Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU, KHẢO SÁT, HỌC TẬP KINH NGHIỆM PHÂN TÍCH VÀ DỰ BÁO KINH TẾ VĨ MÔ TẠI TÂY BAN NHA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 21 trang )

BÁO CÁO
NGHIÊN CỨU, KHẢO SÁT, HỌC TẬP KINH NGHIỆM PHÂN
TÍCH VÀ DỰ BÁO KINH TẾ VĨ MÔ TẠI TÂY BAN NHA
Theo quyết định số 1648/QĐ-BKH về việc cử cán bộ, công chức tham gia
đoàn khảo sát nước ngoài phê duyệt chương trình công tác: “Nghiên cứu, khảo sát
học tập kinh nghiệm phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô tại Tây Ban Nha” từ ngày
8/11/2010 đến ngày 14/11/2010. Đoàn công tác của Bộ Kế hoạch và Đầu tư gồm
các cán bộ của Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc Gia, Văn
phòng Bộ, do đồng chí Tạ Đình Xuyên, Phó giám đốc Trung tâm làm trưởng đoàn,
xin báo cáo tóm tắt kết quả công tác và một số kinh nghiệm thu nhận được về
những vấn đề trên như sau:
1. MỤC ĐÍCH CHUYẾN KHẢO SÁT: Nghiên cứu, khảo sát, học tập kinh
nghiệm phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô tại Tây Ban Nha.
2. CÁC CƠ QUAN ĐOÀN ĐẾN LÀM VIỆC:
- Tổng cục Thống kê Tây Ban Nha - Instituto Nacional de Estadistica
( />- Bộ Kinh tế Tây Ban Nha - Ministry of Economy and Finance
( />- Ngân hàng Tây Ban Nha - The Banco de espana
( />- Công ty INDRA Tây Ban Nha ( />3. CHƯƠNG TRÌNH LÀM VIỆC CỦA ĐOÀN:
- Chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm về công tác phân tích kinh tế và dự báo kinh
tế vĩ mô (Bộ Kinh tế Tây Ban Nha)
- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Tây Ban Nha (Bộ Kinh tế/ Ngân
hàng Tây Ban Nha)
1


- Xây dựng cơ sở dữ liệu và thu thập dữ liệu
- Phối hợp giữa các cơ quan trong công tác phân tích kinh tế và dự báo kinh
tế vĩ mô
4. NHỮNG VẤN ĐỀ CHIA SẺ KINH NGHIỆM CỦA PHÍA BẠN:
Qua nghiên cứu khảo sát thực tiễn về công tác phân tích dự báo kinh tế vĩ mô
với các cơ quan của Tây Ban Nha đoàn đã thu nhận được những kết quả sau:


1. Giới thiệu tổng quan về Tây Ban Nha:
Tây Ban Nha, hay Vương quốc Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: Reino
de España),[note 1] là một nước nằm trên bán đảo Iberia phía Tây Nam châu Âu.
Vùng đất chính giáp Địa Trung Hải, và một phần nhỏ giáp lãnh thổ Vương quốc
Anh Gibraltar, về phía Đông và phía Nam, giáp Pháp, Andorra và vịnh Biscay về
phía Bắc và giáp Đại Tây Dương và Bồ Đào Nha về phía Tây và Tây Bắc. Lãnh thổ
Tây Ban Nha cũng bao gồm quần đảo Balearic thuộc Địa Trung Hải, quần đảo
Canary ngoài khơi châu Phi thuộc Đại Tây Dương và hai thành phố tự trị ở Bắc Phi,
Ceuta và Melilla, giáp với Maroc. Với diện tích 504.030 km², Tây Ban Nha là nước
lớn thứ hai ở Tây Âu và trong Liên minh châu Âu sau Pháp. Lãnh thổ Tây Ban Nha
có một vị trí chịu nhiều tác động từ bên ngoài từ thời tiền sử và buổi ban đầu của
đất nước. Ngược lại, Tây Ban Nha cũng gây ra ảnh hưởng lên các vùng khác, chủ
yếu là vào thời kỳ lịch sử hiện đại, khi Tây Ban Nha trở thành một đế quốc để lại
hơn 400 triệu người nói tiếng Tây Ban Nha ngày nay, trở thành thứ tiếng mẹ đẻ phổ
biến thứ hai trên thế giới.
Tây Ban Nha là một quốc gia dân chủ và quân chủ lập hiến phát triển với nền
kinh tế lớn thứ 9[1] hoặc thứ 10[2] trên thế giới tính theo GDP danh nghĩa và có chỉ
số phát triển con người đứng thứ 15.[3] Tây Ban Nha là thành viên của Liên hiệp
quốc, Liên minh châu Âu, NATO, OECD, và WTO.
2.
TỔNG CỤC THỐNG KÊ TÂY BAN NHA (Instituto Nacional de
Estadistica />
2


