Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

"Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.94 KB, 40 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
"Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay" là đề tài nghiên cứu sự kết hợp hài hoà tương hỗ lẫn
nhau giữa "Bàn tay vô hình" và "Bàn tay hữu hình". Hay nói một cách khác là
nghiên cứu sự kết hợp, sự quản lý của Nhà nước và cơ chế thị trường để thúc
đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ở mức cao nhất đồng thời hạn chế khắc
phục những khuyết tật một cách có hiệu quả nhất. Tìm ra nghệ thuật quản lý
xuyên suốt từ định hướng chiến lược hệ thống luật đến các công đoạn trong các
khâu kế hoạch từ vĩ mô đến vi mô.
Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức xã hội mà trong
đó sản xuất và tài sản sản xuất gắn chặt với thị trường tức là gắn chặt với quan
hệ hàng hoá tiền tệ với quan hệ cung cầu. Kinh tế thị trường không phải là một
chế độ kinh tế đồng nhất với chủ nghĩa Tư bản. Thực ra nó là thành quả của lịch
sử nhân loại gắn với sản xuất hàng hoá.
Đối với nước ta việc chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế thị trường là hết sức
cần thiết để đảm bảo phát triển tăng trưởng ổn định kinh tế - xã hội đẩy lùi nguy
cơ tụt hậu, nhanh chóng thực hiện thành công công việc công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước. Tuy nhiên cơ chế thị trường cũng không phải là cái gì hoàn
hảo tốt đẹp cả mà đi kèm với nó là những khuyết tật rất đáng lo ngại. Vì vậy cần
có vai trò quản lý can thiệp của Nhà nước để khắc phục, hạn chế những khuyết
tật của cơ chế thị trường. Mà quan trọng nhất là sự định hướng của Nhà nước để
phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã chọn.
Đây là sự khác biệt giữa cơ chế thị trường ở nước ta và nước khác.
Tuy nhiên vấn đề vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay là một vấn đề đang có nhiều tranh cãi với
những ý kiến khác nhau nhằm tìm ra một cách giải quyết khả thi mang lại hiệu
quả cao. Vấn đề quan trọng bức xúc này có ảnh hưởng lớn đến tiến trình phát
triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy để góp phần vào sự lựa chọn cơ chế
quản lý cho phù hợp đặc biệt là giai đoạn Việt Nam hiện nay em chọn đề tài
"Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay" để nghiên cứu.


Do trình độ và điều kiện có hạn nên bài viết này không tránh khỏi thiếu sót.
Em rất mong nhận được sự góp ý và nhận xét của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Mai Hữu Thực - người đã giúp đỡ em hoàn
thành bài đề án này.
1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I-/ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC.
1-/ Nhà nước
* Khái niệm:
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của xã hội có quyền lực, có bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội, thực
hiện mục đích và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.
* Nguyên nhân ra đời:
Bắt nguồn từ nguyên nhân kinh tế và bao giờ cũng bảo vệ lợi ích của một
giai cấp nhất định.
Xã hội nguyên thuỷ lực lượng sản xuất chưa phát triển, công cụ sản xuất
thô sơ, kinh tế nghèo nàn lạc hậu dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
mọi người đều bình đẳng chưa có giai cấp, chưa có Nhà nước. Lực lượng sản
xuất ngày càng phát triển hơn, của cải ngày càng nhiều, đời sống ngày càng
nâng cao và bắt đầu xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xã hội phân chia
thành những giai cấp đối kháng chủ nô và nô lệ. Quan hệ người áp bức bóc lột
thay thế bằng quan hệ bình đẳng, hợp tác tương trợ. Mâu thuẫn giữa giai cấp bóc
lột và giai cấp bị bóc lột ngày càng xâu sắc. Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đó
ngày càng quyết liệt không thể điều hoà được. Để bảo vệ lợi ích giai cấp ích kỷ
của mình, đàn áp sự phản kháng của giai cấp nô lệ bắt họ phải phục tùng tuân
theo những trật tự do mình đặt ra, giai cấp chủ nô đã lập ra một bộ máy bạo lực
trấn áp đó là Nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử Nhà nước chiếm hữu nô
lệ, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển hơn nữa cùng với nó là sự thay thế
các Nhà nước tiếp theo sự ra đời: Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà
nước xã hội - chủ nghĩa.

