Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Giải quyết tranh dân sự bằng thương lượng và hòa giải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.29 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

1


PHẦN MỞ ĐẦU
Việt Nam với những bước phát triển của nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành
phần kinh tế được tự do và bình đẳng trong kinh doanh. Trong điều kiện như vậy, tranh
chấp xảy ra không những là vấn đề khó tránh khỏi mà ngày càng trở nên phức tạp. Để
đảm bảo quyền tự do cho các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau, thì việc tạo dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp thỏa đáng và hiệu quả góp
phần tạo ra môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn để thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ
vững trật tự và ổn định xã hội là đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy thương lượng
và hòa giải là phương thức khá phổ biến để giải quyết các tranh chấp trong đời sống
kinh tế - xã hội nói chung và trong tranh chấp dân sự nói riêng. Nhà nước ta đã cố
gắng cải thiện, đổi mới hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự nhằm tạo ra
nhiều phương thức giải quyết tranh chấp dân sự khác nhau phù hợp với thông lệ và tập
quán quốc tế để các nhà kinh doanh có cơ hội lựa chọn giải pháp cho họ. Sự đổi mới
này diễn ra trong cả lý luận và thực tiễn, trong luật nội dung cũng như luật tố tụng và
luật về tổ chức bộ máy. Tuy nhiên, phải thừa nhận một thực tế là hoạt động dân sự
đang ngày càng phát triển nhanh chóng và nảy sinh nhiều vấn đề mà hệ thống pháp
luật đôi khi không kịp điều chỉnh và dẫn đến hậu quả có những bất cập.
Thương lượng và hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp dân sự với
những ưu việt của nó, nhưng trong các văn bản pháp luật thì thương lượng và hòa giải
chỉ dừng lại ở việc quy định đó là một phương thức giải quyết tranh chấp cho nên
trong thực tiễn áp dụng, phương thức này chưa bộc lộ hết ưu điểm vốn có của mình,
đặc biệt là vấn đề thực thi khi thương lượng và hòa giải giữa các bên được hoàn thành
đang bị bỏ ngỏ. Vì thế, phương thức không những không phát huy được ưu việt của nó
mà đôi khi còn trở thành vướng mắc trong quá trình giải quyết gây thiệt hại cho các
bên trong quan hệ tranh chấp, đặc biệt là thiệt hại cho những nhà kinh doanh nhỏ,


thiếu kinh nghiệm. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng đúng phương thức
giải quyết tranh chấp bằng thương lượng và hòa giải chắc chắn sẽ hỗ trợ không chỉ
trong những tranh chấp dân sự nói riêng mà còn trong các tranh chấp của đời sống xã
hội nói chung. Mặt khác, việc tìm ra các biện pháp để đưa phương thức giải quyết
tranh chấp dân sự bằng thương lượng và hòa giải trở nên phổ biến và ngày càng được
2


giới kinh doanh lựa chọn là một trong những công việc rất quan trọng và cấp bách hiện
nay.
Trong bất kỳ thỏa thuận dân sự, hợp đồng dân sự các bên luôn thỏa thuận hòa
giải là biện pháp ưu tiên khi giải quyết tranh chấp. Bởi nó thể hiện sự cấp tiến trong tư
duy kinh doanh và thể hiện sự tôn trọn với mối quan hệ đối tác. Tuy nhiên để hòa giải
và thương lượng có hiệu quả, tùy điều kiện và tình tiết vụ án, cố gắng thực hiện các
thủ tục hòa giải và thương lượng vừa có lợi cho hai bên đương sự, đồng thời có lợi cho
việc giải quyết vụ án.
Căn cứ các quy định của Bộ Luật Dân sự và Bộ Luật Tố tụng dân sự: Trong quan
hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt bên nào. Các thỏa
thuận của các bên không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Do vậy, khi có tranh chấp dân sự việc hòa giải và thương lượng của các bên được pháp
luật khuyến khích.
Chính vì những lý do trên, em chọn đề tài: “Giải quyết tranh dân sự bằng
thương lượng và hòa giải” để làm đề tài nghiên cứu của mình.

3


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ
BẰNG THƯƠNG LƯỢNG VÀ HÒA GIẢI

