Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

BCĐ TTSP TRƯỜNG đh HOA lư CỘNG hòa xã hội CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.84 KB, 28 trang )

BCĐ TTSP TRƯỜNG ĐH HOA LƯ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự Do – Hạnh phúc

BCĐ TTSP TRƯỜNG THPT
NINH BÌNH – BẠC LIÊU

BÁO CÁO THU HOẠCH CỦA SINH VIÊN
Họ và tên: Trần Thị Thương
Giới tính: Nữ
Năm sinh: 1997
Chuyên ngành đào tạo: Sư phạm Toán
Lớp: D8 Toán
Trường: Đại học Hoa Lư
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa đào tạo: 2015 -2019
Thực tập dạy học và chủ nhiệm lớp: 10D tại trường THPT Ninh
Bình – Bạc Liêu
Từ ngày 26/2/2018 đến ngày 24/3/2108

1


Thế là 4 tuần thực tập đã trôi qua chúng em cũng đã hoàn thành đợt thực tập với
kết quả xứng đáng với năng lực và sự cố gắng của mình. Để có được kết quả như
ngày hôm nay, em không thể nào quên công lao của các thầy cô đã nâng bước chân
em đến với nghề em yêu thích.
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô trường Đại học
Hoa Lư đã tạo điều kiện cho em cùng với các ban đi thực tập sư phạm để có thể


mở rộng kiến thức, thu nhập kinh nghiệm nghề nghiệp.
Ông cha ta có câu “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Các thầy cô trường THPT Ninh
Bình – Bạc Liêu, giáo viên hướng dẫn nhóm em là cô Hương chỉ hướng dẫn, giúp
đỡ chúng em trong thời gian ngắn nhưng những lời chỉ dạy quý báu lại là những
kiến thức vững chắc, hỗ trợ đắc lực cho chúng em trong sự nghiệp trồng người của
mình sau này.
Em xin chân thành cảm ơn:
 Hiệu trưởng: Thầy Vũ Văn Nam
 Hiệu phó: Thầy Lê Trọng Hòa, Thầy Nguyễn Công Minh, Cô
Nguyễn Thị Minh Hoa
 Giáo viên hướng dẫn chủ nhiệm cô: Trần Thi Thanh Hương
 Giáo viên hướng dẫn giảng dạy cô: Phạm Thị Thu Hằng
Bên cạnh đó góp phần giúp em hoàn thành nhiệm vụ thực tập của mình không thể
kể đến những đóng góp của các em học sinh lớp 10D, cùng với những tình cảm
các em dành cho em là nguồn động lực thôi thúc em hoàn thành đợt thực tập của
mình.
Em xin giữ mãi kỉ niệm đẹp về trường THPT Ninh Bình – Bạc Liêu, nơi em từng
đến thực tập. Em kính chúc quý thầy cô mạnh khỏe, công tác tốt. Với những tình
cảm các em học sinh dành cho mình chúng em sẽ nhớ mãi.

2


Trong thời gian thực tập sư phạm ở trường Trung học phổ thông Ninh Bình – Bạc
Liêu nhờ có sự quan tâm ân cần giúp đỡ nhiệt tình của BGH nhà trường, cùng với
giáo viên bộ môn và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của giáo viên chủ nhiệm cô
Trần Thị Thanh Hương , đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho em hoàn thành tốt nhiêm
vụ thực tập này, bắt đầu từ ngày 26/2/2018 đến ngày 24/3/2018, bản thân em đã
xác định rõ mực đích của đợt thực tập này là: nắm được phương pháp giảng dạy
môn Toán trong trường phổ thông, nắm được hoạt động chủ nhiệm, nhằm củng cố

nâng cao kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp, học hỏi thêm những kinh nghiệm quý
báu ở thầy cô và bạn bè ở trường. qua những tiết dự giờ, tiết sinh hoạt chủ nhiệm,
những đợt rút kinh nghiệm tiết dạy. Và em cũng xác định rõ mục đích nghiên cứu
là nhằm phục vụ cho việc giảng dạy và công tác chủ nhiệm sau này.
Sau gần 3 năm học tập tại trường Đại học Hoa Lư, em đã học được rất nhiều điều
từ trong sách vở và những kiến thức do giáo viên truyền thụ, tuy nhiên cần trở
thành một giáo viên giỏi, điều quan trọng không phải là chỉ biết bám vào sách vở
mà phải biết thực hành áp dụng vào thực tiễn những gì mình đã học được, hướng
phấn đấu tương lai của em là sẽ cố gắng hết mình để trở thành một giáo viên giỏi,
nên em muốn được thực hành tại trường THPT Ninh Bình – Bạc Liêu, thực tập tại
trường sẽ giúp em học hỏi những phương pháp giảng dạy của thầy cô trong trường
và hơn nữa em sẽ biết được các hoạt động chủ nhiệm lớp, cách quản lý lớp là như
thế nào, đợt thực tập này sẽ giúp em chủ động làm quen với môi trường sinh hoạt
mới và môi trường đó, em với t tư cách là một giáo viên, điều đó giúp em vững
bước đi đến con đường tương lai của mình.
Trong quá trình thực tập dưới sự chỉ dẫn của thầy cô tại trường và những gì em
học hỏi được trong những tiết dự giờ và lên lớp sinh hoạt, những điều đó giúp ít rất
nhiều cho công tác giảng dạy và công tác chủ nhiệm của em sau này vì em đã được
làm quen với cách giảng dạy trên lớp và cách xử lý tình huống sảy ra trên lớp, cũng
như là biết cách gần gũi với các em học sinh để nắm bắt tình cảm của các em.
Trong bốn tuần thực tập, tuy không phải là thời gian dài, nhưng cũng giúp cho
em một phần nào biết được các phương pháp giảng dạy ở trường, em đã được vào
dự giờ nhiều tiết dạy của giáo viên trong trường, sau đó em cũng được họp rút kinh
nghiệm cùng thầy cô ở tổ, thầy cô đã chỉ ra những ưu điểm và những sơ xuất nhỏ
3


của các thầy cô. Mỗi người có một phương pháp dạy riêng, và các phương pháp đó
có một điểm chung là đều tạo ra sự thích thú cho học sinh khi tham gia vào tiết
học. Qua đó em cũng học hỏi được rất nhiều điều và đó là hành trang để em bước

đi trên con đường tương lai. Qua 4 tuần, em cũng gặt hái được nhiều thành quả, em
biết được cách quản lý lớp học như thế nào, ngoài những buổi chính khóa em còn
tham gia vào các hoạt động ngoài giờ như Rung chuông vàng, hoạt động cắm hoa
chào mừng ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3, quản lý các em diễn tập cho Thành Phố, chỉ
đạo các em làm lao động và em biết cách soạn một bài giáo án hoàn chỉnh.
Trong đợt thực tập này em nghiên cứu những phương pháp dạy học ở trường, các
trình tự để dạy một bài học, cách gây sự chú ý của học sinh đến bài học, dùng các
phương pháp trực quan sinh động, dùng nhiều hình ảnh và củng cố kiến thức, từ đó
em tìm ra phương pháp giảng dạy riêng cho mình. Đồng thời em cũng nghiên cứu
về công tác chủ nhiệm lớp, được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô Trần Thị Thanh
Hương em cùng các bạn trong nhóm đã hoàn thành được lần sinh hoạt lớp đầu tiên
tạo không khí gần gũi đoàn kết với các em học sinh. Em biết được cách xử lý các
trường hợp vi phạm, biết cách soạn giáo án sinh hoạt, cách điều khiển các em chơi
trò chơi trên lớp, tự tin để đứng trước lớp sinh hoạt.
Bên cạnh giáo viên hướng dẫn Phạm Thị Thu Hằng đã tận tình chỉ dạy góp ý giáo
án giúp em tự tin về kiến thức hoàn thành tiết dạy, các em học sinh đóng vai trò
quan trọng trong quá trình thực tập của em, cụ thể là các em học sinh lớp 10D, ban
đầu các em còn e dè không muốn tiếp xúc với em, nhưng sau vài ngày các em đã
chủ động đến trò chuyện cùng em và tham gia giúp đỡ em hoàn thành tiết dạy của
mình. Qua 4 tuần em cũng tìm hiểu được một phần nào tính cách và những ước mơ
tương lai của các em.
Bài bắt đầu bài thu hoạch này ngay sau khi em hoàn thành xong đợt thực tập tại
trường THPT Ninh Bình – Bạc Liêu.