Với tính cách là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng Nhà
nước bao giờ cũng được xây dựng trên một cơ sở kinh tế nhất định tuỳ thuộc
vào Nhà nước là bộ máy thống trị của giai cấp nào mà phân biệt các kiểu Nhà
nước khác nhau.
Thật ra lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nước được phôi
thai ngay từ buổi ban đầu. Khi Nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện, sau đó mới
được nhận thức và ứng dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế xã hội.
2
+ Trong thời đại chiếm hữu nô lệ Nhà nước chủ nô - hiểu Nhà nước đầu
tiên trong lịch sử đã trực tiếp dùng qyền lực của mình can thiệp vào việc phân
phối của cải sản xuất ra. Thời đại này của cải được sản xuất ra bởi những người
nô lệ dưới sự chỉ huy điều khiển quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô nhưng
khối lượng của cải ấy không được "phân phối" mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt
bằng bạo lực, các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây được sử dụng làm công cụ
để chiếm đoạt cưỡng bức kinh tế.
+ Trong thời đại phong kiến, Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào
việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết
cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang
các vùng đất mới để ra chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ. Nhìn
chung hoạt động này diễn ra một cách tự phát. Tuy nhiên trong sự khác biệt với
Nhà nước phong kiến phương Tây chức năng quản lý kinh tế được các Nhà
nước phong kiến phương Đông nhận thức sớm hơn.
Ở Trung Quốc từ học thuyết "Bình dân kinh tế chủ nghĩa" Mạnh Tử cho
rằng chính sách kinh tế của Nhà nước phải hướng vào làm giàu cho dân, giàu
dân thì nước mới mạnh không có quốc gia nào tất cả mọi người đều giàu mà
nước lại nghèo. Vai trò của Nhà nước phải điều hoà sắp xếp các quan hệ lợi ích
sao cho sự xung đột lợi ích không làm thủ tiêu lợi ích xã hội mà ngược lại phải
thúc đẩy lợi ích xã hội.
Ở Việt Nam tư tưởng Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế cũng được hình
thành sớm trên thực tế Nhà nước phong kiến đã can thiệp và đã thu được cả

những thành công và cả không thành công. Trong đó sự can thiệp sớm nhất xuất
hiện vào triều đại nhà Lý thế kỷ X trước công nguyên. Vậy khác với Nhà nước
chủ nô, Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp phong kiến
là phương tiện của giai cấp phong kiến duy trì địa vị kinh tế của mình và thực
hiện quyền thống trị đối với toàn xã hội.
+ Trên thế giới vào thế kỷ thứ 15, chủ nghĩa Tư bản được hình thành quá
trình tích luỹ nguyên thuỷ Tư bản được thực hiện nền kinh tế thị trường từng
bước được hình thành. Để giúp cho kinh tế phát triển nhanh, giai cấp tư sản cần
có "Bà đỡ" nói cách khác cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Chính vì vậy, vai trò
quản lý kinh tế của Nhà nước tư sản ngày càng được xác lập và nâng cao. Trước
hết Nhà nước Tư sản đã thực hiện một chính sách tiền tệ hết sức nghiêm ngặt họ
tìm mọi cách tích luỹ tiền tệ không cho tiền chạy ra nước ngoài, Nhà nước của
các nước Tư Bản trong giai đoạn này đề ra luật buộc các thương nhân nước
ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ chỉ được phép mua hàng mà thôi.
3
Nhà nước còn quy định những nơi được phép buôn bán để dễ dàng cho việc
kiểm tra, kiểm soát. Trong chính sách ngoại thương họ dùng hàng rào thuế quan
bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao, và thuế xuất khẩu các hàng sản xuất ở trong
nước thấp, chỉ xuất thành phẩm nguyên liệu cấm nhận các mặt hàng xa xỉ phẩm.
Mặt khác Nhà nước còn hỗ trợ cho việc các thương nhân trong nước, các
phương tiện vật chất và tài chính khi họ tham gia buôn bán quốc tế. Đồng thời
Nhà nước cũng quy định nghiêm ngặt tỷ giá hối đoái, các chính sách đó Nhà
nước Tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải và tiền tệ đáng kể. Vì vậy, đầu
thế kỷ 18 giai cấp tư sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất nhờ áp
dụng các kỹ thuật và công nghệ mới, nền sản xuất ở các nước Tư bản phát triển
rất nhanh. Các nhà Tư bản đua nhau phát triển các ngành nghề mới và mở rộng
quy mô sản xuất tự do cạnh tranh trở thành cấp thiết trong đời sống kinh tế của
các nước này.
Vậy Nhà nước Tư sản cũng có vai trò kinh tế đặc trưng của mình so với các
Nhà nước khác nó đại diện, bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản là công cụ cai trị của

giai cấp Tư sản đối với giai cấp vô sản và các bộ phận dân cư khác trong xã hội.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa: Đây là một Nhà nước kiểu mới dựa trên cơ sở
tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân và
các hình thức sở hữu hợp pháp khác. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai
đoạn tột cùng của nó, giai đoạn chủ nghĩa đế quốc khi mà lực lượng sản xuất đã
phát triển ở trình độ xã hội hoá tương đối cao thì quan hệ sản xuất tư bản - chủ
nghĩa dựa trên nền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư
đã trở nên mâu thuẫn không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển, vì
vậy cần một cuộc cách mạng thay đổi quan hệ sản xuất, thay đổi Nhà nước. Mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội là
mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản dẫn đến đấu tranh xoá bỏ Nhà
nước tư sản xây dựng Nhà nước xã hội - chủ nghĩa, Nhà nước xã hội chủ nghĩa
có cơ sở kinh tế là tổng thể các quan hệ sản xuất được dựa trên nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất là
công cụ bảo vệ và bảo đảm sự giai cấp công nhân, nông dân, tri thức xã hội chủ
nghĩa.
Thực tế cho thấy rằng đầu những năm 30 của thế kỷ XX những cuộc khủng
hoảng kinh tế nổ ra thường xuyên, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
xảy ra 1929 - 1930 đã chứng tỏ rằng "Bàn tay vô hình" không thể bảo đảm
những điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển. Hơn nữa trình độ xã hội hoá
sản xuất phát triển ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế học thấy rằng cần
4
có sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình hoạt động của nền kinh tế điều tiết
nền kinh tế.
Nhìn chung tất cả các Nhà nước đã và đang tồn tại trong lịch sử xã hội loài
người: Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản và Nhà nước
xã hội chủ nghĩa, các Nhà nước phương Tây và phương Đông không Nhà nước
nào phi kinh tế, siêu kinh tế đứng trên hay bên ngoài nền kinh tế, sự ra đời và
tồn tại của Nhà nước bao giờ cũng có nguồn gốc từ nguyên nhân kinh tế. Đến