ơ

1.1. Khái quát chung về tranh chấp dân sự
1.1.1. Định nghĩa
Tranh chấp dân sự là những tranh chấp xảy ra giữa các chủ thể tham gia vào quan
hệ pháp luật dân sự về các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản được pháp luật bảo vệ.
Phổ biến có các loại tranh chấp dân sự sau: tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, tranh
chấp về hợp đồng dân sự, tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, các vấn
đề về ly hôn, các yêu cầu về tuyên bố mất tích hoặc tuyên bố chết.
Tranh chấp dân sự là điều tất yếu trong mọi mối quan hệ phức tạp, mẫu chốt của
tranh chấp dân sự là những xung đột, tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp của con
người. Để bảo vệ quyền và lợi ích này, pháp luật Việt Nam đã cho ra bộ luật dân sự với
phạm vi điều chỉnh rộng nhất trong tất cả các bộ luật.
Từ đó, chúng ta có thể hiểu rằng: Giải quyết tranh chấp dân sự chính là việc các
bên trong quan hệ dân sự có thể hòa giải được bất đồng để đi đến một điểm chung dựa
trên việc dung hòa lợi ích giữa các bên.
1.1.2. Đặc điểm
Đối với các vụ việc tranh chấp dân sự các chủ thể tham gia có thể thỏa thuận với
nhau hoặc yêu cầu tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Đặc thù của tố tụng
dân sự là những người tham gia vào quan hệ tranh chấp có nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ và tự chứng minh cho yêu cầu của mình là hợp pháp, có căn cứ giải quyết.
Vì vậy đối với các vụ việc dân sự các bên đương sự cần phát huy tính chủ động,
tích cực cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết
liên quan một cách chính xác, khách quan và đầy đủ, đưa ra các lý lẽ, các quan điểm
khác nhau, viện dẫn các quy định của pháp luật có liên quan để giải quyết vụ án.
Bên cạnh những chuẩn bị về mặt nội dung vụ việc, các đương sự tham gia vụ án
dân sự cần nắm rõ quy trình, thủ tục tố tụng tại tòa án, am hiểu về pháp luật tố tụng để
xác định được những cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc, thời gian giải quyết
vụ việc và quy trình xử lý vụ việc.


4


1.1.3. Các loại tranh chấp dân sự
Theo điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm2015, các dạng tranh chấp dân sự sau
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án:
- Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân.
- Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
- Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 30 của Bộ luật này.
- Tranh chấp về thừa kế tài sản.
- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính
không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi
thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính.
- Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước theo
quy định của Luật tài nguyên nước.
- Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp về quyền
sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng.
- Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp
luật về báo chí.
- Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
- Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự.
- Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài
sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
- Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của
cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên không phải bất cứ dạng tranh chấp dân sự nào cũng sẽ được Tòa án

giải quyết, theo điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, 6 yêu cầu dưới đây
thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của Tòa án và xem xét giải quyết:
- Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực
hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi.
5


- Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản
của người đó.
- Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích.
- Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án,
quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành
chính của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự,
quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước
ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
- Yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án.
- Yêu cầu công nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ, công nhận
quyền sở hữu của người đang quản lý đối với tài sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam
theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 470 của Bộ luật này.
- Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung
để thi hành án và yêu cầu khác theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
- Các yêu cầu khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
1.1.4. Phương thức giải quyết tranh chấp dân sự
Thứ nhất, phương thức phi tòa án: Hòa giải và thương lượng.
Phương thức này đòi hỏi cả hai bên phải thực sự có thiện chí và sẵn sàng hòa
giải.

+ Ưu điểm : không tốn thời gian tiền bạc, kết thúc hòa bình, tránh được những
xung đột không đáng có.
+ Nhược điểm: Rất khó để thực hiện, vì vốn dĩ khi đã có tranh chấp liên quan đến
lợi ích bên nào cũng muốn quyền lợi của mình được bảo vệ và bên nào cũng cho rằng
mình đúng. Mặt khác, nếu có thực hiện được thì tính áp dụng thực thi cũng không cao.
Thứ hai, phương thức Tòa án: Khởi kiện
Thực tế những tranh chấp dân sự thường phức tạp và thường thì các bên sẽ không
thể tự giải quyết được các vấn đề và lúc đó thì việc khởi kiện về yêu cầu Tòa án để có
thể giải quyết thường được áp dụng.

6


+Ưu điểm: Và là tiến hành giải quyết tranh chấp tại Tòa án, quyết định của Tòa
mang tinh chất quyền lực Nhà nước buộc các tổ chức cá nhân phải thực hiện.
+Nhược điểm: Thủ tục thời gian kéo dài gây tốn kém chi phí của các bên.
1.2. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng và hòa giải
1.2.1. Khái niệm thương lượng
1.2.1.1. Định nghĩa
Thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp mà theo đó các bên
cùng nhau bàn bạc, thoả thuận để tự giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ hợp
đồng của mình mà không có sự tham gia của bên thứ ba.
1.2.1.2. Đặc điểm
- Thương lượng là một phương pháp tự giải quyết tranh chấp của các bên.
- Thương lượng không mang tính chất bắt buộc trừ khi hợp đồng có quy định và
không đòi hỏi sự can thiệp hành chính của bất cứ một thiết chế nào. Thương lượng
được áp dụng tương đối phổ biến để giải quyết tranh chấp dân sự thời gian và chi phí
giành cho cuộc thương lượng thông thường phụ thuộc vào tính chất và trị giá tranh
chấp. Tuy nhiên, trong thực tế thương lượng lại phụ thuộc vào thiện trí của các bên và
cách thức thương lượng là thương lượng trực tiếp hay thông qua thư tín, telex, fax ....

Việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng nhằm gạt bỏ các ý kiến bất đồng
để đạt tới sự thống nhất, thiện trí là một phương pháp giải quyết tranh chấp rất phổ
biến ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia Á Đông.
1.2.1.3. Cách thức thương lượng
Thứ nhất: Thương lượng bằng cách gặp gỡ trực tiếp: Thương lượng bằng cách
gặp nhau trực tiếp là việc các bên cử đại diện của mình gặp mặt nhau tại một địa điểm
nhất định trong một thời gian xác định để bàn bạc vấn đề tranh chấp nhằm đưa ra các
giải pháp giải quyết tranh chấp.
Thứ hai: Thương lượng thông qua thư từ, điện tín, telex: Với sự phát triển vượt
bậc của công nghệ điện tử Internet, email thì việc thương lượng giữa các bên đương sự
được thực hiện hết sức thuận lợi. Tuy vậy tất cả các thư từ điện tín email đều phải
được trả lời một cách nhanh chóng cho dù nguyên nhân tranh chấp là do phía mình
gây ra cũng cần phải được trả lời sớm, để giải quyết thoả đáng nếu trì hoãn hoặc cố
tình quên không trả lời sẽ gây ấn tượng xấu. Khi xem xét những điểm cơ bản về
phương pháp giải quyết tranh chấp dân sự thông qua thương lượng cho thấy rằng
7


phương pháp này cũng có một số điểm hạn chế nhất định, cụ thể do sự thành công hay
thất bại của việc thương lượng chủ yếu phụ thuộc vào thái độ thiện chí của các bên
tranh chấp nên chỉ cần một trong các bên đương sự thiếu thiện chí thì quá trình thương
lượng có thể đi đến chỗ bế tắc buộc các bên phải tìm kiếm hình thức giải quyết tranh
chấp khác.
1.2.1.4. Ưu, nhược điểm của giải quyết tranh chấp dân sự bằng th ương l ượng
Ưu điểm nổi bật của phương thức giải quyết này là sự thuận tiện, đơn giản,
nhanh chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Mặt khác, giải quyết tranh chấp
bằng thương lượng còn bảo vệ uy tín cho các bên tranh chấp cũng như bí mật của các
bên dân sự. Các bên dân sự hơn ai hết tự biết bảo vệ quyền lợi của bản thân, hiểu rõ
những bất đồng và nguyên nhân phát sinh tranh chấp nên quá trình đàm phán, thương
lượng dễ hiểu và cảm thông với nhau hơn để có thể thỏa thuận các giải pháp tối ưu

theo nguyện vọng mỗi bên mà không phải cơ quan tài phán nào cũng làm được. Bởi
vậy, nếu thương lượng thành công không những các bên đã loại bỏ được những bất
đồng phát sinh mà mức độ phương hại đến mối quan hệ giữa các bên cũng thấp, tăng
cường sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau trong tương lai.
Tuy nhiên nó cũng có những hạn chế nhất định. Thương lượng thành công hay
không hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết, thái độ thiện chí, hợp tác của các bên. Khi
một hoặc các bên thiếu sự hiểu biết về lĩnh vực đang tranh chấp, không nhận thức
được vị thế của mình, khả năng thắng thua nếu phải theo đuổi vụ kiện tại cơ quan tài
phán hoặc không có thái độ nỗ lực hợp tác, thiếu sự thiện chí, trung thực trong quá
trình thương lượng thì khả năng thành công là rất mong manh, kết quả thường bế tắc.
1.2.2. Khái niệm hòa giải
1.2.2.1. Định nghĩa
Hoà giải là một phương pháp để giải quyết tranh chấp, trong đó bên thứ ba là
người đóng vai trò trung gian hoà giải tham gia vào các cuộc họp chung giữa các bên
và tham gia vào các phiên họp riêng với từng bên để điều hoà lợi ích các bên, phân
tích cho họ thấy nội dung, thực chất của tranh chấp và cố gắng giúp các bên tìm ra một
giải pháp để giải quyết tranh chấp.
1.2.2.2. Đặc điểm
Từ khái niệm đó hoà giải mang những đặc điểm chủ yếu sau:

