Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

TÌNH HÌNH NHIỄM ký SINH TRÙNG TRÊN cá TRA GIỐNG tại HUYỆN cờ đỏ THÀNH PHỐ cần THƠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.71 MB, 53 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y

NGUYỄN NGUYỆT TRƯỜNG

TÌNH HÌNH NHIỄM KÝ SINH TRÙNG TRÊN CÁ TRA
GIỐNG TẠI HUYỆN CỜ ĐỎ - THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ THÚ Y

CầnCHƯƠNG
Thơ, tháng I7-2007


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN THÚ Y

NGUYỄN NGUYỆT TRƯỜNG

TÌNH HÌNH NHIỄM KÝ SINH TRÙNG TRÊN CÁ TRA
CỜ@
ĐỎTài
- THÀNH
THƠ cứu
Trung tâm GIỐNG
Học liệuTẠI
ĐHHUYỆN


Cần Thơ
liệu họcPHỐ
tập CẦN
và nghiên

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ THÚ Y

Giáo viên hướng dẫn

NGUYỄN HỮU HƯNG

Cần Thơ, tháng 7-2007

i


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG

BỘ MÔN THÚ Y

Đề tài: Điều tra tình hình nhiễm ký sinh trùng trên cá tra giống tại huyện Cờ
Đỏ - thành phố Cần Thơ; do sinh viên ................................................. .
...........................thực hiện tại ..........từ ............................................... đến

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Cần Thơ ngày tháng năm 2007
Duyệt Bộ Môn

Cần Thơ ngày tháng năm 2007

Duyệt Giáo viên hướng dẫn

Cần Thơ, ngày tháng năm 2007
Duyệt khoa Nông Nghiệp & SHƯD

ii


LỜI CẢM TẠ
Xin chân thành cảm ơn đến
Cha mẹ và ga đình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cả về vật chất lẫn tinh thần
trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài.
Thầy Nguyễn Hữu Hưng đã tận tình dạy dỗ, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian thực hiện đề tài.
Các thầy cô Bộ Môn Thú Y đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
thực hiện đề tài
Các cán bộ Thư Viện khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng Dụng và cán bộ
Thư Viện Khoa Thủy Sản đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong thời gian tìm
tài liệu phục vụ cho nghiên cứu.
Ban giám đốc và cán bộ Công Ty TNHH Song Minh đã tạo điều kiện và giúp
đỡ tôi trong thời gian thực tập và phân tích mẫu.

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

iii


MỤC LỤC

Trung


Trang tựa
Trang duyệt
Lời cảm tạ
Mục lục
Danh mục bảng
Danh mục hình
Tóm lược
Chương I: Đặt Vấn Đề
Chương II: Cơ Sở Lý Luận
2.1 Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng cá trên thới giới
2.2 Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng cá ở Việt Nam
2.3 Đặc điểm sinh học cá tra
2.3.1 Phân loại cá tra
tâm Học liệu
ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và
2.3.2 Phân bố
2.3.3 Hình thái, sinh lý
2.3.4 Đặc điểm dinh dưỡng
2.3.5 Đặc điểm sinh trưởng
2.3.6 Đặc điểm sinh sản
2.4 Mối quan hệ giữa các tác nhân gây bệnh
2.5 Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng trên cá tra giống
2.5.1 Bệnh trùng đơn bào (Protozoa)
2.5.2 Bệnh do giun sán
2.6 Bệnh truyền nhiễm thường xảy ra trên cá tra
2.6.1 Bệnh đốm đỏ
2.6.2 Bệnh gan thận mủ
2.6.3 Bệnh trắng da
2.7 Một số thông số môi trường trong nuôi trồng thủy sản

2.7.1 Độ pH
2.7.2 Độ kiềm
2.7.3 Các dạng đạm (Nitơ)
Chương III: Phương pháp và Phương Tiện Nghiên Cứu

iv

i
ii
iii
iv
vi
vii
viii
1
2
2
3
4
4
nghiên
4
5
5
5
6
6
8
8
18

22
22
23
24
24
25
25
26
27

cứu


Trung

3.1 Nội dung
27
3.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
27
3.2.1 Thời gian nghiên cứu
27
3.2.2 Địa điểm nghiên cứu
27
3.3 Phương pháp nghiên cứu
27
3.3.1 Điều tra điều kiện tự nhiên, xã hội
27
3.3.2 Điều tra tình hình chăn nuôi thủy sản
27
3.3.3 Phương pháp xác định các chỉ tiêu môi trường

27
3.3.4 Phương pháp thu mẫu và giải phẩu cá
27
3.3.5 Phương pháp xử lý số liệu
29
Chương IV: Kết Quả và Thảo Luận
31
4.1 Kết quả điều tra điều kiện tự nhiên xã hội và tình hình nuôi
31
trồng thủy sản tại huyện Cờ Đỏ - thành phố Cầ Thơ
4.4.1 Điều kiện tự nhiên xã hội
31
4.1.2 Tình hình nuôi trồng thuỷ sản của huyện Cờ Đỏ
31
33
4.2 Khảo sát một số yếu tố môi trường ảnh đến sức khỏe cá
4.3 Kết quả tình hình nhiễm ký sinh trùng trên cá tra giống
35
4.4 Khảo sát một số bệnh truyền nhiễm xuất hiện trong quá
tâm Học liệu
tập Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên
36
trìnhĐH
thực Cần
Chương V: Kết Luận và Đề nghị
42
5.1 Kết luận
42
5.2 Đề nghị
42

43
Tài Liệu Tham Khảo
Phụ Chương
44

v

cứu


DANH MỤC BẢNG
Bảng 4.1 Kết quả so sánh các chỉ tiêu môi trường

33

Bảng 4.2 Tình hình nhiễm ký sinh trùng trên cá tra giống

35

Bảng 4.3 Tỉ lệ nhiễm một số bệnh truyền nhiễm xuất hiện trong quá trình
thực tập

39

Bảng 4.4 So sánh mối quan hệ giữa bệnh ký sinh trùng và bệnh truyển nhiễm

40

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu


vi


DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)

4

Hình 2: Hình trùnh roi Cryptobiosis

8

Hình 3: Bào tử sợi Myxobolus

10

Hình 4: Sơ đồ cấu tạo của trùng Myxobolus

10

Hình 5 Các giai đoạn phát triển của Ichthyophthyrius

12

Hình 6: Cấu tạo của Trichodina

15

Hình 7: Trùng loa kèn Apiosoma


17

Hình 8: Sán lá đơn chủ 16 móc (Dactylogyrus) ký sinh trên mang cá

19

Hình 9: Sán lá 18 móc Gyrodactylus

21

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

vii


TÓM LƯỢC
Trong quá trình phân tích 73 mẫu cá tra giống phát hiện được 5giống ký sinh
trùng trong đó có 4 giống thuộc nhóm Protozoa: Trichodina (89,19%), Apiosoma
(12,16%), Epistylis (1,35%), Ichthyophthyrius (9,46%) và một giống thuộc nhóm
Monogenae là Dactylogurus (10,81%).
Khảo sát mối quan hệ giữa bệnh ky sinh trùng và bệnh truyền nhiễm cho
thấy bệnh ký sinh trùng là yếu tố mở đường cho sự xâm nhập của vi khuẩn gây
bệnh.
Kiểm tra các yếu tố pH, NO2-, NH3, độ kiềm và mật độ nuôi trong ao cá
giống tại huyện Cờ Đỏ cho thấy sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến sức
khỏe cá