4


PHẦN NỘI DUNG
Sơ lược đặc điểm tình hình chung của trường
- Tổng số lớp: 19 lớp

- Tổng số học sinh: 617 học sinh
+ Khối 10: 228 học sinh
+ Khối 11: 205 học sinh
+ Khối 12: 184 học sinh
- Tổng số cán bộ, giáo viên, công nhân viên: 53
+ Văn phòng: 7 người
+ Giáo viên: 46 người
I.
Tìm hiểu công việc ở trường phổ thông:
1. Tìm hiểu thực tế của nhà trường:
21 năm thành lập, xây dựng và trưởng thành, Trường THPT Ninh Bình – Bạc
Liêu dần hình thành quy mô đào tạo, đầu tư cơ sở vật chất trường lớp để không
ngừng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Hiện trường có 19 lớp với trên
dưới 1 nghìn học sinh, mỗi năm có từ 300-350 học sinh vào lớp 10, khoảng 300
học sinh lớp 12 thi tốt nghiệp ra trường. Trường hiện có 26 cán bộ, giáo viên cơ
hữu. Toàn Hội đồng giáo dục nhà trường có 50 cán bộ, giáo viên đạt chuẩn, trong
đó có 6 thạc sĩ, 12 giáo viên giỏi cấp tỉnh…
Là trường không tổ chức thi tuyển, học sinh tuyển lại sau các trường công lập
nên chất lượng giáo dục đại trà và đặc biệt chất lượng mũi nhọn của trường gặp
nhiều khó khăn. Song tập thể cán bộ, giáo viên và học sinh trường THPT Ninh
Bình – Bạc Liêu đã nỗ lực vượt khó, vươn lên hoàn thành nhiệm vụ trong các năm
học và có những thành tích bước đầu đáng trân trọng: Hàng năm tỷ lệ học sinh lên
lớp đạt từ 95-98%, học sinh lớp 12 đỗ tốt nghiệp từ 99-100%. Học sinh thi đỗ vào
các trường đại học, cao đẳng chiếm trên 50%, trong đó đỗ vào đại học từ 10-20%.
Hàng năm đều có học sinh đạt giải HSG cấp tỉnh. 20 năm qua nhà trường đã đào
tạo cho trên 5.400 học sinh ra trường; có 116 giải HSG cấp tỉnh, trong đó có em
tham gia đội tuyển HSG khu vực đồng bằng sông Hồng, đội tuyển HSG Quốc
gia…

5



Mặc dù điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chật hẹp, nhưng các phong trào
văn hoá, văn nghệ, TDTT vẫn được thầy và trò nhà trường cố gắng duy trì và phát
triển. Trường đã đạt 105 các giải nhất, nhì, ba toàn đoàn và cá nhân, 12 cờ thi đua
trong các hội thi, cuộc thi của ngành, của tỉnh và toàn quốc… Chi bộ Đảng và các
tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên liên tục đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh
và tiên tiến xuất sắc…
Với sự cố gắng, nỗ lực của thầy và trò nhà trường, 20 năm qua, trường THPT
Ninh Bình – Bạc Liêu đã được tặng 3 cờ thi đua xuất sắc của UBND tỉnh, 5 Bằng
khen của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh, Bằng khen của Bộ GD&ĐT, Bằng khen của Thủ
tướng Chính phủ, Huân chương Lao động hạng Ba và nhiều Bằng khen, giấy khen
của các tập thể và cá nhân khác…
Được quyết định đổi tên trường và chuyển đổi thành trường công lập, cán bộ,
giáo viên và học sinh trường THPT Ninh Bình – Bạc Liêu quyết tâm phấn đấu dạy
và học, rèn luyện tốt hơn nữa, xứng đáng là một trường THPT biểu tượng cho tình
đoàn kết gắn bó giữa 2 tỉnh Ninh Bình - Bạc Liêu…
2. Tìm hiểu công việc của người giáo viên:
 Việc chuẩn bị lên lớp:
Chúng ta đều biết rằng dạy học là công việc vừa có tính khoa học lại vừa có
tính nghệ thuật, nó luôn đòi hỏi sự sáng tạo của người giáo viên trong quá
trình giảng dạy.Tuy nhiên, không thể có một sự sáng tạo nào mà lại thiếu đi
sự chuẩn bị chu đáo. Vì vậy, việc chuẩn bị lên lớp không những là điều cần
thiết mà còn là điều bắt buộc không chỉ đối với người giáo viên mới bước
vào nghề mà cả đối với giáo viên lâu năm, có nhiều kinh nghiệm.
Việc chuẩn bị lên lớp của người giáo viên bao gồm việc chuẩn bị dài hạn
cho cả năm học hoặc từng học kỳ và việc chuẩn bị lên lớp cho từng tiết học
cụ thể.
* Việc chuẩn bị dài hạn cho cả năm học hoặc từng học kỳ bao gồm những
công việc sau:

- Tìm hiểu học sinh lớp mình giảng dạy về kết quả học tập, giáo dục, thái độ
và phong trào học tập, tu dưỡng của lớp, đặc điểm tâm lý chung của lớp và
của những học sinh cá biệt, phong cách sư phạm của người giáo viên đã và
đang giảng dạy ở lớp đó. Trên cơ sở đó mà đề ra những yêu cầu hợp lý đối
với họ.
- Nghiên cứu kỹ chương trình, nội dung tài liệu học tập, trên cơ sở đó để thu
6


thập, lựa chọn tài liệu cho từng tiết học, phương pháp, phương tiện dạy học
và những hình thức dạy học thích hợp.
- Tìm hiểu những phương tiện dạy học có ở trường để tiến hành tạo nên
những phương tiện mới; những tài liệu, sách báo trong tủ sách nhà trường để
có kế hoạch cùng với học sinh xây dựng nên tủ sách của lớp. Qua đó mà có
những dự định đổi mới phương pháp dạy học.
- Với những tài liệu hướng dẫn của các cơ quan quản lý giáo dục và với sự
nghiên cứu, tìm hiểu nêu trên mà mỗi giáo viên, tập thể nhóm giáo viên xây
dựng kế hoạch dạy học theo từng chương mục cả năm học hay từng học kỳ
của mình.
* Việc chuẩn bị trực tiếp lên lớp bao gồm việc phân tích nội dung sách giáo
khoa, soạn giáo án và chuẩn bị những điều kiện cho việc lên lớp:
Về phân tích nội dung các bài trong sách giáo khoa, thường phải phân tích
về mạt khái niệm, về mặt logic, về mặt tâm lý, về mặt giáo dục và cuối cùng
là về mặt lý luận dạy học.
+ Phân tích về mặt khái niệm bao gồm: Việc xác định cấu trúc những tri
thức, nghĩa là việc xem xét những khái niệm cơ bản nào với những dấu hiệu
đặc trựng của chúng và những khái niệm thứ yếu; mức độ phức tạp của
những khái niệm đó; định rõ những tri thức phải nắm; những tri thức nào có
tính cất thông báo.
- Xác định khối tri thức mới và mối liện hệ với tri thức đã học.

