chỉ bó hẹp sau những thành lũy, tiêu biểu là
kiểu vườn nhỏ Tây Ban Nha. Loại vườn này theo xu hướng cân xứng đều đặn, bao
quanh vườn là công trình tu viện có dạng hình học đơn giản, trung tâm thường nhấn
mạnh bằng một cái giếng hay tượng, trong sân trồng cây trang trí hay cây bụi ăn quả.
Cây trong vườn trồng thẳng hàng, chu vi vườn thường rào bằng cây lá bản như bồ đề.
Vườn tạo những mê cung có nghĩa là tạo khu vực đường đi ngoằn ngoèo lại viền hai
bên đường bằng cây cắt xén hay đôi khi bằng đá màu (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
Điển hình cho loại vườn nhỏ Tây Ban Nha là vườn Algambra ở Granad. Vườn
gồm hệ thống sân nhỏ với kích thước 100 x 150m với các cao độ khác nhau. Các sân
không liên hệ với nhau. Trên sân có bể nước, vòi phun, ghế đá và cây xanh với hình
thức trang trí cầu kỳ, phức tạp và tỉ mỉ, trau chuốt tựa như đối với đồ dùng trong nhà.
Do sự phân chia vườn ra nhiều không gian sân nhỏ với tính chất trang trí này đã gây
nên cảm giác ấm cúng, tĩnh mịch và thân thiết như không gian phòng (Hàn Tất Ngạn,
1996).
Đặc tính các loại vườn nhỏ thời Trung cổ bao gồm những nguyên lý:
- Quy hoạch hình học, không gian khép kín.
- Hàng rào theo nhiều dạng khác nhau.
- Công trình nhỏ như tượng, lan can,… rất ít dùng.
- Vườn trên sân cao theo địa hình.
- Cây chủ yếu ở dạng cắt xén.
- Mặt nước ở dạng vòi phun hay thác.
7



Nói chung vườn mang tính chất đơn giản, gần gũi với những vườn mẫu mực
thời Cổ đại (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
Sang đến thời Phục hưng, thế kỷ XVI vườn hoa bắt đầu hưng thịnh, tiêu biểu là
các vườn biệt thự Ý. Bố cục vườn Ý theo khuynh hướng vườn kín nhưng hệ thống các
sân lại liên hệ với nhau bằng một trục. Vườn Ý tạo thành vườn tầng bậc, rõ nét do đặc
điểm địa hình. Những yếu tố cấu tạo vườn được đưa vào phong phú. Ví dụ mặt nước
được sử dụng theo dạng khác nhau, kiến trúc nhỏ gắn với các tầng bậc, tận dụng triệt
để những biến dạng của địa hình, tạo sự tương phản bằng cách bố cục các quần thể
kiến trúc chặt chẽ đối lập với đường nét mềm mại của thiên nhiên. Tuy vậy quần thể
kiến trúc vẫn chưa hài hòa với cảnh vật chung quanh do vườn luôn luôn kín (Nguyễn
Thị Thanh Thủy, 1980).
Điển hình là vườn biệt thự Lante, ngoại ô Rome với diện tích 1,4ha. Vườn có
dạng hình học cân xứng đều đặn, nằm trên sườn đồi thoai thoải. Lối đi được dẫn từ
pasterre chan hòa ánh nắng mặt trời đến bóng mát ở vườn trên và xa hơn là cánh rừng,
đã thể hiện được tính rõ ràng khúc chiết trong nghệ thuật. Trong vườn – công viên đã
có chức năng biểu diễn và vui chơi – giải trí như nhà hát ngoài trời, thác nước lớn,
vườn kín (Hàn Tất Ngạn, 2000).
Vào thời kỳ hậu Trung đại, công viên bắt đầu xuất hiện, tiêu biểu là công viên
Versailles ở Pháp do nhà nghệ sĩ thiên tài Andre le Notre thể nghiệm. Lần đầu tiên con
người cải biến thiên nhiên với quy mô rộng lớn theo chủ ý của mình, tạo nên một thiên
nhiên mới có phong cách đặc sắc, tiêu biểu cho xã hội đương thời (Nguyễn Thị Thanh
Thủy, 1997).
Công viên có diện tích 1795ha, lấy trục bố cục cung điện làm trục chính của
toàn bộ công viên trải rộng mênh mông phía trước. Từ trục chính tỏa ra những con
đường hình tia theo trường phái Barocco của Ý. Toàn bộ hướng tia dồn về phía trục
chính cũng như ba đại lộ lớn tụ lại trước cung điện muốn nói lên cả Paris hướng về
Versailles. Trước mặt cung điện là các pasterre hoa, cỏ có hoa văn cầu kỳ, cân đối tạo
nên một khoảng trống rộng trước cung điện, tạo các tầm nhìn khoáng đạt. Tiếp đó là
các bosquet có vị trí gần như đăng đối hai bên trục chính, trải thẳng tới vòi phun thần