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

viii



ĐẶT VẤN ĐỀ

Trung

Cá tra được nuôi phổ biến ở hầu hết các nước Đông Nam Á đây là loài cá
nuôi có giá trị kinh tế cao và là một trong những loài cá quan trọng trong khu vực
này. Bốn nước trong hạ lưu sông Mê Kông như Campuchia, Thái Lan, Indonexia và
Việt Nam đã có nghề nuôi cá tra truyền thống do có nguồn cá tra tự nhiên phong
phú. Ở Campuchia, tỷ lệ cá tra thả nuôi chiếm 98% trong 3 loại cá thuộc họ cá tra,
chỉ có 2% là cá basa và cá vồ đém, sản lượng cá tra chiếm một nửa tổng sản lượng
các loài cá nuôi. Tại Thái Lan, trong số 8 tỉnh nuôi cá nhiều nhất, có 50% số trại
nuôi cá tra, đứng thứ hai sau cá rô phi.
Đồng Bằng Sông Cửu Long đã có truyền thống nuôi cá tra, nuôi phổ biến
trong cả ao và trong bè. Hiện nay, cá tra đã phát triển ở nhiều địa phương, không
chỉ ở Nam Bộ mà một số nơi ở miền Trung và miền Bắc cũng bắt đẩu quan tâm
nuôi đối tượng này. Những năm gần đây nghề nuôi cá tra phát triển mạnh nhằm
phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa và nguyên liệu cho xuất khẩu. Đặc biệt từ khi
chúng ta hoàn toàn chủ động về sản xuất giống nhân tạo thì nghề nuôi cá càng ổn
định và phát triển vượt bậc. Bên cạnh việc đầu tư nghiên cứu phát triển kĩ thuật
chămHọc
sóc nuôi
thì ĐH
vấn đềCần
dịch bệnh
tra cũng
là vấn
đangnghiên
được nhiều

tâm
liệu
Thơtrên
@cáTài
liệuđang
học
tậpđềvà
cứu
nhà chăn nuôi quan tâm, trong đó vấn đề bệnh ký sinh trùng trên cá đã gây nhiều
tổn thất đến năng suất của nhà chăn nuôi. Được sự đồng ý của Bộ Môn Thú Y –
Khoa Nông Nghiệp Và Sinh Học Ứng Dụng - Trường Đại Học Cần Thơ chúng tôi
tiến hành thực hiện đề tài “ Tình Hình Nhiễm Ký Sinh Trùng Trên Cá Tra Tại
huyện Cờ Đỏ, Thành Phố Cần Thơ”

1


CHƯƠNG II
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng cá trên thế giới
Ký sinh trùng cá đã được nghiên cứu từ thời Linne (1707 – 1778). Ở Liên Xô
cũ viện sỹ V.A.Dogiel (1882 – 1956) đã đặt nền móng cho nghiên cứu ký sinh trùng
cá. Viện sỹ Bychowsky và các cộng sự, năm 1962 đã xuất bản cuốn sách “Bảng
phân loại ký sinh trùng của cá nước ngọt Liên Xô”, mô tả 1211 loài ký sinh trùng
của khu hệ nước ngọt Liên Xô. Tiếp tục năm 1984, 1985, 1987 công trình nghiên
cứu khu hệ ký sinh trùng cá nước ngọt Liên Xô đã xuất bản thành hai phần gồm 3
tập, do O.N.Bauer là chủ biên chính, S.S.Schulman chủ biên tập 1, A.V.Gussev chủ
biên tập 2, O.N.Bauer chủ biên tập 3 ngoài ra còn nhiều tác giả nghiên cứu ký sinh
trùng lâu năm của Liên Xô cũ. Công trình đã mô tả hơn 2.000 ký sinh trùng của 233
loài cá thuốc 25 họ cá nước ngọt Liên Xô. Có thể nói Liên Xô cũ là nước có rất

nhiều nhà khoa học nghiên cứu ký sinh trùng trên cá sớm nhất, toàn diện và đồ sộ
nhất.

Trung

Các nước Châu Âu khác cũng có nhiều nhà khoa học nghiên cứu ký sinh
trùng trên cá Tiri Lom (1958 – 1997) người Tiệp Khắc đã có nghiên cứu ký sinh
trùng Ciliophora, Myxozoa, Microspora, Spotozoa và Mastigophora trên động trong
đó cóHọc
cá. Jiriliệu
LomĐH
và G.Grupcheva
nghiên
cứuhọc
ký sinh
trùng
bào của cá
tâm
Cần Thơ(1976),
@ Tài
liệu
tập
vàđơn
nghiên
cứu
chép ở Tiệp Khắc và Bungari, các tác giả đã so sánh sự xuất hiện bệnh và mô tả loài
mới. Năm 1992 Jiri Lom và Ivandykova đã xuất bản cuốn “Ký sinh trùng đơn bào
(Protozoa) của cá”. Họ cho biết hiện nay có xấp xỉ 2.420 loài ký sinh trùng đơn bào
(Protozoa) ở cá đã được công bố. Nhiều loài gây nguy hiểm cho cá nuôi nước ngọt
và nước biển. Cuốn sách đã giới thiệu phương pháp nghiên cứu và hệ thống phân

loại của 7 ngành ký sinh trùng đơn bào ở cá gồm: ngành trùng roi (Mastigophora),
ngành Opalinata, ngành amid (Amoebae), ngành bào tử (Apicomplexa), ngành vi
bào tử (Microspora), ngành trùng lông (Ciliophora), ngành bào tử (Myxozoa).
Ở Nhật Bản, Nagasawa, Awakura, Urawa. (1989) đã tổng kết nghiên cứu ký
sinh trùng trên cá nước ngọt ở Hokkaido - Nhật Bản và xác định được 96 loài ký
sinh trùng, bao gồm: Protazoa – (21); Monogenea – (11), Trematoda – (22),
Cestoda – (10), Nematoda – (15), Acanthocephala – (7), Mollusca – (2), Copepoda
– (6), Branchiura – (1) và Isopoda – (1) và 38 loài chưa xác định đến tên loài.
Ở Ấn Độ, S.P. Gupta (1967) đã nghiên cứu ký sinh trùng đơn bào và giun
sán ký sinh trùng trên cá. A.V. Gussev (1976) đã nghiên cứu khu hệ sán lá đơn chủ
ở 37 loài cá nước ngọt Ấn Độ, phân loại được 57 loài sán lá đơn chủ trong đó có 40
loài mới.
Ở Banglades, A.T.A. Ahmed và M.T.Ezaz, (1997) đã nghiên cứu ký sinh
trùng của 17 loài cá trơn kinh tế nước ngọt, xác định được 69 loài giun sán ký sinh