lượt mình bất kỳ một hoạt động của Nhà nước cũng hoặc thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự vận động của nền kinh tế. Mỗi thể chế kinh tế đòi hỏi có một kiểu tổ
chức Nhà nước riêng phù hợp với những yêu cầu của nóm nền sản xuất hàng
hoá trong thời kỳ mới phát sinh có Nhà nước chủ nô. Nền sản xuất hàng hoá
giản đơn có Nhà nước phong kiến. Nền sản xuất lớn theo phương thức đại công
nghiệp cơ khí: Nhà nước tư sản cổ điển, nền kinh tế thị trường: Nhà nước tư sản
hiện đại và các Nhà nước đương đại thuộc các chế độ chính sách khác nhau. Đặc
biệt trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù coi trọng "Bàn tay vô hình" song
A.Smith cũng cho rằng đôi khi Nhà nước cũng có những nhiệm vụ kinh tế nhất
định, đó là trong trường hợp các nhiệm vụ kinh tế vượt quá khả năng của một
doanh nghiệp như làm đường, xây dựng bến cảng, đào các con kênh lớn. Trường
phái Keynes cho rằng, sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế sẽ khắc phục
được khủng hoảng thất nghiệp tạo ra sự ổn định cho phát triển kinh tế xã hội. Vì
vậy Nhà nước phải tổ chức bộ máy Nhà nước bổ sung hoàn thiện các chức năng
nhệm vụ của Nhà nước mình cho phù hợp với sự vận động biến đổi của nền kinh
tế mọi hoạt động ngược lại đều dẫn đến sự thay đổi Nhà nước này bằng Nhà
nước khác.
2-/ Tính tất yếu khách quan và vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với
nền kinh tế .
a-/ Quá trình đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta.
* Cơ chế cũ và những khuyết tật của nó:
- Cơ chế cũ:
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liệu bao cấp có những đặc trưng: Nhà
nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh là chủ yếu điều đó thể hiện ở sự chi
tiết hoá các nhiệm vụ do trung ương giao bằng hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ
một trung tâm. Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động
sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách
nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình. Bỏ qua quan hệ hàng
5
hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế kém quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng

chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Do đó hạch
toán kinh tế chỉ là hình thức chế độ bao cấp được thực hiện dước các hình thức
bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp
qua cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật chất đối với người
được cấp phát vốn. Bộ máy quản lý rất cồng kềnh bộ máy cán bộ kém, quản lý
không thạo chuyên môn nghiệp vụ nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hướng tiêu cực làm nảy
sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hoãm, sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Những khuyết tật của cơ chế cũ: Cơ chế quản lý cũ bộc lộ những nhược
điểm cơ bản là nó thiếu động lực cho sự phát triển điều này thể hiện ở những
mặt hạn chế nữa:
Một là, cơ chế kế hoạch hoá tập trung không gắn chặt người lao động với
tư liệu sản xuất và sản phẩm họ làm ra, việc sản xuất tốt hay xấu không liên
quan gì đến quyền lợi của họ bởi thế họ chẳng quan tâm đến sản xuất, sản xuất
trở nên thiếu động lực phát triển, làm mất tính sáng tạo của người lao động.
Hai là, vì sản xuất và tiêu sản phẩm theo mệnh lệnh của cấp trên nên người
lao động và các cơ sở sản xuất kinh doanh không cần thiết phải nghiên cứu, ứng
dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và công nghệ bởi vậy cơ sở vật
chất kỹ thuật của nền kinh tế vốn dĩ đã lạc hậu lại ngày càng lạc hậu hơn.
Ba là, cũng vì làm theo kế hoạch và mệnh lệnh của cấp trên nên người lao
động và các cơ sở sản xuất hoàn toàn thụ động, tính sáng tạo của họ ngày càng
bị thui chột.
Những hậu quả của cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã đẩy
nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng hết sức trầm trọng suốt một
thời gian dài từ cuối những năm 70 và gần hết thập kỷ 80 của thế kỷ này. Cơ chế
kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hướng tiêu cực làm nảy sinh sự trì
trệ hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề đặt ra là phải
đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế ở nước ta đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục đại hội VII
của Đảng khẳng định: "Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp hình

thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước.
* Quá trình chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế mới:
6
Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12/1996) đã đề ra
đường lối đổi mới kinh tế - xã hội. Đây thực sự là một cuộc cách mạng sâu sắc
được tiến hành đồng thời trên ba lĩnh vực:
Một là, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chuyển từ
nền kinh tế từ hoạt động sản xuất theo kế hoạch áp đặt dội từ trên xuống mất
tính chủ động sáng tạo, mất động lực phát triển kinh tế sang nền kinh tế tự do
sản xuất kinh doanh, tự do cạnh tranh trên thị trường, tự phải nỗ lực vươn lên
phát huy tính sáng tạo của nường lao động, hiệu quả trong sản xuất.
Hai là, chuyển từ nền kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể mang nặng tính tự nhiên hiện vật tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, tồn tại nhiều thành phần kinh tế: thành phần kinh tế Nhà
nước, thành phần kinh tế hợp tác, thành phần kinh tế tư bản Nhà nước, thành
phần kinh tế cá thể, thành phần kinh tế Tư bản tư nhân. Thực hiện mọi công
nhân được tự do kinh doanh theo pháp luật, tự lựa chọn hình thức kinh tế và
được pháp luật bảo hộ quyền sởhữu và thu nhập hợp pháp mọi đơn vị kinh tế
không khác biệt quan hệ sở hữu và hình thức tổ chức đều bình đẳng trước pháp
luật.
Ba là, chuyển từ nền kinh tế từ trạng thái khép kín ngoại thương chủ yếu
với Liên Xô và các nước xã hội chủ ngiã khác sang một nền kinh tế mới đa dạng
hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoịa từng bước hội nhập với nền kinh tế khu
vực và trên thế giới nhằm khai thác và phát huy tối đa mọi nguồn lực trong nước
đi đôi với việc ra sức tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường bên ngoài, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giành vị trí ngày càng có ý nghĩa trong
phân công lao động quốc tế... phù hợp với điều kiện mở rộng kinh tế thị trường
ở nước ta. Và nó còn góp phần làm nền tảng cho sự phát triển thể chế chính trị

xã hội ổn định và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đất nước và quan hệ giao
lưu hợp tác với bên ngoài (xu hướng phát triển chung kinh tế thế giới là sự phát
triển kinh tế của mỗi nước, không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế).
Trên cơ sở đó vai trò quản lý của Nhà nước cũng chuyển từ quản lý trực tiếp: Nhà
nước can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế cụ thể sang quản lý vĩ mô nền kinh tế
thực hiện bằng phát luật và các chính sách kinh tế, các công cụ điều tiết có hiệu lực.
b-/ Cơ chế thị trường - những ưu khuyết tật của nó.
* Khái niệm và nội dung của cơ chế thị trường.
7
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động
của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản
của tổ chức kinh tế là cái gì như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm
các nhân tố cơ bản của cung cầu và giá cả thị trường.
Thực tế đã ghi nhận trong nền kinh tế thị trường các quy luật kinh tế của
sản xuất và lưu thông hàng hoá được phản ánh và tác động khách quan thông
qua cơ chế thị trường, cơ chế thị trường chính là một hình thức tổ chức kinh tế
trong đó người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị
trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế: sản xuất ra cái gì,
sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Cơ chế thị trường hoạt động theo các
quy luật của nền kinh tế thị trường: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật
cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ... quy luật giá cả là quy luật căn bản của
sản xuất và lưu thông hàng hoá. Theo quy luật này sản xuất và trao đổi hàng hoá
phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết trong trao đổi phải tuân
theo nguyên tắc ngang giá. Quy luật giá trị hoạt động thông qua giá cả trên thị
trường, quy luật này có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, kích
thích lực lượng sản xuất phát triển, phân hoá người sản xuất thành người giàu kẻ
nghèo.
Sự vận động của quy luật cung cầu thể hiện ở mối quan hệ cung cầu hàng
hoá trên thị trường.
Quy luật lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nền kinh tế

hàng hoá, xác định động lực của các thành viên tham gia kinh tế thị trường.
Theo A.Smith mỗi cá nhân hoạt động chỉ biết tư lợi chỉ thấy tư lợi và làm theo
tư lợi đồng thời trog khi theo đuỏi lợi nhuận của mình do sự chi phối của bàn tay
vô hình mà mỗi cá nhân cũng phục vụ lợi ích của xã hội một cách hữu hiệu hơn
cả khi anh ta có ý định làm việc này.
Nói đến kinh tế thị trường là nói đến cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa
các chủ thể kinh tế trên thị trường để giành phần sản xuất tiêu dùng hàng hoá có
lợi cho mình nhằm thu lợi cao nhất. Cạnh tranh là môi trường tồn tại của cơ chế
thị trường không thể nói kinh tế thị trường mà không có cạnh tranh kinh tế. Vì
vậy mỗi doanh nghiệp mỗi chủ thể kinh tế phải chuẩn bị cho mình khả năng
cạnh tranh thắng lợi trên thị trường.
Quy luật lưu thông: lưu thông xác định hướng tiền tệ lưu thông nhằm đảm
bảo sự vận động nhịp nhàng của cơ chế thị trường việc thiếu thừa tiền ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế, thiếu tiền hàng hoá không bán được gây ra tình
trạng ách tắc ngăn cản lưu thông hàng hoá kìm hãm sự phát triển của kinh tế thị
8
trường thừa tiền gây ra tình trạng lạm phát, tăng giá cả hàng hoá sẽ gây ra những
biến động tiêu cực cho thị trường.
Các quy luật hoạt động trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau chi
phối hành động của các chủ thể tham gia kinh tế thị trường.
Thông qua hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá, cơ chế thị trường với sự
dẫn dắt của giá cả, có tác dụng trực tiếp điều tiết sản xuất, điều tiết tiêu dùng,
điều tiết đầu tư. Chính "Bàn tay vô hình này" làm cho cơ cấu sản xuất làm cho
cơ cấu sản xuất, cơ cấu hàng hoá phù hợp với khối lượng và chất lượng nhu cầu.
Điều này trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp không thể nào thực hiện được,
bởi vì cơ chế đó không phải căn cứ vào sự hoạt động khách quan của các quy
luật kinh tế mà dựa vào ý chí chủ quan trên cơ sở của sự mong muốn tốt đẹp.
Tóm lại cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế
là bộ máy tinh vi phối hợp một cách không có ý thức hoạt động của người tiêu
dùng với nhà sản xuất thông qua quan hệ giá cả thị trường không ai tạo ra nó tự

