Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

ẢNH HƯỞNG của QUẢN lý nước đến sự SINH TRƯỞNG của lúa TRÊN đất bạc màu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.53 KB, 82 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

NGUYỄN THỊ HÀ MI

ẢNH HƯỞNG CỦA QUẢN LÝ NƯỚC ĐẾN
SỰ SINH TRƯỞNG CỦA LÚA
TRÊN ĐẤT BẠC MÀU

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: KHOA HỌC ĐẤT

Cần Thơ, 2009

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: KHOA HỌC ĐẤT

Tên đề tài:

ẢNH HƯỞNG CỦA QUẢN LÝ NƯỚC ĐẾN
SỰ SINH TRƯỞNG CỦA LÚA
TRÊN ĐẤT BẠC MÀU

Giáo viên hướng dẫn
PGS. TS. Võ Thị Gương



Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Hà Mi
MSSV: 3053152
Lớp: KHĐ K31

Cần Thơ, 2009

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC ĐẤT
----o0o----

XÁC NHẬN CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Xác nhận đề tài: “Ảnh hưởng của quản lý nước đến sự sinh trưởng của lúa trên
đất bạc màu”
Do sinh viên: Nguyễn Thị Hà Mi MSSV: 3053152 Lớp Khoa học đất khóa
31 - Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng - Trường Đại Học Cần Thơ thực
hiện từ 01/2009 đến 05/2009.
Nhận xét của cán bộ hướng dẫn:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

…………………………………….

Cần Thơ, ngày….. tháng…. năm 2009
Cán bộ hướng dẫn.

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC ĐẤT
----o0o---XÁC NHẬN CỦA BỘ MÔN KHOA HỌC ĐẤT
Xác nhận đề tài: “Ảnh hưởng của quản lý nước đến sự sinh trưởng của lúa
trên đất bạc màu”
Do sinh viên: Nguyễn Thị Hà Mi MSSV: 3053152 Lớp Khoa học đất khóa
31 - Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng - Trường Đại Học Cần Thơ thực
hiện từ 01/2009 đến 05/2009.

Ý kiến của Bộ Môn:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
…………………………………….

Cần Thơ, ngày….. tháng…. năm 2009

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN KHOA HỌC ĐẤT
----o0o----

XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG BÁO CÁO
Hội đồng chấm báo cáo luận văn tốt nghiệp chấp thuận đề tài: “Ảnh hưởng
của quản lý nước đến sự sinh trưởng của lúa trên đất bạc màu”
Do sinh viên: Nguyễn Thị Hà Mi MSSV: 3053152 Lớp Khoa học đất 31
- Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng - Trường Đại Học Cần Thơ thực hiện
và bảo vệ trước hội đồng ngày….. tháng….. năm 2009.
Luận văn tốt nghiệp đã được hội đồng đánh giá ở mức……………………………
Ý kiến của hội đồng:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
…………………………………….

Cần Thơ, ngày….. tháng…. năm 2009.
Chủ tịch hội đồng

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu khoa học
của bản thân. Các số liệu và kết quả được trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung
thực và chưa được công bố trong các báo cáo luận văn trước đây.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hà Mi

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


LỜI CẢM TẠ

Xin kính dâng lên ba mẹ lòng biết ơn sâu sắc nhất, người đã hết lòng nuôi dạy con
khôn lớn.

Thành kính biết ơn !
Cô PGs.Ts. Võ Thị Gương đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ và đóng góp nhiều ý kiến
quý báu để em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Anh Phạm Nguyễn Minh Trung đã nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt quá trình làm
luận văn.
Quý Thầy, Cô Trường Đại Học Cần Thơ, Khoa Nông Nghiệp, Bộ môn Khoa Học
Đất và Quản Lý Đất Đai đã tận tình truyền đạt kiến thức quý báo và tạo điều kiện thuận lợi
cho chúng em trong suốt khóa học.

Đặc biệt cảm ơn !
Cô cố vấn học tập Nguyễn Mỹ Hoa, cô Trịnh Thị Thu Trang, thầy Ngô Ngọc Hưng,
thầy Nguyễn Minh Đông, các anh chị trong phòng phân tích Hóa, phòng Lý và phòng Sinh
đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong quá trình làm luận văn.


Chân thành cảm ơn!
Bạn Nguyễn Văn Hiền và tập thể lớp khoa học đất đã nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ
trong suốt quá trình làm luận văn.

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


NGUYỄN THỊ HÀ MI, 2009 “ Ảnh hưởng của quản lý nước đến sự sinh trưởng của
lúa trên đất bạc màu”. Luận văn Tốt nghiệp đại học, Khoa Nông Nghiệp và Sinh
Học Ứng Dụng. Trường Đại học Cần Thơ.
Người hướng dẫn khoa học: PGS. Ts. Võ Thị Gương

TÓM LƯỢC
Nhằm giảm thiểu lượng nước tưới dư thừa, không cần thiết trong canh tác
lúa, đề tài ảnh hưởng của quản lý nước đến sự sinh trưởng của lúa trên đất bạc màu
được thực hiện. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên gồm bốn nghiệm thức
với bốn lần lặp lại. Trong đó, hai nghiệm thức ngập liên tục có mực nước trong
chậu cao 2cm và 5cm; hai nghiệm thức để khô có mực nước giữ trong chậu cao 5cm
để khô trong ba ngày gồm một nghiệm thức để khô lúc lúa được 28 ngày sau khi
gieo và nghiệm thức để khô lúc lúa 14, 28 ngày sau gieo và lúc lúa trổ. Kết quả thí
nghiệm cho thấy: Quản lý nước không làm ảnh hưởng đến pH cũng như lượng đạm
hữu dụng trong đất. Về mặt sinh trưởng, ngập liên tục giúp cây phát triển chiều cao,
số chồi ổn định; để khô làm chiều cao cây bị biến động điển hình là chỉ để khô một
lần vào giai đoạn 28 ngày sau gieo thì cây vẫn sinh trưởng bình thường nhưng để
khô qua ba giai đoạn 14, 28 ngày sau gieo và trổ thì chiều cao bị hạn chế, tuy số
chồi tăng nhưng hạt lép nhiều. Về hiệu quả kinh tế mực nước ngập 2cm, 5cm và để
khô lúc 28 ngày sau gieo cho năng suất như nhau, chúng cao hơn và khác biệt có ý
nghĩa khác biệt với để khô 14, 28 ngày và giai đoạn trổ.


PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


MỞ ĐẦU
Việc sử dụng nước trong công nghiệp, dịch vụ, sinh hoạt…mà đặc biệt là
trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta đang rất lãng phí. Điển hình là lượng nước sử
dụng tưới lúa có nơi đã tăng lên gấp trên hai lần so với định mức, khoảng 25.00030.000 m3/2vụ (Đỗ Hồng Quân, 2008). Người dân thường có thói quen là mực

nước trong ruộng lúa lúc nào cũng phải đầy, không thể nhỏ hơn 5 - 7 cm
(thường là 7-10 cm) (Nguyễn Xuân Tiệp, 2005). Thừa nước cũng ảnh hưởng
đến sự sinh trưởng, các quá trình trao đổi chất bên trong cây, làm giảm năng
suất và phẩm chất đồng thời tính chống chịu sâu bệnh cũng giảm. Nước là
nguồn tài nguyên được cho là không cạn kiệt, tuy nhiên trong thế kỷ tới nước
sẽ trở nên quý giá và có thể là nguyên nhân dẫn đến xung đột giữa các nước
(Chu Thị Thơm và ctv., 2006). Báo cáo của Liên hợp quốc (21/05/2009) cũng
đã cảnh báo: kế hoạch xây những đập giữ nước của Trung Quốc trên nửa phần
thượng nguồn sông Mekong như đập Tiểu Loan cao nhất Thế giới (292m)
mới vừa hoàn thành sẽ đặt ra mối đe doạ lớn, là nguy cơ cạn kiệt nước ở
ĐBSCL. Cho nên vấn đề tiết kiệm nước tưới cho lúa là một yêu cầu cấp bách được
đặt ra. Đề tài nghiên cứu về quản lý nước cho lúa được thực hiện, khảo sát khả năng
sinh trưởng và phát triển của cây lúa trong điều kiện giảm độ sâu ngập nước, có sự
luân phiên khô – ngập, nhằm mục tiêu sử dụng lượng nước thích hợp cho lúa phát
triển vừa đảm bảo năng suất vừa giảm được lượng nước tưới dư thừa góp phần tiết
kiệm nguồn tài nguyên nước.

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU

1.1 CÂY LÚA VÀ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NƯỚC TƯỚI CHO LÚA
1.1.1 Cây lúa
1.1.1.1 Nguồn gốc, phân loại và phân bố
Lúa trồng có tên khoa học là Oryza sativa L, là cây trồng xuất hiện sớm,
thuộc một trong những loại cây trồng cổ xưa nhất. Oryza sativa L là loài cây thân
thảo sống hàng năm, thời gian sinh trưởng tùy theo các giống dài ngắn khác nhau,
nằm trong phạm vi từ 60- 250 ngày. Về phương diện thực vật học thì lúa trồng hiện
nay là do lúa dại Oryza sativa hình thành thông qua một quá trình chọn lọc nhân tạo
lâu dài (Đinh Thế Lộc, 2006). Loài lúa dại này thường thấy ở vùng Đông Nam Á
(Ấn Độ, Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam).
Chi Oryza có thể đã phát sinh 103 triệu năm trước đây ở Trung Ấn Độ, sau
đó do sự phân rã lục địa đã hình thành các vùng khác nhau theo hệ sinh thái.
Khi nghiên cứu tiến hóa của chi Oryza hai loài phụ của loài O. sativa là
O.indica và O. Japonica đã xuất hiện cách đây 2-3 triệu năm ở dãy núi Hymalaya,
sau được di thực phát tán đến các nơi khác trên thế giới.
Theo các tài liệu đáng tin cậy được công bố ở Việt Nam, thì cây lúa đã được
trồng phổ biến và nghề trồng lúa thì khá ổn định ở thời kỳ đồ đồng (4000 - 3000
năm trước công nguyên).
Phân loại và phân bố:
Đất trồng lúa ở Việt Nam được chia ra các loại sau:
- Đất lúa phát triển trên các sản phẩm phù sa cổ.

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


- Đất lúa phát triển trên các sản phẩm phù sa sông, biển chịu ảnh
hưởng của nước biển .
- Đất lúa phát triển trên các sản phẩm phù sa sông, biển chịu ảnh
hưởng của phèn.
- Đất lúa phát triển trên các sản phẩm phù sa sông, suối bị ngập nước.

- Đất lúa phát triển trên các sản phẩm phù sa sông suối không bị ngập
nước.
- Đất lúa phát triển trên các sản phẩm dốc tụ đọng nước.
- Đất lúa phát triển trên các sản phẩm feralit đọng nước vào mùa mưa.
- Đất lúa phát triển trên các trảng cát.
1.1.1.2 Tình hình sản xuất lúa gạo
Đinh Thế Lộc (2006) cho rằng lúa là cây chủ lực chiếm vị trí hàng đầu trong
cây lương thực nói riêng và cây trồng nông nghiệp nói chung, là nguồn lương thực
chủ yếu nuôi sống người Việt Nam. Dân số nước ta từ 48 triệu người (1975) đã tăng
lên 80 triệu người (2004), nhưng sản lượng thóc đã tăng lên từ 10,3 triệu tấn (1975)
tăng lên 35,86 triệu tấn (2004) nên nguồn lương thực xã hội dồi dào, đảm bảo toàn
lương thực cho xã hội, còn làm thức ăn cho chăn nuôi và dư thừa để xuất khẩu.
Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích lớn nhất, chiếm 50% tổng diện tích
trồng lúa cả nước và do đó chiếm 50% tổng sản lượng cả nước.Vùng có diện tích
thấp nhất là các vùng miền núi, nhất là hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên có diện
tích dưới 200 ngàn ha và sản lượng chỉ đạt khoảng 500-700 tấn. Sản lượng bình
quân cao nhất tập trung ở đồng bằng sông Hồng 45,8 triệu tấn, sản lượng bình quân
thấp nhất tập trung ở vùng Tây Bắc 35,7 triệu tấn.
1.1.1.3 Các giai đoạn phát triển của cây lúa
Theo Đinh Thế Lộc (2006) cây lúa phát triển gồm các giai đoạn sau:

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


- Giai đoạn nẩy mầm
- Giai đoạn mạ
- Giai đoạn bén rễ hồi xanh
- Giai đoạn đẻ nhánh
- Giai đoạn làm đốt làm đòng
- Trổ bông nở hoa