2


(Monogenea – 1, Trematoda – 24, Cestoda –1 0, Nematoda – 28, Acanthocephala –
6, Trematoda – 28).
Châu Phi và Trung Cận Đông đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu ký sinh
trùng ở cá trong đó có Paperna (1961, 1964, 1965, 1996). Năm 1964 Paperna đã
nghiên cứu ký sinh trùng đa bào của 29 loài cá nội địa Israel và phát hiện địa 116
loài ký sinh trùng gồm: Monogenea – (29), Trematoda –(13), ấu trùng Trematoda –
(43), Cestoda – (7), Nematoda – (15), Acanthocephala – (1), Hirudinea – (1),
Mollusca – (1), Crustacea –(6). Năm 1996 Paperma cho xuất bản cuốn sách “Ký
sinh trùng và bệnh truyền nhiễm ở cá Châu Phi” ông đã mô tả các bệnh ký sinh
trùng ở các trại nuôi cá và khoá ký sinh trùng quan trọng của cá.
Một số nước khu vực Đông Nam Á đã có các nghiên cứu ký sinh trùng cá từ
đầu thế kỷ 20 nhưng chưa nghiên cứu toàn diện nhóm ký sinh trùng, mà chỉ nghiên

cứu theo từng nhóm ký sinh trùng như: sán lá song chủ (Philippines) hoặc sán lá
song chủ (Malaysia) hoặc ở vài loài cá.

Trung

Ở Thái Lan nhà khoa học người Mỹ Charles Branchwilson (1926, 1927,
1928) đã mô tả hai loài của Argulus và Caligus từ cá nước ngọt Thái Lan. Paiboon –
Yutisri; Apirum – Thuhanruksa (1985) khi điều tra khu hệ ký sinh trùng của một số
cá sống tự nhiên ở một số vùng của Thái Lan đã phát hiện 16 loài ký sinh trùng,
trong đó gồm 3 loài ngoại ký sinh trùng và 13 loài nội ký sinh trùng ở cá bống
tượng và tỉ lệ nhiễm 69,0% và giun sán ở cá sặc rằn. Komonporn Jonguthai (1992)
tâm
Họccứu
liệu
ĐH Cần
Thơ @kýTài
học
tập và
nghiên
cứu
đã nghiên
Isopoda
và Myxosporidia
sinhliệu
trên cá.
Chinabut
Suprance
(1991,
1993, 1994) đã nghiên cứu sán lá đơn chủ trên một số cá nước ngọt. Thelrawoot
Lerssuthichawal (1997) nghiên cứu sán lá đơn chủ ký sinh trên cá trê ở Thái Lan.

Ở Indonesia, khi nghiên cứu sán dây, sán lá song chủ và giun đầu gai trên cá
nước ngọt ở Java, Lousi Bovien (1926, 1927, 1933) đã mô tả một giống mới và loài
mới Djombangia penetrans tìm thấy ở cá trê trắng; Isoparorchis eurytremum ở cá
Wallagoattu. Tiếp theo nhà khoa học người Đức Alfred L.Buschkiel (1932 – 1935)
đã nghiên cứu ký sinh trùng đơn bào (Ichthyophthyrius multifilis) ở một số loài cá
nước ngọt ở Indonesia. Một số tác giả viện nghiên cứu cá nước ngọt Bogor đã
nghiên cứu ký sinh trùng ở cá nuôi, Dr. Darnas Dana (1978), một trong số họ đã
nghiên cứu Myxosporidia ở cá nước ngọt.
22.2 Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng cá ở Việt Nam
Người đầu tiên nghiên cứu ký sinh trùng cá ở Việt Nam là nhà ký sinh trùn
người Pháp, bác sỹ Albert Billet (1856 – 1915). Ông đã mô tả một loài mới sán lá
song chủ Distomum hypselobagri (1898) ký sinh trong bóng hơi cá nheo ở Việt
Nam, P.Chevey và J.Lemasson (1936) đã nghiên cứu sự ký sinh của trùng mỏ neo
Lernaea carassii, Tidd 1933 (Syn. của L. cyprinacea Linne, 1758) ở cá chép nuôi.
Các công trình nghiên cứu ký sinh trùng cá toàn diện và đầy đủ nhất của tiến
sỹ Hà Ký (1968 – 1971) khi điều tra ký sinh trùng ở 16 loài cá kinh tế ở Bắc Bộ
Việt Nam, ông đã xác định được 120 loài ký sinh trùng thuộc 48 giống, 37 họ, 26
bộ và 10 lớp, trong đó trùng roi (Mastigophora) – 2, loài trùng bào tử (Myxozoa) –

3


18, trùng lông (Ciliophora) – 17, Monogenea – 42, Cestoda – 4, Trematoda – 8,
Nematoda – 12, Acanthocephala – 2, Crustacea – 15. Ông đã mô tả một giống và
42 loài mới với khoa học.
Năm 1976 Nguyễn Thị Muội và cộng sự đã nghiên cứu giun đầu gai trên cá
thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, bước đầu phân loại được 9 loài ký sinh trên 12 loài
cá. Năm 1981 – 1985, Nguyễn Thị Muội và cộng sự khi điều tra ký sinh trùng của 2
loài cá nước ngọt Tây Nguyên, sơ bộ phân loại được 57 taxon trong đó lớp sán lá
đơn chủ (Monogenea) – 15, ký sinh đơn bào (protozoa) – 13, Trematoda – 11,

Crustacea – 7, Cestoda – 5, Nematoda – 3, Acanthocephala – 3.
2.3 Đặc điểm sinh học cá tra
Cá tra là hai trong số 11 loài thuộc họ cá tra (Pangasiidae) đã được xác định
ở sông Cửu long. Tài liệu phân loại gần đây nhất của tác giả W.Rainboth xếp cá tra
nằm trong giống cá tra dầu. Cá tra dầu rất ít gặp ở nước ta và còn sống sót rất ít ở
Thái Lan và Campuchia, đã được xếp vào danh sách cá cần được bảo vệ nghiêm
ngặt (sách đỏ). Cá tra của ta cũng khác hoàn toàn với loài cá nheo Mỹ (Ictalurus
punctatus) thuộc họ Ictaluridae.
2.3.1 Phân loại cá tra
Bộ cá nheo Silurifor
Họ cá tra Pangasiidae

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Giống cá tra dầu Pangasianodon

Loài cá tra Pangasianodon hypophthalmus (Sauvage 1878)

2.3.2 Phân bố
Cá tra và phân bố ở lưu vực sông Mê kông, có mặt ở cả 4 nước Lào, Việt
Nam, Cămpuchia và Thái Lan. Ở Thái Lan còn gặp cá tra ở lưu vực sông Mekông
và Chao Phraya. Ở nước ta những năm trước đây khi chưa có cá sinh sản nhân tạo,
cá bột và cá giống tra được vớt trên sông Tiền và sông Hậu. Cá trưởng thành chỉ
thấy trong ao nuôi, rất ít gặp trong tự nhiên địa phận Việt Nam, do cá có tập tính di
cư ngược dòng sông Mê kông để sinh sống và tìm nơi sinh sản tự nhiên. Khảo sát
chu kỳ di cư của cá tra ở địa phận Campuchia cho thấy cá ngược dòng từ tháng 10
đến tháng 5 và di cư về hạ lưu từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm.
2.3.3 Hình thái, sinh lý