phát sinh phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá. Tuy
nhiên cơ chế thị trường không phải là đã hoàn hảo cả mà nó cũng có cả mặt trái
của nó.
- Vai trò của kinh tế thị trường trong việc phát triển kinh tế ở nước ta:
Cơ chế thị trường có tác động thay đổi mạnh mẽ đến sự phát triển nước ta:
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều
kiện cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng
động, huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế, kinh tế thị
trường là nơi diễn ra sự cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao
phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng công
nghệ kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất tăng năng suất số lượng chất lượng
hàng hoá, nâng cao trình độ hoá của sản xuất. Nó tác động đưa đến sự thích ứng
tự phát, với khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được đòi hỏi,
chi phí caco trong việc ra quyết định.
Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khả năng thích nghi cao
hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi làm thích hợp kịp thời giữa sản xuất
với nhu cầu xã hội. Trong nền kinh tế thị trường tồn tại nguyên tắc: Người nào
đưa ra thị trường hàng hoá trước tiên người đó sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn,
mặt khác nếu nhận thức được sản phẩm của mình không có người mua hay
lượng cầu đang giảm dần thì người sản xuất sẽ không sản xuất nữa. Điều đó dẫn
tới sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội. Vì vậy trong nền kinh tế thị trường luôn
diễn ra sự đổi mới nhiều sản phẩm trước đây vẫn bán nay mất đi vì không có
9
nhu cầu nhiều sản phẩm mới với chất lượng, quy cách phẩm chất ngày càng
hoàn thiện hơn xuất hiện. Chính vì vậy cơ chế thị trường giải quyết được những
vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế cần sản xuất loại hàng hoá gì với khối lượng
bao nhiêu do người tiêu dùng quyết định khi họ quyết định mua hàng hoá này
mà không cần mua hàng hoá kia, lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản
xuất mặt hàng có mức lợi nhuận cao. Do đó đáp ứng được nhu cầu của xã hội,
sản xuất bằng phương thức nào bằng công nghệ gì được quyết định bởi cạnh

tranh giữa những người sản xuất hàng hoá. Cách tốt nhất để các doanh nghiệp có
thể cạnh tranh được về giá cả và đạt được lợi nhuận tối đa cho mình là giảm chi
phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất.
Hệ thống giá cả là tín hiệu cho một phương pháp công nghệ thích hợp sản
xuất hàng hoá cho ai hay là sản phẩm sản xuất ra được phân phối như thế nào
một phần quyết định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường các nhân tố sản xuất:
đất đai, lao động, vốn thu nhập của các tầng lớp dân cư phụ thuộc vào số lượng
giá cả các nhân tố sản xuất.
- Những khuyết tật của cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh
tế cao. Song cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo mà nó
vốn có những khuyết tật đặc biệt về mặt xã hội như:
Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh
hoàn hảo, một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới
phân bố và sử dụng hiệu quả nhất đầu vào của sản xuất và đầu ra, tức là nền
kinh tế đứng trên đường giới hạn khả năng sản xuất. Như vậy hiệu lực của cơ
chế thị trường phụ thuộc vào mức độ không hoàn hảo của cạnh tranh, cạnh tranh
không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường ngày càng giảm.
Mục đích hoạt động của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa vì vậy họ có thể
lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà
con người phải gánh chịu như: ô nhiễm không khí, nguồn nước tàn phá đất đai
rừng đầu nguồn. Do đó hiệu quả kinh tế xã hội không đảm bảo có những mục
tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng không thể đạt được sự
tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo tác động xấu đến
đạo đức và tính người. Trong nền kinh tế hàng hoá, vận động theo cơ chế thị
trường, mỗi ngành, mỗi địa phương đều có lợi ích riêng của mình và đều tìm
mọi biện pháp để tối ưu hoá lợi ích của mình, mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành,
mỗi vùng có thể nhìn thấy hoặc không nhìn thấy sự vi phạm đến lợi ích của
người khác của cơ sở, ngành vùng khác. Do đó tất yếu nảy sinh hiện tượng: Lợi
10