- Giai đoạn chín
1.1.2 Thực trạng sử dụng nước tưới cho lúa
Theo Đỗ Hồng Quân (2008) các hiện tượng chính gây lãng phí, thất thoát
nước tưới, bao gồm:
- Tổn thất trong quá trình dẫn nước từ công trình đầu mối đến mặt
ruộng, do ngấm, kênh bị bồi lắng, sạt lở... cản trở dòng chảy, thiếu các công
trình điều tiết nước cho từng khu tưới.
- Tưới ngập thường xuyên: Đây là biện pháp tưới truyền thống, phù
hợp tưới cho lúa. Tuy nhiên, theo kết quả nhiều công trình nghiên cứu, việc
tưới nước cho cây lúa theo quy trình “nông, lộ, phơi” sẽ mang lại hiệu quả
kinh tế nhất, tức là có những thời kỳ chúng ta hạn chế cấp nước mà phải để
lộ ruộng và phơi ruộng theo yêu cầu sinh trưởng của cây trồng. Việc tưới
ngập thường xuyên suốt vụ theo tập quán của nông dân đã gây ra lãng phí
nước rất lớn, chưa kể tình trạng lượng nước dư thừa từ ruộng chảy xuống
kênh tiêu
- Chưa có biện pháp tích cực hạn chế bốc hơi mặt thoáng: Đây là hiện
tượng tự nhiên cũng gây tổn thất nước rất lớn, ví dụ: tổng lượng bốc hơi bình
quân tại trạm Tuyên Quang là 1.193,9 mm/năm, lượng mưa là 1.145,8

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


mm/năm; tại trạm Phan Rang – Ninh Thuận, tổng lượng nước bốc hơi bình
quân là 1.730 mm/năm, trong khi đó lượng mưa có 815 mm/năm.
- Tưới tràn, vượt quá khu vực cây trồng có khả năng sử dụng được
nước tưới
- Tưới quá nhiều làm nước thấm quá sâu so với chiều sâu bộ rễ cây
trồng: Cây trồng chỉ có khả năng hấp thụ nước trong phạm vi của rễ cây, nếu
chúng ta tưới nhiều, nước sẽ ngấm sâu hơn so với chiều sâu của bộ rễ, gây
lãng phí.

Nguyên nhân là do ý thức sử dụng nước của người nông dân chưa cao: Họ
thường coi nước là ""của trời"", công trình cấp nước đã có Nhà nước đầu tư, bản
thân họ đã đóng thuỷ lợi phí nên họ phải sử dụng cho “đủ”. Kiến thức sử dụng nước
của hầu hết người dân còn nhiều hạn chế, họ không được trang bị kiến thức về yêu
cầu nước tưới theo từng thời kỳ sinh trưởng của cây trồng... dẫn đến tình trạng lấy
nước quá nhiều, dư thừa (Đỗ Hồng Quân, 2008). Người dân có thói quen là mực
nước trong ruộng lúa lúc nào cũng phải đầy, không thể nhỏ hơn 5 - 7 cm ( thường là
7-10 cm ) và chỉ tháo nước làm khô ruộng khi chuẩn bị gặt (Nguyễn Xuân Tiệp,
2005)
1.2 NƯỚC TRONG ĐỜI SỐNG CÂY LÚA
1.2.1 Vai trò của nước
Trong những điều kiện để cây trồng sinh trưởng và phát triển như đất đai,
nước, khí hậu thì nước giữ vai trò quyết định (Hoàng Đức Liên và Nguyễn Thanh
Nam,2000) và là yếu tố hàng đầu (Chu Thị Thơm và ctv ,2005a).Nước thì không
thể thiếu trong đời sống cây trồng (De Datta, 1981). Nước là thành phần chủ yếu
cấu tạo cơ thể, là điều kiện để thực hiện các tiến trình sinh lý trong cây (Nguyễn
Đình Giao và ctv., 1997). Nguyễn Thượng Bằng và Nguyễn Anh Tuấn (2005) cho
rằng nước đóng vai trò từ 60-90% để thực hiện các quá trình quang hợp, vật chất
khoáng phục vụ quá trình quang hợp, cấu thành vật chất hữu cơ, tham gia quá trình
sinh trưởng, phát triển của cây trồng.

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


Bên cạnh đó, nước còn là dung môi đặc hiệu cho các phản ứng sinh hoá xảy
ra trong cây, là môi trường hoà tan tất cả các chất khoáng lấy từ đất và tất cả các
chất hữu cơ trong cây như sản phẩm quang hợp, vitamine, enzyme… (Chu Thị
Thơm và ctv., 2006). Nước có thể điều chỉnh nhiệt độ lá, nhất là khi gặp nhiệt độ
cao, nhờ quá trình thoát hơi nước qua lá mà nhiệt độ bề mặt lá giảm, thoát hơi nước
liên tục thì nhiệt độ của lá chỉ giữ ở mức cao hơn nhiệt độ không khí chút ít. Theo

Lê Văn Hoà và Nguyễn Bảo Toàn (2004), sự thoát hơi nước xua tan gần phân nữa
lượng nhiệt hấp thu từ ánh sáng mặt trời.
1.2.2 Nhu cầu nước của cây lúa
Nhu cầu nước của cây là lượng nước cần thiết để đáp ứng nhu cầu bốc thoát
hơi nước và các hoạt động trao đổi chất của cây trong điều kiện cây trồng sinh
trưởng bình thường, đất không bị hạn chế về nước và chất dinh dưỡng (Chu Thị
Thơm và ctv., 2006; Iwata et al., 1995).
Để sinh trưởng và phát triển, cây lúa cần được cung cấp đồng thời đầy đủ các
yếu tố ánh sáng, nhiệt độ, nước, không khí, chất khoáng. Trong đó, nước, không
khí, chất khoáng là những nguyên liệu để tổng hợp nên chất hữu cơ trong cây nhưng
nước là yếu tố cây trồng phải sử dụng một khối lượng lớn nhất. Để hình thành 1 kg
chất khô, cây lúa cần trên 300 kg nước (Chu Thị Thơm và ctv., 2006)
Mỗi loại cây trồng trong những điều kiện ngoại cảnh nhất định đều có quy
luật cần nước khác nhau. Tìm hiểu được quy luật đó chúng ta mới có khả năng đáp
ứng được nhu cầu sinh lý nước bình thường của chúng, mới có cơ sở lý luận và thực
tiễn đúng đắn để xây dựng chế độ tưới nước thích hợp, đảm bảo cây trồng sinh
trưởng, phát triển tốt, cho năng suất cao. Lượng nước thoát hơi qua lá và lượng
nước bốc hơi khoảng trống có ý nghĩa khác nhau đối với đời sống cây trồng nhưng
trong thực tế đều là lượng nước cần được cung cấp đầy đủ cho cây trồng thông qua
đất (Ngô Đức Thiệu và Hà Học Ngô, 1978)
1.2.2.1 Bốc hơi khoảng trống