4



Cá tra là cá da trơn (không vẩy), thân dài, lưng xám đen, bụng hơi bạc,
miệng rộng, có 2 đôi râu dài. Cá tra sống chủ yếu trong nước ngọt, có thể sống được
ở vùng nước hơi lợ (nồng độ muối 7-10), có thể chịu đựng được nước phèn với pH
>5, dễ chết ở nhiệt độ thấp dưới 15 oC, nhưng chịu nóng tới 39 oC Cá tra có số
lượng hồng cầu trong máu nhiều hơn các lòai cá khác. Cá có cơ quan hô hấp phụ và
còn có thể hô hấp bằng bóng khí và da nên chịu đựng được môi trường nước thiếu
oxy hòa tan. Tiêu hao oxy và ngưỡng oxy của cá tra thấp hơn 3 lần so với cá mè
trắng.
2.3.4 Ðặc điểm dinh dưỡng

Trung

Cá tra sau khi nở 30 – 32 giờ thì hết noãn hoàng cá tra bắt đầu tìm kiếm thức
ăn bên ngoài. Giai đoạn cá bột thì cá tra tra thể hiện tính dữ và chúng tìm ăn các
thức ăn là động vật sống có kích thước vừa với cở miệng. Những thức ăn ưa thích
của cá tra bột là: cá bột các loài (như mè vinh, he, rô…) các loài giáp xác thấp
(moina, daphnia còn gọi là trứng nước), ấu trùng artemia, vì vậy chúng ăn thịt lẫn
nhau ngay trong bể ấp và chúng vẫn tiếp tục ăn nhau nếu cá ương không được cho
ăn đầy đủ, thậm chí cá vớt trên sông vẫn thấy chúng ăn nhau trong đáy vớt cá bột.
Ngoài ra khi khảo sát cá bột vớt trên sông, còn thấy trong dạ dày của chúng có rất
nhiều phần cơ thể và mắt cá con các loài cá khác. Dạ dày của cá phình to hình chữ
U và co giãn được, ruột cá tra ngắn, không gấp khúc lên nhau mà dính vào màng
treo ruột ngay dưới bóng khí và tuyến sinh dục. Dạ dày to và ruột ngắn là đặc điểm
của cá
thiênliệu
về ănĐH
thịt. Ngay
vừa hết
thể hiện

tínhnghiên
ăn thịt và ăn
tâm
Học
CầnkhiThơ
@noãn
Tàihoàng
liệucáhọc
tậprõvà
cứu
lẫn nhau do đó biện pháp giải quyết tốt nhất là phải tạo một lượng thức ăn tự nhiên
có sẵn và đầy đủ trong ao ương trước khi thả cá bột, nhằm đáp ứng đủ nhu cầu của
cá hạn chế được ăn lẫn nhau của chúng. Sau 10 ngày cá bắt đầu xuống đáy tìm thức
ăn và kể từ ngày tuổi 25, cá chuyển sang ăn tạp và tình ăn giống như cá trưởng
thành. Khi cá lớn thể hiện tính ăn rộng, ăn đáy và ăn tạp thiên về động vật nhưng dễ
chuyển đổi loại thức ăn. Trong điều kiện thiếu thức ăn, cá có thể sử dụng các lọai
thức ăn bắt buộc khác như mùn bã hữu cơ, thức ăn có nguồn gốc động vật. Trong ao
nuôi cá tra có khả năng thích nghi với nhiều loại thức ăn khác nhau như cám, rau,
động vật đáy.
2.3.5 Ðặc điểm sinh trưởng
Cá tra có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh. Khi còn nhỏ cá tăng nhanh về
chiều dài. Cá ương trong ao sau 2 tháng đã đạt chiều dài 10-12 cm (14-15 gram). Từ
khoảng 2,5 kg trở đi, mức tăng trọng lượng nhanh hơn so với tăng chiều dài cơ thể.
Cỡ cá trên 10 tuổi trong tự nhiên (ở Campuchia) tăng trọng rất ít. Cá tra trong tự
nhiên có thể sống trên 20 năm. Ðã gặp cỡ cá trong tự nhiên 18 kg hoặc có mẫu cá
dài tới 1,8 mét. Trong ao nuôi vỗ béo, cá bố mẹ cho đẻ đạt tới 25 kg ở cá 10 năm
tuổi. Nuôi trong ao một năm cá đạt 1-1,5 kg / con (năm đầu tiên), những năm về sau
cá tăng trọng nhanh hơn, có khi đạt tới 5-6 kg / năm tùy thuộc môi trường sống và
sự cung cấp thức ăn cũng như loại thức ăn có hàm lượng đạm nhiều hay ít. Ðộ béo
Fulton của cá tăng dần theo trọng lượng và nhanh nhất ở những năm đầu, cá đực

thường có độ béo cao hơn cá cái và độ béo thường giảm đi khi vào mùa sinh sản.

5


2.3.6 Ðặc điểm sinh sản
Tuổi thành thục của cá đực là 2 tuổi và cá cái 3 tuổi, trọng lượng cá thành
thục lần đầu từ 2,5-3 kg. Trong tự nhiên, cá thành thục chỉ gặp trên sông ở địa phận
của Campuchia và Thái Lan. Ngay từ năm 1966, Thái lan đã bắt cá tra thành thục
trên sông (trong đầm Bung Borapet) và kích thích sinh sản nhân tạo thành công. Sau
đó họ nghiên cứu nuôi vỗ cá tra trong ao. Ðến năm 1972 Thái lan công bố quy trình
sinh sản nhân tạo cá tra với phương pháp nuôi vỗ cá bố mẹ thành thục trong ao đất.
Cá tra không có cơ quan sinh dục phụ (sinh dục thứ cấp), nên nếu chỉ nhìn
hình dáng bên ngoài thì khó phân biệt được cá đực, cái. Ở thời kỳ thành thục, tuyến
sinh dục ở cá đực phát triển lớn gọi là buồng tinh hay tinh sào, ở cá cái gọi là buồng
trứng hay nõan sào. Tuyến sinh dục của cá tra bắt đầu phân biệt được đực cái từ giai
đọan II tuy màu sắc chưa khác nhau nhiều. Các giai đọan sau, buồng trứng tăng về
kích thước, hạt trứng màu vàng, tinh sào có hình dạng phân nhánh, màu hồng
chuyển dần sang màu trắng sữa. Hệ số thành thục của cá tra khảo sát được trong tự
nhiên từ 1,76-12,94 (cá cái) và từ 0,83-2,1 (cá đực) ở cá đánh bắt tự nhiên trên sông
cỡ từ 8-11kg (Nguyễn văn Trọng, 1989). Trong ao nuôi vỗ, hệ số thành thục cá tra
cái có thể đạt tới 19,5%.