Appolon. Con kênh hình chữ thập sau vòi phun, phình to ở cuối nhằm mở không gian,
cùng với các dãy thông hình tháp ở cuối công viên gây cảm giác về sự vô bờ bến của
cảnh quan công viên (Hàn Tất Ngạn, 2000). Việc tạo phối cảnh xa hầu như vô bờ đã
biểu hiện được chủ đề tư tưởng của công viên, tượng trưng quyền bất khả xâm phạm
của vua Louis XIV. Công viên Versailles đã đạt đến đỉnh cao của con người bắt thiên
nhiên phục vụ lợi ích mình mà vẫn không làm mất vẻ đẹp của thiên nhiên (Nguyễn Thị
Thanh Thủy, 1980).
8


1.1.3 Thời kỳ cận đại (Thế kỷ XVIII – XIX)
Đầu thế kỷ XVIII, xuất hiện công viên phong cảnh. Nghệ thuật công viên này
đối lập với công viên cân xứng đều đặn. Nguyên lý cơ bản của công viên phong cảnh là
lấy thiên nhiên đa dạng của đất nước làm cơ sở cho sáng tác nghệ thuật vườn – công
viên. Nguyên lý này đã bắt nguồn từ nghệ thuật vườn cổ Trung Quốc và đặc biệt phát
triển ở thế kỷ XVIII lan tràn khắp Châu Âu. Tính chất độc đáo của công viên phong
cảnh là dùng yếu tố thiên nhiên một cách chọn lọc để tạo thành những bức tranh thiên
nhiên có chủ đề tư tưởng với nhiều cảnh đẹp thường xuyên được thay đổi. Sự thay đổi
thường chú ý về tổ chức không gian, trên cơ sở nghiên cứu tỉ mỉ địa hình hiện có
(Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
Điển hình cho loại công viên này là công viên Di Hòa ở Trung Quốc, nằm cách
Bắc Kinh 10km về phía Tây Bắc. Diện tích công viên 330ha, 4/5 là hồ nước. Cả công
viên là bộ sưu tập nhỏ phong cảnh đa dạng của thiên nhiên. Trung tâm công viên là hồ
và núi, trong đó có nhiều đảo và hoa sen. Bờ hồ được nối với đảo bằng 6 chiếc cầu
trang trí tỉ mỉ. Ven hồ bố trí hành lang có mái che dài 400m để ngắm cảnh trong mọi
thời tiết. Trên núi có nhiều chòi và sân nghỉ, được trồng nhiều loại cây, có bể nước thả
cá, thả sen trang trí, phía bắc sườn núi có con suối nhỏ lượn quanh co tạo nên vẻ đẹp
kín đáo của kiểu vườn biệt thự (Hàn Tất Ngạn, 2000).
Công viên phong cảnh Trung Quốc đã ảnh hưởng trước tiên ở Anh. Tiếp thu
nghệ thuật vườn mô phỏng tự nhiên của phương Đông – Repton, nhà lý luận và thực

