Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Vận dụng những lý thuyết về nguyên tắc phát triển bền vững để phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.49 KB, 24 trang )

Mở đầu
Nông nghiệp bền vững là vấn đề thời sự được nhiều nhà khoa học thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau quan tâm, như: nông học, sinh thái học, xã hội học…
Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau, trong đó đáng quan tâm là định nghĩa của
tổ chức sinh thái và môi trường thế giới (WORD) bởi tính tổng hợp và khái quát
cao: nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thoả mãn được các yêu cầu của
thế hệ hiện nay, mà không giảm khả năng ấy đối với các thế hệ mai sau. Điều đó
có nghĩa là nền nông nghiệp không những cho phép các thế hệ hiện nay khai
thác tài nguyên thiên nhiên vì lợi ích của họ mà còn duy trì được khả năng ấy
cho các thế hệ mai sau, cũng có ý kiến cho rằng sự bền vững của hệ thống nông
nghiệp là khả năng duy trì hay tăng thêm năng suất và sản lượng nông sản trong
một thời gian dài mà không ảnh hưởng xấu đến điều kiện sinh thái. Như vậy,
nền nông nghiệp bền vững phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản là: đảm bảo
nhu cầu nông sản của loài người hiện nay và duy trì được tài nguyên thiên nhiên
cho các thế hệ mai sau, bao gồm gìn giữ được quỹ đất, quỹ nước, quỹ rừng,
không khí và khí quyền, tính đa dạng sinh học v.v… Xây dựng nền nông nghiệp
bền vững là việc làm cấp thiết và là xu hướng tất yếu của tiến trình phát triển.
Ở Việt Nam, nhận thức rõ vai trò quan trọng phát triển nông nghiệp theo
hướng bền vững, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Trong 5 năm tới,
tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh, bền vững”.
Như vậy, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững theo tinh thần Đại
hội XII chính là quá trình nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất
nông nghiệp, trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, sử dụng hợp lý các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, giải quyết tốt các vấn đề xã hội gắn với bảo vệ
môi trường sinh thái, nhằm thỏa mãn các nhu cầu về lương thực, thực phẩm,
nguyên liệu cho sản xuất của xã hội, cả trong hiện tại và tương lai.
Mục đích phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững được Đại hội XII
xác định là kiến tạo một nền sản xuất nông nghiệp bền vững cả về mặt lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất gắn với bảo vệ môi trường; có tốc độ tăng trưởng,
năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày càng cao một cách


vững chắc; có mô hình sản xuất kinh doanh bền vững, đáp ứng ổn định lương
thực, thực phẩm, nguyên liệu cho sản xuất và tiêu dùng trong nước, xuất khẩu cả
trước mắt và lâu dài.
Trên tinh thần đó, Nhóm 1 xây dựng bài thảo luận về vấn đề: “Vận dụng
những lý thuyết về nguyên tắc phát triển bền vững để phân tích thực trạng
phát triển nông nghiệp ở Việt Nam”

1


PHẦN I: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
BỀN VỮNG
1. Một số khái niệm liên quan
- Phát triển bền vững là sự phát triển trong đó lồng ghép các quá trình sản
xuất với bảo tồn tài nguyên và làm tốt hơn về môi trường, đảm bảo thỏa mãn
những nhu cầu hiện tại mà không làm phương hại đến khả năng đáp ứng những
nhu cầu của tương lai.
- Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được yêu cầu của hiện tại,
nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. (Hội
đồng thế giới về môi trường và Phát triẻn của Liên hợp quốc - WCED)
- Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý
và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển gồm: phát triển kinh tế (đặc biệt là tăng
trưởng kinh tế), phát triển xã hội (đặc biệt là tiến bộ xã hội, công bằng xã hội,
giảm nghèo và giải quyết công ăn việc làm) và bảo vệ môi trường (đặc biệt là xử
lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng
chống cháy và chặt phá rừng, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên).
- Nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thỏa mãn được yêu cầu của thế
hệ hiện tại mà không làm giảm khả năng thỏa mãn yêu cầu của thế hệ mai sau
(Tổ chức sinh thái và môi trường Thế giới – WORD)

- Nền nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp phải đáp ứng được 2 yêu
cầu cơ bản: Đảm bảo đáp ứng cầu nông sản hiện tại và duy trì được tài nguyên
thiên nhiên cho các thế hệ mai sau (bao gồm: gìn giữ quỹ đất, nước, rừng, không
khí, khí quyển và tính đa dạng sinh học…..)
Nông nghiệp bền vững là phạm trù tổng hợp, vừa đảm bảo các yêu cầu về
sinh thái, kỹ thuật vừa thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
- Mục đích của nông nghiệp bền vững là: Tạo ra một hệ sinh thái bền vững,
có tiềm lực kinh tế, thỏa mãn nhu cầu của con người mà không làm hủy hoại
môi trường sống. Hay chính là việc thỏa mãn nhu cầu hiện tại mã không lảm ảnh
hưởng đến nhu cầu của thế hệ mai sau.
Nông nghiệp bền vững tạo ra một hệ sinh thái nông nghiệp sản xuất lương
thực, thực phẩm cho con người, thức ăn cho chăn nuôi nhiều hơn so với hệ sinh
thái tự nhiên.Nông nghiệp bền vững không chỉ bảo vệ những hệ sinh thái có sẵn
trong tự nhiên mà còn tìm cách khôi phục những hệ sinh thái đã bị suy thoái.
2. Tầm quan trọng của phát triển nông nghiệp bền vững trong nền
kinh tế Việt Nam
2


Với khoảng hơn 70 % dân số là nông dân, Việt Nam luôn coi trọng những
vấn đề liên quan đến nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Nền kinh tế Việt
Nam trong hơn 20 năm Đổi mới vừa qua (1986-2008) đã đạt được nhiều thành
tựu phát triển khả quan. Trong lĩnh vực nông nghiệp, sản lượng các loại nông
sản đều tăng, nổi bật nhất là sản lượng lương thực đều tăng với tốc độ cao từ
năm 1989 đến nay. Năm 1989 là năm đầu tiên sản lượng lương thực vượt qua
con số 20 triệu tấn, xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 310 triệu USD.
Đến năm 2008 vừa qua sản lượng lương thực đã đạt đến con số kỷ lục 39 triệu
tấn và đã xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 1,7 tỷ USD.
Từ một nước thường xuyên thiếu và đói, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn
lương thực của nước ngoài, hơn thập niên qua đã trở thành nước xuất khẩu gạo

đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan). GDP trong lĩnh vực nông nghiệp bình
quân hàng năm tăng 3,3%. Thu nhập và đời sống nhân dân ngày càng cải thiện
hơn, tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm bình quân 1,5% năm; bộ mặt nông thôn
thay đổi theo hướng văn minh; trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhiều
nông dân được nâng lên cao hơn trước.
Nông nghiệp ngày càng có nhiều đóng góp tích cực hơn vào tiến trình phát
triển, hội nhập của kinh tế cả nước vào nền kinh tế toàn cầu. Năm 1986, kim
ngạch xuất khẩu nông-lâm-thuỷ sản mới đạt 400 triệu USD. Đến năm 2007 đã
đạt tới 12 tỷ USD, tăng gấp 30 lần. Nhờ có những thành tựu, kết quả đó, nông
nghiệp không chỉ góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị-xã hội nông
thôn và nâng cao đời sống nông dân trên phạm vi cả nước, mà nông nghiệp đã
ngày càng tạo ra nhiều hơn nữa những tiền đề vật chất cần thiết, góp phần tích
cực vào sự đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
trong những năm qua.
Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình CNH-HĐH đất
nước theo định hướng XHCN đều khẳng định tầm vóc chiến lược của vấn đề
nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính vì vậy, Đảng ta luôn đặt nông nghiệp,
nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng
để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc
phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.

3


PHẦN 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1.

Thực trạng phát triển nông nghiệp ở Việt Nam


- Sản xuất nông lâm ngư nghiệp tăng trưởng ổn định
Gần đây, tình hình kinh tế có khó khăn do bị tác động của khủng hoảng và
suy thoái kinh tế thế giới, Nông nghiệp Việt Nam ngày càng rõ vai trò là trụ đỡ
của nền kinh tế, tiếp tục có mức tăng trưởng ổn định. Sản lượng nông sản ngày
càng tăng, không những đáp ứng được vấn đề an ninh lương thực trong nước mà
còn xuất khẩu ra nước ngoài.
Bảng 1: GDP các ngành kinh tế vào tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
giai đoạn 2011-2015 (giá so sánh năm 2010)
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
2011
2012
2013
2014
2015
Toàn quốc
2.297.220 2.412.778 2.543.596 2.696.796 2.875.856
Nông – lâm – thủy
418.494 435.414
446.905
462.905
473.671
sản
Nông nghiệp
327.030 339.048
346.541
355.551
362.769
Lâm nghiệp
15.404

16.166
17.101
18.272
19.677
Thủy sản
76.060
80.200
83.263
88.701
91.225
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Qua bảng trên có thể thấy đóng góp của các ngành nông, lâm, thủy sản về
giá trị tăng dần qua các năm. Về giá trị thì so với năm 2011 năm 2015 tăng lên
55.177 tỷ đồng của ngành nông, lâm, thủy sản. Trong đó ngành nông nghiệp
tăng lên 35739 tỷ đồng, lâm nghiệp tăng 4273 tỷ đồng 15165 tỷ đồng. Điều này
chứng tỏ rằng đóng góp vào GDP của ngành nông, lâm, thủy sản vẫn chiếm một
giá trị lớn.
Năm 2011, nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP và chiếm 30% giá trị
kim ngạch xuất khẩu quốc gia.
Năm 2012, nông nghiệp vẫn giữ đà tăng trưởng của năm 2011 với giá trị
sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cả nước tăng 3,4%. Trong đó, nông
nghiệp tăng 2,8%, lâm nghiệp 6,4%, thủy sản 4,5%.
Năm 2013, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản cả nước tăng 3,2%.
Trong đó, nông nghiệp tăng 2,3%, lâm nghiệp 6%, thủy sản 4,5%.
Năm 2014,giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,9% so với
năm 2013.