Trung

Mùa vụ thành thục của cá trong tự nhiên bắt đầu từ tháng 5-6 dương lịch, cá
có tập tính di cư đẻ tự nhiên trên những khúc sông có điều kiện sinh thái phù hợp
thuộc địa phận Campuchia và Thái lan, không đẻ tự nhiên ở phần sông của Việt
tâm
liệu

Cần
@ngã
Tàitư liệu
cứu
củaĐH
cá nằm
từ Thơ
khu vực
giao học
tiếp 2 tập
con và
sôngnghiên
Mêkông và
Nam.Học
Bãi đẻ
Tonlesap, từ thị xã Kratie (Campuchia) trở lên đến thác Khone, nơi giáp biên giới
Campuchia và Lào. Nhưng tập trung nhất từ khu Kampi đến hết Koh Rongiev thuộc
địa giới 2 tỉnh Kratie và Stung Treng. Tại đây có thể bắt được những cá tra nặng tới
15 kg với buồng trứng đã thành thục. Cá đẻ trứng dính vào giá thể thường là rễ của
loài cây sống ven sông Gimenila asiatica, sau 24 giờ thì trứng nở thành cá bột và
trôi về hạ nguồn.
Trong sinh sản nhân tạo, ta có thể nuôi thành thục sớm và cho đẻ sớm hơn
trong tự nhiên (từ tháng 3 dương lịch hàng năm), cá tra có thể tái phát dục 1-3 lần
trong một năm.
Số lượng trứng đếm được trong buồng trứng của cá gọi là sức sinh sản tuyệt
đối. Sức sinh sản tuyệt đối của cá tra từ 200 ngàn đến vài triệu trứng. Sức sinh sản
tương đối có thể tới 135 ngàn trứng / kg cá, lượng trứng vuốt đựơc của mỗi cá thể
cái chỉ chiếm từ 70 – 80% số trứng có trong buồng trứng. Kích thước của trứng cá
tra tương đối nhỏ và có tính dính. Trứng sắp đẻ có đường kính trung bình 1mm. Sau
khi đẻ ra và hút nước đường kính trứng khi trương nước có thể tới 1,5 -1,6 mm.

2.4 Mối quan hệ giữa các tác nhân gây bệnh

6


Stress
Vật chủ

Môi trường
Bệnh

Nhiễm
mầm bệnh

Ô nhiễm

Mầm bệnh

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Quá trình hình thành bệnh động vật thủy sản liên quan đến các yếu tố mầm
bệnh, môi trường, vật chủ. Động vật thủy sản chỉ bị bệnh khi có sự tác động qua lại
phức tạp đồng thời giữa 3 yếu tố. Nếu thiếu một trong ba yếu tố thì động vật thủy
sản không bị bệnh.
Mầm bệnh luôn có trong môi trường nước chỉ bộc phát và gây bệnh cho tôm
cá khi đủ số lượng và điều kiện thuận lợi. Mầm bệnh có thể chia thành nhiều loại:
+ Vật lý: sự thay đổi đột ngột nhiệt độ, pH, oxy.
+ Hoá học: chất độc, khí độc (NH3, NO2…)
+ Sinh học: vi khuẩn, nấm, virus, vi khuẩn, ký sinh trùng.
Vật chủ phải có tính mẫn cảm với bệnh. Tính mẫn cảm của động vật thuỷ sản
còn phụ thuộc vào tuổi, kích cở của vật nuôi, giống loài, sức khoẻ vật nuôi.

Trong mối quan hệ giữa ba yếu tố này yếu tố môi trường là quan trong nhất
nó điều khiển mối quan hệ giữa vật chủ và môi trường theo hướng có lợi hoặc bất
lợi.
Động vật thuỷ sản sống trong môi trường nước nên giữa chúng và nước có
mối quan hệ qua lại, các yếu tố môi trường tạo điều kiện cho động vật thuỷ sản tồn
tại, sinh trưởng và phát triển bình thường. Tuy nhiên khi yếu tố môi trường bất lợi

7


đời sống của động vật thuỷ sản sẻ ảnh hưởng đến sức khoẻ của chúng thậm chí làm
cho chúng chết hàng loạt, gây thiệt hại cho sản xuất.
2.5 Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng trên cá tra giống
2.5.1Bệnh trùng đơn bào (Protozoa)
Bệnh trùng roi Crytobiosis
Tác nhân gây bệnh
Bộ Bodonidea Holland, 1895
Họ Bodonidae Stun, 1878
Giống Cryptobia Leidy, 1846
Cơ thể dẹp, đoạn trước rộng, sau nhỏ gần giống như lá liễu. Phía trước cơ thể
có hai gốc roi, từ đó sinh ra roi trước hướng ra phía trước, roi sau tiếp với cơ thể
hình thành màng sóng và vượt quá chiều dài cơ thể, đoạn cuối của roi sau nhọn
thẳng để cấm vào tổ chức ký chủ. Màng sóng của Cryptobia có nếp gấp ít hơn
Trypanosoma. Trong nguyên sinh chất có một hạch lớn hình tròn bắt màu đậm và
các không bào, hạt vật chất dinh dưỡng. Kích thước lớn hay nhỏ tùy theo loài. Lúc
vận động, roi trước không rung chuyển, roi sau thẳng như một cái đuôi dài. Nhờ
màng sóng đập lên dập xuống mà có thể chuyển động chậm chạp tiến lên phía trước

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Hình 1: Hình trùng roi

Cryptobiosis
1. Roi trước
2. Thể gốc
3. Hạch nhỏ
4. Hạch tế bào
5. Màng song
6. Hạt vật chất dinh
dưỡng
7. Roi sau

Phương pháp sinh sản: sinh sản theo phương pháp phân chia theo chiều dọc
cơ thể. Cơ thể mới lại sinh ra roi trước và roi sau.
Chẩn đoán và phân bố
Cryptobia ký sinh trên mang và da của cá. Do đó để xác định tác nhân gây
bệnh thường kiểm tra dịch nhờn của da và mang dưới kính hiển vi. Cá nhiễm
Cryptobia tổ chức mang có màu đỏ không bình thường, da và mang có nhiều dịch
nhờn. Roi sau cấm sâu vào tổ chức ký chủ đồng thời cơ thể tiết ra chất độc phá hoại

8


tổ chức ký chủ. Cá bị bệnh nặng hoạt động yếu cơ thể có màu sắc đậm dần, vi
khuẩn và nấm theo vết thương xâm nhập vào cơ thể. Cryptobia ký sinh trên da và
mang của nhiều loài cá nước ngọt, thường chúng tập trung thành từng đám. Cá càng
nhỏ càng dễ bị cảm nhiễm và thiệt hại lớn hơn cá lớn. Cryptobia lưu hành mạnh vào
mùa xuân và mùa hè. Ở nước ta đã phát hiện Cryptobia branchialis và Cryptobia
agitate ký sinh trên mang da cá chép, cá mè trắng, cá mè hoa, cá trắm cỏ, cá tra và
nhiều loài cá nước ngọt với cường độ và tỉ lệ cảm nhiễm cò thấp nên tác hại chưa
nghiêm trọng. Ở nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, ký sinh trùng Cryptobia
gây tác hại cho cá hương, cá giống.