8


- Các bên tranh chấp thoả thuận bên thứ 3 tạo điều kiện thuận lợi cho việc đàm
phán.
- Bên thứ 3 không có quyền quyết định tranh chấp;
- Khi các bên đạt được sự nhất trí trong việc giải quyết tranh chấp, thì sự nhất trí
phải được thể hiện bằng văn bản và văn bản này có giá trị pháp lý ràng buộc các bên.
Việc hoà giải thành công hay không là do sự kết hợp hai yếu tố chủ chốt trong
bất kỳ cuộc thương lượng nào, sự trao đổi thông tin và sự tin cậy lẫn nhau. Vì vậy, bên

thứ 3 phải là người mà các bên tranh chấp đủ tin cậy để có thể trao đổi những lập
trường riêng đích thực của họ trong vụ tranh chấp. Quá trình hoà giải mang tính chất
tự nguyện, mềm dẻo và không bắt buộc, thông thường việc hoà giải diễn ra nhanh
chóng với chi phí vừa phải. Các vụ giải quyết tranh chấp bằng hoà giải có thể rất đơn
giản hoặc có thể lớn và phức tạp, có thể chỉ có hai bên hay nhiều bên tham gia tranh
chấp.
Trong quá trình hoà giải tính đối kháng của các bên ít quyết liệt hơn so với các
hình thức giải quyết tranh chấp bằng toà án hoặc trọng tài do vậy đặc trưng của việc
hoà giải là cho phép duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài và đưa ra những giải pháp hữu
hiệu. Các bên có thể xoá bỏ vai trò của người hoà giải vào bất cứ thời điểm nào mà họ
muốn, người hoà giải không áp đặt quan điểm riêng của mình cho các bên mà để các
bên thoả thuận và thể hiện bằng văn bản có giá trị bắt buộc cho cả hai bên. Khi người
hoà giải nắm được các sự kiện, nguyên nhân các tình tiết của vụ tranh chấp đồng thời
lại biết được những chi tiết riêng tư trong lập trường của từng bên thì họ có thể tháo gỡ
hoặc góp phần làm giảm đi những bất đồng, những rào cản và khác biệt trong quan
điểm của các bên theo những cách thức, lập luận, dẫn dắt của mình nếu chỉ có các bên
tranh chấp với nhau cùng với những lập trường riêng của họ thì không thể giải quyết
nổi.
Nhìn chung hoà giải là phương pháp giải quyết tranh chấp nhanh, tiết kiệm chi
phí, nỗ lực giải quyết tranh chấp của các bên cùng với sự đóng góp của hoà giải viên
sẽ làm cho tiến trình hoà giải diễn ra nhanh chóng và mang lại kết quả theo mong
muốn của các bên.
1.2.2.3. Ưu, nhược điểm của giải quyết tranh chấp dân sự bằng hòa gi ải
Ưu điểm của phương thức hòa giải là đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, sự linh
hoạt, hiệu quả, ít tốn kém. Hòa giải còn có thêm ưu điểm vượt trội do người thứ ba
9


(thường là người có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực đang
tranh chấp) mang lại. Họ sẽ là người biết cách làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau

trong quá trình đàm phán để loại trừ tranh chấp. Trường hợp các bên tranh chấp khả
năng nhận thức hạn chế trong lĩnh vực đang tranh chấp thì dùng phương thức hòa giải
sẽ có khả năng thành công cao hơn thương lượng. Kết quả hòa giải được ghi nhận và
chứng kiến của người thứ ba nên mức độ tôn trọng và tuân thủ các cam kết đạt được
trong quá trình hòa giải cũng cao hơn.
Hạn chế của hòa giải là dù có sự trợ giúp của người thứ ba làm trung gian mà
một bên không trung thực, thiếu sự thiện chí, hợp tác trong quá trình đàm phán thì hòa
giải cũng khó có thể đạt được kết quả mong đợi. Ngoài ra, chính phải sử dụng đến bên
trung gian nên uy tín, bí mật của các bên cũng dễ bị ảnh hưởng hơn quá trình thương
lượng. Bên cạnh đó, chi phí cho quá trình giải quyết bằng hòa giải cũng tốn kém hơn
do phải trả phí cho bên trung gian.
1.2.3. Hiệu lực của thương lượng, hòa giải
Thương lượng, hòa giải là các phương thức giải quyết tranh chấp trên cơ sở tự
nguyện của các bên. Biên bản thỏa thuận, hòa giải không phải là một bản án nên việc
thực hiện phương án thương lượng, hòa giải mà các bên đã đạt được không mang tính
cưỡng chế. Đây là điểm làm hạn chế hiệu lực thi hành các kết quả thu được từ quá
trình giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải.
1.2.4. Ý nghĩa của thương lượng và hòa giải trong giải quyết tranh chấp
tranh chấp
Thứ nhất: Nâng cao đạo đức trong đời sống sinh họat và giá trị xã hội. Lành
mạnh các quan hệ xã hội “lấy thiện bỏ ac, lấy minh bỏ tham”. Tăng tính tích cực của
xã hội dân sự lấy “đối thọai” thay cho “đối đầu”.
Thứ hai: Ý thức tự giác xã hội cao của các chủ thể, tiến tới xã hội văn mình, ổn
định, cùng tồn tại hòa bình, cùng nhau phát triển.
Thứ ba: Giảm bớt chi phí tranh chấp và khối lượng công việc của Tòa án.