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


Là lượng nước bốc hơi từ mặt nước trong ruộng lúa. Lượng nước này bị chi
phối bởi điều kiện thời tiết, khí hậu, địa chất, thủy văn. Nhiệt độ cao và độ ẩm
không khí thấp, gió mạnh là những yếu tố làm tăng cường lượng bốc hơi khoảng
trống (Pathak, 1991). Mặt khác, kỹ thuật canh tác cũng ảnh hưởng trực tiếp đến
lượng bốc hơi khoảng trống, mật độ cây trồng dày, tán cây rậm rạp, đất được che

phủ đều có tác dụng làm giảm lượng bốc hơi này (De Datta, 1981).
Bốc hơi khoảng trống là một quá trình tất yếu xảy ra trong tự nhiên, có tác
dụng điều hòa nhiệt độ đất, tiểu khí hậu đồng ruộng và có ảnh hưởng trực tiếp đến
lượng nước tưới và nhu cầu tưới của cây trồng trên đồng ruộng (Ngô Đức Thiệu và
Hà Học Ngô, 1978). Theo nghiên cứu bốc hơi khoảng trống chiếm khoảng 29%
lượng nước mất trên ruộng lúa vào mùa khô ở Philippines.
1.2.2.2 Thoát hơi nước qua lá
Là quá trình bay hơi nước từ bề mặt lá và các bộ phận khác của cây vào
không khí (Pathak, 1991). Cây trồng sử dụng 98% tổng lượng nước cây hút qua rễ
cho thoát hơi qua lá, chỉ giữ lại 2% để xây dựng các bộ phận của cây (Đào Thế
Tuấn, 1978; Vũ Văn Năm và Nguyễn Hiếu Trung, 2000).
Cây sẽ héo hoặc chết nếu không được cung cấp nước để bù trừ vào lượng
nước mất đi bởi sự thoát hơi. Sự thoát hơi nước chủ yếu xảy ra qua khí khẩu và rất
ít qua cutin. Do đó, sự thoát hơi nước bị chi phối trước tiên bởi sự đóng và mở cửa
khí khẩu (Yoshida, 1981).
1.2.3 Chế độ nước qua các thời kỳ sinh trưởng và phát triển của lúa
Theo Nguyễn Văn Luật (2003), trong cây lúa, nước tồn tại dưới dạng khác
nhau, tuỳ vào từng thời kỳ sinh trưởng mà các dạng nước thay đổi đồng thời tác
dụng của nước cũng khác nhau qua các thời kỳ sinh trưởng
Sau khi gieo cần tạo điều kiện đảm bảo chế độ nước và nhiệt trong đất phù
hợp để hạt lúa nẩy mầm tốt, hạn chế sự nẩy mầm phát triển của cỏ dại. Theo Võ
Tòng Xuân (1984), hạt lúa nẩy mầm tốt trong điều kiện nhiệt độ 27-37oC, độ ẩm đất

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


85-98% độ ẩm tối đa. Nước trong đất và mực nước trên ruộng có quan hệ mật thiết
đến sự sinh trưởng của bộ phận trên mặt đất. Nói chung, chiều cao cây, diện tích lá,
số nhánh và trọng lượng chất khô tăng hoặc giảm tuỳ theo ruộng bão hoà nước, lớp
nước trong ruộng nông hay sâu (Nguyễn Văn Luật, 2003). Thời kỳ gieo đến khi mạ

có 3 lá chế độ nước liên quan đến yếu tố nhiệt độ và oxi. Trong thời kỳ này nếu làm
đất kỹ, bề mặt ruộng tương đối bằng phẳng cần giữ bão hòa nước hay có một lớp
nước nông 2-5cm, bộ rễ lúa dễ phát triển và hút thức ăn thuận lợi. Mặt khác, lớp
nước có thể khống chế cỏ nẩy mầm và sinh trưởng (Nguyễn Văn Luật, 2003; Ngô
Đức Thiệu và Hà Học Ngô, 1978)
Trong thời kỳ đẻ nhánh, nếu thiếu nước thì số bông giảm bớt nhưng sau đó
nếu nước đầy đủ thì hạt chắc sẽ tăng lên nên tác hại cũng ít. Theo Nguyễn Văn
Hoan (1999), sau khi lúa đẻ nhánh rộ nếu cần tăng cường sự đẻ nhánh thì rút cạn
nước chỉ giữ vừa đủ bùn mềm trong 4-5 ngày. Giun trong ruộng hoạt động mạnh,
đùn mùn đều, cây lúa sinh thêm một lớp nhánh lúc đó cần đưa nước trở lại mức 56cm để các nhánh đã đẻ lớn lên. Giai đoạn từ đẻ nhánh rộ đến đứng cái, để loại trừ
các nhánh vô hiệu giúp cây lúa tập trung chất dinh dưỡng nuôi các nhánh còn lại,
các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng hạn chế nhánh vô hiệu bằng tháo cạn nước
hoặc tưới sâu đều cho năng suất cao, nhưng tháo cạn có tác dụng tốt hơn.
Lượng nước trong đất nhiều hay ít có ảnh hưởng đến sinh trưởng của bộ rễ.
Sự phân phối chất khô trong cây lúa thay đổi theo tỉ lệ nước trong đất. Trong ruộng
lúa tầng đất mặt nhiều nước, chất dinh dưỡng và oxi nên thời kỳ mạ đến phân hoá
đòng rễ lúa thường phân bố ở tầng trên. Sau đó cùng với quá trình sinh trưởng, hệ rễ
ăn sâu hơn vì nước tưới đưa chất dinh dưỡng và khí oxi xuống sâu hơn làm cho lớp
đất cũng dần dần tốt lên, rễ lại phát triển sâu xuống tầng đất dưới. Sự phân bố của rễ
lúa, ngoài ảnh hưởng của tính di truyền còn phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ đất, độ
sâu tầng canh tác, chiều sâu lớp đất cày, sự chuyển động của nước xuống dưới sâu,
lượng oxi trong đất, độ sâu bón phân và tình hình tưới tiêu nước (Nguyễn Văn Luật,
2003).