4



Năm 2015 giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,6% so với
năm 2014, bao gồm: Nông nghiệp tăng 2,3%; lâm nghiệp tăng 7,9%; thủy sản
tăng 3,1%.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng
GDP khu vực nông nghiệp và thủy sản ước tính đạt bình quân 3,1%/năm; giá trị
sản xuất tăng bình quân 3,6%/năm.
Từ năm 2010-2014, giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất trồng trọt tăng
1,45 lần, trên 1 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng 1,71 lần.
Giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất trồng trọt đã tăng từ 54,6 triệu
đồng/ha năm 2010 lên 79,3 triệu đồng/ha năm 2014 và khoảng 82-83 triệu
đồng/ha năm 2015; 1 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng từ 103,8 triệu đồng/ha
lên 177,4 triệu đồng/ha, năm 2014 và khoảng 183 triệu đồng/ha năm 2015.
+ Ngành trồng trọt: duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất trên 3,15%/
năm, an ninh lương thực được đảm bảo, các cây công nghiệp, cây ăn quả có lợi
thế cạnh tranh tiếp tục phát triển.
+ Ngành chăn nuôi: tuy không tăng về số lượng đầu con, nhưng giá trị sản
xuất toàn ngành vẫn tăng bình quân gần 3,4%/năm, trọng lượng lợn thịt xuất
chuồng bình quân từ 67,7kg/con năm 2011 lên 70kg/con năm 2014.
Đặc biệt là phương thức chăn nuôi trang trại, công nghiệp tiếp tục phát
triển mạnh, đối với chăn nuôi lợn, phương thức chăn nuôi trang trại, công
nghiệp chiếm 35% đầu con và 43% về sản lượng; tương tự chăn nuổi gia cầm là
30% về đầu con và 40% về sản lượng.
+Ngành thủy sản: hoạt động khai thác thủy sản đã mở rộng quy mô ra xa
bờ hơn nhờ thiết bị hiện đại hơn; diện tích nuôi trồng thủy sản tăng nhanh,
chuyển mạnh theo hướng thâm canh, phát triển đa loài, đa loại hình, đa phương
thức theo hướng thân thiện với môi trường. Ước tính trong giai đoạn 2011-2015
tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt bình quân 4,38%/ năm.
+Ngành lâm nghiệp: đẩy mạnh trồng rừng, đặc biệt là rừng sản xuất, tốc độ
tăng giá trị sản xuất bình quân 5 năm 2011-2015 đạt 6,6%/ năm, vượt chỉ tiêu kế
hoạch (5-6%/năm), tỷ lệ che phủ rừng đạt 40,7%, trồng mới rừng tập trung 1055

ngàn ha.
- Nông nghiệp đóng góp không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 30,5 tỷ USD vào năm 2014 là
năm dấu ấn tăng trưởng ngoạn mục của ngành Nông nghiệp.
Cả giai đoạn 2011-2015, kim ngạch xuất khẩu đã tăng mạnh, tổng
kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt 140,6 tỷ USD, bình quân tăng 9%/năm. So
với năm 2010, tổng kim ngạch đã tăng từ 19,5 tỷ USD lên 30,38 tỷ USD
năm 2014 và 30,14 tỷ USD năm 2015, tăng 54,6%. Có 10 mặt hàng đạt
5


kim ngạch xuất khẩu trên 1,0 tỷ USD (gạo, cà phê, cao su, cá tra, tôm, hạt điều,
hạt tiêu, rau quả, sắn và đồ gỗ).
Việt Nam hiện có hàng chục mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực mang
tầm vóc thế giới, trong đó xuất khẩu hạt tiêu đứng thứ nhất, gạo, cà phê, sắn
đứng thứ hai, cao su đứng thứ tư, thủy hải sản đứng thứ năm, chè đứng thứ bảy
thế giới và nhiều mặt hàng khác nữa. Năm 2010, Việt Nam mới chỉ có 18 thị
trường xuất khẩu đạt hơn 1 tỷ USD, nhưng đến năm 2015 đã tăng lên 28 thị
trường. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của các thị trường hơn 1 tỷ USD,
chiếm gần 90% kim ngạch xuất khẩu chung cả nước.
Mỗi năm Việt Nam xuất khẩu hơn 30 tỷ USD các mặt hàng nông lâm thuỷ
sản
- Một nền nông nghiệp hướng vào sản xuất hàng hóa đã bước đầu
được hoàn thành
Cây công nghiệp lâu năm tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa
phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu nên cơ cấu cây trồng được thay đổi phù
hợp với điều kiện canh tác của từng vùng. Diện tích và sản lượng các loại cây có
giá trị xuất khẩu cao trong nước tăng lên trong giai đoạn này. Ngoài ra, đã xuất hiện
những mô hình sản xuất đạt tiêu chuẩn quốc tế: mô hình sản xuất rau hữu cơ ở Đà
Lat, mô hình sản xuất vải thiều Global Gap,…

- Nông nghiệp tạo việc làm cho một lượng lớn lao động.
Khu vực nông nghiệp đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng
triệu lao động, tiếp tục là ngành chính tạo ra thu nhập cho người nghèo.Năm
2015,trong tổng số 52,5 triệu lao động có việc làm của cả nước, lao động khu
vực nông thôn chiếm khoảng 70,1% (tương ứng khoảng 36,8 triệu người). Tỷ số
việc làm trên dân số của năm 2015 đạt 74,5% trong đó khu vực thành thị chỉ
66,8% còn khu vực nông thôn là 78.4%
Năm 2015, khu vực nông, lâm, thủy sản chiếm 44,7% lao động mặc dù
giảm so với năm 2011 (chiếm 48,4%) lao động nhưng ngành nông, lâm, thủy sản
vẫn là nghành chủ chốt cung cấp việc làm lớn cho lao động qua các năm với tỷ
lệ lao động luôn ở mức cao, số lượng lao động có việc làm ở khu vực này luôn ở
mức 23 đến 24 triệu người.
- Xuất hiện một số mô hình sản xuất kiểu mới
Một nét mới trong phát triển nông nghiệp là đã xuất hiện một số mô hình tổ
chức sản xuất kiểu mới như kinh tế trang trại, cao su tiểu điền, cà phê nhân dân,
tổ hợp tác tự nguyện, hợp tác xã kiểu mới làm dịch vụ cho kinh tế hộ.
Năm 2011, Theo kết quả tổng hợp sơ bộ của Ban Chỉ đạo Tổng điều tra
nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản Trung ương , cả nước có 20.065 trang trại
(tính theo tiêu chí mới). Trong đó, riêng đồng bằng sông Cửu Long và Đông
Nam bộ có tới 11.697 trang trại, chiếm 58,3% tổng số trang trại trong cả nước.
6


Trung du và miền núi phía Bắc có số trang trại ít nhất, với 587 trang trại, chiếm
tỷ lệ 2,9%. Ở khu vực này, trang trại chăn nuôi chiếm đa số, với 506 trang
trại.Do đặc điểm tự nhiên của nước ta không đồng đều nên tỷ lệ các loại hình
kinh tế trang trại có sự phát triển khác nhau để tối ưu hoá hiệu quả hoạt động.
Tính đến năm 2011, cả nước có 8.642 trang trại trồng trọt, chiếm 43% tổng số
trang trại; 6.202 trang trại chăn nuôi, chiếm 30,9%; 4.443 trang trại nuôi trồng
thuỷ hải sản, chiếm 22,1%; 737 trang trại tổng hợp, chiếm 3,7% và 51 trang trại

lâm nghiệp, chiếm 0,3%.
Năm 2015, trên địa bàn cả nước hiện có khoảng 29.500 trang trại. Trong
đó, có 8.800 trang trại trồng trọt (chiếm 29,83%), 10.974 trang trại chăn nuôi
(chiếm 37,20%), 430 trang trại lâm nghiệp (chiếm 1,46%), 5.268 trang trại thủy
sản (chiếm 17,86%) và 4.028 trang trại tổng hợp (chiếm 13,66%). Số lượng
trang trại đã tăng 9.433 trang trại so với năm 2011. Các trang trại phân bố nhiều
ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long (6.911 trang trại, chiếm 30%) chủ yếu sản
xuất thủy sản và trái cây; Đông Nam Bộ (6.115 trang trại,chiếm 21%) chủ yếu là
chăn nuôi; Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (5.693 trang trại, chiếm 20%)
chủ yếu kinh doanh tổng hợp; Đồng bằng Sông Hồng (5.775 trang trại,chiếm
19,5%) chủ yếu là chăn nuôi; Trung du và miền núi phía Bắc (2.063 trang trại,
chiếm 7%) chủ yếu là chăn nuôi và lâm nghiệp.
Các trang trại trong cả nước đã tạo công ăn, việc làm thường xuyên cho gần
100 nghìn lao động và rất nhiều lao động có tính thời vụ, tạm thời ở các địa
phương. Cùng với việc giải quyết việc làm, kinh tế trang trại đã đóng góp không
nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Tổng thu từ sản xuất nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản của các trang trại đạt gần 39 nghìn tỷ đồng (chiếm khoảng
6% giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản), bình quân 1942,5 triệu đồng
một trang trại. Điểm đáng chú ý, tuy vùng trung du miền núi phía Bắc có số
trang trại thấp nhất, nhưng tổng thu sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản bình
quân một trang trại ở vùng này lại cao nhất, bình quân 2,868 tỷ đồng, tiếp đến là
đồng bằng sông Hồng, với 2,519 tỷ đồng, đồng bằng sông Cửu Long là 1,54 tỷ
đồng và thấp nhất là Tây Nguyên, với 1,315 tỷ đồng. Một kết quả tích cực khác,
đó là trong tổng giá trị sản phẩm và dịch vụ, tỷ suất sản phẩm hàng hoá do các
trang trại bán ra chiếm tới 98,1%.
Có thể khẳng định kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến
của kinh tế hộ, mang lại hiệu quả cao cho sản xuất nông nghiệp do đó cần có
chính sách phát triển và từ 2011-2015, mô hình trang trại ngày càng phổ biến và
mở rộng hơn rất nhiều, đem đến nhiều lợi ích về việc giải quyết việc làm, tăng
thu nhập, tăng xuất khẩu,... góp phần tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này.