10


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ BẰNG THƯƠNG

LƯỢNG VÀ HÒA GIẢI
2.1. Đánh giá chung về tình hình giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam
hiện nay
Từ khi chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta đã đạt được những
thành tựu đáng kể về kinh tế, đất đai, dân sự,… nhất là những năm gần đây liên tục
tăng trưởng. Các quan hệ pháp luật dân sự cũng ngày càng được củng cố và phát triển,
các quan hệ hợp đồng dân sự giữa các chủ thể trong nước với nhau và giữa chủ thể
trong nước với chủ thể nước ngoài cũng ngày càng phát triển đa dạng tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Thời gian qua tranh chấp dân sự xảy ra chủ yếu và có tính chất phổ biến ở các lĩnh
vực dân sự: Hôn nhân gia đình, đất đai, tranh chấp,…Đồng thời các tranh chấp có yếu
tố nước ngoài trong lĩnh vực dân sự với nội dung phức tạp vì liên quan đến luật pháp
quốc tế, pháp luật dân sự,pháp luật đất đai liên quan đến các loại tài sản có giá trị lớn
như hàng hóa xuất nhập khẩu, đất đai,…
Tranh chấp dân sự thường liên quan đến nhiều đối tượng, có những vụ án các đối
tượng có quyền và nghĩa vụ liên quan lại là các chủ thể tham gia các quan hệ tố tụng
khác (hình sự, thương mại, hành chính...) nên việc giải quyết gặp không ít khó khăn
phức tạp và mất nhiều thời gian để điều tra xác minh, thu thập chứng cứ và áp dụng
pháp luật.
Đương sự trong các vụ án dân sự thường có trình độ học vấn không được cao, ít
hiểu biết nhất định về mặt pháp luật. Mặt khác, nếu không thực hiện tốt việc phân tích,
thuyết phục thì hai bên đương sự cũng khó chấp nhận, thoả thuận với nhau bằng biện
pháp thương lượng, hòa giải để giải quyết các tranh chấp dân sự đã phát sinh giữa các
bên.
2.2. Những kết quả đạt được
Với những điểm tiến bộ của BLTTDS năm 2015, thực tiễn áp dụng các quy định
về thương lượng và hòa giải đã ghi nhận nhiều điểm thuận lợi, hợp lý hơn. Từ đó, hoạt
động thương lượng và hòa giải cũng đạt có hiệu quả cao hơn.
Một trong những điểm mới trong BLTTDS là quy định nguyên tắc tiến hành
thương lượng và hòa giải. Nguyên tắc thương lượng và hòa giải là tư tưởng mang tính

chỉ đạo, định hướng cho việc thực hiện hoạt động thương lượng và hòa giải. Khi các
11


Thẩm phán tiến hành hòa giải theo những nguyên tắc do pháp luật quy định sẽ đảm
bảo phát huy được hết giá trị đích thực và quan trọng của hoạt động hòa giải trong tố
tụng.
Thủ tục thương lượng và hòa giải được BLTTDS năm 2015 quy định khá chi tiết
từ việc thông báo của Thẩm phán, nội dung cụ thể của biên bản hòa giải, đến việc ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự cũng như hiệu lực của quyết
định này. Do Pháp lệnh trước kia chưa có những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục
chi tiết về hoạt động thương lượng và hòa giải nên dẫn tới hiện tượng mỗi tòa án địa
phương tiến hành thương lượng và hòa giải theo cách riêng của mình. Có Tòa án việc
hòa giải do Thẩm phán trực tiếp tiến hành, có Tòa án lại giao cho thư ký tiến hành, vì
thế hiệu quả của công tác hòa giải bị hạn chế nhiều. Ngoài ra, trong trường hợp vụ án
có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt trong phiên hòa giải thì các Thẩm phán
cũng có những cách xử lý khác nhau. Có những Tòa án hoãn để hòa giải vào buổi
khác. Việc hoãn phiên hòa giải diễn ra nhiều lần, làm mất thì giờ vào tạo tâm lý chán
nản cho các đương sự. Đến BLTTDS năm 2015 đã được pháp luật quy định rõ nên tạo
được sự thống nhất, giải quyết nhanh chóng vụ án và đạt được mục đích, hiệu quả
thương lượng và hòa giải.
Những quy định mới, tiến bộ của BLTTDS về hoạt động hòa giải đã nâng cao
hiệu quả của thương lượng và hòa giải vụ án dân sự trong thực tiễn tố tụng dân sự.
Điều này được thể hiện trong báo cáo tổng kết công tác xét xử hàng năm của Tòa án
nhân nhân tối cao (TANDTC), các vụ án dân sự thương lượng và hòa giải thành chiếm
tỉ lệ tương đối cao trong tổng số các vụ việc dân sự đã được giải quyết.
Nhận thức được tầm quan trọng của thương lượng và hòa giải nên trong thực
tiễn, nhiều Thẩm phán đã rất kiên trì, tích cực và tìm mọi cách khuyến khích các bên
đương sự thương lượng và hòa giải với nhau. Bài viết “Toà nỗ lực hoà giải, hướng đến
kết thúc có hậu” của tác giả Hoàng Yến đăng trên báo Pháp luật thành phố Hồ Chí