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


Trong thời kỳ phát triển bông hạt, nhất là từ làm đòng đến trổ phơi màu, cây
lúa thoát hơi mạnh nhất, cho nên nhu cầu nước của cây lúa rất cao. Thiếu nước dù
chỉ trong một thời gian ngắn cũng đã làm giảm năng suất rõ rệt. Không có lớp nước

hoặc lớp nước sâu (20-25 cm) thì trọng lượng khô thân, lá, hạt đều giảm so với lớp
nước nông 3-5 cm. Lớp nước nông đảm bảo đủ lượng nước cần thiết cho lúa và
nhiệt độ được điều hòa, kích thích rễ lúa ăn sâu và đâm ngang, hút được nhiều chất
dinh dưỡng hơn. Theo Van de Goor (1950) giai đoạn này cây lúa có nhu cầu nước
cao nhất và cần có lớp nước ngập trên ruộng. Matsushima (1962) cho rằng lúa rất
nhạy cảm với đất có ẩm độ thấp vào giai đoạn 20 ngày trước và 10 ngày sau tượng
khối sơ khởi. Khi ẩm độ đất xuống dưới 60 % độ ẩm tối đa thì lúa bị nghẹn đòng
(Nguyễn Văn Luật, 2003). Trong thời kỳ này thiếu nước sẽ ảnh hưởng đến việc
phơi màu, thụ tinh, số hạt lép trên một bông tăng lên. Giai đoạn giảm nhiễm đến trổ
bông cây lúa rất nhạy cảm nếu bị thiếu nước (Trương Dích, 2000). Nếu thiếu nước
thì việc hình thành tế bào sinh sản gặp khó khăn, số hạt chắc giảm xuống, số hạt
trên bông, trọng lượng hạt đều giảm xuống.
Thời kỳ lúa trổ đến chín, với việc hình thành bông, các chất dinh dưỡng
trong cây lúa được phân phối lại nên thời kỳ này nước có một tác dụng đặc biệt
quan trọng, thiếu nước, bông phát triển không bình thường. Sau khi thụ tinh hoạt
động sinh lý trong cây lúa thay đổi, chất hữu cơ và chất vô cơ được chuyển nhanh
về tập trung vào hạt. Sau khi tập trung vào hạt, các chất đó lại bắt đầu tích lũy nên tỉ
lệ nước giảm xuống rất mạnh. Thời gian đầu, tỉ lệ nước trong hạt lúa rất cao, rồi
giảm dần cùng với quá trình tích lũy chất khô và đến khi gần chín, trong hạt đạt một
tỉ lệ nước nhất định. Lượng nước tuyệt đối trong cây tăng lên cùng với thời kỳ sinh
trưởng đạt đến mức độ tối đa khi trổ rồi lại giảm xuống (Nguyễn Văn Luật, 2003).
Vì vậy, thời kỳ này cây thiếu nước sẽ ảnh hưởng lớn đến độ mẩy của hạt, trọng
lượng hạt và năng suất sẽ giảm. Nhưng nếu giữ lớp nước trên ruộng trong suốt thời
kỳ này thì lúa chín chậm, hàm lượng nước trong hạt cao, chất lượng sản phẩm
không tốt. Theo Bùi Huy Đáp (1977), rút nước khi bông lúa đỏ đuôi sẽ làm lúa chín
nhanh, chín đều, thuận lợi cho công tác thu hoạch trên đồng ruộng, thường rút vào
khoảng 15-20 ngày trước khi gặt.

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version



Khi thiếu nước tất cả các chức năng sinh lý trong cây như quang hợp, hô hấp,
dinh dưỡng khoáng, các hoạt động sống có thể bị xáo trộn (Lê Văn Hòa, 2006). Các
triệu chứng thông thường nhất của sự thiếu nước là sự cuốn lá, sự héo khô lá, sự
đâm chồi bị tổn hại, sự lùn, sự chậm trổ hoa, sự bất thụ gié hoa, sự chắc hạt không
hoàn toàn (Yoshida, 1981).
Nước vừa là yếu tố gia tăng năng suất vừa là yếu tố hạn chế năng suất số một
đối với các vùng trồng lúa nhờ nước trời. Thiếu nước ở mọi giai đoạn đều ảnh
hưởng đến năng suất lúa. Thiếu nước thì phổ biến ở các diện tích trồng lúa ở những
nước đang phát triển (Huke et al., 1990).
1.2.4 Ảnh hưởng của sự ngập nước liên tục đến năng suất lúa
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hữu Chiếm và ctv. (1999) về ảnh hưởng của
sự ngập nước liên tục trên lúa ở 3 nhóm ruộng có thời gian canh tác lúa 3 vụ khác
nhau (dưới 8 năm, từ 8-15 năm và trên 15 năm ) thì năng suất lúa có chiều hướng
giảm dần theo thời gian canh tác ở cả 3 vụ ĐX, HT và TĐ; đồng thời muốn ổn định
năng suất cần phải tăng lượng phân bón vào .
Cassman và Descalsota (1992) đã kết luận rằng, năng suất lúa giảm mỗi năm
từ 50-240kg/ha theo thời gian canh tác liên tục trong gần 30 năm ở những thí
nghiệm thâm canh lúa ở Philippines và Ấn Độ. Sự giảm năng suất xảy ra không chỉ
ở những thí nghiệm có bón đầy đủ NPK và vi lượng mà còn trên cả những nghệm
thức đối chứng không bón N hoặc không bón NPK. Không có trường hợp gia tăng
năng suất theo thời gian canh tác kể cả khi thay thế những giống cũ bằng giống mới
có tiềm năng năng suất cao hơn. Giảm năng suất ngoài những yếu tố do giống, bức
xạ mặt trời còn do những yếu tố khác của đất như: sự mất cân đối về dưỡng chất,
ngộ độc hữu cơ, sự thay đổi hệ vi sinh vật do dùng nhiều thuốc hóa học,…
Ponnamperuma đã ghi nhận hiện tượng suy giảm năng suất lúa trong các thí
nghiệm về giống được thực hiện ở IRRI trong những năm 1966-1978
(Ponnamperuma, 1979).Hiện tượng giảm năng suất được Flinn và ctv. báo cáo đầu
tiên vào năm 1982 dựa vào chiều hướng năng suất của các giống cao sản trong các


PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


thí nghiệm đáp ứng N dài hạn ở IRRI. Sau đó Flinn và De Datta đã mở rộng phân
tích để đánh giá hướng năng suất do giống cao sản cho 4 vùng thí nghiệm đáp ứng
N khác nhau và cho thấy có một chiều hướng năng suất giảm có ý nghĩa xảy ra ở
IRRI cả trong mùa khô và mùa mưa. Mức độ giảm năng suất xảy ra trên các nghiệm
thức bón N, gồm có lô đối chứng không bón N. Năng suất giảm được xác định từ
90-169 kg hạt/ha/năm (Ngô Ngọc Hưng trích 2004)
Hiện tượng suy giảm năng suất được Dawea và ctv.(2000) đúc kết như sau:
- Giảm sự cung cấp N từ đất do giảm hàm lượng chất hữu cơ trong
đất.Giảm cung cấp N từ đất do các thay đổi về thành phần chất hữu cơ đất.
Sự giảm cung cấp N từ đất có thể do sự gia tăng hàm lượng phenol trong
thành phần chất hữu cơ đất hoặc những phần tử acid humic, điều này làm bất
động chất N hữu dụng hoặc làm giảm tốc độ khoáng hóa. Với sự gia tăng
vòng quay của đất lúa (tăng yếm khí do ngập nước dài hạn hơn) càng nhiều
lignin được tích lũy, hàm lượng phenolic trong chất hữu cơ gia tăng, và mức
độ mùn hóa sẽ giảm.
- Sự thiếu P: Hàm lượng P hữu dụng trong đất thấp được ghi nhận
làm giảm năng suất ở 5 thí nghiệm dài hạn.
- Sự thiếu K: Trong nhiều thí nghiệm dài hạn, không có sự tương
quan rõ ràng giữa sự giảm hàm lượng K trong đất và giảm năng suất , điều
này do không có sự đánh giá xuyên suốt và đồng thời có nhiều yếu tố làm
năng suất lúa biến động .
- Sự thiếu các nguyên tố trung lượng và vi lượng: Qua nghiên cứu các
thí nghiệm dài hạn, các nguyên tố như S, Zn, Ca, Mg, Fe, Cu, hoặc Si không
được thấy rõ các ảnh hưởng trên sự giảm năng suất .
Tóm lại, sự ngập nước dài hạn không có thời gian bỏ hóa để cho đất khô, sự
kiệt quệ P và K trong đất được ghi nhận đưa đến sự giảm năng suất của 11 điểm thí
nghiệm. Sự giảm năng suất do thiếu dưỡng chất có lẽ gây ít rắc rối hơn vì nó dễ

được hiệu chỉnh bằng việc cải thiện chế độ, quản lý đất, cây trồng. Ở vài điểm thí

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


nghiệm sự giảm năng suất có thể tệ hại hơn do yếu tố cục bộ như là sử dụng nước
tưới có phẩm chất kém hoặc là sự rối loạn dưỡng chất .
1.2.5 Sự cân bằng nước trên ruộng
Chế độ nước của đất được tạo nên bởi tất cả các nguồn nước vào đất, sự lưu
trữ lại trong tầng đất, tiêu hao thất thoát được sử dụng bởi cây trồng. Đánh giá chế
độ nước của đất thông qua sự cân bằng nước (Iwata et al., 1995 và Hillel, 1990).
Cân bằng nước được thể hiện bởi nguồn nước ra và vào trong đất. Nguồn nước vào
gồm: nước mưa, nước hút ẩm của đất từ không khí, nước ngầm. Ngồn ra: sự bốc hơi
nước, thoát hơi nước qua thân lá cây trồng, nước thấm lậu xuống tầng sâu (Dương
Minh Viễn, 2006).
Cân bằng nước trong đất là phương pháp tính toán giữa lượng nước tự nhiên
có khả năng cung cấp cho cây trồng và lượng nước bị hao đi từ đất trong quá trình
sinh trưởng của cây trồng. Bằng phương pháp cân bằng nước trong đất trong từng
thời gian ngắn, qua các thời kỳ sinh trưởng của cây trồng ta có thể biết được độ ẩm
dự trữ trong đất đối với ruộng cao (lúa rẫy) hoặc sự thay đổi độ sâu lớp nước trên
ruộng (lúa ngập nước) trong thời gian tương ứng có thỏa mãn nhu cầu nước của cây
trồng hay không và từ đó quyết định sự cần thiết phải tưới hay tiêu nước trên đồng
ruộng (Ngô Đức Thiệu và Hà Học Ngô, 1978). Nếu hiệu số giữa tổng lượng nước
vào và lượng nước ra vẫn ở trong giới hạn độ ẩm thích hợp cho cây trồng thì trong
thời gian này không cần tưới. Ngược lại nếu hiệu số này nhỏ hơn độ ẩm thích hợp
nhỏ nhất thì cây trồng phải được tưới.
Để đánh giá khả năng giữ nước và cung cấp nước của đất cho cây trồng,
người ta xác định được các đại lượng sau:
- Độ ẩm bảo hòa: là độ ẩm lớn nhất của đất. Ở trang thái này nước
chiếm tất cả các khe rổng trong đất. Độ ẩm này chỉ xuất hiện khi có lượng

nước lớn do mưa hoặc tưới (Hoàng Đức Liên và Nguyễn Thanh Nam, 2000).