Ngoài ra, Việt Nam có hơn mười nghìn hợp tác xã nông nghiệp với tổng số
thành viên tham gia khoảng 6,7 triệu người. Ba năm sau khi Luật Hợp tác xã
năm 2012 có hiệu lực, thực tế triển khai tại nhiều địa phương cho thấy, các mô
7


hình hợp tác xã kiểu mới được thành lập và vận hành đã mang lại hiệu quả bước
đầu cho kinh tế hợp tác xã nói riêng và kinh tế tập thể nói chung. Nhất là trong
lĩnh vực nông nghiệp, mô hình này đang trở thành đòn bẩy, là yêu cầu tất yếu
cho nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa.Với nhiều mô hình hợp tác xã kiểu mới
đang hoạt động trên khắp cả nước, các hộ nông dân cùng nhau tham gia vào hợp
tác xã. Họ cùng xây dựng kế hoạch, quy hoạch sản xuất xuất phát từ nhu cầu của
thị trường. Từ đó, các hộ nông dân sẽ tiếp tục sản xuất trên chính mảnh ruộng
của mình theo quy hoạch. Hợp tác xã sẽ đứng ra chịu trách nhiệm về cung ứng
giống, phân bón, các dịch vụ nông nghiệp khác và chịu trách nhiệm bao tiêu sản
phẩm cho các hộ nông dân, thành viên, xã viên của mình. Đây là một nét mới
đáng ghi nhận trong tổ chức sản xuất nông nghiệp hiện nay.
2. Phân tích thực trạng phát triển của nông nghiệp Việt Nam (SWOT)
2.1Điểm mạnh
- Chính sách tạo thuận lợi cho nông nghiệp phát triển của Đảng và nhà
nước
Trong những năm qua, hàng loạt chính sách và chủ trương mới tiếp tục
được xây dựng và áp dụng, từng bước tạo điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã có nghị quyết về
“Tam nông” để nâng cao thu nhập cho người nông dân, nâng cao cơ sở hạ tầng
khu vực nông thôn, cải thiện điều kiện sống, cải thiện dân trí...
Các chính sách tiếp sức cho dân như cung cấp tín dụng, khuyến nông, hỗ
trợ lãi suất vốn vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp
và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn. Cụ thể: Ngân hàng Nhà nước đã
ban hành Thông tư quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân

hàng, thời hạn hỗ trợ lãi suất kể từ ngày giải ngân vốn vay để nông dân tăng gia
sản xuất.
Ngoài chính sách hỗ trợ sản xuất, Chính phủ tiếp tục có các chính sách hỗ
trợ tiêu thụ nông sản. Nhiều loại nông sản có khối lượng hàng hóa lớn, khó tiêu
thụ đã được hỗ trợ tạm trữ trong những thời điểm giá thế giới giảm hoặc khối
lượng hàng hóa nhiều (cà phê, lúa gạo, muối). Vì vậy, trong năm các loại nông
sản đều được tiêu thụ kịp thời, là yếu tố quan trọng kích thích sản xuất phát
triển, tăng thu nhập cho nông dân.
Không chỉ dừng lại ở đó, các chính sách cụ thể từ Chính phủ, Bộ Tài chính
đã góp phần khơi thông nguồn vốn chảy về khu vực nông nghiệp, nông thôn
mạnh mẽ hơn, tạo bộ mặt mới cho kinh tế địa phương như: Nghị định số
61/2010/NĐ-CP ngày 4/6/2012 về khuyến khích doanh nghiệp (DN) đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn; Thông tư số 84/2011/TT-BTC ngày 16/6/2011 hướng
8


dẫn một số chính sách tài chính khuyến khích DN đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn… nhằm tạo sức hút mạnh mẽ đối với các DN thuộc mọi thành phần kinh tế,
tăng cường sản xuất hàng hóa ở khu vực nông thôn để mang lại hiệu quả kinh tếxã hội, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn như tinh thần Nghị
quyết 26/NQ-TW.
Các nhóm chính sách hướng vào bảo vệ sản xuất, phòng chống rủi ro, thiên
tai đã tạo điều kiện sản xuất ổn định, hình thành môi trường phát triển vững bền
cho đời sống kinh tế xã hội của cư dân nông thôn.
Các chính sách cải cách tổ chức thể chế như phát triển kinh tế tư nhân, kinh
tế trang trại, kinh tế hợp tác, liên kết nông dân và doanh nghiệp, sắp xếp lại
doanh nghiệp nhà nước và nông lâm trường quốc doanh,... góp phần tích cực
vào việc phát triển quan hệ sản xuất trong nông nghiệp nông thôn.
Các nhóm chính sách xóa đói giảm nghèo, phát triển nông thôn, phát huy
dân chủ cơ sở,... đã tạo điều kiện thuận lợi để cư dân nông thôn phát huy vai trò
làm chủ, tạo cho họ điều kiện tiếp cận với các cơ hội hưởng lợi từ quá trình phát

triển của đất nước.
Các nhóm chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo môi trường pháp lý để
phát huy lợi thế so sánh của nông lâm thuỷ sản Việt Nam trong cạnh tranh quốc
tế, thu hút đầu tư nước ngoài, tranh thủ sự viện trợ rộng rãi của quốc tế cho quá
trình phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam.
Hợp tác quốc tế của ngành NN-PTNT đã đạt được nhiều thành tựu trong
giai đoạn 2011 - 2014: năm 2014, Bộ NN&PTNT đã phê duyệt và ký kết được
hơn 30 dự án gồm ODA vốn vay và không hoàn lại với tổng giá trị trên 400 triệu
USD, trong đó có một số dự án lớn như: Phát triển nông thôn tổng hợp các tỉnh
miền Trung (khoản vay bổ sung giai đoạn 2) với số vốn 92,5 triệu USD; dự án
Phát triển Nông nghiệp có tưới (WB7) khoảng 200 triệu USD…
Về lĩnh vực hợp tác phi chính phủ nước ngoài (PCPNN), Bộ đã phê duyệt
22 dự án và hợp tác nghiên cứu nguồn viện trợ PCPNN với tổng kinh phí hơn 7
triệu USD. So với năm 2013, tổng giá trị các dự án PCPNN năm 2014 tăng 1,5
lần.
Song song với đó, Bộ NN&PTNT còn tập trung xây dựng nghiên cứu quy
định và pháp luật, hàng rào thuế và phi thuế, cam kết quốc tế của Hoa Kỳ, Nhật
Bản, châu Âu theo nhóm ngành hàng. Từng bước nghiên cứu các cam kết quốc
tế hiện có của Việt Nam và quy định hiện hành, giúp bổ sung thông tin để xây
dựng năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời,
triển khai thực hiện đầy đủ cam kết của Việt Nam trong WTO và các FTA khu
vực. Đánh giá tác động của việc thực hiện các cam kết tới khu vực nông nghiệp,
9


nông thôn để hỗ trợ doanh nghiệp, nông dân tìm kiếm và mở rộng thị trường,
đồng thời có phương án chủ động trong bối cảnh hội nhập sâu...
- Áp dụng khoa học công nghệ góp phần thúc đẩy sản xuất
Khoa học công nghệ mới đã ứng dụng trong nông nghiệp. Trong đó có thể
kể đến:

 Chương trình giống mới đã có hiệu quả lớn, góp phần đáng kể làm tăng
năng suất và chất lượng của nông nghiệp trong những năm qua.
+ Đến nay, đã có trên 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích
mía, bông, cây ăn quả,... được dùng giống mới. Khoảng gần 90% giống cây
trồng, vật nuôi được chọn tạo, đưa tỷ trọng áp dụng giống tiến bộ kỹ thuật trong
sản xuất nông nghiệp lên 35%. Áp dụng các quy trình canh tác tiên tiến, chương
trình “3 giảm, 3 tăng”, canh tác bền vững, phòng trừ tổng hợp IPM, sản xuất
theo quy trình GAP.
+ Trong chăn nuôi sử dụng giống mới vào sản xuất nên năng suất, chất
lượng sản phẩm thịt, trứng, sữa được nâng cao. Trọng lượng lợn hơi xuất chuồng
bình quân tăng 30 kg/con.
+Trong ngành thuỷ sản đã đưa vào sản xuất một số loài thuỷ sản có giá trị
kinh tế cao. Nhiều cơ sở chế biến thuỷ sản đạt trình độ công nghệ hiện đại so với
một số nước trong khu vực.Lâm nghiệp cung cấp 60% giống tiến bộ kỹ thuật
cho trồng rừng kinh tế. Tỷ lệ thành rừng đối với rừng trồng từ dưới 50% lên
80%, nhiều nơi năng suất rừng trồng đã đạt 15 - 20m3/ha/năm.
 Trong bối cảnh giá ngày công lao động ngày càng tăng, tỷ lệ cơ giới hóa
tăng nhanh trong mọi khâu sản xuất nông nghiệp, trước hết từ các khâu tốn
nhiều lao động trong ngành trồng trọt như gặt đập, tưới tiêu, vận tải, làm đất.
Cùng với mức phát triển của hệ thống điện nông thôn, tỷ lệ áp dụng máy móc
thiết bị cơ giới và điện trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, xây dựng thủy lợi
ngày càng tăng.
 Bộ Nông nghiệp và PTNT tiến hành phổ biến rộng rãi và áp dụng
VietGAP cho 3 đối tượng thủy sản chủ lực là cá tra, tôm sú, tôm thẻ chân trắng
trong sản xuất giống và nuôi thương phẩm. Bên cạnh đó, công nghệ Israel cũng
được phổ biến rộng rãi, nông dân áp dụng khá nhiều trong sản xuất nông sản,
cây ăn trái: nhãn, vải, thanh long, sầu riêng… xuất sang thị trường Châu Âu,
Châu Mỹ.
Không dừng lại ở đó, để tăng cường tiếp cận khoa học tiên tiến thế giới,
những năm nay, rất nhiều cán bộ quản lý và nông dân được cử đi học tập kinh

nghiệm, cách thức quản lý, kỹ thuật tại những nước có thế mạnh về nông nghiệp
công nghệ cao như Israel, Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia và Trung Quốc để khi
10


về nước áp dụng, sản xuất nông nghiệp. Ngoài học hỏi các mô hình nông nghiệp
hiệu quả của các nước, nông dân và cán bộ quản lý nông nghiệp còn tham gia
hoạt động xúc tiến thương mại nông sản nhằm phát triển nguồn nhân lực lao
động nông nghiệp chất lượng cao, góp phần phát triển nông nghiệp thành phố
theo hướng bền vững.
- Người nông dân cần cù, chịu khó
Nền sản xuất nông nghiệp bằng lao động chân tay rất nặng nhọc, vất vả
quanh năm “một nắng hai sương”, “cày sâu cuốc bẫm”, không những thế còn
phải khẩn trương cho phù hợp với thời tiết, nhất là đối với cây lúa nước, mưa
nhiều thì ngập úng, nắng nhiều thì hạn hán đều dẫn đến mất mùa. Nền sản xuất
nông nghiệp Việt Nam là nền nông nghiệp đa canh, thâm canh, xen canh gối vụ
phù hợp với thời tiết nóng ẩm của vùng nhiệt đới gió mùa. Trải qua hàng ngàn
năm, người nông dân Việt Nam đã chọn lựa, lai tạo hàng ngàn giống cây trồng
(cây lấy hạt, cây ăn quả, cây lấy sợi, cây làm thuốc...) và tích luỹ một kho tàng
tri thức bản địa (tri thức truyền thống) công nghệ truyền thống về trồng cấy,
chăn nuôi, chế biến lương thực, thực phẩm. Những tri thức, kinh nghiệm khai
hoang, cải tạo đất, làm thuỷ lợi, chống lại sâu bệnh, v.v... chính là kết quả của
tinh thần cần cù, thông minh, sáng tạo của nhân dân ta đã tích lũy.
- Điều kiện tự nhiên ưu đãi, cho phép nước ta phát triển một nền nông
nghiệp nhiệt đới đa dạng
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, rất thích hợp cho việc
trồng lúa nước, khí hậu phân hóa rõ rệt cho phép đa dạng hóa cơ cấu cây trồng,
áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ giữa các
vùng: Ở trung du và miền núi, thế mạnh là các cây lâu năm và chăn nuôi gia súc
lớn, ở đồng bằng, thế mạnh là các cây trồng ngắn ngày, thâm canh, tăng vụ và

nuôi trồng thuỷ sản.
Địa hình nhiều sông ngòi, bồi đắp phù sa cho khu vực hạ lưu, hình thành
các vùng đồng bằng, đặc biệt là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu
Long. Đối với đồng bằng sông Hồng,diện tích đất nông nghiệp khoảng 760.000
ha, trong đó 70% là đất phù sa màu mỡ, có giá trị lớn về sản xuất nông nghiệp.
Đất nông nghiệp chiếm 51,2% DT vùng. Đất đai của vùng rất thích hợp cho
thâm canh lúa nước, trồng màu và các cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng có diện
tích trồng cây lương thực đứng thứ 2 trong cả nước với diện tích đạt 1242,9
nghìn ha. Khả năng mở rộng diện tích của đồng bằng vẫn còn khoảng 137 nghìn
ha. Quá trình mở rộng diện tích gắn liền với quá trình chinh phục biển thông qua
sự bồi tụ và thực hiện các biện pháp quai đê lấn biển theo phương thức “lúa lấn
cói, cói lấn sú vẹt, sú vẹt lấn biển”.
11


Đối với đồng bằng sông Cửu Long, tổng diện tích khoảng 3,96 triệu ha,
trong đó khoảng 2,60 triệu ha được sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi
trồng thuỷ sản chiếm 65%. Trong quỹ đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm
chiếm trên 50%, trong đó chủ yếu đất lúa trên 90%. Đất chuyên canh các loại
cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày khoảng 150.000 ha, đất cây lâu năm
chiếm trên 320.000 ha, khoảng 8,2% diện tích tự nhiên.Vùng bãi triều có diện
tích khoảng 480.000 ha, trong đó gần 300.000 ha có khả năng nuôi trồng thuỷ
sản nước mặn, nước lợ.
2.2 Điểm yếu
- Cơ cấu nông nghiệp chậm chuyển dịch, còn tồn tại nhiều yếu tố mất
cân đối
Cơ cấu giữa trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ trong ngành nông nghiệp
không có thay đổi lớn, tỷ trọng ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn sau đó
đến chăn nuôi và thấp nhất là dịch vụ nông nghiệp. Tỷ trọng dịch vụ nông
nghiệp chiếm tỷ trọng thấp cho thấy ngành nông nghiệp nước ta chưa phát triển

các hoạt động dịch vụ phục vụ nông nghiệp như: giống mới, phân bón, bảo vệ
cây trồng, thú y, tiếp thị, tín dụng,… để nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi
và giá trị gia tăng của sản phẩm làm ra. Thực tế cũng chứng minh rằng Việt Nam
vẫn nặng về sản xuất lúa gạo, cây công nghiệp như cà phê, cao su,…chăn nuôi
chưa trở thành ngành sản xuất chính, mức độ áp dụng khoa học kỹ thuật và các
phương pháp sản xuất tiên tiến còn ít nên chưa khai thác đầy đủ tiềm năng đất
đai, nguồn nước, khí hậu và các điều kiện tự nhiên tại các vùng sản xuất. Hiện
nay, nông dân Việt Nam vẫn chiếm số lượng đông đảo. Tuy nhiên ruộng đất lại
có hạn và không tăng thêm. Do vậy, càng đòi hỏi việc mở rộng và phát triển các
ngành nghề công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn để tạo công ăn việc làm cho
người nông dân. Nhưng thực trạng lại cho thấy hiện nay các hình thức công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn vẫn chưa thực sự phát triển để đáp nhu cầu ứng
công việc cho những người sống ở nông thôn.
Từ khi có Luật Doanh nghiệp 2014, số lượng các cơ sở sản xuất công
nghiệp nông thôn đã tăng đáng kể. Tuy nhiên, kết cấu kinh tế ở nông thôn vẫn
chủ yếu là thuần nông, các hoạt động phi nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Doanh nghiệp ở nông thôn, kể cả doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh, đều có quy mô nhỏ. Nhìn chung công nghệ lạc
hậu, trình độ quản lý thấp, tay nghề lao động yếu, những bất lợi về kết cấu hạ
tầng, dịch vụ phục vụ sản xuất khiến cho khả năng cạnh tranh của các đơn vị
này rất yếu. Có lẽ đây là nguyên nhân chính khiến cho tỷ lệ đầu tư tư nhân và
đầu tư nước ngoài vào nông thôn rất thấp. Đầu tư của tư nhân trong nước vào
khu vực nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 15% tổng số đầu tư mới hàng năm, FDI
cũng chỉ chiếm dưới 5%.
12