Minh đã thể hiện rõ nỗ lực hòa giải của các Thẩm phán trong thực tiễn:
Ngày 26-11-2017, Tòa Phúc thẩm TANDTC tại thành phố Hồ Chí Minh đã mở
phiên xử vụ án yêu cầu hủy bỏ quyết định kỷ luật buộc thôi việc của giám đốc Sở Giáo
dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh của ông Võ Hải Bình. Tại phiên phúc thẩm
này, ông Bình vẫn không thừa nhận sai phạm, cho rằng đuổi việc là quá khắt khe. Phía
bị kiện cũng không rút lại quyết định kỷ luật. Không khí phiên xử khá căng thẳng.
12


Nhưng đến gần cuối phần xét hỏi, khi được Hội đồng xét xử phân tích cho thấy những
sai lầm của mình, ông Bình nhận thức được mình có lỗi. Phiên xử có thể khép lại
nhanh gọn vì đã làm rõ quyết định cho thôi việc là có căn cứ nhưng Hội đồng xét xử
lại từ tốn chuyển vụ án sang một cách giải quyết khác mang tính tích cực cho hai bên.
Một Thẩm phán lên tiếng khuyên bên Sở nên rút lại quyết định cho thôi việc.
Nhưng đại diện phía Sở lại phản đối. Hội đồng xét xử đã khéo léo lý giải: Việc rút lại
quyết định không phải vì Sở làm sai mà vì tính nhân văn đối với một giáo viên nhiều
tuổi nghề, bởi phút cuối ông Bình đã thừa nhận sai phạm. Thẩm phán lại phân tích với
vị đại diện phía Sở: Anh hãy bình tâm suy nghĩ lại, khi người khác nhận khuyết điểm
lý ra mình cũng phải giàu tính nhân ái mà xem xét khi xử lý. Hội đồng xét xử sẽ cho
thời gian để phía Sở về cân nhắc lại, đưa ra một mức phạt thấp hơn nhưng có thể chấp
nhận. Để xử theo pháp luật thì rất dễ, tuy nhiên chúng tôi băn khoăn xử thế thì ngành
giáo dục cũng mang tiếng là "sao ta không chọn một giải pháp trung hòa khi người sai
phạm đã nhận ra lỗi của mình...". Sau đó chủ tọa nhắc nhở ông Bình: Ban đầu Hội
đồng xét xử không đồng tình với thái độ của ông nhưng đến phút cuối ông đã có nhận
thức đúng đắn. Hội đồng xét xử mong muốn Sở có thể đưa ra một hình thức kỷ luật
nhẹ hơn. Tòa hy vọng mở ra một hướng giải quyết mang nhiều cái tình hơn...Trước
những nỗ lực của Hội đồng xét xử, hai bên đã đồng ý xin tòa cho hoãn phiên tòa để
thỏa thuận lại.
2.3. Những hạn chế tồn tại
Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, thực tiễn hoạt động thương lượng và hòa

giải của Tòa án nhân dân các cấp trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự đã bộc lộ
những tồn tại và vướng mắc.
Thứ nhất: Về thủ tục thương lượng và hòa giải: Các quy định quá cứng nhắc ở
thủ tục thương lượng và hòa giải trong tố tụng có thể làm một bên tham gia tranh chấp
trục lợi. Pháp luật qui định nếu bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn
vắng mặt thì vụ việc sẽ được đưa ra xét xử. Vấn đề là ở chỗ: thế nào là triệu tập hợp lệ,
và chuyện gì sẽ xảy ra nếu một bên có mặt một buổi, rồi lại vắng mặt một buổi? Nhiều
thư ký tòa án đã căn cứ vào giấy ủy quyền không hợp lệ mà coi một bên vắng mặt
trong buổi thương lượng và hòa giải, hoặc giải thích rằng “triệu tập hợp lệ” là phải có
tống đạt tại nơi cư trú bởi cơ quan công an. Như vậy bao nhiêu lần tống đạt bằng thư
đến nơi cư trú của bị đơn đều bị coi là “không hợp lệ”. Ngay cả khi nguyên đơn và bị
13


đơn đều có mặt tại buổi thương lượng và hòa giải, song không có mặt người có quyền
và nghĩa vụ liên quan, cũng khiến buổi thương lượng và hòa giải được giải thích là
không thể tiến hành.
Ngoài ra, tuy pháp luật qui định thẩm phán phải chủ trì hòa giải, song trong nhiều
trường hợp buổi hòa giải do thư ký chủ trì và ghi biên bản. Điều này dẫn đến việc biên
bản hòa giải sau này có thể coi là sai về mặt tố tụng và bị kháng cáo, thậm chí giám
đốc thẩm.
Thứ hai: BLTTDS không quy định cách giải quyết trong trường hợp các đương
sự chỉ thỏa thuận giải quyết được một phần nội dung vụ án
BLTTDS đã quy định rõ hậu quả pháp lý trong trường hợp các đương sự thỏa
thuận được toàn bộ vụ án. Tuy nhiên Bộ luật không quy định cách giải quyết trong
trường hợp các đương sự chỉ thỏa thuận giải quyết được một phần nội dung vụ án nên
trong thực tiễn các Tòa án có nhiều cách giải quyết khác nhau: Hội đồng xét xử có thể
ghi nhận phần các đương sự thỏa thuận được trong bản án hoặc Hội đồng xét xử sẽ ra
một quyết định riêng công nhận sự thỏa thuận của đương sự đối với phần thỏa thuận
được.