- Trên cơ sở mối liên hệ giữa những khái niệm mới và khái niệm đã học mà
tổ chức cho học sinh tự lực hình thành hoặc giúp đỡ họ hình thành khái niệm
bằng con đường tái hiện hay sáng tạo.
- Xác định những khái niệm nào trong số đó cần đào sâu, mở rộng, hoặc
những khái niệm sẽ phải nghiên cứu sâu hơn trong các tiết học sau.
+ Phân tích về mặt logic: Là việc xác định trình tự của việc trình bày những
khái niệm đó. Muốn vậy, phải xác định mặt mâu thuẫn của thông tin như sự
kiện không tương ứng với quy luật, khái niệm đã biết.
+ Phân tích về mặt tâm lý: Bao gồm việc xác định tính vấn đề của tài liệu
học tập, có thể tạo nên tình huống có vấn đề và chúng có thể tác động đến
mặt cảm xúc của học sinh.
+ Phân tích về mặt giáo dục bao gồm:
-Xác định những khái niệm, quan điểm nào có tác dụng hình thành thế giới
quan khoa học, quan điểm chính trị, tư tưởng, quan điểm đạo đức, quan
7


điểm thẩm mỹ cho học sinh.
- Xác định những tài liệu học tập nào có liên quan đến thực tiễn xung quanh
học sinh, với điều kiện thực tế xây dựng kinh tế, xã hội đất nước.
+ Phân tích về mặt lý luận dạy học: Trên cơ sở kết quả những phân tích trên
mà xác định mục đích, yêu cầu, trọng tâm của tiết học, phương pháp,
phương tiện và hình thức tổ chức dạy học, tổ chức phối hợp hoạt động của
giáo viên và học sinh.
- Chính xác hoá khối lượng tài liệu bắt buộc phải nắm, bổ sung tài liệu cần
thiết, xác định trình tự những vấn đề cần trình bày.
- Xác định hệ thống các bài luyện tập vận dụng tri thức tại lớp và ở nhà;
cách hướng dẫn học sinh giải quyết.
- Chính xác hoá những biện pháp liên hệ nội nội dung tài liệu học tập với
cuộc sống, với thực tiễn xây dựng đất nước, với tri thức của các bộ môn

khác, những cơ sở hình thành thế giới quan khoa học.
- Chính xác hoá những nội dung, biện pháp kiểm tra tri thức của học sinh và
cách chỉ đạo cá biệt.
+ Về việc soạn giáo án: Giáo viên cần dựa trên kế hoạch dạy học theo chủ
đề, nội dung sách giáo khoa, trình độ tri thức của học sinh và những điều
kiện tiến hành bài dạy cụ thể mà xây dựng kế hoạch tiến hành từng kế hoạch
cụ thể.
Khi soạn giáo án cần xác định trạng thái tri thức ban đầu cần phải có để lĩnh
hội tri thức của tiết học và từ đó mà xác định trình độ tri thức của học sinh
lớp mình và đề ra các biện pháp khắc phục tình trạng hổng kiến thức của học
sinh (nếu có).
- Cần phải cố gắng nhìn trước tiến trình suy nghĩ, trạng thái tâm lý của học
sinh sẽ diễn ra để dự định những phương án thích hợp và xử lý kịp thời
nhằm điều khiển hoạt động nhận thức và những trạng thái xúc cảm của họ.
- Cần suy nghĩ biện pháp để phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo
của học sinh trong tiết học nhằm hình thành cho họ năng lực, phẩm chất tự
lực để họ có thể học tập liên tục, học tập suốt đời.
- Cấn suy nghĩ những biện pháp chỉ đạo cá biệt.
- Cần suy nghĩ cẩn thận những phương tiện dạy học cần thiết và cách sử
dụng chúng.
(Có những mẫu giáo án cụ thể, giáo viên có thể soạn theo những mẫu đó)
* Lên lớp:
8


- Lên lớp là hoạt động cụ thể của giáo viên nhằm thực hiện toàn bộ giáo án
đã vạch ra. Lên lớp là lĩnh vực đời sống tinh thần quan trọng nhất. Đây là lúc
người giáo viên và người học tiếp xúc với nhau. Chính trong thời gian đó
người giáo viên mới thể hiện đầy đủ tính khoa học và tính nghệ thuật trong
công tác dạy học và giáo dục của mình, thể hiện tầm hiểu biết, hứng thú,

niềm tin và nói chung là thế giới tinh thần của mình.
- Việc mở đầu tiết học có ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình sau này của tiết
học. Chính nó quyết định nhịp điệu của tiết học, trạng thái tình cảm của thầy
và trò.
- Tiết học hiện đại thường bắt đầu bằng việc tạo nên tình huống có vấn đề,
gây hứng thú và thu hút sự chú ý của học sinh vào những vấn đề, vào đề tài
của tiết học. Tiếp đó, tổ chức công tác tự lực của cá nhân hoặc hợp tác với
nhau theo từng nhóm để giải quyết vấn đề. Tiết học cũng có thể mở đầu
bằng công tác độc lập chung cho cả nhóm giải quyết một vấn đề dựa trên tri
thức đã học và việc giải quyết vấn đề đó có liên quan đến tri thức sắp học.
Tiến trình của tiết học không chỉ phụ thuộc vàp việc mở đầu tiết học mà còn
phụ thuộc cả vào việc thông báo đề bài, mục đích, yêu cầu của tiết học, tạo
cho họ có nhu cầu, hứng thú, chờ đợi tiếp nhận những tri thức mới mà tiết
học sẽ đem đến cho họ.
- Trong tiến trình tiết học, giáo viên phải chú ý duy trì được không khí tích
cực, hào hứng trong học sinh đối với bài học, luôn đặt họ ở trong những tình
huống phải tích cực hoá những tri thức, những kinh nghiệm đã có để giải
quyết vấn đề và thông qua đó mà lĩnh hội tri thức mới…
- Tư thế, tác phong của người giáo viên phải đúng mực, ăn mặc gọn gàng,
giản dị, ngôn ngữ rõ ràng, trong sáng, truyền cảm, nhịp điệu nói phù hợp với
từng hoàn cảnh cụ thể, biết cách thay đổi giọng nói.
Kết thúc tiết học phải làm sao đạt được mục đích, yêu cầu của tiết học.
* Sau khi lên lớp:
Sau tiết học, người giáo viên phải phân tích sư phạm một cách tổng hợp, cụ
thể cần làm sáng tỏ:
- Chất lượng của việc tích cực hoá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
- Chất lượng hình thành những khái niệm và kỹ năng, kỹ xảo.
- Chất lượng khái quát hoá và hệ thống hoá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
- Chất lượng ra bài về nhà và hướng dẫn học sinh tự học…
Từ sự phân tích tiết học đó, những kinh nghiệm thành công và thất bại rút ra

9


cần ghi lại phía dưới giáo án để những tiết học lần sau được tiến hành với
những kết quả cao hơn.