TCTKTBN (TC) hoạt động theo luật và hiến pháp của TBN, có lịch sử lâu
đời. Tiền thân của TC được thành lập từ 1856 (Cục thống kê). Từ năm 1945 đến
nay là TC.
Tổng số cán bộ làm việc trong TC là 7000 người. Tại văn phòng TC ở
Madrid có 4500 nhân viên làm việc, trong đó có 1500 nhân viên làm việc tại khu

vực vùng của TC. Các cán bộ làm việc tại khu vực vùng chịu trách nhiệm lấy thông
tin từ các nhà sản xuất, tiêu dùng và người dân để TC tổng hợp, phân tích, tập hợp.
Các nhân viên làm việc ở Madrid nhận thông tin, phân tích và xử lý những thông
tin này.
TBN có 17 khu tự trị, mỗi khu tự trị có 01 viện của TC. Hệ thống của TC có
52 văn phòng tại các địa phương. Kinh phí hoạt động hàng năm từ 250 đến 300
triệu EUR (của viện hay TC chỗ này em chưa chắc chắn, anh kiểm tra lại qua ghi
băng giúp em).
Hoạt động của TC còn liên quan đến 10 bộ, nhà băng và đều qua ủy ban dự
báo. Ngoài ra TC còn có hoạt động điều phối liên quan đến những vấn đề trong
nước cũng như Cộng đồng chung châu Âu (EU).
Văn phòng TCTK TBN là văn phòng độc lập hoàn toàn. Nguồn kinh phí phụ
thuộc vào bộ tài chính và kinh tế, có lịch sử phát triển lâu đời và TC phấn đấu đạt
tiêu chuẩn của cộng đồng chung châu âu.
TC có 3 mảng hoạt động chính:
1.

Thông tin

2.

Hợp tác Quốc tế

3.

Điều phối

1. Hệ thống thông tin:
Hệ thống thông tin của TC là một hệ thống khá phức tạp. Số liệu do TC đảm
nhiệm chiếm 75% của 2/3 các chỉ số thông kê và là số liệu quan trọng nhất vì có

liên quan đến việc điều phối của 17 khu tự trị, các số liệu còn lại liên quan đến các
bộ khác (như Bộ kinh tế, ngân hàng…). Số liệu được thu thập thông tin từ các
3


khách hàng, các nhà sản xuất,… Tất cả những thông tin mà TCTK đảm nhận đều
được công bố trên trang Web của TC (cả tiếng anh)

Website có giao diện 3 phần chính. Trang web của TC nhận được nhiều giải
thưởng của Tây Ban Nha cũng như của Quốc tế về giao diện và cung cấp thông tin
của website.
Bên trái: Các CSDL (Ngân hàng dữ liệu) được chia ra thành các mục nhỏ
gồm các thông tin về môi trường, dân số, xã hội, sinh đẻ, văn hóa, y tế, người lao
động, giáo dục, kinh tế, các chỉ số liên quan doanh nghiệp, khoa học công nghệ,
khu công nghiệp và xây dựng, phân tích dữ liệu cơ sở hạ tầng… người dùng có thể
tìm tin nhanh ở thanh công cụ bên trên.
Tùy từng lĩnh vực, tùy từng thời điểm xây dựng của mỗi CSDL mà các chuỗi
số liệu có độ dài khác nhau. Ví dụ: Số liệu lao động, CPI có từ 1975 đến nay, hoặc
chỉ số SXCN có từ 1945-2010 (cập nhật theo tháng)
Ở giữa: trình bày những thông tin/tin tức cập nhật và quan trọng nhất