Nếu Tòa án ghi nhận phần các đương sự thỏa thuận được trong bản án thì sẽ đơn
giản về mặt thủ tục. Tuy nhiên, các đương sự có thể kháng cáo phần thỏa thuận đó, từ
đó có thể lợi dụng để kéo dài thời gian tố tụng. Nếu Tòa án ra một quyết định riêng để
công nhận phần các đương sự thỏa thuận được sẽ rất khó khăn nếu phần các đương sự
thỏa thuận được và phần các đương sự không thỏa thuận được có liên quan chặt chẽ
với nhau. Bởi Tòa án không thể vừa ra quyết định công nhận sự thỏa thuận và vừa ra
bản án để giải quyết một quan hệ pháp luật tranh chấp. Do đó, việc Tòa án ghi nhận
phần các đương sự thỏa thuận được trong bản án hoặc Tòa án ra một quyết định riêng
để công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì cần tùy vào từng trường hợp, căn cứ
vào vụ án có một hay nhiều quan hệ pháp luật. Có như vậy thì việc áp dụng pháp luật
trên thực tế mới hợp lý và thống nhất.
Thứ ba: Một số Tòa án chưa quan tâm đúng mức đến công tác thương lượng và
hòa giải
Nhiều trường hợp, Thẩm phán chịu trách nhiệm giải quyết vụ án còn coi nhẹ
công tác thương lượng và hòa giải, chưa chủ động tìm hiểu nội dung vụ án nên khi tiến
hành thương lượng và hòa giải bị lúng túng, không xác định được nguyên nhân, nguồn
14


gốc phát sinh mâu thuẫn dẫn đến không giải quyết kịp thời không khí căng thẳng giữa
các đương sự. Ngoài ra, ở một số nơi Tòa án tiến hành thương lượng và hòa giải một
cách hình thức, chiếu lệ cho đúng thủ tục...nên hiệu quả hòa giải không cao.
Thứ tư: Vẫn còn ghi nhận nội dung thỏa thuận trái quy định pháp luật
Một trong những nguyên tắc của hòa giải là: Nội dung thỏa thuận giữa các đương
sự không được trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Chỉ khi thỏa thuận của các
đương sự đáp ứng điều kiện này thì Tòa án mới công nhận thỏa thuận của các đương
sự. Tuy nhiên, trên thực tế, xuất phát từ nhiều nguyên nhân mà một số Tòa án đã ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khi những thỏa thuận này trái
quy định của pháp luật như thỏa thuận về lãi suất cho vay không tuân theo quy định tại
Bộ luật dân sự năm 2015.

Thứ năm: Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có nội dung khác
với biên bản hòa giải thành
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự là văn bản ghi nhận nội dung
thỏa thuận của các đương sự, thể hiện trong biên bản hòa giải thành đã lập trước đó.
Nhưng không hiểu do vô tình hay cố ý mà nhiều trường hợp quyết định công nhận sự
thỏa thuận của đương sự có nội dung sai lệch so với biên bản hòa giải, không thể hiện
đúng ý chí thỏa thuận của đương sự.

15


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG NHẰM HOÀN THIỆN HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ BẰNG THƯƠNG
LƯỢNG VÀ HÒA GIẢI
3.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết
tranh chấp dân sự bằng thương lượng và hòa giải
3.1.1. Về thủ tục thương lượng và hòa giải
Các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự nên được bổ sung theo
hướng đơn giản hóa thủ tục thương lượng và hòa giải và triệu tập các đương sự đến
buổi thương lượng và hòa giải. Nếu có đương sự vắng mặt sau khi đã xác nhận giấy
triệu tập đã gửi bằng thư bảo đảm và đương sự đã nhận được, thì đương nhiên coi đó là
căn cứ để có thể xét xử vắng mặt đương sự lần sau. Ngoài ra, đương sự không có
quyền vắng mặt quá 2 lần không có lý do chính đáng (không cần phải là 2 lần liên tục).
Nếu đương sự vắng mặt thì tòa án vẫn hòa giải tranh chấp liên quan đến các đương sự
có mặt. Nếu việc hòa giải về bản chất không thể thiếu sự đồng ý của đương sự vắng
mặt thì mới coi việc vắng mặt là sự kiện dẫn đến việc tạm hoãn buổi hòa giải.
3.1.2. Nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân
Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp dân sự là
trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, sự tôn trọng pháp luật của một bộ phận
nhân dân còn hết sức hạn chế. Mặt khác, do thiếu hiểu biết pháp luật nên khi tham gia