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


- Độ ẩm tối đa : là độ ẩm tương ứng với khả năng giữ nước lớn nhất
của đất. Khả năng này phụ thuộc vào tính chất vật lý của đất và mực nước
ngầm (Ngô Đức Thiệu và Hà Học Ngô, 1978).
- Độ ẩm hữu hiệu là độ ẩm đảm bảo cho cây trồng có thể hút được
nước, cây trồng duy trì sự sống và phát triển. Nó được xác định bằng hiệu số
giữa ẩm độ tối đa và độ ẩm héo, độ ẩm héo là độ ẩm của đất mà ở đó cây bị
héo vĩnh viễn (Dương Minh Viễn, 2006).
Sự cân bằng nước trong ruộng lúa bao gồm việc đưa nước vào ruộng do sự
tưới tiêu, trời mưa và sự mao dẫn đưa nước lên mặt ruộng từ mạch nước ngầm và sự
mất nước do sự bốc hơi nước từ mặt ruộng, bốc thoát hơi nước qua tán cây, rò rỉ,
trực di.
1.2.6 Sự mất nước trên ruộng lúa
Trong quá trình sinh trưởng phát triển của lúa, lớp nước trên ruộng luôn luôn
có sự thay đổi trong một phạm vi nhất định (Nguyễn Văn Luật, 2003). Sự thay đổi
này là do xảy ra sự mất nước trên ruộng. Sự mất này bao gồm: sự bốc thoát hơi
nước, sự thấm lậu, rò rỉ và sự chảy tràn (Yoshida, 1981).
1.2.6.1 Sự bốc thoát hơi nước
Bốc thoát hơi vừa là quá trình sinh lý, vừa là một quá trình vật lý chịu ảnh
hưởng của điều kiện sống và quan hệ chặt chẽ với sự sinh trưởng của cây trồng
(Ngô Đức Thiệu và Hà Học Ngô, 1978). Sự bốc thoát hơi nước của cây trồng chịu
ảnh hưởng của điều kiện thời tiết như nhiệt độ, độ ẩm không khí, tốc độ gió, độ ẩm
đất và khả năng cung cấp dinh dưỡng của chúng. Trong một giới hạn thích hợp, độ
ẩm đất càng cao, khả năng cung cấp nước cho cây trồng càng dễ dàng thì lượng bốc
thoát hơi càng tăng. Các phương pháp kỹ thuật tưới cũng ảnh hưởng đến bốc thoát
hơi, tưới ẩm bốc thoát hơi nhỏ hơn tưới ngập, tưới nông bốc thoát hơi ít hơn tưới

sâu (Nguyễn Văn Luật, 2003).

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


Sự bốc hơi nước xuất phát từ bề mặt nước trên đồng ruộng hoặc đất. Sự bốc
thoát hơi nước từ tán cây bởi cây luá hút nước từ trong đất. Sự bốc hơi nước từ mặt
ruộng và bốc thoát hơi nước từ tán cây khó để phân biệt đánh giá trên đồng ruộng,
chúng luôn luôn cùng xảy ra với nhau. Do đó được gọi là sự “bốc thoát hơi nước”.
Tốc độ bốc thoát hơi nước tiêu biểu trên ruộng lúa 4-5 mm/ngày trong mùa mưa, 67 mm/ngày trong mùa khô, nhưng có thể cao hơn 10-11 mm/ngày trong những vùng
cận nhiệt đới. Trong quá trình bốc thoát hơi nước có khoảng 30-40% là sự bốc hơi
nước từ bề mặt ruộng (Bouman et al., 2005).
1.2.6.2 Sự thấm lậu, rò rỉ
Thấm lậu là sự di chuyển của nước theo chiều thẳng đứng ở phía dưới vùng
rễ. Tốc độ thấm lậu nước trên ruộng lúa ảnh hưởng bởi sự biến động của các nhân
tố đất (Wickham và Singh, 1978): cấu trúc, kết cấu, mật độ kích thước, khoáng vật
học, vật chất hữu cơ nồng độ và dạng muối trong đất.
Lượng nước mất do thấm lậu là lượng nước mất theo quy luật tự nhiên khi
tầng đất nuôi cây bảo hòa nước và trên ruộng có một lớp nước nhất định (Nguyễn
Văn Luật, 2003). Thấm lậu lớn, nhu cầu nước sẽ lớn và làm mất nhiều dưỡng chất.
Nhưng trong chừng mực nào đó, thấm lậu nhỏ có thể xem là có ích, nó có thể cung
cấp không khí cho đất, đào thải các chất không hữu dụng (Ishihara, 1967). Thấm
lậu biến động ruộng và bị ảnh hưởng bời nhiều nhân tố như cấu trúc đất, độ sâu tầng
canh tác…(Iwata et al., 1995). Sugimoto (1969), cho rằng thấm lậu có liên quan đến
năng suất, năng suất lúa ở đất có mức thấm lậu 10 mm/ngày cao hơn ở đất có mức
thấm lậu 20 mm/ngày.
Sự thấm lậu xảy ra theo hướng thắng đứng, còn nước mất do sự rò rỉ chảy
theo chiều ngang qua bờ. Sự rò rỉ là sự mất nước ở phía bên dưới bờ đất của ruộng
lúa. Tốc độ rò rỉ có ảnh hưởng bởi đặc tính lý học của đất trên ruộng và bờ ruộng,
bởi tình trạng giữ gìn và độ cao của bờ ruộng, và bởi độ sâu mực nước trong ruộng

và dòng chảy, rảnh mương hoặc sông rạch (Wickham và Singh, 1978). Độ ngập sâu
của nước càng lớn dễ dàng tạo ra tốc độ rò rỉ cao ( \Wickham và Singh, 1978).
Nước mất do rò rỉ là quan trọng ở nhiều vùng canh tác lúa (Pathak, 1991).

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


Nước mất đi bởi rò rỉ và trực di ước tính khoảng 25-50% tổng lượng nước
đưa vào đối với đất nặng với mực nước ngầm nông 20-25 cm (Cabangon et al.,
2004; Dong et al., 2004), và 50-85% đối với đất có kết cấu kém với mực nước
ngầm sâu 1,5m hoặc sâu hơn nữa.
Sự thấm lậu và sự rò rỉ hợp với nhau tạo thành số đo khả năng giữ nước trên
ruộng, khả năng giữ nước được xác định bởi chiều cao của bờ ở ruộng đất thấp và
bởi độ dốc và sự gồ ghề của mặt đất ở ruộng đất cao (Yoshida, 1981).
1.2.6.3 Sự chảy tràn
Sự chảy tràn bề mặt xảy ra khi chế độ nước vượt quá khả năng giữ nước bề
mặt. Sự chảy tràn bề mặt thì rất lớn vào mùa mưa, nó hiện diện ở hầu hết diện tích
canh tác lúa (Pathak, 1991).
1.2.7 Hiệu quả sử dụng nước trên lúa
Hiệu quả sử dụng nước (water productivity – WP) là khái niệm của một phần
sức sản xuất và biểu thị tổng giá trị hoặc giá trị sản phẩm (trong trường hợp hạt lúa)
trên khối lượng hoặc giá trị nước được sử dụng. Sự không nhất quán là giá trị hiệu
quả sử dụng nước của lúa biến động lớn được ghi nhận trong báo cáo (To Phuc
Tuong, 1999). Có một phần vì sự biến động lớn trên năng suất lúa (thông thường
được báo cáo biến động từ 3-8 tấn trên hecta). Nhưng sự không nhất quán này cũng
là nguyên nhân bởi sự hiểu biết khác nhau của mẫu thức (nước được sử dụng) trong
tính toán hiệu quả sử dụng nước. Để tránh sự nhầm lẫn được gây ra bởi sự giải thích
khác nhau và sự tính toán hiệu quả sử dụng nước cần tham khảo một số định nghĩa
hiệu quả sử dụng nuớc (kg hạt/kg nước):
- WPT (Water productivity-transpiration): trọng lượng hạt trên trọng