ích - của cá nhân hay của bộ phận này tăng lên làm thiệt hại đến lợi ích của cá
nhân, bộ phận khác trong xã hội, xét trên phạm vi tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Biểu hiện về mặt xã hội của xu hướng này là các hoạt động kinh tế chồng chéo,
cản trở hoặc triệt tiêu lẫn nhau, các quan hệ tỷ lệ kinh tế quốc dân bị phá vỡ, sự
phân bố các nguồn lực không hợp lý, cơ cấu kinh tế bị đảo lộn, các vấn đề xã
hội, chính trị phát sinh.
Trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, các hoạt động sản xuất
kinh doanh các hành vi giao dịch đều tiến hành thông qua thị trường và tuân
theo các quy định của thị trường. Song đối với các hoạt động tạo ra những hàng
hoá và dịch vụ công cụ là những loại hàng hoá và dịch vụ, tuy đem lại lợi ích
cho nhiều người nhưng những chi phí bỏ ra lại không được thanh toán và bồi
dưỡng đầy đủ về mặt giá trị tiền tệ. Hoặc những hoạt động trong sản xuất và tiêu
dùng gây những ảnh hưởng hướng ngoại tiêu cực cho thị trường không được
tính toán khi lựa chọn các quyết định sản xuất hoặc tiêu dùng của cá nhân hay
các đơn vị kinh tế, gây ra một khoản tổn phí lớn cho xã hội và không tối ưu hoá
được lợi ích, xét trên phạm vi toàn xã hội thì tư nhân không thể cung cấp được
chi phí đã bỏ ra và xã hội cũng không thể chấp nhận những hoạt động sản xuất
và tiêu dùng chỉ nhằm tối ưu hoá những lợi ích ích kỷ của cá nhân, nhưng lại
gây ra những ảnh hưởng hướng ngoại xấu làm thiệt hại đến lợi ích người khác
và lợi ích toàn cộng đồng.
Nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường không thể tách rời
môi trường chính trị, kinh tế - xã hội đối ngoại. Nếu môi trường không ổn định
thường xuyên có sự đụng độ xung đột giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội. Các
quan hệ giao dịch mua bán trên thị trường không lành mạnh, mang tính chất lừa
đảo, bạo lực thì kinh tế sẽ không thể phát triển, cơ chế thị trường, cơ chế điều
chỉnh hành vi của cả ng sản xuất lẫn người tiêu dùng theo các quy định kinh tế
của thị trường sẽ dẫn tới những sai lệch nhược điểm và khuyết tật của cơ chế thị
trường sẽ có thể khắc phục và sẽ đẩy môi trường chính trị kinh tế - xã hội, đối
ngoại vào tình trạng rối loạn khủng hoảng.
Xu hướng hoà nhập kinh tế của mỗi nước vào thị trường thế giới ngày càng

tăng những diễn biến kinh tế trong từng nước và giữa các nước gây ảnh hưởng
rõ rệt đến lợi ích của nhau. Việc ngăn ngừa hay khắc phục những ảnh hưởng
những bất lợi cũng như việc khai thác và sử dụng những tác động có lợi, đòi hỏi
phải có vai trò của Nhà nước. Một tổ chức, một doanh nghiệp dù to lớn đến đâu
cũng không thể thay thế được vai trò đó. Ngoài ra một nền kinh tế do cơ chế thị
trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm khủng hoảng kinh tế có tính
chu kỳ, khủng hoảng sản xuất thừa là đặc trưng của nền kinh tế thị trường phát
11
triển ở đây hàng hoá sản xuất ra cũng vượt qua cầu có thể thanh toán dẫn đến
tình trạng dư thừa hàng hoá. Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại
đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong
một thời gian dài lại có được lạm phát thất nghiệp và công ăn việc làm đầy đủ và
cuối cùng là tình trạng độc quyền xoá bỏ tự do cạnh tranh làm nền kinh tế mất
tính hiệu quả.
Tóm lại việc khai thác các nhược điểm, những hạn chế và khuyết tật của cơ
chế thị trường để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế này hoạt động có hiệu quả
không thể thiếu vai trò của nhà nước với tư cách là chủ thể của toàn bộ nền kinh
tế quốc dân. Như vậy, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế đòi hỏi
khách quan, là nhu cầu nội tại của nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị
trường. Tuy nhiên, việc điều tiết khống chế và định hướng các hoạt động kinh tế
của các cơ sở thuộc thành phần kinh tế theo hướng và mục tiêu nào, điều đó phụ
thuộc vào bản chất của các hình thức Nhà nước và con đường phát triển mà
nước đó lựa chọn.
c-/ Vai trò kinh tế của Nhà nước ở nước ta trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá một cách
có hiệu quả tuy nhiên kinh tế thị trường vẫn có những khuyết tật của nó nên cần
phải có sự tham gia của Nhà nước với tư cách là người quản lý điều hành nền
kinh tế thị trường. Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định
hướng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò đó được