Bệnh trùng bào tử sợi có hai cực nang – Myxobolosis
Tác nhân gây bệnh
Gây bệnh ở cá loài thuộc giống Myxobolus Biitschli, 1882, họ Myxobolidae
Thelohan, 1892. Ngoài những đặc điểm chung của trùng bào tử sợi Myxobolus có
đặc điểm riêng là phía trước bào tử có hai cực nang bằng nhau (Myxobolus koi, M.
artus, M. seminiformis) một số ít loài có một cực nang bị thoái hóa (Myxobolus
toyamai) trong túi có túi thích iode. Kích thước của từng loài có khác nhau
Dấu hiệu bệnh lý

Trung

Khi cá mắc bệnh trùng bào tử sợi, cá bơi lội không bình thường giẩy mạnh,
dị hình cong đuôi, cá kém ăn rồi chết. Nếu bị nặng có thể thấy được bào nang bằng
hạt
hạtliệu
đậu xanh
trắng
đục @
trên Tài
mangliệu
cá làm
kênhtập
lấp mang
không đóng
tâm tấm,
Học
ĐHmàu
Cần
Thơ
học

và nghiên
cứu
lại được.
Phân bố lây truyền
Myxobolus spp ký sinh ở hơn 30 loài cá nước ngọt Việt Nam đã phát hiện
gần 30 loài. Mức độ cảm nhiễm Myxobolus ở một số loài cá khá cao và đã gây
thành bệnh làm cá chết hàng loạt.

9


Hình 3: Bào tử sợi Myxobolus

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

Hình 2: Sơ đồ cấu tạo của trùng
Myxobolus
1. Mỏm giữa cực nang
2. Cực nang
3. Sợi tơ xoắn
4. Nhân của phôi amid
5. Không bào
6. Trục đường nối

10


Chẩn đoán bệnh
Để chẩn đoán trùng bào tử sợi Myxobolus lấy nhớt các tổ chức nhiễm bệnh
quan sát dưới kính hiển vi, phân biệt các bào tử có không có đuôi khác với bào tử

của Henneguya có hai cực nang khác với Thelohanellus có một cực nang.
Phòng trị bệnh
Trùng bào tử sợi có vỏ dày, rất khó tiêu diệt, cần áp dụng các biện pháp
phòng bệnh tổng hợp là chính
Ao ương cá giống phải được tẩy vôi nung liều cao 14kg/100m2, phơi đáy ao
từ 3 -7 ngày để diệt các bào tử trong bùn đáy ao hạn chế khả năng gây bệnh của cá
giống.
Khi thả và vận chuyển cá giống cần kiểm tra bệnh, nếu phát hiện phải loại bỏ
cá, dung các chất khử trùng (vôi nung, chlorine…) nồng độ cao để tiêu diệt mầm
bệnh. Cấm không được vận chuyển cấm lây lan sang vùng khác. Những ao có bào
tử sợi cần được cách ly hoàn toàn.
Diệt toàn bộ cá trong ao, giữ nguyên nước ao, dung vôi nung khử trùng kỹ.
Các dụng cụ đánh bắt cá trong ao bệnh đều phải khử trùng. Hiện nay chưa có thuốc
trị bệnh trùng bào tử sợi hữu hiệu.
Trùng quả dưa (đốm trắng) Ichthyophthyriosis

Trung tâm Học
liệugây
ĐH
Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Tác nhân
bệnh
Lớp Hymenostomata Delage Heroward, 1896
Bộ Tetrahymehita Faure Fremlei, 1956
Họ Ophryoglenidae Kent, 1882
Giống Ichthyophthyrius Fouguet, 1876
Tác nhân gây bệnh trùng quả dưa là loài Ichthyophthyrius multifiliis Fouguet
(1876). Trùng có dạng giống quả dưa, đường kính 0,5 – 1mm. Toàn thân có nhiều
lông tơ nhỏ. Miệng ở phần trước 1/3 cơ thể, hình gần giống cái tai. Một không bào
co rút nằm ngay bên cạnh miệng. Trùng mềm mại, có thể biến đổi hình dạng khi

vận động ở trong nước, ấu trùng bơi lội nhanh hơn trùng trưởng thành.
Chu kỳ sống của trùng chia làm hai giai đoạn: dinh dưỡng và bao nang
Giai đoạn dinh dưỡng: khi ấu trùng ký sinh ở da, mang ở giữa các tổ chức
thượng bì hút chất dinh dưỡng của ký chủ để sinh trưởng, đồng thời kích thích các
tổ chức của ký chủ hình thành một đốm mủ trắng (vì vậy bệnh còn gọi là bệnh đốm
trắng). Trùng quả dưa trưởng thành chui ra khỏi đốm mủ trắng và chuyển sang giai
đoạn bào nang
Giai đoạn bào nang: trùng rời ký chủ bơi lội tự do trong nước một thời gian
rồi dừng lại ở ven bờ hoặc tựa vào cây cỏ thuỷ sinh, tiết ra chất keo bao vây lấy cơ
thể hình thành bào nang. Trùng bắt đầu sinh sản phân đôi thành rất nhiều (1000 –

11


2000) ấu trùng có đường kính từ 18 – 22 µm. Ấu trùng tiết ra loại men
Hyaluronidaza phá vỡ bào nang chui ra ngoài, bơi trong nước tìm ký chủ mới. Ấu
trùng có thể sống trong nước 2 – 3 tuần. Thời gian sinh sản của ấu trùng tuỳ thuộc
vào nhiệt độ nước 10 – 12 giờ ở nhiệt độ 26 – 270C, 14 – 15 giờ ở nhiệt độ 24 –
250C, 18 – 20 giờ ở nhiệt độ 20 – 220C, 72 – 84 giờ ở nhiệt độ 7 – 80C. Nhiệt độ
thích hợp cho trùng phát triển 25 – 260C.
Ở giai đoạn không ký sinh, trùng quả dưa rất nhạy cảm với yếu tố môi
trường. Chúng không chụi được môi trường có pH < 5. Khi oxy trong nước giảm
xuống 0,8mg/l trùng cũng bị chết.
Ở giai đoạn ký sinh chúng rất nhạy cảm với nhiệt độ và phản ứng miễn dịch
của cá bệnh. Khi cá đã bị nhiễm bệnh trùng quả dưa, cơ thể cá sinh kháng thể có
khả năng làm miễn dịch bệnh này. Vì thế sự tái nhiễm sẽ giảm đi rất nhiều. Theo
Paperna (1980) cá chép đã nhiễm bệnh trùng quả dưa mà sống sót thì có khả năng
miễn dịch trong vòng 8 tháng.
Hình 4: Các giai đoạn phát triển
của Ichthyophthyrius

A, D giai đoạn trưởng thành
Miệng
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu1.học
tập và nghiên cứu
2. Nhân lớn