tiễn về nghệ thuật cảnh quan Anh, đã đưa ra nguyên lý nghệ thuật vườn Anh như sau:
Trên căng quan của đất nước, vườn phong cảnh chỉ cần đổi một vài yếu tố một cách
không đáng kể, gây cho người thưởng thức có cảm giác như cảnh quan ấy có sẵn từ
thiên nhiên (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
Theo bố cục vườn của Repton, mỗi cảnh quan phải có ba phần:
- Cận cảnh: có thể sửa đổi, cải tạo lớn.
- Cảnh trung gian: tạo chiều sâu không gian và phối cảnh được giải quyết ở mảng lớn
và bố cục tự do hơn.
- Viễn cảnh: làm nền, không thay đổi được.
Các yếu tố như sân, giàn leo, dạng cây cắt xén,… chỉ nên bố trí ở phần cận cảnh
là phần nhấn mạnh sự tham gia của con người vào việc cải .tạo thiên nhiên. Về ý này
Repton nói rõ quan điểm “Thiên nhiên là một mô hình mà nghệ sĩ cần hiểu biết, ghi lại
nhưng không phải sao chép y nguyên” (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
Repton phản đối việc xây dựng những công trình không thực dụng như đền thờ, những
cảnh nên thơ giả tạo. Theo ông công trình phải có mục đích rõ ràng, phối hợp hài hòa

9


với cảnh quan xung quanh và phải phù hợp với điều kiện khí hậu. Điển hình là công
viên Stow ở Anh, công viên Bagetelle ở Pháp (Hàn Tất Ngạn, 2000).
Nhìn chung, công viên phong cảnh thế kỷ XVIII có bố cục quy hoạch tự do, phụ thuộc
vào điều kiện thiên nhiên. Đó là nguyên lý chủ yếu của loại công viên này (Nguyễn Thị
Thanh Thủy, 1980).
Nghệ thuật vườn – công viên ở các thế kỷ trước đã tạo cho ta nhiều phong cách
có thể tham khảo cho bố cục nghệ thuật vườn – công viên hiện đại. Tuy nhiên các vườn
– công viên ấy chưa phải là chỗ nghỉ cho quần chúng đông đảo, chưa phải là một phần
hữu cơ của thành phố (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
Đến thế kỷ XIX bắt đầu xuất hiện loại công viên thành phố. Do đô thị hóa phát triển,
công viên cần mang tính chất thành phố phục vụ cho số đông người nghỉ ngơi giải trí.

Do đó, bố cục nghệ thuật vườn – công viên không chỉ đơn thuần một mặt thẩm mỹ mà
gắn bó chặt chẽ với chức năng tiện nghi cho việc nghỉ ngơi. Vì thế cơ cấu bố cục công
viên đã xuất hiện khu vực thể thao, những nơi biễu diễn cho đông người đến xem,…
Phong cách nghệ thuật vườn – công viên trong thế kỷ này không mang tính lãng mạn
chứa chan tình cảm như thế kỷ XVIII: độ cong của những con đường trở nên thẳng
hơn, cây xanh tổ chức dày đặc hơn, bắt đầu tổ chức những “con đường làm việc” để có
thể qua công viên một cách ngắn nhất. Bố cục công viên trở nên chặt chẽ hơn, thực tiễn
hơn. Do thành phố yêu cầu có không gian hở và màu xanh của thiên nhiên nên bắt buộc
nhà quy hoạch phải bố trí các khu đất dành riêng cho cây xanh. Các công viên cũ, vườn
riêng được mở rộng. Ở những khu phố cũ chặt chội bắt đầu mở mảng xanh bằng những
boulevard và những vườn dạo nhỏ (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
Điển hình công viên thế kỷ XIX là công viên Buttes – Chaumont 25ha ở ngoại ô
Paris. Đặc điểm của công viên là tận dụng nơi khai thác đá cũ để tạo hình không gian
công viên. Hồ đá là nơi chứa nước lớn và hòn đảo ở giữa tạo phong cảnh thiên nhiên
sống động: có hang, suối chảy và thác đổ, trên đỉnh với chòi trang trí được nối với mặt
nước ở dưới bằng các bậc thang và đường mòn quanh co. Xung quanh hồ có hệ thống
đường và cây xanh tự do. Nói chung việc hình thành cảnh quan công viên được hướng
về cội nguồn tự nhiên nhằm làm “mềm” ốc đảo bê tông bao quanh (Hàn Tất Ngạn,
1996).
Được tổ chức theo bố cục mới này còn có công viên Xe-tơn ở Anh, công viên
Oa-sinh-tơn ở Mỹ.
Công viên hiện đại nhất của thế kỷ XIX là công viên rừng Amxterdam có diện
tích 895ha. Phần rừng chiếm 400ha. Cơ cấu công viên, ngoài khu rừng còn có khu thể
thao 200ha, bãi cỏ có tổ chức các trò chơi chiếm 100ha. Diện tích còn lại là mặt nước,
đường và các khu công trình như rạp hát ngoài trời, nhà giải khát. Tính chất hiện đại
10