4


Bên phải: là chỉ số giá tiêu dùng, tính toán, các biểu đồ khác nhau; bài báo,
cataloging…
Các số liệu, báo cáo, công việc do TC đảm nhiệm đều công bố rộng rãi (gần
100%) trên trang web của TC. Tuy nhiên có một số CSDL về doanh nghiệp/ cá
nhân thì không công bố rộng rãi (phải có tài khoản của trang web mới vào được).
Ngoài ra có một số thông tin dùng để bán (những thông tin có yêu cầu sâu hơn thì

cung cấp theo tài khoản cá nhân giả tiền cho hàng tháng,…). Với một số nhà nghiên
cứu/ luận án thì 2 bên ký hợp đồng với nhau trên cơ sở tính chi phí: thời gian, chất
xám, đi lại để có được thông tin và thỏa thuận hợp đồng.
2. Hợp tác quốc tế
TBN là một trong 28 nước nằm trong khối Cộng đồng chung châu âu, trong
16 nước sử dụng đồng tiền chung châu âu (EUR), nên họ có rất nhiều thuận lợi
trong lĩnh vực hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, họ cũng phải tuân thủ những chuẩn mực,
luật lệ do Eurostar ban hành.
3. Điều phối, quan hệ phối hợp với các cơ quan làm nhiệm vụ phân tích, dự
báo kinh tế
TCTK TBN còn có hoạt động điều phối liên quan đến những vấn đề trong
nước cũng như Cộng đồng chung châu Âu (EU) và họ cũng có kinh phí từ các hoạt
động chuyên môn đóng góp chung cho EU.
Ví dụ: Bảng so sánh giá tiêu dùng trong thị trường châu Âu (phải cập nhật
những chỉ tiêu chính trong cả hệ thống châu âu)
Chỉ số Châu âu do Eurostar xử lý và viện thống kê có chức năng điều hòa giá
cả trong thị trường châu âu.
TC có chức năng phối hợp với các khu tự trị (17 khu) để điều chỉnh cho cùng
một chỉ số, nên số liệu khá chính xác, không bị lệch. Ngoài ra, TC còn phải tuân thủ
100 luật của EU. Các số liệu do TC cung cấp bao giờ cũng có một ủy ban giám sát
điều tra về các số liệu. Cho đến thời điểm này TBN chưa có vấn đề gì về số liệu (ví
dụ như Hy lạp).

5


Mối quan hệ giữa TCTK với ngân hàng, cơ quan dự báo:
Tất cả các số liệu của TC đều được công bố trên website và chính phủ yên
tâm dùng số liệu của TC trong công tác phân tích và dự báo cũng như hoạch định
chính sách. TC được đánh giá cao về tính trung thực của số liệu.

TC có mối quan hệ rất tốt với các bộ ngành khác rất tốt, trên cơ sở có chương
trình kế hoạch tổng thể giữa các cơ quan có liên quan với TC (4 năm/1 lần), ngoài
ra còn có chương trình làm việc chung của các bộ từ đầu năm với TC (vì đây là
công việc chung, 25% thông tin được lấy từ các trang web của các bộ khác và TC
có đường link kết nối với nhau, và tổng hợp vào trang web của TC. Họ làm việc
theo hàng năm, mang tính xã hội, cộng đồng và không mất tiền để mau thông tin và
dữ liệu (vì TC cung cấp 75% số liệu, còn 25% số liệu do các bộ ngành khác cung
cấp)
TCTK không làm công tác dự báo. Bộ kinh tế đảm nhiệm công tác này,
ngoài ra còn có một số cá nhân cũng làm công tác này. TC cung cấp 75% số liệu,
25% số liệu do các bộ ngành khác cung cấp cho các cơ quan chính phủ/ cá nhân
làm công tác phân tích và dự báo.
TC có thể dự báo về tăng trưởng dân số, còn những vấn đề chỉ liên quan đến
xã hội thì họ không làm được.
Do TC hoạt động tương đối độc lập với chính phủ nên họ cũng không có áp
lực khi công bố các chỉ số nhạy cảm (CPI). Tuy nhiên, cũng có những chỉ số áp lực
(mang tính nội bộ) ví dụ như về nguồn nhân lực.
2. CÔNG TY INDRA ( />Lịch sử hình thành và phát triển:
Công ty tiền thân được thành lập từ năm 1921 (là công ty nhà nước). Năm
1993 thành lập công ty INDRA (chiếm 95% cổ phần nhà nước). Năm 1999 thì
100% là vốn của doanh nghiệp, thời điểm này có 3000 nhân viên, 2006 nâng tổng
số nhân viên lên 12000. Năm 2006 mua lại cổ phần công ty chuyên nghiên cứu về
năng lượng và bán 12% cổ phần mua một công ty khác giải pháp công nghệ về tài

6


chính. Năm 2007 có hơn 22 nghìn nhân viên và đến năm 2010 có hơn 30 nghìn
nhân viên. Từ năm 1999 tham gia thị trường chứng khoán. Chỉ số của công ty trong
thị trường chứng khoán TBN là 20%. Doanh số tăng từ năm này qua năm khác. Lợi

nhuận năm 2007: 11,45%, năm 2008: 11,4% , 2009: 6,1%. Mục tiêu năm 2010
phấn đấu tăng từ 2-4%.