tố tụng, đương sự vẫn không nắm bắt được quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, làm
công tác thương lượng và hòa giải gặp nhiều khó khăn. Việc nâng cao trình độ pháp
luật cho nhân dân theo yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật hiện nay đang là vấn
đề cấp thiết.
Để nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân cần triển khai đồng bộ các hình
thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật: Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng, tuyên truyền thông qua các hội nghị, tuyên truyền thông qua công tác hòa giải
ở cơ sở, qua công tác xét xử, qua tủ sách pháp luật… Bên cạnh việc phát huy ngày
càng hiệu quả các hình thức này, đối với các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng
núi cần lựa chọn những hình thức thích hợp như: Phát sách nhỏ hướng dẫn thực hiện
luật; thành lập các trung tâm thông tin pháp luật gắn với hoạt động của các trung tâm
học tập cộng đồng; tổ chức nói chuyện thường xuyên về pháp luật ở các tụ điểm dân
cư…Trong đó, cần tuyên truyền phổ biến ý nghĩa của công tác thương lượng và hòa
16


giải để nâng cao nhận thức của nhân dân về vai trò, ý nghĩa của thương lượng và hòa
giải trong đời sống cũng như trong tố tụng dân sự để hiệu quả thương lượng và hòa
giải được cao hơn.
3.1.3. Tăng cường hoạt động hòa giải ở cơ sở
Thực tiễn cho thấy Tổ hòa giải ở cơ sở hàng năm đã giải quyết kịp thời rất nhiều
vụ việc mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, không để các mâu thuẫn nhỏ phát triển thành
phức tạp, từ đó góp phần giảm bớt các tranh chấp phải yêu cầu Tòa án giải quyết.
Để Tổ hòa giải ở cơ sở phát huy vai trò của mình thì cần có sự quan tâm thích
đáng của nhà nước thông qua việc bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp lý, kỹ năng hòa
giải cho đội ngũ hòa giải viên. Đồng thời tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho hoạt động
của Tổ hòa giải ở cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải.
3.1.4. Về xây dựng pháp luật
Sau hơn hai năm thi hành BLTTDS, có thể nói BLTTDS đã góp phần quan trọng
trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo

vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tuy
nhiên, qua thực tiễn thi hành Bộ luật trong những năm qua cho thấy một số quy định
của BLTTDS nói chung và của chế định thương lượng và hòa giải nói riêng đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập; có những quy định còn chưa thống nhất với các văn bản quy
phạm pháp luật khác; có những quy định chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp),
chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau…cần được sửa đổi.
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự
bằng thương lượng và hòa giải
Thứ nhất: Hoàn thiện pháp luật về thương lượng và hòa giải về giải quyết tranh
chấp dân sự trong tố tụng và xây dựng pháp luật về thương lượng và hòa giải ngoài tố
tụng trên cơ sở thực tiễn hoạt động thương lượng và hòa giải trong nước và kinh
nghiệm hòa giải của các quốc gia trên thế giới.
Thứ hai: Vận dụng linh hoạt các nguyên tắc kinh nghiệm của các cơ quan giải
quyết tranh chấp dân sự trên thế giới.
Thứ ba: Xây dựng và đào tạo hệ thống người thương lượng và hòa giải trên cơ sở
người thương lượng; hòa giải phải có kỹ năng thương lượng; hòa giải.

17


PHẦN KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu thương lượng và hòa giải về giải quyết tranh chấp
dân sự trong BLTTDS, chúng ta có thể nhận thấy được ý nghĩa rất quan trọng của
thương lượng và hòa giải trong tố tụng dân sự. Thương lượng và hòa giải không những
có ý nghĩa kinh tế, xã hội mà còn thể hiện tính khoa học trong lĩnh vực pháp lý và hoạt
động của Tòa án. Bên cạnh đó, thương lượng và hòa giải không chỉ bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các đương sự mà còn đem lại tính đoàn kết trong nhân dân và thông
qua hoạt động này Tòa án còn thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân.


18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[[[[ơ

1. Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
3. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng dân sự, Hà
Nội.
4. Bùi Đăng Huy, “Hòa giải trong tố tụng dân sự - Thực tiễn và hướng hoàn
thiện”, Luận án thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2016.
5. Quách Mạnh Quyết, “Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân
sự_vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay”, công trình dự thi giải
thưởng “sinh viên nghiên cứu khoa học”, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2015.
6. Trần Văn Quảng, “Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
- Cơ sở lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2014.
7. Trần Huy Liệu (2016), “Thực trạng tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở”,
Thông tin khoa học pháp lý, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

19



×