của công viên biểu hiện ở chỗ đơn giản, kinh tế, thiết thực (mặt nước sử dụng cho thể
thao bơi lội và câu cá, có khu vực dành riêng cho thiếu nhi. Để làm khô lãnh thổ tạo

các mặt nước và kênh đào, dùng đất đào kênh hồ đắp đồi cao 15m rộng 20ha,…)
(Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
Nhìn chung vườn – công viên thế kỷ XIX đơn giản, thiết thực, có quy mô từng
vùng lớn nhằm phục vụ cho số đông người. Có tiến bộ về mặt phân vùng chức năng
nhưng do bước đầu đưa các yếu tố đơn thuần quy hoạch vào công viên nên phần nào
thiếu lưu ý chức năng nghệ thuật trong công viên (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 1980).
1.1.4 Thời kỳ hiện đại (Thế kỷ XX)
Thời kỳ hiện đại đô thị hóa phát triển, tính chất sản xuất được xã hội hóa cao
hơn, nhu cầu sinh hoạt công cộng phát triển; sự lao động nặng nhọc và đơn điệu trong
các nhà máy, xí nghiệp nảy sinh nhu cầu nghỉ ngơi - giải trí trong môi trường tự nhiên.
Không gian xanh của đô thị được hình thành. Khi đó kiến trúc cảnh quan không còn là
một bộ phận của quy hoạch đô thị mà là thành phần của cấu trúc đô thị, góp phần quan
trọng đến việc tạo lập môi trường thẩm mỹ của đô thị. Công viên thời kỳ này mang tính
chất phục vụ cho số đông dân cư trong đô thị. Công viên đa chức năng ra đời (Hàn Tất
Ngạn, 1996).
Theo NguyễnThị Thanh Thủy (1980) đặc điểm nổi bật của nghệ thuật vườn –
công viên thế kỷ XX là:
- Phục vụ cho khối lượng người rất lớn.
- Đẹp trên cơ sở kinh tế và tiện nghi.
- Đường nét đơn giản (không ưa chuộng cái đẹp diêm dúa, cầu kỳ của thế kỷ XVIII).
- Yếu tố chính trong bố cục là bãi cỏ rộng, đá, cây ở dạng tự nhiên, mặt nước rộng.
- Cải tạo một cách sáng tạo phong cảnh tự nhiên.
- Đưa thiên nhiên vào bố cục phong cảnh.
- Tận dụng cái đẹp của từng dáng cây trong thiên nhiên.
- Dùng thủ pháp địa hình nhân tạo.
- Áp dụng “phối cảnh đường thẳng” phối hợp với cả “phối cảnh màu sắc”.
- Áp dụng phối cảnh nhiều cảnh, tạo phối cảnh thay đổi trên quy mô lớn.
- Lưu ý vai trò ánh sáng và bóng tối, không gian kín và không gian mở.
- Điều kiện đưa vào được chọn lọc.
Tiêu biểu cho thời hiện đại là loại công viên văn hóa và nghỉ ngơi của Liên Xô.