Hiện nay, INDRA được đánh giá là công ty hàng đầu của TBN trong lĩnh vực
CNTT, giá trị của công ty là một trong 2 công ty quan trọng nhất ở châu âu. Là một
trong 35 công ty đáng tin cậy nhất của TBN, tính từ năm 2000 đến thời điểm hiện
tại INDRA luôn nằm trong danh sách này và chưa bao giờ ra khỏi danh sách đó (chỉ
dao động về thứ tự). Vốn lưu động của công ty 3 tỷ USD.
Lợi nhuận năm 2009 hơn 2.513 tỷ EUR, có hơn 30.000 nhân viên. Có 12.000
nhân viên hoạt động bên ngoài TBN, hơn 30 công ty tư vấn và có đại diện ở hơn
160 nước trên thế giới. Đầu tư trung bình là 500 triệu USD/ 3 năm. Trên thế giới
INDRA có hơn 100 đại diện, hơn 30 nhà máy sản xuất kết hợp với cả doanh nghiệp
trong khu vực.

7


Hoạt động chính của INDRA
Phân bố mặt hàng rộng, ứng dụng trong quản lý. Sản xuất các giải pháp cho
công nghệ từ lúc tư vấn cho đến giải pháp bảo hành. Hoạt động phối hợp với các
doanh nghiệp. Các cổ phần chính của công ty là một số cục, vụ viện liên quan tài
chính, ngân hàng. Có sản xuất phần mềm cho một số bộ ngành, TCTK, Bộ Kinh tếtài chính, ngân hàng, hải quan, xuất nhập khẩu,…
Mảng kinh doanh: giải pháp công nghệ + dịch vụ
- Các dịch vụ tư vấn khách hàng (tư vấn làm sao để phát triển
công nghệ cho khách hàng)
- Bán công nghệ, chuyển giao công nghệ
- Tư vấn: định dạng dự án, phát triển dự án
- Có một số công nghệ có thể áp dụng những giải pháp của
Microsoft, ordacle,..
- Mảng chính: những doanh nghiệp có liên quan đến công nghệ,

năng lượng
- Năng lượng điện, dầu, nước, khí chuyển giao về quản lý của
công ty = hệ thống công nghệ thông tin
- Doanh nghiệp có liên quan mảng tài chính, bảo hiểm
- Công nghệ có thể áp dụng cho các Bộ kinh tế làm mảng công
nghệ có liên quan đến phần thuế, hải quan và các mảng pháp lý
- Tạo điều kiện tốt nhất cho mọi người truy cập internet
- Mảng bệnh viện, trạm xá, bảo hiểm xã hội
- Đang cố gắng tiếp cận, hợp tác công tư PPP
- Không tham gia mảng truyền hình nhưng có một số mảng về
quốc phòng

8


- Mảng giao thông vận tải là công ty số 1 cho các giải pháp giao
thông
- VD: Hiệp hội quản lý giao thông cho biết 40% dùng phần mềm
quản lý của công ty trong lĩnh vực giao thông
- Úc: sử dụng trong quân sự
- Ấn độ, Thái land, Inđônêxia,…
- Làm vận tải biển, tàu hỏa
- Các hệ thống điều hành đường tàu cao tốc, tàu điện ngầm ở
TBN sử dụng phần mềm quản lý của công ty kể cả ở Thượng Hải, Bom
Bay
- Hệ thống đèn thông minh trên đường
- Mảng an ninh quốc phòng: giấy CMT nhân dân, khám sức khỏe,
quản lý hộ chiếu, quản lý thẻ
- Lắp đặt các hệ thống an ninh, bảo vệ cho các sân bay, nhà ga,
các cơ quan bộ ngành của chính phủ

- Hệ thống theo dõi đường biên giới
- Tạo máy rađa phát sóng bắn tốc độ
- Lĩnh vực sản xuất phần mềm:
- Châu Mỹ, châu á: 1 nhà máy sản xuất phần mềm ở Philippin, ở
Trung Quốc có 3 nhà máy, ở Stdney có phần mềm hạ cánh, dự báo thời
tiết
- Ở Maroc có 1 công ty chuyên về thiết bị y tế
- An ninh quốc phòng có mặt lợi, mặt hại
- Công ty tham gia vào hầu hết các lĩnh vực quản lý của các cơ
quan chính phủ, các bộ ngành ở cả các khu tự trị của TBN.