Thu hoạch cá nhân
1. Về nhận thức tư tưởng:
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và nền kinh tế tri thức, sự tác động của công
nghệ đã làm cho thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc và thường xuyên. Cùng với
mạng viễn thông toàn cầu cho phép trao đổi thông tin một cách nhanh chóng, việc
tiếp cận của mỗi người với tri thức nhân loại rất tiện lợi và với khối lượng lớn. Để
thích ứng với điều đó, giáo dục phải chuyển từ việc coi trọng truyền thụ tri thức
sang việc giáo dục cho mọi người khả năng tự học, tự giải quyết vấn đề, hợp tác
với nhau. Làm được điều đó, giáo dục mới cung cấp cho xã hội hiện đại những
người lao động mới phù hợp. Nhưng bên cạnh đó thì vị trí và vai trò trong giáo dục
của người giáo viên cũng rất quan trọng, đặc biệt là người giáo viên ở trường Phổ
thông trung học. Người giáo viên chính là cầu nối giữa học sinh với tri thức, với
những kỷ năng, kỷ xảo tương ứng cho học sinh; chuẩn bị đầy đủ cho học sinh hành
trang bước vào cuộc sống. Vậy vị trí và vai trò đó được thể hiện như thế nào?
Về vị trí của giáo viên Phổ thông trung học hiện nay, nghề dạy học là nghề
nghiệp ra đời tương đối sớm. Nó hình thành khi nền sản xuất xã hội phát triển đến
một trình độ nhất định. Trong quá trình lao động sản xuất người ta cần phải truyền
lại cho nhau những kinh nghiệm đấu tranh với thiên nhiên để tạo ra của cải vật chất
cho xã hội. Mới đầu ở mức thấp, người ta có thể truyền đạt một cách trực tiếp
thành quả lao động tập thể, người này theo kinh nghiệm của người khác, nhưng khi
kinh nghiệm đã phong phú theo sự phát triển của sản xuất thì truyền đạt phải đòi
hỏi đến vai trò của người trung gian.

10



Trong quá trình phát triển của lịch sử loài người, công việc giáo dục thế hệ
trẻ, chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống phù hợp với những yêu cầu của xã hội
đương thời đã sớm được tách riêng thành một chức năng xã hội đặc thù. Và chức
năng này dần dần được giao cho đội ngũ giáo viên. Từ đó nghề dạy học ra đời và
từ từ đã mang trong mình ý nghĩa to lớn.
Lịch sử phát triển của giáo dục và của nhà trường qua các thời kỳ xã hội đã
chứng minh giai cấp thống trị xã hội luôn có ý thức một cách sâu sắc và ý nghĩa
của giáo dục. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp thống trị đã tìm mọi
cách buộc đội ngũ giáo viên thực hiện ý đồ chính trị và tư tưởng đạo đức của giai
cấp mình. Trong xã hội có giai cấp bóc lột, đội ngũ giáo viên thường bị phân hóa,
chỉ có một bộ phận nhỏ giáo viên làm việc cho các trường dành cho con em các
tầng lớp trên là có điều kiện thuận lợi, còn lại đại bộ phận giáo viên có đời sống rất
khó khăn.
Người dạy học ở Việt Nam trong thời kỳ đất nước bị thực dân phong kiến
thống trị cũng chịu vô vàn gian khổ, không có vị trí xứng đáng với nghề nghiệp
của mình. Mặc dù như thế nhưng người giáo viên vẫn luôn được các nhà giáo dục
tiến bộ ca ngợi, như A.Đixtevec đã khẳng định: “Vị trí của người giáo viên là lớn
lao vô cùng vì đối tượng của sự chăm sóc của giáo viên không phải là hòn đất mà
là con người”. Hay nhà Giáo dục người Nga lại cho rằng: “Danh hiệu nhà giáo là
quan trọng, vĩ đại và thiêng liêng, vận mệnh của toàn bộ cuộc sống con người nằm
trong tay họ” … Giáo viên chính là người bồi dưỡng những tâm hồn, làm nãy nở
những ý chí, giáo viên gieo những hạt giống; không có giáo viên thế giới sẽ lùi vào
chỗ dã man.
Trong xã hội hiện nay, đất nước ta đã bước vào chế độ mới-chế độ xã hội
chủ nghĩa; trong điều kiện tiến bộ về kinh tế và xã hội, đất nước độc lập, tự chủ;
đang từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Người giáo viên
11



nói chung và giáo viên ở trường phổ thông trung học nói riêng đã thực sự được đưa
lên vị trí xã hội xứng đáng, có điều kiện để phát huy hết tài năng sáng tạo của
mình.
Trong sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện của đất nước ngày nay, người thầy
giáo đặc biệt được đảng và nhân dân coi trọng. Đảng ta đã khẳng định: “Giáo viên
là lực lượng cốt cán trong sự nghiệp phát triển văn hóa - giáo dục”, “là lực lượng
trung tâm quyết định chất lượng giáo dục – đào tạo”… Nên đã thường xuyên chăm
lo nâng cao uy tín của người giáo viên, cải thiện đời sống và điều kiện lao động
của họ. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh có dạy: “Có gì vẻ vang hơn là đào tạo những
thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người thầy giáo tốt,
xứng đáng là thầy giáo tốt, là người vẻ vang nhất dù tên tuổi không đăng trên báo,
không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người
anh hùng vô danh”; rồi Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã khẳng định vai trò to
lớn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước đó của giáo viên là: “Nghề của
anh chị em dính liền với những gì cao quý nhất của tổ quốc. Tất nhiên nghề nào
cũng cao quý cả nhưng nghề của anh chị là đáng yêu nhất ”. Hiện nay giáo dục
luôn được coi là “Quốc sách hàng đầu”, “chìa khóa mở cửa tiến vào tương lai”,
“động lực thúc đẩy mọi tiềm năng sẵn có của con người”… Không dửng dưng mà
nhân dân ta từ xưa đã có những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ như: “Không thầy
đố mày làm nên”, “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy
thầy”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”… Vì thế mà vị trí của người giáo viên luôn có
vị trí cực kỳ quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân của đất nước chúng ta.
Về vai trò của người giáo viên, hiện nay trong bối cảnh đổi mới giáo dục để
đáp ứng yêu cầu của sự biến đổi to lớn không ngừng xảy ra trên các lĩnh vực kinh
tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa và xã hội. Vai trò của người giáo viên Phổ thông
trung học lại càng quan trọng. Giáo dục hiện nay đang thay đổi theo hướng đảm
12



bảo mọi người đều được học để phát triển mọi mặt, nội dung giáo dục phù hợp với
yêu cầu của cá nhân và xã hội, phương pháp giáo dục phải hướng vào việc phát
huy vai trò chủ động, tích cực, tự giác, sáng tạo của người học. Vì thế mà vai trò
của giáo viên lại càng nặng nề hơn bao giờ hết.
+ Giáo viên là người đào tạo con người mới, đào tạo thế hệ tương lai cho đất
nước.
Trong xã hội ta tất cả mọi trẻ em, thế hệ trẻ đều được học tập và giáo dục,
đều chịu sự tác động của nhà trường, cụ thể là của thầy giáo, cô giáo – những
người kỹ sư tâm hồn. Bởi vì tác động giáo dục của giáo viên đối với học sinh là tác
động có chương trình, kế hoạch, nội dung, phương pháp và phương tiện thích hợp
nên tác động này có sự ảnh hưởng đến quá trình phát triển nhân cách của học sinh
vừa sâu sắc, vừa toàn diện có tác dụng đặt nền móng vững chắc, định hướng cho
quá trình phát triển lâu dài trong nhân cách của con người. Tác động giáo dục của
người giáo viên đối với học sinh có vai trò to lớn như vậy nên trong bài nói chuyện
với các thầy cô giáo Trường cấp II Quảng An năm 1966, Tổng bí thư Lê Duẩn
cũng đã khẳng định: “Đảng ta và nhân dân ta giao phó việc dạy dỗ con em của
mình cho các đồng chí, cũng tức là phó thác cho các đồng chí sứ mệnh đào tạo
tương lai cho đất nước…”.
Người giáo viên chính là người tổ chức, hướng dẫn, giảng dạy và giáo dục
cho học sinh; nhằm hình thành cho học sinh hệ thống tri thức khoa học, các kỹ
năng kỹ xảo vận dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức để giải quyết các vấn đề do thực
tiễn xã hội đặt ra. Người giáo viên luôn là người có đủ phẩm chất và năng lực giáo
dục – đào tạo để đào tạo cho học sinh thành những con người toàn diện như mục
tiêu giáo dục đã đặt ra để đáp ứng phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Trong việc đào tạo thế hệ nhân tài tương lai cho đất nước người giáo viên
cũng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Vì thế đảng ta cũng đã nhấn mạnh:
13