Bảng 8: Cơ cấu các ngành trong nông nghiệp
Đơn vị: %
Năm


Nông nghiệp thuần

Lâm nghiệp

Thủy sản

2011

78,1

3,68

18,22

2012

77.86

3,71

18,43

2013

77.54

3,83

18,63


2014

76.87

3,95

19,18

Nguồn: Tổng cục thống kê
Cơ cấu ngành nông nghiệp thuần, lâm nghiệp và thủy sản gần như không
thay đổi. Theo đó trong giai đoạn này thì giá trị của các ngành đều tăng qua các
năm nhưng về cơ cấu lại có không có biến đổi. Cơ cấu ngành nông nghiệp thuần
giảm nhẹ 1,23% từ năm 2011 đến năm 2014. Cơ cấu ngành lâm nghiệp và thủy
sản tăng nhẹ, trong đó thì lâm nghiệp tăng lên 0,27% và ngành thủy sản tăng lên
0,96%. Ta có thể thấy tuy đã có những chuyển biến tích cực và đi theo đúng
định hướng nhưng ta thấy rằng cơ cấu chuyển dịch đang còn chậm.
- Quy mô sản xuất nhỏ, hoạt động sản xuất còn manh mún
Việt Nam có thế mạnh về kinh tế nông nghiệp với hàng loạt các mặt hàng
nông sản đứng top xuất khẩu hàng đầu thế giới như: gạo, cà phê,… Tuy nhiên,
ngành nông nghiệp vẫn sản xuất theo phương thức nhỏ lẻ, manh mún. Thực tế
quy mô sản xuất nông nghiệp Việt Nam quá nhỏ lẻ, manh mún, khó tiến sâu vào
sản xuất lớn, không thể đưa các công cụ hiện đại như máy cày, máy gieo hạt,
máy liên hợp gặt đập vào được. Nhìn vào đồng bằng sông Hồng mỗi mảnh
ruộng bé tẹo, chỉ vài trăm mét vuông. Lý do vì người ta chia bình quân để công
bằng, hộ nào cũng có ruộng cao, ruộng thấp trũng, ruộng xấu, ruộng tốt, trong
làng, ngoài đồng đều chia thế. Bình quân mỗi hộ ở Bắc Bộ chỉ có 3 sào, xấp xỉ
1.000 m2 mà có đến gần chục mảnh ruộng, thì mỗi ruộng chỉ có 100-200 m2.
Với diện tích bé, manh mún thế thì không thể đưa máy móc vào được, đến bây
giờ vẫn còn cày bằng trâu, trâu cày rồi thì còn thừa 4 góc, phải cuốc bằng tay.

Bộ nông nghiệp có thống kê, bình quân ruộng trên đầu người của nông dân đồng
bằng sông Hồng chỉ bằng khoảng 1/1.000 so với nông dân Mỹ, bằng 1/10.000 so
với nông dân Úc.
Sản xuất manh mún, nhỏ lẻ khiến cho nền kinh tế nông nghiệp của nước ta
phát triển thiếu bền vững, tính cạnh tranh của sản phẩm với khu vực và thế giới
còn thấp. Người nông dân tuy không còn đói ăn, nhưng chưa thể giàu. Đây là
thách thức lớn đối với nước ta, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng
13


sâu rộng. Hạn chế lớn nhất của ngành nông nghiệp Việt Nam hiện nay chính là ở
chuỗi giá trị phát triển nông nghiệp. Quy mô sản xuất nhỏ lẻ là nguyên nhân
khiến cho nền kinh tế nông nghiệp chưa hấp thụ được vốn và công nghệ, chưa
đáp ứng được đòi hỏi của các thị trường lớn. Cũng bởi sản xuất manh mún, nên
người nông dân chưa có được lợi ích tương xứng với công sức bỏ ra, các hình
thức cánh đồng mẫu lớn hay hợp tác xã kiểu mới chưa thực sự toàn diện...
- Cơ cấu giống cây trồng vật nuôi còn nhiều điểm chưa hợp lý dẫn đến
cơ cấu sản phẩm nông nghiệp chưa hợp lý theo cả cung và cầu
Hiện nay có 2,8 triệu hecta đất nông nghiệp dùng để trồng lúa, diện tích đất
được chuyển mục đích sử dụng chỉ là 52000ha. Trong đó 3,76 triệu ha được giữ
lại, có khoảng 400000 ha đất quy hoạch để chuyển đổi giống cây trồng nhưng
khi cần thiết có thể quay lại trồng lúa. Tuy nhiên theo tính toán nếu như áp dụng
khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp thì chỉ cần 1 triệu ha là đủ nên
có thể thấy rằng lúa vẫn là ưu tiên hàng đầu của Việt Nam.
Cùng với sự biến đổi khi hậu đang diễn ra ngày càng khó lường thì ngành
nông nghiệp cần phải có những điều chỉnh để thích ứng với những biến đổi khí
hậu. Tuy nhiên cơ cấu ngành nông nghiệp vẫn tập trung phần lớn vào lúa, các
cây lương thực.
Đối với ngành chăn nuôi, mặc dù vào những năm gần đây khi bò sữa du
nhập và ngày càng có quy mô rộng lớn hơn và cũng đem lại những hiệu quả

kinh tế nhất định nhưng nhìn chung cơ cấu ngành vật nuôi vẫn còn thiếu đa
dạng, nhiều loại có chất lượng kém.
- Năng suất lao động chưa cao, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả
năng cạnh tranh yếu do đó chưa hình thành chuỗi giá trị nông sản mạnh và
bền vững.
Năng suất lao động của ngành nông nghiệp rất thấp chỉ bằng 1/3 năng suất
lao động của cả nước và khoảng cách giữa ngành nông nghiệp và phi nông
nghiệp có xu hướng ngày càng gia tăng. Nếu như giá trị gia tăng trên mỗi lao
động trong khu vực dịch vụ là 1400$/người, công nghiệp là 2200$/người thì
nông nghiệp chỉ đạt chưa đầy 400$/người. Theo báo cáo khoa học ngành nông
nghiệp Việt Nam 2011-2014 thì năng suất lao động bình quân của ngành nông
nghiệp ở nước ta chỉ bằng 0,16% đến 0,22% so với ngành công nghiệp từ 2006
đến nay.
Cùng với đó, chất lượng một số loại nông sản nước ta còn thấp, giá thành
cao, thị trường tiêu thụ chưa ổn định. Năng suất ngô chỉ bằng 80% năng suất
bình quân thế giới; đậu tương bằng 57% thế giới. Chất lượng nhiều loại nông
sản của nước ta còn thấp, gạo là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, nhưng giá cùng
14


loại luôn thấp hơn gạo của Thái Lan khoảng 20-30 USD/tấn. Các nông sản khác,
như: cà phê, chè, trái cây, cũng có tình trạng tương tự như lúa gạo.
Không những vậy, công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch còn hạn
chế, tổn thất còn lớn. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực, như: cao su, cà phê,
điều, chè, rau quả... chủ yếu là xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu. Tỷ lệ thất
thoát, lãng phí do rơi rụng khi thu hoạch, vận chuyển và sơ chế khoảng 12% sản
lượng.
Do quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, nông dân chưa được tổ chức trong các
hợp tác xã và hiệp hội ngành hàng, kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản chế biến
như kho tàng, sân phơi, bến bãi,... còn kém phát triển, công nghiệp chế biến

nông sản rất nhỏ bé nên chất lượng nhiều loại nông sản còn thấp, nhất là rau
quả, sản phẩm chăn nuôi. Phần lớn nông sản chế biến xuất khẩu ở dạng sơ chế,
mẫu mã bao bì chưa phù hợp; chưa có thương hiệu, giá trị gia tăng thấp. Vệ sinh
an toàn thực phẩm trong nước và các hoạt động kiểm dịch và vệ sinh dịch tễ đối
với hàng hóa nhập khẩu, nhất là qua đường tiểu ngạch, chưa được kiểm tra,
kiểm soát một cách hệ thống trong khi tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp
đang là thách thức lớn trong quá trình hội nhập kinh tế. Người sản xuất và kinh
doanh nông sản ở Việt Nam còn xa lạ với phần lớn các tiêu chuẩn kỹ thuật được
áp dụng phổ biến trên thị trường quốc tế như các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn
thực phẩm, về xuất xứ hàng hóa, về bảo vệ môi trường, về bảo vệ người lao
động, về bảo hộ quyền tác giả, về đảm bảo tính đa dạng sinh học... ngoài ra các
vấn đề về bao bì, nhãn mác, đăng ký thương hiệu, bản quyền, công nghệ,... cũng
chưa được chú ý. Vì vậy, tuy tiêu tốn nhiều công sức tiền bạc và tài nguyên tự
nhiên để sản xuất nhưng giá trị thu được từ kinh doanh thấp, rủi ro cao.
- Thị trường thiếu ổn định, còn nhiều yếu tố bất ổn trong quá trình sản
xuất tiêu thụ đặc biệt là vấn đề giá cả.
Một thực tế hiện nay là hàng nông sản Việt Nam thường thua kém các nước
khác từ 15-50% về giá trị do những chênh lệch về chất lượng, điều này cũng
đồng nghĩa với việc hàng hóa của Việt Nam cạnh tranh kém trên thị trường, đặc
biệt là tại các thị trường khó tính. Dù đứng nhất nhì thế giới về số lượng xuất
khẩu, nhưng giá bán nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam thường thấp hơn so với
sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực. Gạo Việt Nam giá bán luôn
thấp hơn so với gạo cùng loại của Thái Lan từ 3-5%, chè đứng thứ 5 về sản
lượng nhưng xếp thứ 10 về giá bán, sản lượng cá tra Việt Nam chiếm đến 90%
thị phần trên thế giới nhưng giá bán lại thấp hơn 20-30% so với các sản phẩm
tương tự. Một số sản phẩm có giá thành sản xuất cao nhưng sức cạnh tranh kém
như đường, muối…