9


- Các phần mềm của thống kê đều do công ty INDRA phân tích,
lưu trữ số liệu.
- Các sản phẩm phân tích dữ liệu cũng do công ty này cung cấp
- Các chỉ số điều tra về chăn nuôi,…phần lớn do công ty này cung
cấp trên các giao diện của web.
- Công ty đang tham gia vào bỏ phiếu từ lúc thu thập thông tin
cho đến phân tích số liệu
3. BỘ KINH TẾ ( />
Bộ Kinh tế TBN (Trước kia TBN cũng là bộ kế hoạch và bộ tài chính, giờ họ
sát nhập 2 bộ thành bộ kinh tế, tài chính TBN). Hiện được tổ chức theo 2 mảng
công việc chính là mảng kinh tế và vật giá. Mảng kinh tế gồm 5 ban: Ban nghiên
cứu kinh tế vĩ mô; Ban Tài nguyên; Ngân hàng; Quan hệ quốc tế; Bảo hiểm.

10



Nhiệm vụ chính của mảng kinh tế là đánh giá và dự báo về kinh tế TBN, có
liên quan nhiều đến cải cách chính sách kinh tế và không cung cấp nhiều lắm về
thông tin dự báo. Ngoài ra, họ còn phải hoàn thành nhiệm vụ chung của cộng đồng
chung châu âu đề ra và các chính sách liên quan mảng thương mại. Ông Migel công
tác ở mảng dự báo kinh tế, cải cách chính sách liên quan mảng thương mại sẽ trình
bày, giới thiệu tóm tắt về các nhiệm vụ chính mà họ phải đảm nhận đó là: Dự báo
một số chỉ số chính, những công việc liên quan cải cách kinh tế phục vụ cho chính
phủ. Con số thống kê do TCTK và ngân hàng TBN cung cấp.
Một số chỉ số chính phải dự báo cụ thể như sau:
Chỉ số tổng kim ngạch xuất nhập khẩu: dữ liệu từ hải quan cả số lượng lẫn
giá trị của xuất nhập khẩu của 28 nước trong cộng đồng chung châu âu, không có
hàng rào thuế quan (thuế chung), còn các nước thì cũng có những thuế riêng. Số
liệu của hải quan cập nhật theo hàng tháng (có thể chậm hơn một chút), số liệu công
khai ngân hàng nhà nước có thể dùng để tính tỷ giá và cung cấp cho chính phủ
(TCTK) làm số liệu chính thức
Chỉ số tổng hợp: Ví dụ: chính sách tiêu dùng: mua xe bao nhiêu, mua đồ đạc
là bao nhiêu…được gọi là chỉ số tổng hợp
Chỉ số giúp cân bằng, điều hòa giá trên thị trường (cung cấp theo quý, thường
chậm 2 tháng). Chi phí cao nhất thường phải làm đến đầu mùa hè (tháng 9) rải rác
cho các bộ phận khác.
Ngân sách nhà nước: Duyệt từ tháng 2 hàng năm. Tháng 2 có báo cáo tổng
quan về điều kiện kinh tế, trong báo cáo này dự báo tình hình kinh tế 3 năm tới của
TBN, cùng với phương pháp thống kê sẽ tách biệt ra 2 phần xem vượt quá hay
không vượt quá ngân sách. Báo cáo này được chuyển sang bộ phận vật giá (cùng
bộ kinh tế), sẽ cung cấp số liệu chỉ số TBN là bao nhiêu để tính ra tiền lương.
Dự án kinh phí năm tới được Quốc hội xem xét và tháng 12 sẽ phê duyệt. Họ
có nhiệm vụ đưa ra dự báo + kiểm tra kỹ càng tất cả các chỉ số. Thay đổi hệ thống
kiểm tra, phê duyệt cho dự án ngân sách cấp kinh phí cho kinh tế gồm 2 phần:
nghiên cứu ngân sách nhà nước và nghiên cứu ngân sách nhà nước + Châu âu. Vào