“Người giáo viên có vai trò đặc biệt quan trọng, là nhân vật trung tâm trong nhiệm

vụ này”.
Trong công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, xây dựng đất
nước phồn vinh trở thành một đất nước công nghiệp hóa - hiện đại hóa, thì phải có
những con người đáp ứng được với những yêu cầu của xã hội. Những con người
đó phải rất mực trung thành, giàu lòng yêu nước, có trình độ kiến thức hiện đại và
kỹ năng thành thạo, có khả năng làm ra những sản phẩm có đủ sức cạnh tranh trên
thị trường trong nước và ngoài nước.
Để tạo ra những con người như thế thì không một ai, không một cơ quan nào
có thể thay thế được vai trò đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo thế hệ nhân tài cho
tương lai của đất nước như người giáo viên. Bởi vì trong quá trình giáo dục giáo
viên chính là người trực tiếp chịu trách nhiệm trước chính quyền và nhân dân về
chất lượng của việc dạy học và giáo dục học sinh. Họ là người tổ chức điều khiển
quá trình hình thành nhân cách, cũng như những kiến thức, kỷ năng, kỷ xảo tương
ứng của người học sinh phù hợp với mục đích, mục tiêu giáo dục.
Mặt khác giáo viên còn là người được chuẩn bị về nghề nghiệp tương ứng,
những hiểu biết về những yêu cầu của xã hội đối với giáo dục, hiểu biết về học
sinh, nắm vững những kỹ năng cần thiết để tổ chức dạy học trong quá trình dạy
học.
+ Giáo viên là lực lượng chủ đạo trong sự nghiệp phát triển văn hóa - giáo
dục.
Sự nghiệp phát triển văn hóa - giáo dục là sự nghiệp cách mạng chung của
quần chúng nhân dân, cho nên có nhiều lực lượng quần chúng tham gia. Đặc biệt
trong xã hội ngày nay khi đảng ta đang thực hiện “xã hội hóa giáo dục” thì tất cả
mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội đều có trách nhiệm và vị trí, vai trò để tham gia
14


vào sự nghiệp phát triển văn hóa giáo dục đất nước. Song lực lượng đóng vai trò
chủ yếu, cốt cán trong sự nghiệp này chính là đội ngũ các thầy giáo, cô giáo. Quy
mô và tốc độ phát triển và chất lượng của nền văn hóa–giáo dục đất nước tùy thuộc

phần lớn vào số lượng, chất lượng đội ngũ các thầy cô giáo. Nếu đất nước có một
đội ngũ giáo viên đông đảo về số lượng, vững vàng về chất lượng thì sự nghiệp
phát triển văn hóa – giáo dục sẽ nhanh hơn, mạnh hơn và vững vàng hơn; đáp ứng
được đầy đủ mọi yêu cầu của đất nước, xã hội. Vì thế Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục, không có cán bộ và không
nói gì đến kinh tế - văn hóa”. Người cũng đã trực tiếp khẳng định: “Giáo dục là sự
nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và toàn dân, nhưng người trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ là nhà giáo. Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo
cán bộ cho nước nhà, là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hoá
có trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các
giá trị, tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng cho họ những phẩm
chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã hội”.
Trong nhà trường, bên cạnh đội ngũ các thầy cô giáo còn có các thành phần
khác cùng tham gia giáo dục học sinh như: Đoàn, Đội, hội phụ huynh học sinh…
Các lực lượng này cũng có những vai trò quan trọng không thể thay thế được.
Nhưng hoạt động giáo dục của các lực lượng này chỉ có tác dụng hỗ trợ, tạo điều
kiện thúc đẩy để hoạt động giảng dạy, giáo dục của giáo viên đạt chất lượng và
hiệu quả cao hơn chứ không thể thay thế được vai trò của các thầy, cô giáo.
Mặt khác ở lứa tuổi của học sinh ở trường phổ thông trung học là lứa tuổi
hình thành và phát triển nhân cách rất mạnh mẽ. Có nhiều sự ảnh hưởng, tác động
từ các nhân tố khác nhau ở bên ngoài xã hội; nhưng sự ảnh hưởng tác động của
giáo viên đối với học sinh luôn giữ vai trò quyết định nhất. Bởi vì hoạt động của
giáo viên bao giờ cũng có mục đích, có kế hoạch, có chương trình, có nội dung,
15


nghệ thuật sư phạm…; người giáo viên luôn được chuẩn bị về mọi mặt, có đầy đủ
phẩm chất năng lực để dạy dỗ và giáo dục cho học sinh. Hơn nữa người giáo viên
là người trực tiếp tổ chức hoạt động giao lưu tập thể trong nhà trường, xã hội như
hoạt động đoàn, đội, hoạt động thi đấu thể dục thể thao, hoạt động phòng chống tệ

nạn…, từ đó hình thành nên nhân cách cho người học sinh; đạo tạo cho học sinh
trở thành những con người xã hội chủ nghĩa có năng lực phẩm chất toàn diện, đáp
ứng đầy đủ mọi yêu cầu của xã hội khi các em bước vào lao động hay học tiếp lên
bậc cao hơn.
Trong nhà trường có nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục, nhưng
điều đó phụ thuộc rất nhiều vào người giáo viên, vì người giáo viên còn là người
quyết định phương hướng, tư tưởng chính trị của bài giảng.
Thời đại ngày nay với những đặc trưng: nền kinh tế tri thức, khoa học - công
nghệ phát triển như vũ bão và toàn cầu hoá. Trong bối cảnh đó nhà trường từ chỗ
khép kín, chuyển sang mở cửa rộng rãi và gắn kết với cộng đồng, gắn bó với sự
phát triển khoa học, công nghệ, sản xuất, kinh doanh. Người thầy trước sự phát
triển của đa phương tiện truyền thông, không còn là nguồn duy nhất cung cấp sự
hiểu biết. Vì vậy, người thầy ngày nay không chỉ có kiến thức mà còn phải có năng
lực hướng dẫn học sinh tự học, tự đánh giá; có năng lực lôi cuốn học sinh, biết thu
thập và xử lý thông tin để tự biến đổi mình thích ứng với sự đổi mới. Từ đó truyền
thụ cho học sinh những kiến thức đầy đủ, mang tính biện chứng trong thời đại
ngày nay.
Như vậy, vai trò của nhà giáo có thay đổi, song vị trí của nhà giáo không hề
giảm và có cơ hội tăng lên so với trước. Đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho
đội ngũ nhà giáo cần phải nỗ lực phấn đấu rèn luyện mình, để đáp ứng được yêu cầu
của thời đại mới. Nhưng cho dù các phương tiện kỹ thuật có hiện đại đến đâu đi nữa
thì cũng không thể thay thế được vai trò của người giáo viên. Vì thế giáo viên luôn
16