15



Tính bền vững và ổn định của chuỗi chỉ có thể đạt được khi có được quan
hệ tốt với hệ thống phân phối hoặc có được thị trường tiêu thụ ổn định. Do đó,
các doanh nghiệp cần tích cực thâm nhập, tiếp cận, mở rộng các kênh phân phối
sản phẩm, tìm người đại diện bán hàng tốt vào thị trường xuất khẩu, tổ chức tốt
hệ thống phân phối sản phẩm, đặc biệt là hệ thống bán lẻ, tăng cường thiết lập
quan hệ đối tác trực tiếp với các nhà nhập khẩu, giảm bớt việc xuất khẩu qua
trung gian …; tổ chức các hội chợ quốc tế trong nước hoặc tham gia các hội chợ
nước ngoài… Tuy nhiên hiện tại việc mở rộng thị trường ra nước ngoài của Việt
Nam còn rất hạn chế. Thị trường tiêu thụ của Việt Nam vẫn đang là các thị
trường truyền thống chủ yếu nhưng hiện nay chính những thị trường này đang bị
cạnh tranh một cách gay gắt từ các nước khác. Bên cạnh đó, tư duy của người
dân cũng khiến cho chính doanh nghiệp cũng gặp khó trong khâu tiêu thụ khi
mà tình trạng các hợp đồng bị phá vỡ khi giá của nông sản tăng thì người dân lại
bán cho doanh nghiệp, thương lái khác. Ngoài ra, thương hiệu của sản phẩm
nông nghiệp Việt Nam chưa thực sự được quảng bá rộng rãi, chưa nhiều người
tiêu dùng trên thế giới biết đến nên rất khó nắm được thị trường.
Tại hội nghị Quốc tế ngành công nghiệp thực phẩm Việt Nam năm 2015
được Bộ Công Thương tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh vừa qua, theo đánh giá của
các chuyên gia, một trong những nguyên nhân là trong quá trình chế biến và bảo
quản, nhiều sản phẩm tổn thất sau thu hoạch cả về số lượng và chất lượng hiện
vẫn đang còn rất lớn, như lúa gạo hao hụt khoảng 11-13 %; rau quả, đánh bắt hải
sản khoảng 20-25%, muối hao hụt 15%... làm tăng giá thành sản xuất nguyên
liệu và sản phẩm, giảm chất lượng và giá bán sản phẩm. Mặc dù tại nhiều địa
phương đã áp dụng quy trình sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) và quy trình chế
biến tốt (GMP) để đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh nhưng khâu vận
chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ không hợp lý, không đúng cách đã làm
cho chất lượng sản phẩm bị giảm sút nhiều.
- Tổ chức thể chế nông thôn chậm đổi mới
Sau khi áp dụng chính sách đổi mới hơn 20 năm trước đây, kinh tế hộ phát

triển mạnh và đến nay hộ nhỏ vẫn là đơn vị sản xuất kinh doanh chủ lực ở nông
thôn. Quy mô sản xuất manh mún nhưng không có hình thức liên kết hợp tác với
nhau khiến cho sự năng động và khả năng quản lý tài nguyên một cách hiệu quả
của các hộ tiểu nông dường như đã đi đến giới hạn phát triển. Phần lớn các hộ
tiểu nông không có khả năng tích lũy tái sản xuất mở rộng một cách đáng kể. Vì
vậy mức độ áp dụng cơ giới hóa, cải tiến công nghệ, thay đổi kỹ năng trình độ
quản lý và tự chuyển đổi cơ cấu rất giới hạn.
Tuy kinh tế trang trại đã có bước phát triển nhanh, nhưng vẫn còn những
tồn tại cần sớm được khắc phục, đó là: kinh tế trang trại chủ yếu vẫn là trang trại
hộ gia đình nông dân và gia đình cán bộ, công nhân viên đã nghỉ hưu. Sự tham
16


gia của các thành phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài chưa nhiều. Hầu hết các trang trại có quy mô diện tích dưới mức hạn điền,
có nguồn gốc đa dạng, đã gây không ít những bất cập trong việc quản lý, sử
dụng diện tích đất để phát triển kinh tế trang trại. Mặt khác, các trang trại chủ
yếu sử dụng lao động của gia đình; một số trang trại có thuê lao động thời vụ và
lao động thường xuyên, tiền công lao động chỉ được thực hiện theo hình thức
thoả thuận giữa hai bên, chưa thực sự tạo sự ổn định về giải quyết việc làm. Hầu
hết vốn đầu tư là vốn tự có và vốn vay của cộng đồng. Vốn vay của các tổ chức
tín dụng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ. Nhiều địa phương có kinh tế trang trại chưa làm
tốt công tác quy hoạch sản xuất, hệ thống thuỷ lợi, điện, thị trường… làm cho
không ít trang trại gặp khó khăn trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Đã có nhiều trường hợp người dân nuôi bò sữa phải đổ bỏ hàng trăm tấn sữa
tươi do không tiêu thụ được. Nhiều chủ trang trại vẫn áp dụng phương pháp sản
xuất truyền thống, chưa chú ý tới việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào
quá trình sản xuất cũng như tìm hiểu thị trường đầu ra cho sản phẩm, dẫn đến
năng suất, chất lượng sản phẩm làm ra chưa cao, sản phẩm làm ra có lúc khó
tiêu thụ…

Năm 2014 cả nước có 19.800 HTX, trong đó có 10.339 HTX nông nghiệp;
và trong số HTX nông nghiệp đó lại có tới 9.363 HTX dịch vụ nông nghiệp tổng
hợp (chiếm 92%). Phần lớn các HTX nông nghiệp mới chỉ cung cấp được các
dịch vụ đầu vào cơ bản cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, chỉ có 9% HTX
cung cấp được dịch vụ đầu ra. Quy mô của tổ hợp tác, HTX còn nhỏ, công nghệ
lạc hậu, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý yếu. Đặc biệt, chất lượng,
hiệu quả hoạt động và lợi nhuận của các HTX, tổ hợp tác còn thấp, chỉ 10% làm
ăn có hiệu quả, khoảng 60-70% HTX hoạt động cầm chừng. Nhiều HTX vẫn
chưa chuyển đổi theo quy định của Luật HTX 2012…
- Ô nhiễm môi trường tăng, nhiều tài nguyên bị khai thác quá mức
Tình trạng sản xuất thâm canh, sử dụng quá nhiều phân bón, hóa chất,
thuốc bảo vệ, chất kích thích sinh trưởng và tạo ra nhiều chất thải của các vùng
chăn nuôi tập trung, nuôi thủy sản tập trung, các vùng chuyên canh các cây
trồng thâm canh như bông, nho, rau... đang làm ô nhiễm môi trường, tạo ra dư
lượng các chất độc hại trong nông sản thực phẩm, làm tăng khả năng chống chịu
và đột biến của sâu bệnh.
Bên cạnh đó, nhiều tài nguyên tự nhiên bị khai thác bừa bãi cũng dẫn đến
tình trạng sụt giảm tính đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên. Tài nguyên động vật quí hiếm, nguồn nước ngầm, nguồn lợi
thuỷ sản trong nội địa và ở các vùng biển ven bờ, một số loại khoáng sản đã có
dấu hiệu bị khai thác quá mức. Thời gian gần đây, thiên tai và dịch bệnh liên tiếp
xảy ra cả cho cây trồng và vật nuôi khiến cho tình hình phát triển sản xuất nông
17


nghiệp trở nên kém bền vững. Các tài nguyên thiên nhiên như đất, nước,... ngày
càng hạn hẹp, giá lao động tăng dần, giá các vật tư nông sản như phân, thuốc,
xăng dầu cũng tăng nhanh.
Sự phát triển nhanh chóng của ngành thủy sản ở nước ta chủ yếu dựa vào
việc khai thác quá mức tài nguyên sinh vật tại các thủy vực; việc nuôi trồng thủy

sản ở nhiều vùng đã làm suy giảm diện tích rừng phòng hộ ven biển (Đồng bằng
sông Cửu Long) và ô nhiễm môi trường (Duyên hải miền Trung). Việc khai thác
các diện tích đất lâm nghiệp ở vùng đồi núi chuyển sang đất nông nghiệp làm
tăng nguy cơ thiên tai (lũ quét, sạt lở đất ở miền núi, ngập lụt và hạn hán ở đồng
bằng); việc sử dụng các sản phẩm hóa học (phân bón, thuốc trừ sâu) khiến cho
nhiều diện tích đất bị thoái hóa và bạc mầu, làm mất môi trường sống của nhiều
loài sinh vật.
2.3 Cơ hội
Với lợi thế về kinh nghiệm cũng như khí hậu thuận lợi, ngành nông nghiệp
Việt Nam đang lọt vào tầm ngắm của nhiều nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt khi
Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP) được ký
kết, sẽ mang lại rất nhiều cơ hội mới và sự phát triển cho ngành nông nghiệp
định hướng xuất khẩu của Việt Nam.
- Cơ hội xuất khẩu nông sản của Việt Nam từ TPP
Việt Nam hiện có 10,3 triệu hecta đất canh tác, phần lớn trong số đó được
sử dụng cho nông sản xuất khẩu. Xuất khẩu nông sản ở Việt Nam hiện chiếm
khoảng 20% tổng lượng xuất khẩu của Việt Nam. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành cả năm 2014 ước đạt 30,86 tỷ
USD, tăng 11,2% so với năm 2013. Thặng dư thương mại của ngành ước đạt 9,5
tỷ USD tăng 7,7% so với năm 2013. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều tăng
giá trị so với năm 2013, tiêu biểu như: thủy sản đạt 7,92 tỷ USD; đồ gỗ và sản
phẩm từ gỗ 6,54 tỷ USD; cà phê đạt 3,6 tỷ USD; rau quả đạt 1,47 tỷ USD; hạt
tiêu đạt 1,2 tỷ USD; hạt điều đạt 2 tỷ USD.
Các nhà đầu tư nước ngoài hiện nay đang tăng cường tìm kiếm cơ hội ở
Việt Nam. Khi Hiệp định Hợp tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TTP) được ký kết, sẽ làm tăng thêm cơ hội xuất khẩu nông sản cho Việt Nam.
Theo một nghiên cứu vào năm 2014 của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, Việt Nam
nên tận dụng "tiềm năng phát triển thương mại nông nghiệp còn khiêm tốn" từ
việc thực thi hiệp định TPP. Các mặt hàng cà phê và cao su đã "nhận đủ" ưu đãi
từ các Thỏa thuận thương mại trước đó, nên TPP có lẽ sẽ mang lại lợi ích không