11


cuối năm thường phải làm báo cáo chi tiết thu nhập vào, ra của nền kinh tế, trách
nhiệm của ban về kế hoạch, chiến lược thay đổi nền kinh tế phụ thuộc vào 27 nước
thành viên cộng đồng chung châu âu, vấn đề cải cách kinh tế có liên quan một phần
vì còn phụ thuộc vào vệ sinh, an toàn thực phẩm, khoa học kỹ thuật,..). Các số liệu
được gửi vào tháng 11.
Khủng hoảng kinh tế gây khó khăn hơn vì họ phải điều phối các công việc
này. Kể từ năm sau khủng hoảng châu Âu quy định những công việc này phải được
làm vào quý một hàng năm. Khủng hoảng kinh tế thêm một nhân tố mới là sự mất
cân bằng của thương mại nước ngoài. Trong 28 nước cộng đồng chung châu âu thì
có 16 nước dùng chung đồng tiền châu âu. Các nước này đang tìm tỷ giá tiền tệ
chung chính vì thế việc điều phối với các nước còn lại là rất khó và cũng chính vì
vậy tìm ra việc mất cân bằng cho nền kinh tế là rất khó. Do vậy, EU yêu cầu trong
quý I hàng năm các nước phải làm báo cáo chi tiết về những vấn đề sau:


Mất cân đối cán cân thương mại



Lên kế hoạch để điều chỉnh nền kinh tế



Sự chênh lệch tỷ giá giữa các nước

Bộ phận Dự báo kinh tế vĩ mô: Bao gồm nhiều công đoạn, dự báo trung
hạn, ngắn hạn (1 quý, 2 quý) về các chỉ số:



Chỉ số giá tiêu dùng CPI



Chỉ số xuất nhập khẩu (thương mại)



Chỉ số sản xuất công nghiệp

Trong năm qua áp dụng 02 phương pháp mới.
Phương pháp thứ nhất: Tất cả các con số cập nhật theo hàng ngày, hàng tuần,
sau khi tập hợp được đưa về một bảng chung. Với các chỉ số đó dự báo về GDP
tổng sản phẩm quốc nội quý hoặc 2 quý, nhưng chủ yếu tập trung vào 1 qúy, cùng
con số cập nhật hàng ngày sẽ biết nó ảnh hưởng tốt hay xấu với GDP của quý mới.
Theo mô hình hình sin tìm ra chỉ số trung bình dựa vào nó dự báo đúng hay sai?
Khi có một chỉ số mới nào ra chúng tôi sẽ so sánh với GDP và biết nó sẽ ảnh hưởng
12


tốt hay xấu tới GDP. Một phương pháp cho ngắn hạn hỗ trợ cho các phương pháp
đầu tiên đi sâu hơn, chi tiết hơn về các chỉ số là phương pháp dự báo quý.
Phương pháp 2: Dự báo tất cả những gì sẽ xảy ra cho các doanh nghiệp đưa
ra các dự báo. Những vấn đề này liên quan nhiều đến thống kê là chính. Ví dụ: Chỉ
số tổng hợp: xây dựng, công nghiệp, thương mại, y tế,…Phải làm dự báo cho 01
năm hoặc 02, 03, 04 năm, đây là việc mang tính chất thống kê (định tính) nhiều hơn
là định lượng. Đánh giá ảnh hưởng khi có cải cách trong chính sách kinh tế, dùng
để dự báo ảnh hưởng tới nền kinh tế (định tính hơn là định lượng). Đánh giá cho

nền kinh tế mở và hội nhập: Thị trường lao động được đánh giá rất nhiều trong nền
kinh tế. Họ tính được cả chỉ số của từng hộ dân (cung, cầu, thu nhập, ăn uống là
bao nhiêu?)
Chỉ số tỷ giá hối đoái, sử dụng nhiều phương pháp: đánh giá thị trường lao
động; đánh giá ngân hàng; thị trường xây dựng; kết cấu hạ tầng. Phương thức này
có thể coi như là mô hình chung của nền kinh tế.
Ví dụ: đầu năm 2010 chính phủ phê duyệt hỗ trợ tiền mua xe họ dùng mô
hình để đánh giá thị trường xuất nhập khẩu xe, tiêu dùng trong nước là như thế nào?
ảnh hưởng đến nền kinh tế như thế nào? ảnh hưởng tới chính bản thân từng người
dân là như thế nào?
Một ví dụ khác khi ra đời một bộ luật thì sẽ có 01 báo cáo kinh tế đánh giá
ảnh hưởng của nó tới kinh tế-xã hội như thế nào?
Về việc xây dựng mô hình dài hạn 5 năm: Mô hình này phải dự báo được cân
bằng ngân sách nhà nước trong 5 năm. Dự báo về sản xuất công nghiệp.
Về việc liên quan nhiều đến chỉ số về dân số do TCTK cung cấp họ sẽ đưa ra
các chính sách kinh tế, tài chính tác động tới xã hội như thế nào? Đây là công việc
chung, nhiệm vụ chính với mục đích là giữ ổn định kinh tế vĩ mô nên có sự phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan chẳng hạn như ngân hàng, TCTK,…
Trong mô hình này phải dự báo được đâu là điểm bắt đầu của nền kinh tế,
phát triển nó như thế nào? đầu tư nó như thế nào? Do vậy, họ đang cố gắng phối
hợp khu vực tài chính, tiêu dùng của từng hộ dân, tài chính vào từng hộ dân như thế
13