Công viên đầu tiên mang tên Gorky ở Moskva. Công viên nằm trải dọc sông Moskva,
được mở cửa vào năm 1928. Nơi đây thực sự là khu sinh hoạt văn hóa, nghỉ ngơi và
giải trí cho mọi người. Công viên có ba lối ra vào phía đối diện sông Moskva và hai
đầu. Trong đó lối ra vào chính nằm ở phố Crumcki Val. Cổng chính dẫn thẳng vào khu
11


vực trung tâm với bể nước động hình vuông làm điểm nhấn thị giác và trải dài xung
quanh là mạng lưới đường hình học với các công trình biểu diễn (sân khấu, sân hòa
nhạc, sân khấu trung tâm), các phòng đọc, các quán ăn, café,… Cuối công viên là khu
vực của trẻ em với nhiều công trình biểu diễn, trò chơi, phòng đọc,… Khu này gọi là
vườn Nexcuts. Mạng lưới đường phần lớn có bố cục tự do. Ngoài khoảng trống chính
của khu vực trung tâm, còn lại là cây bóng mát được trồng tạo thành mảng rừng lớn và
có hình thức tự nhiên (Hàn Tất Ngạn, 1996).
1.2 VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT VƯỜN – CÔNG VIÊN VIỆT NAM
Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, lịch sử phát triển nghệ thuật vườn Việt
Nam gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của hình thái xã hội. Với điều kiện khí hậu, thiên
nhiên vô cùng phong phú, cánh đồng mênh mông, thẳng cánh cò bay, dãy núi trùng
trùng điệp điệp và biển cả bao la, bốn mùa cây cỏ xanh tươi đã tạo điều kiện cho việc
phát triển nghệ thuật vườn Việt Nam mang sắc thái riêng. Sau đây là một số thể loại
vườn xuất hiện trong quá trình phát triển nền văn hóa Việt Nam.
1.2.1 Vườn cung đình
Vườn này xây dựng trên cơ sở nghệ thuật mô phỏng thiên nhiên: bố cục tự do,
đắp núi (giả sơn), cây trồng không được cắt xén,… Chức năng của vườn là nơi dạo
chơi, nghỉ ngơi của vua quan triều đình. Nơi đây cũng là chỗ cho các thi sĩ cung đình
sáng tác và bình thơ (Hàn Tất Ngạn, 2000).
1.2.2 Vườn lăng
Vườn lăng của các triều đại phong kiến nước ta có thể chia thành hai loại: vườn
lăng chỉ có ý nghĩa tôn nghiêm và vườn lăng mang cả chức năng nghỉ ngơi – giải trí.
Vườn lăng chỉ có ý nghĩa tôn nghiêm chủ yếu ở các thời Lý, Trần, Lê. Các bố

cục lăng thời Lý, Trần chủ yếu theo lối bố cục đăng đối, quy tụ vào một điểm giữa là
ngôi mộ. Điển hình là vườn lăng vua Trần Anh Tông được xây ở An Sinh (Đông Triều,
Quảng Ninh). Toàn bộ bố cục vườn lăng là một điển hình nói lên sự siêu thoát theo tinh
thần nhà Phật (Hàn Tất Ngạn, 2000).
Cuối đời Trần sự ảnh hưởng của Nho giáo đã làm cho vườn lăng chuyển hướng bố cục
từ quy tụ sang đối xứng hai bên “đường thần đạo”, điển hình là vườn lăng vua Trần
Hiến Tông được xây ở An Sinh. Ngôi mộ vẫn nằm ở khoảng giữa Lăng, song đã có sân
chầu trước mộ với hai hàng tượng hầu đối xứng trên trục đường thần đạo. Lối bố cục
này được hoàn chỉnh và phát triển rực rỡ vào thời Hậu Lê, điển hình là vườn lăng vua
Lê Thái Tổ ở Lam Kinh – Thanh Hóa. Xu hướng bố cục vườn lăng này điển hình cho
sự phát triển cục thịnh của Nho giáo (Hàn Tất Ngạn, 2000).
Một ảnh hưởng nữa của Nho giáo trong bố cục phong cảnh là thuyết phong thủy.
Thuyết này thể hiện rất rõ trong các vườn lăng thời Nguyễn. Theo thuyết phong thủy,
12


×