thể hiện:
Nhà nước đảm bảo ổn định chính trị xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật
để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế về nhiều mặt và chức
năng này vượt ra khỏi lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhà nước tạo ra hành lang
pháp lý cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những quy định chi tiết cho việc
hoạt động của các doanh nghiệp, khuôn khổ pháp luật mà Nhà nước thiết lập có
tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con người.
- Nhà nước điều tiết kiểm soát nền kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển ổn định và hạn chế những mặt trái của cơ chế thị trường: kinh tế thị trường
luôn thể hiện tính hai mặt: Một mặt là động lực phát triển kinh tế, một mặt là
những khuyết tật như khủng hoảng kinh tế lãng phí tài nguyên, phân hoá giầu
nghèo bất hợp lý, đầu cơ tham nhũng buôn lậu... Trong nền kinh tế thị trường
Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc định hướng và điều tiết kinh tế
thị trường ổn định và tăng trưởng kinh tế.
12
Ở nước ta Nhà nước đã xây dựng các chính sách công cụ kinh tế vĩ môtz để
định hướng và điều khiển tổng thể nền kinh tế. Mục tiêu chính sách để công cụ
kinh tế vĩ mô là hướng sức mạnh của thị trường đi đúng hướng dựa vào pháp
luật để tạo ra môi trường hành lang pháp lý năng động có trật tự cho các chủ thể
kinh doanh làm lành mạnh quan hệ thị trường. Các công cụ kinh tế vĩ mô tác
động vào kinh tế thị trường nước ta rất đa dạng có những chính sách công cụ lớn
như: pháp luật, chính sách đầu tư, chính sách lao động, dự báo chiến lược phát
triển kinh tế xã hội. Thông qua chính sách công cụ Nhà nước giảm đến mức thấp
nhất mặt tiêu cực và hậu quả kinh tế xã hội do cạnh tranh gây ra. Nhằm đảm bảo
phúc lợi công cộng cũng như công bằng xã hội, bảo vệ môi sinh môi trường.
Nhà nước cố gắng làm dịu những dao động lên xuống của chu kỳ kinh doanh
thông qua chương trình kinh tế chính sách tài chính, chính sách tiền tệ. Chẳng
hạn Chính phủ có thể giảm thuế trong cơn suy thoái với hy vọng tăng chi tiêu
của dân cũng nhờ đó sẽ nâng cao GDP. Ngân hàng Trung ương là người kiểm
soát khối lượng tiền tệ có thể áp dụng các biện pháp "nới lỏng tiền tệ" trong cơn

suy thoái, khi lạm phát cao Ngân hàng Trung ương áp dụng các biện pháp "thắt
chặt tiền tệ" nhằm giảm lạm phát. Như vậy thông qua chính sách tài chính và
chính sách tiền tệ Nhà nước cố gắng ổn định nền kinh tế duy trì nền kinh tế càng
sát càng tốt, đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp.
Vậy các biện pháp chính sách và công cụ quản lý điều tiết Nhà nước phục
vụ các mục tiêu xã hội đây là nhiệm vụ trọng tâm và là tiền đề quan trọng để thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh kinh tế thị trường
luôn vận động và phát triển do các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước phải
thường xuyên được bổ sung hoàn thiện thì mới thực sự tác động có hiệu quả.
- Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị
trường là những tác động, mà các nhà kinh tế gọi là tác động bên ngoài các
doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài nguyên xã hội gây ô
nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu chẳng hạn một
doanh nghiệp sản xuất hoá chất, tống chất thải gây ô nhiễm nguồn nước địa
phương làm cá chết Chính phủ có thể buộc doanh nghiệp phải trả tiền cho những
thiệt hại do ô nhiễm mà doanh nghiệp đã gây ra. Sự can thiệp của Chính phủ
nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài nâng cao hiệu quả.
Đồng thời, đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nước phải sản xuất ra hàng hoá
công cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công
bằng và giữ trật tự an toàn xã hội, Nhà nước điều tiết các quan hệ sản xuất phân
13
phối tư liệu sản xuất đến vốn kỹ thuật công nghệ lao động tiền lương, phúc lợi
xã hội để vừa phát triển kinh tế, vừa đảm bảo công bằng xã hội phù hợp với điều
kiện xã hội. Ở nước ta, sự tiều tiết của Nhà nước vừa nhằm tạo điều kiện cho nền
kinh tế tăng trưởng ổn định vừa nhằm đảm bảo lợi ích của người lao động. Điều
quan trọng là Nhà nước cần xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách xã hội
nhằm kích thích được con người sáng tạo không ngừng xử lý được sự phân hoá
giàu nghèo quá đáng thực hiện được các vấn đề xã hội, phúc lợi xã hội và y tế xã
hội văn hoá phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Thông qua ngân sách