nào? Ví dụ: Ngân hàng: Ngân hàng cho người dân vay phải thế chấp, khi giá nhà
tăng, dân vay tiền nhiều hơn dẫn đến tín chấp nhiều hơn dẫn đến giá cả tăng dẫn
đến bong bóng tín chấp. Những phương pháp định tính không thể đánh giá được sự
nguy hiểm của khu vực tài chính. Ngoài ra, họ còn đang cố gắng xây dựng mô hình
định lượng dẫn đến làm việc với ngân hàng để có được những số liệu (tín chấp/ thế
chấp).

Họ đang xây dựng một chính sách về quỹ lương hưu theo phương pháp tính
cho những người về hưu như sau: xây dựng Quỹ lương hưu trên cơ sở những người
đang đi làm phải trả tiền cho những người về hưu. Ở TBN hiện 05 người đi làm
nuôi 01 người, cùng với sự già đi của dân số (theo tháp dân số của TCTK), họ dự
tính sẽ xây dựng một mô hình như vậy, nên họ đang xây dựng mô hình dự báo tình
hình để tính toán và ra chính sách kinh tế, thông báo cho người dân biết, để người
dân chuẩn bị và làm quen với chính sách đó. Đưa ra mô hình dự báo con người sẽ
như thế nào khi xảy ra tình hình như vậy. Ở mô hình này sẽ có 02 giả định: con
người sống mãi không chết hoặc con người chỉ sống được 100 năm. Cùng một mô
hình, lấy những mục đích khác nhau sẽ đưa ra những dự báo khác nhau. Trong mô
hình đó phân tích hệ thống: 01 người đi làm, 01 người về hưu dẫn đến chính sách
như thế nào? Sau 20 năm nữa 01 người đi làm, 01 người về hưu dẫn đến hành vi
của con người đối với những tác động đó.
Mô hình tháp dân số: Trong vòng 20 năm nữa dân số sẽ già đi, nó sẽ ảnh
hưởng đến thu nhập cũng như tài chính. Trong một khoảng thời gian nữa chúng tôi
đang tính tuổi sống/ tuổi thọ của một gia đình là bao nhiêu? Thu nhập là bao nhiêu?
tuổi về hưu mong muốn là bao nhiêu? sẽ tính được ảnh hưởng tài chính gần giống
như mô hình trên.
Mối quan hệ phối hợp, cộng tác giữa bộ kinh tế với các cơ quan khác trong
công tác phân tích chính sách và dự báo kinh tế như sau:
1. Nhà băng TBN có nhiệm vụ phân tích về chỉ số tài chính
2. TCTK chịu trách nhiệm những chỉ số không liên quan đến tài
chính

14


3. Có 01 tổ chức điều phối số liệu giữa ngân hàng và TCTK
Nhà băng TBN và TCTK đều phải nói về những vấn đề tương tự nhau. Khi
có sự khác biệt cề số liệu, chỉ số thì 3 cơ quan gồm: Nhà băng TBN, 01 phòng ở vụ

kinh tế (Bộ kinh tế) và TCTK (Viện thông kê) phải họp với nhau, thống nhất bàn
bạc về số liệu ra 01 số liệu chung. Do có rất nhiều trung tâm, cơ quan làm về dự
báo, họ có thể làm dự báo về tài chính, kinh tế vĩ mô, tập hợp số liệu, tranh luận và
đưa ra phương án thống nhất (Nếu không thống nhất được thì cũng để hiểu nhau).
Với chính phủ họ chịu trách nhiệm về kinh tế vĩ mô. Tháng 3 hàng năm là
bắt đầu năm tài chính (năm tài khóa). Họ công bố GDP quý chậm hơn 02 tháng, tuy
nhiên không có tác động gì lắm đến việc điều hành của chính phủ, vì họ nằm trong
khối các nước cộng đồng chung châu âu, nằm trong khối các nước có sử dụng đồng
tiền chung châu âu nên phụ thuộc nhiều vào chính sách chung của khối, hơn nữa
chính phủ đã được cung cấp những báo cáo kinh tế dự báo cho 3-4 năm. Ví dụ sau
khi hết quý 3 thì….
4.