đóng vai trò chủ đạo trong sự nghiệp phát triển văn hóa – giáo dục của đất nước và
có một vị trí vô cùng quan trọng không một ai, không một tổ chức xã hội nào có
thể thay thế được trong sự nghiệp giáo dục, là bộ phận quan trọng góp phần làm
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ở hiện tại cũng như trong tương lai. Như
Tiến sĩ Raja Rosingh, nhà giáo dục Ấn Độ, chuyên gia giáo dục UNESCO khu vực

Châu Á - Thái Bình Dương có lời bình khá ấn tượng về tầm quan trọng của người
giáo viên trong bối cảnh giáo dục đi vào thế kỷ XXI: “Giáo viên giữ vai trò quyết
định trong quá trình giáo dục và đặc biệt trong việc định hướng lại giáo dục.
Không một hệ thống giáo dục nào có thể vươn cao quá tầm những giáo viên làm
việc cho nó”.
Từ đó có thể khẳng định đội ngũ giáo viên luôn là nguồn nhân lực quyết
định chất lượng dạy học, giáo dục trong mỗi nhà trường, cũng như ở nhà trường
phổ thông. Vị trí và vai trò chủ đạo rất quan trọng của đội ngũ giáo viên trong sự
nghiệp “trồng người” của đất nước luôn được xã hội đánh giá cao. Cho nên đã là
người giáo viên trong nhà trường thì phải nỗ lực hết mình để cống hiến cho sự
nghiệp “trồng người”, tạo nên những nhân tài tương lai cho đất nước, xây dựng đất
nước ngày càng vững mạnh và giàu đẹp hơn. Để xứng đáng với những danh hiệu
cao quý mà đảng, nhà nước và nhân dân ta đã trao tặng cho đội ngũ giáo viên. Đào
tạo ra những con người toàn diện xã hội chủ nghĩa để góp phần thúc đẩy sự phát
triển trong nền kinh tế - xã hội của đất nước.

Phẩm chất đạo đức của người giáo viên
Người thầy giáo phải thật sự mẫu mực dạy người, dạy chữ
Trong mọi giai đoạn lịch sử, người thầy bao giờ cũng được xã hội tôn vinh và
kính trọng. Nghề giáo được coi là một trong những nghề cao quý nhất trong những
nghề cao quý. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Nhiệm vụ thầy giáo rất vẻ vang, vì
nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục…Không có giáo dục thì nói gì đến
17


kinh tế, văn hóa. Bác xem việc dạy học là một nghề đào luyện những thế hệ con
người xây dựng xã hội. Tuy sự cống hiến của thầy giáo là rất thầm lặng nhưng nếu
trở thành một người thầy giáo tốt là điều vô cùng hữu ích và rất mực vẻ vang. Vì
thế, Người dạy: Người thầy giáo tốt là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không đăng
trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là

những anh hùng vô danh.
Nhiệm vụ của người thầy giáo không chỉ là sự truyền bá tri thức, phương pháp,
tay nghề cho người học mà thầy giáo cũng như học trò, tất cả đều phải tham gia
vào các công việc xã hội một cách thật tích cực. Nhà trường phải gắn liền với thực
tiễn xã hội, gắn liền với đời sống của nhân dân. Đồng thời, Bác Hồ còn chỉ ra bản
chất ưu việt của nền giáo dục trong xã hội mới là hoàn toàn khác với giáo dục
trong xã hội cũ: Động cơ của người làm nghề thầy giáo không phải là mục đích
kinh tế thuần túy mà là động cơ giáo dục gắn liền với mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể
theo nhu cầu của xã hội, phải đáp ứng được lợi ích của nhân dân, vì sự mưu cầu
hạnh phúc cho con người.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, người làm thầy giáo phải luôn là tấm gương
không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; phải thường
xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức để làm tấm gương sáng cho học trò noi theo, để
đáp ứng yêu cầu của thời đại mới trên mọi phương diện.
Người thầy giáo phải luôn gương mẫu trong học tập, trau dồi trình độ chuyên
môn, tri thức khoa học, phải là tấm gương tự học với quan niệm “Sự học không
bao giờ cùng” để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời đại trong quá trình xây
dựng và phát triển đất nước trước tình hình mới. Đặc biệt là trong bối cảnh khoa
học-công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay thì tấm gương tự học của người thầy
càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Người thầy giáo luôn tự rèn luyện và trở
thành tấm gương sáng về đạo đức cách mạng cho người học nói riêng và mọi
người nói chung noi theo. Hình ảnh người thầy giáo luôn được xã hội xem là biểu
tượng của văn hóa, là đại diện cho văn minh thời đại.
Người thầy giáo cần phải có những phẩm chất: Cái “tâm”, “tài” và “đức”
trong nghề dạy học của mình
Về cái “Tâm” đối với nghề giáo là một yêu cầu quan trọng không thể thiếu được.
Người thầy phải có tâm huyết với nghề mới có hứng thú, say mê chăm chút từng
bài giảng, từng nội dung tiết giảng; mới thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu, chỉnh
lý, bổ sung nội dung và phương pháp giảng dạy để đem lại hiệu quả cao nhất cho
người học. L.N.Tônxtôi đã nói: Để đạt được thành tích trong công tác, người thầy

18


giáo phải có một phẩm chất - đó là tình yêu. Người thầy giáo có tình yêu trong
công việc là đủ cho họ trở thành người giáo viên tốt.
Cái “Tâm” người thầy giáo tốt không phải chỉ lòng yêu ngành, yêu nghề mà phải
được biểu hiện thành những hành động cụ thể:
Thứ nhất, phải biết hiến thân cho nghề dạy học, biết hi sinh vì lợi ích tương lai, vì
học sinh thân yêu.
Thứ hai, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm với nghề nghiệp. Phải cảm thấy sung
sướng, hạnh phúc khi được đứng lớp. Không có thái độ miễn cưỡng khi được phân
công lên lớp.
Thứ ba, luôn tìm tòi, học hỏi, sáng tạo để đem lại chất lượng cao nhất khi giảng
dạy, thầy giáo không bị giới hạn không gian (lớp học) và thời gian (08 giờ vàng
ngọc), không phải bước ra khỏi lớp học là chấm dứt hoạt động sư phạm mà vẫn
tiếp tục suy nghĩ về nội dung, phương pháp giảng, về thái độ tiếp nhận bài học của
sinh viên để tự đổi mới.
Thứ tư, nhiệt tình trong xây dựng đơn vị, chân thành trong giúp đỡ đồng nghiệp.
Về cái “Tài” của người thầy, “Tài” ở đây thể hiện tài năng về trí tuệ và tài năng
nghiệp vụ sư phạm. Tài năng sẽ giúp cho người dạy nắm vững và nhuần nhuyễn
nội dung hệ thống các kiến thức cơ bản của môn học, khả năng phát hiện vấn đề bổ
sung vào nội dung bài giảng; tài năng nghiệp vụ sư phạm thể hiện ở việc áp dụng
các phương pháp giảng dạy, khả năng trình bày và khả năng xử lý các tình huống
sư phạm trong quá trình giảng dạy. Kết hợp được giữa nội dung và phương pháp sẽ
làm cho bài giảng thêm phong phú, sinh động, hấp dẫn và có hiệu quả cao, làm cho
người học hứng thú, say mê, tránh nhàm chán, từ đó chủ động, tích cực nghiên
cứu, tìm hiểu trong học tập. Để thỏa mãn các điều đó, người thầy phải hội tụ đủ các
năng lực sau đây:
Một là, có năng lực về tri thức và tầm hiểu biết.
Đây là năng lực trụ cột của năng lực sư phạm, là điều kiện để giảng dạy, “biết