Nhà nước thực hiện điều tiết và tái phân phối hợp lý để vừa khuyến khích mọi
người lao động, làm giàu chính đáng, vừa có nguồn để thực hiện chính sách xã hội.
- Nhà nước phát huy cao độ mặt tích cực của cơ chế thị trường để phát triển
kinh tế phục vụ của đa số nhân dân lao động nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh
xã hội công bằng văn minh, đích cuối cùng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Nhà nước lợi dụng cơ chế cạnh tranh của thị trường tự do hoá của
sản xuất kinh doanh để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, khơi dậy các
tiềm năng của mọi cá nhân tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc theo hướng
hiện đại phù hợp với sự phát triển của khoa học và công nghệ. Muốn vậy Nhà
nước hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị
trường diễn ra chủ yếu trên sự hướng dẫn của các quy luật kinh tế thị trường
Nhà nước xây dựng thị trường thống nhất trong cả nước có tính đến đặc thù và
trình độ phát triển không đồng đều của các vùng, từng bước tích cực xây dựng
hệ thống thị trường đồng bộ (thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản công
nghệ thông tin...) nhanh chóng tiếp cận thị trường quốc tế. Trong quá trình xây
dựng thị trường cần tuân thủ nguyên tắc là tất cả những gì do thị trường điều tốt
là tốt thì để cho thị trường tự điều tiết Nhà nước chỉ can thiệp khi hoạt động vi
mô ảnh hưởng toàn cục đến nền kinh tế. Khi thị trường có những biểu hiện tiêu
cực cần ngăn chặn.
Như vậy, nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường đòi hỏi cần tăng cường
chứ không phải giảm nhẹ vai trò quản lý của Nhà nước, bất luận là Nhà nước tư
bản hay Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, chúng ta xây dựng nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần và áp dụng cơ chết thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế, đi vào thị trường thế giới, không phân
biệt chế độ chính trị kinh tế thì càng đòi hỏi sự quản lý của Nhà nước và xem
trọng mối quan hệ giữa cải cách bộ máy Nhà nước và cải cách kinh tế trong giai
đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề là phương thức quản lý của Nhà
nước như thế nào để vận dụng đầy đủ các quy luật và yêu cầu khách quan của
bản thân nền kinh tế thị trường vận động tự thân, theo quy luật nội sinh của nó,
14

nhưng lại phải đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, không để cho nền kinh tế
vận động theo hướng tư bản chủ nghĩa. Tất cả những vấn đề nói trên tạo cái
khung của Nhà nước về chính trị, pháp luật hành chính... Để cho nền kinh tế vận
động theo cơ chế thị trường thực sự dân chủ nhưng cũng rất có trật tự trong hệ
thống chính trị và chế độ kinh tế được hiến pháp và pháp luật quy định. Thật vậy
như P.Samuellson nói "Điều hành một nền kinh tế không thể chỉ có thị trường
chứ không thể chỉ có Nhà nước cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay ở đây có
sự tương hợp giữa hai bàn tay. Trong đó thị trường xác định số lượng và giá cả
hàng hoá còn Nhà nước tạo khuôn khổ pháp luật".
II-/ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
Đại hội lần thứ VII và VIII của Đảng đã xác định mô hình kinh tế của nước
ta là xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Do vậy, xuất hiện một câu hỏi quan trọng. Vậy kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa khác biệt với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như thế
nào ? việc giải đáp vấn đề đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Theo
một số nhà nghiên cứu kinh tế thị trường là một thể chế kinh tế vận hành, nó có
thể được thực hiện trong chủ nghĩa tư bản cũng như trong chủ nghĩa xã hội.
Nhưng dù là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa cũng có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường. Do đó nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng có những tính chất chung
đó.
Một là, nền kinh tế vận động theo quy luật vốn có của nền kinh tế thị
trường như là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... Sự tác
động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế. Tất cả
các khâu của quá trình tái sản xuất đều liên hệ với thị trường và do thị trường
điều tiết hình thành một hệ thống sản xuất xã hội có trật tự.
Hai là, các chủ thể kinh tế có tính độc lập có lợi ích riêng, tự chủ để có
quyền ra những quyết định phi tập trung hoá và chủ thể tham gia thị trường cạnh

tranh với nhau.
Ba là, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ: thị trường hàng hoá tiêu
dùng, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường sức lao động, thị trường vốn, thị
trường tiền tệ, thị trường kỹ thuật, thị trường thông tin, thị trường văn hoá... hình
thành một hệ thống thị trường hữu cơ.
15
Bốn là, giá cả do thị trường quyết định. Sự điều chỉnh kinh tế chủ yếu lợi
dụng các tín hiệu do thị trường cung cấp. Thị trường có tác dụng làm cơ sở cho
việc phân phối các nguồn lực kinh tế, sự di chuyển các nguồn lực kinh tế giữa
các ngành, các lĩnh vực được điều tiết bởi thông tin thị trường.
Năm là, nếu là kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của
Nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế và
cả các phương pháp hành chính cần thiết để hướng dẫn sự phát triển kinh tế và
giảm bớt những "thất bại của thị trường".
Song kinh tế thị trường bao giờ cũng tồn tại và hoạt động trong những điều
kiện lịch sử - xã hội của một nước nhất định nó bị chi phối bởi điều kiện lịch sử
và đặc biệt là chế độ xã hội của nước đó và do đó có những đặc điểm riêng biệt
với kinh tế thị trường của các nước khác. Nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam có những đặc trưng sau đây:
* Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu do đó nền
kinh tế gồm nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo:
Nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất là sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu
chủ, sở hữu tư nhân tư bản) từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều
thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh các thành phần
kinh tế đó là kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế
cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Các thành phần kinh tế đó tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận
cần thiết của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó không chỉ ra sức
phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là kinh tế Nhà nước

và kinh tế hợp tác, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế
dựa trên chế độ sở hữu tư nhân để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao
gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các
hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và
xâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế. Các đơn vị kinh tế thuộc mọi
thành phần đều có thể tham gia thị trường với tư cách là chủ thể thị trường bình
đẳng. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Việc xác định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước là vấn đề có
tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Tính định
hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường ở nước ta đã quy định kinh tế Nhà
nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi
chế độ xã hội đều có cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế Nhà nước, nói đúng
16

×