nhiều cho nhóm hàng này. Tuy nhiên, gạo, khoai mì, hồ tiêu, các thực phẩm chế
biến sẵn, và mật ong sẽ có nhiều cơ hội xuất khẩu hơn, trong khi thịt, sữa, và
18


hoa quả dường như sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh lớn hơn do Mỹ sẽ gia tăng
xuất khẩu các sản phẩm này vào Việt Nam khi hiệp định TTP được thực thi.
- Cơ hội thu hút đầu tư từ cổ phần hoá ngành nông nghiệp
Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn ở Việt Nam được bắt đầu
từ Nghị định 37 năm 2014, đang ngày càng ảnh hưởng đến lĩnh vực nông
nghiệp. Chính phủ đã lên kế hoạch rút 3,2 nghìn tỷ đồng (150,6 triệu đô la) từ
167 doanh nghiệp trực thuộc Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn (Bộ
NN&PTNT). Trong năm 2014, Chính phủ đã cổ phần hóa 776,2 tỷ đồng (36,5
triệu đô la) từ 28 doanh nghiệp thành viên của Tập đoàn Cao su Việt Nam
(VRG), và cổ phần hóa 54 tỷ đồng (2,5 triệu đô la) từ Tổng công ty Lương thực
miền Nam, đạt 17% mục tiêu cổ phần hóa. Cũng trong năm 2014, Bộ
NN&PTNT cũng đã cổ phần hoá Tổng công ty Xây dựng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Tổng công ty Thủy sản Quốc gia Việt Nam, Tổng công ty chè
Việt Nam, Tổng công ty Sản phẩm nông sản và trái cây, Tổng công ty Lâm
nghiệp Quốc gia Việt Nam, Tổng công ty Vật tư Nông nghiệp, Tổng công ty
Lương thực miền Nam Việt Nam, và Công ty rau quả Quốc gia Việt Nam.
Bộ NN&PTNN hiện duy trì mức đầu tư 3,6 nghìn tỷ đồng (167,6 triệu đô
la) tại 13 tập đoàn và công ty, đồng thời dự kiến sẽ tiếp tục cổ phần hoá Tổng
công ty Lâm nghiệp, Tổng công ty Vật tư Nông nghiệp, 3 đơn vị thuộc Tổng
Công ty Công nghiệp Cao su Việt Nam, 7 đơn vị thuộc Tổng công ty Lương
thực miền Nam, và 5 đơn vị thuộc Tổng công ty Cà phê Việt Nam. Đây sẽ là cơ
hội tốt cho các nhà đầu tư có quan tâm tìm kiếm cơ hội đầu tư thích hợp cho
mình trong thời gian tới.
- Cơ hội đến từ đầu tư nước ngoài
Nông nghiệp là một trong những trụ cột quan trọng của kinh tế, có nhiều

tiềm năng và lợi thế phát triển. Chính sách thúc đẩy, khuyến khích đầu tư được
kỳ vọng sẽ tăng sức hấp dẫn đối với nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào khu vực
nông nghiệp trong thời gian tới.
Nhờ việc thay đổi chính sách đầu tư, khuyến khích và thúc đẩy đầu tư đã
thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến với nông nghiệp Việt Nam. Đây
là cơ hội vàng để Việt Nam thu hút đầu tư vào nông nghiệp.
Nhiều sản phẩm của nông nghiệp vươn lên đứng hàng đầu thế giới về xuất
khẩu. Nhiều nước đang coi Việt Nam là điểm đến mới để đầu tư vào nông
nghiệp, do đó, nếu chuẩn bị tốt, chúng ta sẽ tận dụng được cơ hội vàng này.
Vốn đầu tư vào nông nghiệp đang ngày càng tăng cao, với hàng loạt dự án
mới đầu tư vào nông nghiệp góp phần làm Nông nghiệp Việt Nam đang trở nên
hấp dẫn với nhiều doanh nghiệp, nhất là Nhật Bản. Việt Nam là một trong những
19


lựa chọn lý tưởng để doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào nông nghiệp do có lợi
thế rất lớn về các điều kiện tự nhiên, đất đai cho sản xuất nông nghiệp.
Các nhà đầu tư, doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến các cơ hội đầu tư
các dự án nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam, mà họ còn muốn xuất khẩu
sang Việt Nam các loại máy móc nông nghiệp. Đặc biệt, các tập đoàn lớn đã và
đang rất quan tâm đến nông nghiệp Việt Nam, bởi họ thấy được tiềm năng trong
phát triển nông nghiệp của Việt Nam.
Việt Nam đang nắm bắt cơ hội và thu hút nguồn vốn đầu tư, góp phần phát
triển nông nghiệp. Điều này sẽ mở ra cơ hội phát triển mới cho ngành nông
nghiệp Việt Nam, thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững và nâng
cao khả năng cạnh tranh.
2.4 Thách thức
- Quá trình cơ giới hóa nông nghiệp và việc áp dụng các quy trình kỹ
thuật sản xuất tiên tiến diễn ra chậm.
Đa số các khâu sản xuất trong nông nghiệp đều làm thủ công nên năng suất

lao động trong nông nghiệp rất thấp. Điều này là do tình trạng ruộng đất manh
mún gây nên, diện tích nhỏ hẹp khó có thể đưa các máy móc lớn vào sử dụng,
chủ yếu chỉ có thể sử dụng các máy nhỏ gọn công suất thấp. Ngoài ra, còn do
người nông dân còn thiếu vốn để đầu tư mua sắm máy móc trang thiết bị cho
quá trình sản xuất. Họ chủ yếu sử dụng sức lao động của gia đình và đổi công
theo phương châm “lấy công làm lãi” nên năng suất lao động chưa được cao.
- Sự kết hợp giữa công nghiệp và nông nghiệp còn chưa tốt, nhất là
công nghiệp chế biến sau thu hoạch. Chúng ta còn rất thiếu các sản phẩm công
nghiệp, máy móc hiện đại phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, các loại thiết bị
này chủ yếu vẫn là đi nhập khẩu, giá thành cao cản trở việc đầu tư của người
nông dân. Đặc biệt công nghệ chế biến nông sản sau khi thu hoạch của chúng ta
còn rất thiếu. Người nông dân chủ yếu bán các sản phẩm thô, tươi sống có giá trị
thấp. Khi vào thời vụ do không có các cơ sở chế biến nên các sản phẩm của
người dân bị giảm phẩm cấp nhanh, bị những người thu mua ép giá hoặc không
thể tiêu thụ được. Điển hình như: Vải thiều xuất khẩu sang Trung Quốc bị ép
thời gian nên đã bị hỏng rất nhiều ở cửa khẩu; lúa gạo bị rớt giá vào mùa thu
hoạch ……
- Thị trường nông sản bấp bênh thiếu ổn định, giá cả biến động theo
hướng bất lợi cho người nông dân. Người nông dân do trình độ còn hạn chế nên
vấn đề nắm bắt thông tin thị trường còn yếu, khó có khả năng bán sản phẩm của
mình với giá cao. Hơn nữa, ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản thì sự
nắm bắt thông tin thị trường, luật thương mại quốc tế cũng còn yếu, do đó các
sản phẩm nông sản của Việt Nam có thị trường không ổn định. Chúng ta thường
20


bị bất lợi trong các thương vụ cạnh tranh xuất khẩu nông sản hoặc bị ép giá.
Tiêu biểu như thị trường tiêu thụ cá Da trơn, cà phê, gạo …… thường xuyên xảy
ra những vụ khiếu kiện, ép giá của bạn hàng. Người nông dân chính là người
thiệt thòi nhất khi phải chịu nghịch lý được mùa thì nông sản rớt giá, khi mất

mùa giá cao thì lại không có nông sản để bán. Điều này làm cho lợi nhuận của
người nông dân thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn.
- Dịch bệnh tiến triển theo chiều hướng ngày càng phức tạp
Áp dụng ngày càng nhiều các giống cây trồng vật nuôi mới thay thế các
giống truyền thống đã làm cho dịch bệnh, sâu bệnh ngày càng nhiều và khó khăn
cho công tác phòng chống dịch. Điều này đã làm cho việc sử dụng lạm dụng các
sản phẩm hóa học, thuốc trừ sâu ngày càng nhiều gây ô nhiễm môi trường, suy
thoái đất, nguồn nước và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người.
Người nông dân có trình độ còn hạn chế, chưa ý thức được việc bảo vệ môi
trường nên đã sử dụng bừa bãi các sản phẩm thuốc hóa học gây ra ô nhiễm nặng
nề về môi trường nông thôn. Điển hình vào các đợt sâu bệnh nở rộ thì nhà nhà đi
phun thuốc trừ sâu, gây ra ô nhiêm không khí nặng nề trên đồng ruộng. Tác hại
lâu dài là các hóa chất này ngấm xuống đất, nước ngầm, người dân bị đe dọa
nghiêm trọng về sức khỏe. Ngày càng có nhiều căn bệnh lạ nguy hiểm xuất hiện,
có những nơi đã xuất hiện “làng ung thư” …… một phần là do môi trường sống
bị ô nhiễm từ hoạt động sản xuất nông nghiệp.
- Sử dụng lãng phí tài nguyên
Tình trạng sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên vẫn diễn ra phổ biến ở các
vùng nông thôn. Người nông dân vì lợi trước mắt mà đã khai thác một cách kiệt
quệ các nguồn tài nguyên quý như rừng, động thực vật ….. làm mất khả năng tái
tạo tự nhiên của chúng gây mất cân bằng sinh thái. Đất đai ngày càng bị sói
mòn, thoái hóa, ô nhiễm mà không được quan tâm cải tạo phục hồi một cách
thỏa đáng.
- Biến đổi khí hậu:
Trong thời gian gần đây, do diễn biến xấu của tình trạng nóng lên toàn cầu,
do sự phá hoại môi trường của các hoạt động sản xuất và phát triển không bền
vững, diễn biến thiên tai ngày càng phức tạp hàng năm gây ra thiệt hại lớn về
người và của cho sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân. Tần suất thiên tai
ngày càng dày, mức độ nghiêm trọng và quy mô ngày càng lớn. Ở nước ta trong
các năm qua liên tục xuất hiện bão lớn, mưa to gây lũ lụt, lở đất, hạn hán, cháy

rừng,...Theo thống kê, trung bình hàng năm có 37,9% và 16,7% hộ nông dân bị
thiệt hại do mất mùa và thiên tai.
Năm 2015, hiện tượng El Nino trở lại khiến nước ta đều thiếu hụt lượng
mưa so với trung bình nhiều năm từ 25% đến 50%, đặc biệt là khu vực Trung
21