3. Lông rung
4. Không bào co rút
5. Hạt dinh dưỡng
C, B giai đoạn ấu trùng
Dấu hiệu bệnh lý
Da, mang, vây của cá bị nhiễm bệnh có nhiều trùng bám thành các hạt lấm
tấm rất nhỏ, màu hơi trắng đục (đốm trắng), có thể thấy rỏ bằng mắt thường. Da
mang cá có rất nhiều nhớt, màu sắc nhợt nhạt.Cá bệnh nổi từng đàn trên mặt nước,
bơi lờ đờ yếu ớt. Lúc đầu cá tập trung gần bờ, nơi có rác, giẩy nhiều do ngứa ngáy.
Trùng bám nhiều ở mang, phá hoại biểu mô mang làm cá ngạt thở. Khi cá yếu quá
chỉ còn ngoi đầu lên để thở, đuôi bất động cấm xuống đất. Cá trê giống bị hiện
tượng này hay được gọi là bệnh “treo râu”. Sau cùng cá nhào lộn mấy vòng rồi lật
ngữa bụng chìm xuống đáy rồi chết.
Bệnh gẩy ảnh hưởng đến chức năng sinh lý, sinh hóa của cá. Protein trong
huyết thanh giảm xuống tới 2,5 lần, hoạt động của gan, thận bị rối loạn, lượng tích
luỹ protein bị giảm, ảnh hưởng quá trình trao đổi amino axid. Thành phần máu cũng
bị thay đổi lượng hồng cầu của cá chép con giảm 2 – 3 lần, bạch cầu tăng quá nhiều,

12


đặc biệt là máu ngoại biên – lượng bạch cầu có thể tăng tới 20 lần (theo Golovina,
1976 – 1978).
Phân bố và lan truyền bệnh

Bệnh lưu hành rất rộng khắp các châu lục trên thế giới. Ở khu vưc Động
Nam Á, các loài cá thường mắc bệnh này. Ở Việt nam đã phát hiện thấy trùng quả
dưa ở cá trắm cỏ, chép, mè trắng, mè hoa, trôi, rô phi (Hà Ký, 1968), cá thát lát
(Nguyễn Thị Muội, 1985), cá tra nuôi, trê vàng, trê phi (Bùi Quang Tề). Ngoài ra
một số cá cảnh cũng thường mắc bệnh này. Trùng quả dưa đã gây thành dịch bệnh ở
cá giống các loài: mè trắng, rô phi, tra, trê vàng, trê phi, cá chim trắng vv…Tỉ lệ
cảm nhiễm 70 – 100%, cường độ 5 – 7 trùng/ lame.
Chẩn đoán bệnh
Dựa theo dấu hiệu bệnh lý quan sát bằng mắt thường và kiểm tra nhớt cá trên
kính hiển vi. Cường độ cảm nhiễm từ 5 – 10 trùng / lame là cá bị bệnh nguy hiểm.
Phòng trị bệnh

Trung

Để phòng tuyệt đối không nên thả chung cá bệnh với cá khoẻ. Thời gian
cách ly phụ thuộc vào nhiệt độ, ở nhiệt độ 260C cần cách ly khoảng 2 – 8 tuần
(Theo Kabata, 1985). Phơi đáy ao từ 3 – 4 ngày diệt bào tử ở đáy ao. Trước khi thả
nếu kiểm tra thấy cá có trùng cần xử lý ngay bằng thuốc. Goven và ctv (1980) đã thí
nghiệm dùng kháng nguyên từ lông tơ hoặc toàn bộ tế bào của trùng quả dưa tiêm
tâm
Học
Cầndịch
Thơ
@ với
Tài4µg
liệu
họcnguyên,
tập và
cứu
cho cá

nheoliệu
Mỹ, ĐH
gây miễn
lần đầu
kháng
sau nghiên
hai tuần gây
miễn dịch lần thử hai với 5µg, kết quả có khả năng miễn dịch cao. Tác giả còn thử
kháng nguyên lấy từ lông tơ của loài Tetrahynema pyriformis một loài sống ở nước
ngọt, kết quả cũng phòng được bệnh trùng quả dưa như kháng nguyên nói trên.
Để trị bệnh trùng quả dưa cần chú ý đến hai giai đoạn trong chu kỳ sống của
nó. Diệt trùng ở thời kỳ ấu trùng bơi lội tự do thuộc giai đoạn bào nang dễ dàng hơn
so với giai đoạn dinh dưỡng ký sinh. Các phương pháp trị trùng quả dưa đều phụ
thuộc vào nhiệt độ môi trường nên cần phải thí nghiệm để lựa chọn phù hợp cho
từng vùng.
Thuốc và hoá chất dùng điều trị bệnh này rất đa dạng. Nhiều tác giả ở các
nước khác nhau đã xử lý đạt kết quả ở những mức độ khác nhau. Ở Việt Nam đã sử
dụng có kết quả một số hóa chất như sau:
Đối với cá giống ở đồng bằng Nam Bộ, do nhiệt độ nước bình quân cao (25
– 280C), có thể dùng thuốc với nồng độ thấp hơn. Ở Việt Nam đã sử dụng một số
hoá chất có kết quả như sau: formalin 200 – 300ppm thời gian 30 – 60 phút hoặc
phun xuống ao với liều lượng 10 – 20ppm thời gian vô định.
Trùng bánh xe
Tác nhân gây bệnh
Lớp Peritricha Stein, 1859

13


Bộ Peritrichida F.Stein, 1859

Bộ phụ Mobilina Kahl, 1933
Họ Trichodonidae Claus, 1874
Giống Trichodina ehrenberg, 1830
Giống Trichodinella Sramek – Husek, 1953
Giống Tripartiella Lom, 1959
Họ trùng bánh xe Trichodinidae có nhiều giống, nhưng ở Việt Nam thường
gặp các loài thuộc ba giống trên ký sinh ở cá nước ngọt, nước mặn, lưỡng thê và bò
sát. Những giống loài thường gặp Trichodina nigra, Trichodina nobilis, Trichodina
pediculus, Trichodina siluri, Trichodina domerguei domerguei, Trichodina
mutabilis, Trichodinella epizootica, Tripartiella bulbosa

Trung

Hình dáng cấu tạo của cơ thể Trichodina nhìn mặt bên giống như cái chuông,
mặt bụng giống cái dĩa. Lúc vận động nó quay tròn lật qua lật lại giống như bánh xe
nên có tên là trùng bánh xe. Nhìn chính diện có một đĩa bám lớn có cấu tạo phức
tạp, trên đĩa có một răng và các đường phóng xạ. Vòng răng có nhiều răng mỗi
vòng răng có dạng gần giống như chữ “V” bao gồm thân răng ở phía ngoài dạng
hình lưỡi rùi, hình tròn hay hình bầu dục, còn móc răng ở phái trong thường dạng
tâm
liệuthểĐH
Thơ
@ Tài
liệu
học
vàtạo
nghiên
cứu
hình Học
kim. Các

răngCần
sắp xếp
sít nhau,
cái nọ
chồng
lêntập
cái kia
thành một
đường vòng tròn. Hình dạng và số lượng răng và đường phóng xạ là tiêu chuẩn
quan trọng để phân loại. Xung quanh co thể có lông tơ phân bố, lông tơ luôn luôn
rung động làm cho cơ thể hoạt động rất linh hoạt. Cơ thể nhình nghiên ở phía trên ta
thấy có rảnh miệng, tiếp theo rãnh miệng là miệng, rãnh miệng có đai lông tơ ở bên
trên và đai lông tơ ở bên duới. Cơ thể có một hạch lớn hình móng ngựa nằm ở giữa
cơ thể thường bắt màu rõ và một hạch nhỏ tròn nằm cạnh hạch lớn.
Trùng bánh xe chủ yếu sinh sản bằng hình thức vô tính phân chia đơn giản,
tuỳ theo từng loài chúng sinh sản hình như quanh năm: Trichodiana nigra,
Trichopartiella balbosa thì sinh sản trong điều kiện thời tiết ấm, nhiệt độ 22 – 280C,
Trichodina pediculus, có thể sinh sản trong điều kiện thời tiết lạnh: ở 160C trùng
vẫn sinh sản được