mười dạy một”. Ngày nay, người học không nhất nhất cái gì cũng tuân thủ, phục
tùng thầy vô điều kiện. Họ được tiếp cận rất nhiều thông tin, hiểu biết rất nhiều, là
thầy, phải chinh phục trò bằng kiến thức sâu rộng của mình, điều đó còn có tác
dụng tạo uy tín cho người thầy.
Hai là, có năng lực chế biến tài liệu học tập từ chương trình khung
Thầy giáo phải gia công về mặt sư phạm đối với tài liệu học tập cho phù hợp với
đặc điểm từng lớp học, đối tượng, chuyên ngành đào tạo. Thực trạng cho thấy, vẫn
19


còn nhiều giáo án trong tình trạng “chết”, không được bổ sung cập nhật, giáo án sử
dụng chung cho tất cả các hệ học. Cho nên, người thầy giỏi là người thầy hiểu học
sinh, đặt mình vào vị trí người học để chế biến, trình bày tài liệu đúng với đối
tượng. Người thầy có khả năng phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa được kiến thức,
thấy được cái gì là cơ bản nhất và mối quan hệ với cái thứ yếu. Ngoài ra, người
thầy phải có sự sáng tạo trong cung cấp kiến thức cho người học, bên cạnh kiến
thức tinh tế và chính xác, đòi hỏi phải liên hệ được nhiều mặt giữa kiến thức cũ và
mới, kiến thức bộ môn này với bộ môn khác, liên hệ thực tiễn gắn với từng chuyên
ngành đào tạo.
Ba là, có năng lực dạy học tốt
Người thầy tốt không chỉ truyền kiến thức cho người học mà có nhiệm vụ tổ chức
và điều khiển hoạt động của họ, hướng họ đi tìm kiếm và lĩnh hội tri thức.
Disterwey - một nhà sư phạm người Đức đã nhấn mạnh: “Người thầy giáo tồi là
người mang chân lý đến sẵn, còn người thầy giáo giỏi là người biết dạy học sinh đi
tìm chân lý”. Chính vì vậy người thầy phải: Nắm vững và sử dụng hợp lý các
phương pháp dạy học tiên tiến; rèn luyện năng lực ngôn ngữ truyền đạt kiến thức
rõ ràng, dễ hiểu, vừa sức.
Ngoài ra, người thầy còn phải có cái “Đức”, “Đức” là yêu cầu không thể thiếu đối
với mỗi giảng viên. Có “Tâm”, có “Tài” cũng chưa là người thầy tốt. Bác Hồ đã
từng nói: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có

đức là người vô dụng”. Càng quan trọng đối với lĩnh vực giáo dục, để tạo ra nhân
cách người học thì trước hết người thầy phải biết thuyết phục học sinh bằng chính
nhân cách của mình...
Muốn xây dựng được nhân cách cho người học, người thầy trước hết phải có
“Đức” thể hiện ở thái độ, tác phong chuẩn mực khi thực hiện giảng dạy và trong lối
sống, trở thành tấm gương, vừa là người thầy, vừa là người cán bộ ưu tú, chuẩn
mực cho người học noi theo. Phải làm sao để mỗi người thầy không những là nhà
sư phạm mà còn là nhà mô phạm.
Cái “Đức” của người thầy thể hiện ở sự hi sinh vô tư “tất cả vì học sinh thân yêu”,
giúp đỡ người học một cách chân thành, không vì vụ lợi, không phân biệt đối xử,
giúp đỡ trong hỗ trợ kiến thức phải đến nơi đến chốn; giúp đỡ không có nghĩa là
cho điểm cao, dễ dãi đối với người học trong học tập. Cái “Đức” ấy còn được biểu
hiện ở sự kiên quyết đấu tranh chống những cái xấu, cái sai trong xã hội, trong
chính bản thân mình và trong đồng sự. Bác Hồ dạy: Thầy giáo và học sinh phải
thật thà. Sống thật, nói thật, làm thật để cống hiến thật sự, để lời nói đi đôi với việc
20


làm, làm có ích cho Tổ quốc, cho nhân dân và cho xã hội, cho chính bản thân
mình.
Ngày nay, những tình cảm tốt đẹp có tính truyền thống đó của người thầy vẫn được
duy trì. Đảng và nhà nước ta cũng đã xác định "Giáo dục là quốc sách hàng đầu",
đã và đang làm những gì có thể đối với ngành giáo dục bởi tầm quan trọng và ý
nghĩa lớn lao của ngành đặc thù này đối với sự phát triển trong hiện tại cũng như
tương lai của xã hội và đất nước. Sứ mệnh "trồng người" hết sức thiêng liêng, cao
quí nhưng cũng hết sức nặng nề được đặt lên vai người thầy.

PHẦN KẾT LUẬN
Qua thực tế dự giờ, giảng dạy, tham gia các buổi rút kinh nghiệm em nhận
thấy rằng để dạy học đạt kết quả cao người giáo viên THPT cần lưu ý:

+ Dạy học đảm bảo phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh,
phải tạo điều kiện để học sinh được hoạt động nhiều để tự tiếp thu tri thức dưới
sự tổ chức của giáo viên.
+ Cần mạnh dạn áp dụng các phương pháp, hình thức học vui (trò chơi học
tập, …).
+ Đặt câu hỏi, yêu cầu cho học sinh cần phải vừa sức, rõ ràng, đảm bảo mọi
học sinh đều nghe thấy.
+ Cần chuẩn bị tốt về mặt đồ dùng dạy học theo từng môn học cụ thể.
+ Đồ dùng dạy học phải chuẩn (đảm bảo tính khoa học, chính xác), kích thước
phù hợp, thẫm mĩ.
+ Giáo viên cần rèn luyện để có những kỹ năng sư phạm tốt (chẳng hạn giáo
viên cần rèn luyện thường xuyên về cách giải các bài tập trắc nghiệm nhanh,
cần chú ý nhiều đến trình bày bảng đẹp, khoa học.
+ Cố gắng đọc to nói to (nhất là khi nêu các yêu cầu, câu hỏi) phát âm đúng.
+ Phải bao quát lớp tạo điều kiện, cho mọi học sinh đều tích cực học tâp.
+ Chú ý trình bài bảng khoa học, thẫm mĩ.
21


+ Chú ý thời gian trong tiến trình dạy học một tiết dạy (phân phối thời gian hợp
lí cho từng hoạt động trong 1 tiết dạy).
+ Phải quan tâm nhiều đến đối tượng học sinh học yếu, cá biệt.
+ Khi cho học sinh thảo luận nhóm phải phân nhóm cho cụ thể và giao nhiệm
vụ thảo luận cho rõ ràng, phù hợp và phải đảm bảo mọi học sinh đều tham gia
thảo luận, cần tạo điều kiện cho học sinh yếu, chưa mạnh dạn lên trình bày.
+ Nên vận dụng phối hợp nhiều phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để thu
hút học sinh tích cực học tập hơn (nên vận dụng nhiều những phương pháp dạy
học hiện đại như: thảo luận nhóm, tự lĩnh hội kiến thức,..) không khí lớp học
thoải mái hơn, không nên chỉ dùng hay dùng quá nhiều một phương pháp hay
hình thức trong dạy học vì như vậy dễ làm học sinh nhàm chán.