lượng nước bốc thoát trên tán cây (được hiểu là thoát hơi nước hữu dụng)
- WPET (Water productivity-evapotranspiration): trọng lượng hạt trên
trọng lượng nước bốc thoát trên bề mặt của nước và tán cây.

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


- WPI (Water productivity-irrigation): trọng lượng hạt trên trọng
lượng nước tưới vào ruộng.
- WPIR (Water productivity-irrigation-rain): trọng lượng hạt trên trọng
lượng nước tưới và nước mưa vào ruộng.
Trong khi nhà chọn giống quan tâm đến hiệu quả sử dụng nước của tổng số
lượng nước được thoát qua tán lá (WPT), nông dân và người quản lý nước thì quan
tâm đến sự tối ưu sức sản xuất của nước tưới (WPI). Người lập kế hoạch nguồn
nước địa phương thì quan tâm đến tổng lượng thực phẩm được sản xuất bởi tổng
các nguồn nước (nước mưa và nước tưới) trong vùng, hiệu quả sử dụng nước đối
với tổng lượng nước đưa vào bởi nước tưới và nước mưa (WPIR) hoặc tổng lượng
nước mà không được sử dụng lại nữa (WPET) có thể là thích đáng hơn.
Các giống lúa cải tiến, được trồng trong điều kiện ngập nước hiệu quả sử
dụng nước tương tự như sự bốc thoát hơi nước (WPT) các cây ngũ cốc khác thuộc
nhóm C3 như lúa mì, khoảng 2 kg hạt/m3 nước thoát hơi qua tán lá (Bouman và
tuong, 2001; To Phuc Tuong et al., 2005). Một vài dữ liệu có giá trị chỉ ra rằng hiệu
quả sử dụng nước đối với bốc thoát hơi nước cả mặt ruộng lẫn tán cây cũng tương
tự cây lúa mì biến động từ 0,6 đến 1,6 kg hat/m3 nước, với mức trung bình 1,1 kg
hat/m3 (To Phuc Tuong et al., 2005; Zwart và Bastiaanssen, 2004). So sánh với lúa
mì, tốc độ bốc hơi nước của ruộng lúa cao hơn ruộng lúa mì, hình như được đền bù
lại là năng suất lúa cao hơn. Đối với bắp là cây C4, hiệu quả sử dụng nước trên khía
cạnh bốc thoát hơi nước (evapotranspiration) thì cao hơn, biến động từ 1,1 đến 2,7
kg hạt/m3 nước, với mức trung bình là 1,8 kg hạt/m3. Hiệu quả sử dụng nước đối
với lúa về mặt tổng lượng nước đưa vào (nước tưới và nước mưa) biến động từ 0,2

đến 1,2 kg hạt/m3 nước, giá trị trung bình là 0,4 nhỏ hơn hai lần so với lúa mì (To
Phuc Tuong et al., 2005). Khái niệm hiệu quả sử dụng nước trở thành quan trọng
khi nước ngày càng khan hiếm.
1.3 QUẢN LÝ NƯỚC TƯỚI CHO CÂY
1.3.1 Các giải pháp giảm mức tưới

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


Theo chu thị Thơm và ctv., 2006 yêu cầu nước của cây trồng rất khác nhau
tuỳ theo loại cây, mùa vụ, vùng địa lý. Vì nước là nguồn tài nguyên quý, hơn
nữa ở nhiều vùng nguồn nước để tưới cây rất hạn hẹp, do đó phải thực hiện
các giải pháp giảm mức tưới, nhằm:
-

Tiết kiệm tài nguyên nước tránh lãng phí

-

Đảm bảo đủ nước cần thiết để tưới cho cây nhằm thu được năng
suất cao

-

Cải tạo môi sinh và giữ độ ẩm cho đất

-

Dựa vào từng loại cây, từng loại đất, thời vụ và vùng mà giảm
lượng mức tưới tránh bốc hơi nhiều, chọn thời vụ và cơ cấu gieo

trồng hợp lý.

Tưới cho hoa màu khoảng 0,4% - 0,6% mức tưới của lúa. Cùng là lúa nhưng
giống lúa khác nhau yêu cầu mức tưới khác nhau. Viện Khoa học thuỷ lợi đã có
nghiên cứu về giống lúa chịu hạn CH133 và CH185 của viện Khoa học Nông nghiệp
tại Hà Tây và Sơn La cho kết quả đáng chú ý.
Đã thí nghiệm phương pháp tưới ngập và tưới ẩm. Kết quả cho thấy giống
lúa chịu hạn thích hợp với kỹ thuật tưới ẩm. Tưới ẩm lượng nước tưới giảm đáng
kể, chỉ bằng 50% mức tưới ngập.
Tiết kiệm nước bằng cách giảm mức tưới là lựa chọn chế độ phân phối tối ưu
hay thích hợp để mức độ giảm năng suất và giá trị sản lượng là tối thiểu. Vấn đề này
đã được quan tâm nghiên cứu nhiều nơi trên thế giới và nhiều mô hình đánh giá
mức độ giảm năng suất do thiếu nước đã được đưa ra, trong đó mô hình của Hill
(còn gọi là mô hình Jensen) được sử dụng nhiều hơn cả. Mô hình này đưa ra mối
quan hệ tương đối giữa năng suất tương đối của cây trồng với tỉ lệ giữa bốc thoát
hơi thực tế trên bốc thoát hơi nước tiềm năng trong các giai đoạn sinh trưởng của
cây trồng…
1.3.2 Tiết kiệm nước tưới cho lúa

PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version


×