14


Trùng bánh xe có thể sống tự do trong nuớc (ngoài ký chủ) từ 1 – 1,5 ngày.
Trùng ký sinh chủ yếu trên da, mang, khoang mũi của cá.
Hình 5: Cấu tạo của trichodina
A: Quan sát bên ngoài
B: Quan sát một bộ phận mặt cắtdọc
1. Rảnh miệng và đai tơ lông miệng
2. Miệng

3. Hầu
4. Nhân lớn
5. Nhân nhỏ
6. Không bào
7. Vòng răng
8. Màng biên
9. Đai lông tơ biên
10. Lông tơ trên
11. Lông tơ dưới
12. Đường phóng xạ

Dấu hiệu bệnh lý
Khi mới mắc bệnh, trên thân cá có nhiều nhớt hơi màu trắng đục, ở dưới

Trung tâm
liệu
Tàicạn.
liệu
tập màu
và nghiên
cứu
dễ nhìn
thấyĐH
hơn Cần
so với Thơ
khi bắt@
cá lên
Da học
cá chuyển
xám, cá cảm

nướcHọc
thấy ngứa ngáy, thường nổi từng đàn lên mặt nước, thường cá tra giống nhô hẳn đầu
lên mặt nước và lắc mạnh, người nuôi cá kêu bằng bệnh “lắc đầu”. Một số con tách
đàn bơi quanh bờ ao. Khi bệnh nặng ký sinh trùng ở mang, phá huỷ các tơ mang
khiến cá bị ngạt thở, những con bệnh nặng mang đầy nhớt và bạc trắng. Cá bơi lội
lung tung không định hướng. Sau hết cá lật bụng mấy vòng, chìm xuống đáy ao và
chết. Người nuôi cá tra giống còn gọi bệnh này là bệnh “trái”, vì sau mấy hôm trời
âm u không nắng, nhiệt độ mát mẻ, trùng bánh sinh sản nhanh chống gây thnàh dịch
bệnh khiến cá chết hàng loạt. Đàn cá nếu bị nhẹ thì gầy yếu, nếu không xử lý bệnh
kịp thời cá sẽ chết nhiều. Khi kiểm tra tỉ lệ cảm nhiễm của đàn, nếu tỉ lệ cảm nhiễm
90% - 100%, cường độ cảm nhiễm 20 – 30 trùng/ thị trường 9 x 10 là nguy hiểm.
Đàn cá phát bệnh khi cường độ nhiễm 50 – 100 trùng/ thị trường 9 x 10. Bệnh nặng
cường độ nhiễm khi tới 200 – 250 con / thị trường 9 x 10, trùng bám đày đặc trên
da, vây, mang cá.
Phân bố và lan truyền
Trùng bánh xe phân bố rộng. Theo Hà Ký (1968) và Bùi Quang Tề (1990,
2001) bệnh này gây tác hại chủ yếu cho cá hương, cá giống ở Việt Nam. Bệnh phát
rộng trên nhiều loài cá khác nhau: chép, trắm cỏ, mè trắng, mè hoa, trôi, rôhu, trê,
tra, bống tượng, mùi…và trên 10 loài cá kinh tế khác nữa. Trong các ao ương nuôi
cá bệnh phát triển quanh năm nhưng phẩ biến nhất vào mùa xuân, đầu hạ và mùa
thu ở niền Bắc, vào mùa mưa ở miề Nam mùa khô ít hơn.

15


Bệnh gây thiệt hại lớn cho các cơ sở ương nuôi giống.
Chẩn đoán bệnh
Quan sát các dấu bệnh lý (triệu chứng) của đàn cá trong ao. Vớt cá kiểm tra
nhớt, mang dưới kính hiển vi, xác định tỉ lệ và cường độ nhiễm trùng bánh xe.
Phòng và trị bệnh

Biện pháp tốt nhất phòng bệnh trùng bánh xe là giữ gìn vệ sinh cho các ao hồ
nuôi cá, nhất là ao ương. Trước khi ương nuôi phải tẩy vôi, tiêu độc ao mật độ cá
không nên thả quá dày. Theo Hà Ký (1963) mật độ thả quá dày thì cường độ nhiễm
trùng bánh xe của cá sẽ tăng gấp 4 – 12 lần. Các loại phân hữu cơ, nhất là phân bắc
phải được ủ kỹ với 1% vôi. Thực tế cho thấy những nơi dùng phân tươi thường hay
phát bệnh.
Ở Việt Nam thường dùng một số phương pháp đơn giản bà háo chất dễ kiếm:
Dùng nước muối NaCl 2 – 3% tắm cho cá 5 – 15 phút, dùng CuSO4, nồng độ 3 – 5
ppm tắm cho cá 5 – 15 phút hoặc phun trựa tiếp xuống ao với nồng độ 0,5 – 0,7ppm
(0,5 – 0,7g cho 1m3 nước). Những biện pháp trên đã được áp dụng có kết quả ở các
địa phương cho các loài cá nuôi: chép, mè, trôi, trắm, tra, trê….
Trùng loa kèn
Tác nhân gây bệnh

Trung tâm Học
ĐHStein,
Cần1859
Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Lớp liệu
Peritricha
Bộ Peritrichida F.Stein, 1859
Bộ phụ Sessilina Kahl, 1933
Họ Epistylididae Kahl, 1933
Họ phụ Epistylidinae Kahl, 1933
Giống Epistylis ehrenberg, 1836
Họ phụ Apiosomatinae Banina
Giống Apiosoma Blanchard, 1885
Họ Vorticellidae
Giống Zoothamnium
Ký sinh trùng ở động vật thủy sản Vịêt Nam, 4 giống thụôc 2 họ. Nhìn chúng

cơ thể phía trước lớn, phía sau nhỏ, có dạng hình loa kèn, hình chuông lộn ngược,
nên có tên gọi là trùng loa kèn. Phía trước cơ thể có 1 - 3 vòng lông rung và khe
miệng, phía sau ít nhiều đều có cuống để bám vào bất cứ giá thể nào. Một số giống
hình thành tập đoàn (Epistylis, Zoothamnium) các cá thể liên kết với nhau bởi nhánh
đuôi. Trùng loa kèn lấy dinh dưỡng bằng cách lọc trong môi trường nước.

16


×