+ Phải thương yêu, gần gũi với học sinh (kịp thời giúp học sinh tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắt trong học tập).
+ Phải đảm bảo cho lớp học “sôi nổi trong trật tự”.
+ Giảng bài nên dùng những từ ngữ dễ hiểu, cô động, có nhấn mạnh ở những
phần trọng tâm của kiến thức hay kĩ năng
+ Nên động viên, nhắc nhở kịp thời ( nhất là đối với đối tượng học sinh học
yếu, cá biệt).
+ Nên xen kẽ các hoạt động giải trí hợp lí sau những thời gian học tập căng
thẳng để làm giảm mệt mỏi, tạo hưng phấn để học sinh tiếp tục học tốt hơn
Thực tập chủ nhiệm:
- Luôn có thái độ ý thức,tinh thần và trách nhiệm cao với công tác chủ nhiệm như
luôn luôn có mặt đúng giờ,theo dõi,quan tâm giúp đỡ các em trong học tập và bên
cạnh đó cũng tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của các em để giúp các em thuận lợi hơn
trong việc học.Đồng thời cũng thường xuyên quan sát,theo dõi các em để kịp thời
xử lý và khắc phục các tình trạng tiêu cực xảy ra trong lớp(nếu không giải quyết
được thì xin ý kiến của giáo viên hướng dẫn chủ nhiệm),cần phải nhớ tên các em
để tiện theo dõi và quản lý,luôn nhắc nhở các em về đồng phục,vệ sinh lớp,sân
trường,bảo vệ của công,…phải hòa đồng với bạn bè,tôn trọng thầy cô giáo.
22


- Hoàn thành công việc mà giáo viên hướng dẫn giao cho.
- Tiếp xúc gần gũi,nhiệt tình với học sinh.
- Làm sổ chủ nhiệm: ghi chép đầy đủ,cẩn thận kế hoạch tuần,một số thông
tin về tình hình học tập và gia đình của các em.
Từ những kinh nghiệm thu được trong quá trình giảng dạy và dự giờ, đã giúp
em quản lý học sinh tốt, nhắc nhở kịp thời các em, tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa
thầy và trò,từ đó giáo dục uốn nắn các em, góp phần nâng cao nhận thức và hoàn
thiện nhân cách các em.Là một sinh viên sắp ra trường và là một người giáo viên
trong tương lai với vốn kinh nghiệm còn ít ỏi đôi khi không thể tránh được những

sai sót,bản thân em cho rằng với tinh thần cầu tiến ham học hỏi và những kinh
nghiệm rút ra được trong đợt thực tập này em tin rằng mình sẽ đạt được kết quả
ngày càng cao trong công tác giảng dạy của mình sau này,cũng như khi ra trường
vì thế hệ trẻ tương lai “vì lợi ích mười năm trồng cây,vì lợi ích trăm năm trồng
người”.
Qua thực tế là công tác chủ nhiệm em nhận thấy để làm tốt công tác chủ
nhiệm lớp người giáo viên THPT cần:
+ Chọn ra ban cán sự tốt ( là những học sinh gương mẫu, học tập tốt, mạnh
dạng, tích cực với phong trào, có uy tín trong lớp, đặc biệt còn dữ chút,…)
+ Phát huy vai trò của ban cán sự lớp.
- Tôn trọng danh dự học sinh, không tùy tiện quác nạt học sinh.
- Phải xử lí các “tình huống” nảy sinh trong công tác chủ nhiệm một cách
bình tĩnh.
- Cần tạo cho lớp thành tập thể đoàn kết, biết đoàn kết giúp nhau cùng tiến
bộ.
- Giáo viên cần tìm hiểu đặc điểm tâm, sinh lí, tâm tư, tình cảm của học sinh
lớp mình.
- Nắm đặc điểm về trình độ, năng lực, tính cách từng học sinh.

23


- Nên xử lí ngay và triệt để các vi phạm của học sinh ( nhất là với đối tượng
học sinh cá biệt).
- Xử lí các vi phạm của học sinh, cần phải chú ý đến đặc điểm tâm lí của từng
học sinh.
- Phải đảm bảo tính khách quan, công bằng, công khai trong khen thưởng,
trách phạt đối với mọi đối tượng học sinh.
- Ghi chép đầy đủ và có hệ thống sổ chủ nhiệm để thấy rõ đặc điểm của từng
học sinh, những chuyển biến, tiến bộ của học sinh.

- Phải thấy được sự tiến bộ của học sinh học yếu, cá biệt dù nhỏ để kịp thời
khen ngợi để tạo động lực cho những học sinh này phấn đấu vươn lên.
- Giữ mối liên lạc thường xuyên liên tục với phụ huynh học sinh, kịp thời
thông báo những vi phạm của học sinh cho phụ huynh để phối hợp giáo dục học
sinh.
- Phải tuân thủ các nguyên tắc trong giáo dục học sinh.
- Nên dùng nhiều hơn phương pháp nêu gương hơn là trách phạt trong công
tác chủ nhiệm, để quản lí giáo dục học sinh.
- Có thể cho học sinh vi phạm tự giác nhận trách nhiệm và hứa hẹn sửa chữa
vi phạm.
- Nên cho học sinh giữ vai trò tích cực tự giác trong các buổi sinh hoạt chủ
nhiệm, giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò cố vấn.
- Khen thưởng trách phạt phải công khai dân chủ không thành kiến, thiên vị.
- Nên cho các học sinh yếu, cá biệt ngồi các bàn trên và ngồi cùng với các
bạn học tốt, nề nếp để giúp đỡ các em.
Một số thu hoạch lớn qua đợt TTSP năm thứ 3:
- Được vận dung các kiến thức về phương pháp, hình thức tổ chức trong dạyhọc đã học tập và rèn luyện ở nhà trường sư phạm vào việc dạy học cụ thể từ đó
rút ra những kinh nghiệm quý giá cho bản thân trong công tác giảng dạy sau
này.
24


- Được vận dụng các phương pháp giáo dục trong giáo dục học sinh thông
qua công tác chủ nhiệm lớp. Từ đó rút ra những kiến thức thực tế, kinh nghiệm
cho bản thân trong công tác chủ nhiệm học sinh .
- Có được những kiến thức thực tế về đặc điểm tâm sinh lí học sinh THPT
- Làm quen với các nhiệm vụ công việc của một giáo viên THPT ( dạy học và
làm công tác chủ nhiệm), nhờ đó tích lũy thêm cho bản thân những kiến thức và
kinh nghiệm thực tế. Giúp em hiểu đúng mực về nghề nghiệp của mình sau này.
- Thấy được vị trí, vai trò, trách nhiệm lớn lao của người giáo viên THPT

trong sự nghiệp giáo dục của nước nhà từ đó mà có ý thức không ngừng học
tâp, rèn luyện đẻ có thể dáp ứng một cách tốt nhất nghiệm vụ “trồng người”của
mình.
- Thêm “yêu nghề”, “mến trẻ”.
* Mặt mạnh:
- Chấp hành tốt nội quy,quy chế của trường thực tập,đoàn thực tập cũng
như những quy định của trường CĐSP.
- Hoàn thành sổ sách đúng thời hạn.
- Thực hiện tốt tác phong của người giáo viên.
- Quý mến,tôn trọng thầy cô,công nhân viên và học sinh của trường.
- Sẵn sàng tiếp thu những ý kiến đóng góp,những nhận xét và lời chỉ bảo
của thầy cô.
- Tạo được mối quan hệ tốt với học sinh,đặc biệt là lớp chủ nhiệm .
- Nhắc nhở,động viên các em cần tránh những công việc sai trái;luôn quan
tâm giúp đỡ các em trong học tập.
- Bảo vệ cơ sở vật chất,tài sản của nhà trường.
- Hoàn thành công tác chủ nhiệm.

25


×