Bộ. Lượng mưa trên cả nước bị giảm rất nhiều, cùng với nền nhiệt độ tăng cao
gây hạn hán làm thiệt hại nặng nề mùa màng - nhất là vụ lúa Đông Xuân và các
loại nông sản như cà phê, chè, ....

22


PHẦN 3: BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Có thể nói, nền nông nghiệp của nước ta đã vượt qua những khó khăn,
thách thức, phục hồi tích cực và phát triển trở lại trong năm 2016. Đây là bước
khởi động tốt trong năm đầu thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của giai đoạn 2016 - 2020.
Bối cảnh thế giới đang có những diễn biến phức tạp, đi liền với đó là sự tác
động khó lường từ biến đổi khí hậu… Tuy nhiên, đi liền với thách thức, khó
khăn vẫn có cơ hội để Việt Nam tăng tốc phát triển nông nghiệp. Muốn vậy, cần
tập trung vào một số vấn đề trọng yếu để có thể phát triển nông nghiệp theo
hướng bền vững.
1. Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn theo hướng
bền vững.
- Xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đa dạng ngành nghề và chuyển đổi cơ cấu kinh tế
ở nông thôn

- Xây dựng chương trình đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào nông
nghiệp; nhất là chương trình giống. Xây dựng và mở rộng mô hình sản xuất
hàng hoá vùng núi khó khăn.
- Điều chỉnh, bổ sung cập nhật quy hoạch phát triển nông, lâm ,ngư nghiệp
trong từng vùng kinh tế và liên vùng theo hướng phát triển bền vững gắn sản
xuất với thị trường, gắn vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến.
- Xây dựng đề án chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, phát huy thế mạnh của từng vùng; phát triển sản xuất
nông sản hàng hoá có chất lượng và hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường trong
nước và thị trường quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên (đất đai,
lao động và nguồn vốn), nâng cao thu nhập trên một đơn vị ha đất canh tác, trên
một ngày công lao động; cải thiện đời sống của nông dân.
- Cần kiên định với định hướng tập trung vào phát triển nông nghiệp Xanh,
bền vững dù buộc phải chấp nhận cuộc đấu tranh về lợi ích giữa hai trường phái:
một bên là phát triển nóng, sản xuất bẩn với một bên là sản xuất bền vững, xanh,
sạch từ canh tác đến chế biến, bảo quản, tiêu thụ.
2. Xây dựng đề án sử dụng hợp lý tài nguyên nông nghiệp và nông thôn
- Xử lý các vấn đề về đất đai theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Có
thể chấp nhận tích tụ ruộng đất mạnh hơn để hình thành những cánh đồng mẫu
23


lớn, sản xuất lớn tập trung. Nếu cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Đất
đai và cương quyết xử lý việc sử dụng đất không hợp lý của các tổ chức, cá
nhân, nhất là vấn đề quản lý, sử dụng đất nông, lâm trường không có hiệu quả
mà Quốc hội đã tổ chức giám sát và ra nghị quyết về vấn đề này trong năm
2015.
- Phải giữ cho được tài nguyên nước, phải tích trữ, phân phối, điều hòa
nước một cách hợp lý, kết nối liên thông được hệ thống từ sông ngòi, đến các
công trình thủy lợi, hình thành mạng lưới tưới tiêu hoàn chỉnh. Dự án Luật Thủy

lợi đang được Quốc hội xem xét, thảo luận phải thể hiện được quan điểm này.
Muốn được như vậy, việc đầu tiên là chúng ta phải giữ được rừng đầu nguồn. Để
giữ được rừng thì người dân phải sống được dưới tán rừng. Nguồn tài chính để
giữ rừng phải chi trả một phần từ NSNN, một phần từ việc vận hành, khai thác
các công trình thủy lợi, thủy điện. Người sử dụng nước cho mục đích kinh tế
phải trả tiền cho người tạo nước. Đây là nguyên tắc thị trường. Bên cạnh việc
đầu tư xây dựng các công trình tích nước, chúng ta phải sử dụng hợp lý các vùng
trũng, kênh mương, ao hồ làm nơi tích nước. Ngành nông nghiệp phải được giao
chủ trì việc quản lý, điều phối nguồn tài nguyên nước cho hợp lý nhất giữa sản
xuất nông nghiệp, sinh hoạt của nhân dân, phát điện và các mục đích sử dụng
khác.
- Xây dựng nền nông nghiệp có hệ thống các cơ sở sản xuất phân bón và
thuốc bảo vệ thực vật thân thiện với môi trường. Chúng ta phải đi theo xu thế
bón phân hữu cơ, dùng thuốc bảo vệ thực vật nguồn gốc sinh học thế hệ mới,
phải giảm mạnh phân vô cơ và vấn đề quản lý phân cần tập trung về một đầu
mối. Hiện tại vai trò quản lý nhà nước về phân bón vô cơ và phân bón hữu cơ
thuộc trách nhiệm của hai bộ khác nhau. Vấn đề này cũng phải được cân nhắc và
xu hướng đưa vấn đề quản lý phân bón về ngành nông nghiệp.
- Bảo đảm về giống tốt, giống có năng suất cao, giống có chất lượng tốt và
ra sản phẩm tốt nhưng ta phải giữ được giống gen nguyên thủy, giống gen quý.
Chúng ta phải làm sao để những sản phẩm này có thương hiệu trên thế giới,
tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
3. Xây dựng và thực hiện chương trình phát triển thị trường nông thôn,
tăng khả năng tiêu thụ nông sản kết hợp với việc phát triển nguồn nhân lực
phục vụ phát triển sản xuất.
- Cần có cuộc cách mạng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông
thôn, năng lực nhận thức, hấp thụ, chấp nhận chuyển giao công nghệ, nhất là đối
với người nông dân sản xuất hàng hóa, khuyến khích ứng dụng khoa học, kỹ
thuật nông nghiệp công nghệ cao, tiên tiến vào sản xuất, thông qua việc tổ chức
đào tạo có hệ thống, kể cả “cầm tay chỉ việc” cho người nông dân để bảo đảm

yêu cầu cho công cuộc đổi mới căn bản trong nông nghiệp.
24


- Trong tổ chức sản xuất, trong quản lý nhà nước về nông nghiệp, nông
thôn, trong tiếp cận thị trường và trong đầu tư phải lấy hiệu quả làm chính và
phải dùng cơ chế thị trường để giải quyết các mối quan hệ kinh tế, giảm dần sự
bao cấp và Nhà nước chỉ có thể là “bà đỡ” trong một giai đoạn nhất định mà
thôi. Ngay việc chuyển đổi hệ thống kênh mương nội đồng cho tổ chức, cá nhân
cũng phải chú ý đến khía cạnh tài chính công, tài sản công để bảo đảm sự công
bằng trong phân bổ các nguồn lực của Nhà nước và thụ hưởng của các hộ nông
dân sử dụng nước trên từng địa bàn cụ thể.
- Cần khẳng định, đất nước ta là quốc gia biển với hơn một triệu ki-lô-mét
vuông biển với vùng đặc quyền kinh tế rộng gấp hơn ba lần phần lục địa nên có
thể khẳng định tương lai xán lạn của kinh tế biển nước ta. Do đó, việc hoạch
định chiến lược biển của chúng ta trong giai đoạn tới với định hướng phát triển
tổng hợp cả công nghiệp khai khoáng, năng lượng, khoa học biển, du lịch, cơ
khí đóng và sửa chữa tàu biển, giàn khoan, vận tải biển, logistics bên cạnh phát
triển nghề cá, nuôi trồng, bảo quản, chế biến thủy sản… là rất quan trọng.
Việc thay đổi căn bản cách chúng ta vẫn thường nghĩ về nông nghiệp, nông
dân và nông thôn có thể đem lại các hướng đi mang tính đột phá cho giai đoạn
phát triển tới đây của ngành nông nghiệp nước ta, thực hiện được mục tiêu mà
Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ 12 đặt ra là tập trung thực hiện đồng bộ,
hiệu quả các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững trên nền tảng cơ cấu lại
nông nghiệp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, hàng hóa
lớn, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng khu
vực nông nghiệp bình quân trên 3,0%/năm trong 5 năm tới.

25



×