Ngân hàng TBN ( />
15


Cục phân tích và dự báo
Ban dự báo trong ngân hàng
Phân tích và dự báo nằm trong ủy ban điều hành
3 phòng: Nghiên cứu và dự báo kinh tế
Phòng thống kê
Phòng nghiên cứu tiền tệ và tài chính
Phòng phân tích và dự báo chia làm 3 phòng nhỏ: ngành, ban
Phòng nhu cầu, hoạt động và giá cả: nghiên cứu kinh tế còn nhận từ những
trung tâm (thông tin) nghiên cứu khác, những chỉ số khác và là người chịu trách
nhiệm cuối cùng đưa ra các báo cáo nằm trong nhóm làm việc về phân tích và dự
báo kinh tế
giải đáp các câu hỏi mà TT đã đặt ra:
Ngân hàng không có chức năng nghiên cứu về chính sách tiền tệ. Họ thuộc

các nước trong cộng đồng chung châu âu.
Ngân hàng là một trong hội đồng tiền tệ chung châu âu, là một trong 22
thành viên phải thống nhất về chính sách tiền tệ chung châu âu. Phải thống nhất với
các ngân hàng trung ương khác của châu âu để nghiên cứu chính sách tiền tệ. Họ
nghiên cứu những dự báo về kinh tế vĩ mô, đưa ra dự báo về nền kinh tế TBN như
thế nào? Phương pháp đưa ra dự báo nền kinh tế phương pháp như thế nào?
Nằm chung trong các báo cáo dự báo kinh tế châu âu. Mỗi lần báo cáo phải
làm việc 2 tháng, họp 3 lần sau đó có báo cáo cuối cùng trình ủy ban châu âu.
Chính vì vậy báo cáo quan trọng trong chính sách tiền tệ của châu âu. Ngoài ra còn
làm dự báo trong nước. Hàng năm phát hành dự báo duy nhất cho cả năm vào đầu
tháng 4.
Ngoài ra còn dự báo theo quý. Sau báo cáo quý còn dự báo tháng?..
Dự báo lạm phát theo tháng

16


Có một số báo cáo rộng hơn cho nền kinh tế vĩ mô: giá cả tiêu dùng, tình
hình cung cầu của thị trường nhà đất
Có thể dự báo cho 2 hoặc 3 năm
Dự báo báo về tình hình lạm phát có thể từ 12 đến 18 tháng
Dự báo chỉ số giá tiêu dùng CPI theo tháng
Báo cáo kinh tế vĩ mô phải thu thập các số liệu từ những trung tâm khác ví
dụ CPI, tình hình xuất nhập khẩu,…
Thu thập số liệu cố định về giá tiêu dùng giúp ngân hàng đưa ra được nhữg
chính sách về: giá dầu mỏ, giá vàng, (liên quan nhiều đến vấn đề tài chính) đưa ra
những dự báo về lãi suất, tỷ giá
thuế xuất nhập khẩu có ảnh hưởng như thế nào? trình chính phủ đưa ra những
chính sách về ngân sách.
Sử dụng nhiều phương pháp

Có nhiều chuyên gia nghiên cứu và các trung tâm nghiên cứu
Không nên sử dụng duy nhất một mô hình để dự báo mà nên kết hợp nhiều
phương pháp để dự báo
Có thể tìm ra phương pháp hoặc mô hình mới để áp dụng, nhất là trong thời
đại kỹ thuật phát triển, nhưng có thể áp dụng những phương pháp truyền thống cũ
rất hữu ích, không nên lãng quên những phương pháp cũ.
Biết kết hợp mô hình cũ + mới, vì mỗi loại có những ưu nhược điểm khác
nhau để đưa ra dự báo chính xác
Phương pháp dự báo theo mô hình, theo quý
CPI, chỉ số đầu tư, cung cầu trong xã hội, chính sách đầu tư nước ngoài, giá
cả, thị trường lao động là những chỉ số quan trọng trong dự báo (chu kỳ ngắn hạn).
Chủ yếu là phải có số liệu chính xác, sau đó chia ra từng ban, ngành từ đó
tổng hợp lại

17


Không nhất thiết phải áp dụng kỹ thuật cao (tốn kém) và tất cả đều phải có ý
kiến chuyên gia phân tích.
Chúng tôi đưa ra file excel nền kinh tế, Doanh nghiệp và TCTK có thể sử
dụng mọi số liệu
Một số mô hình sử dụng cho ngắn hạn, có 1 số sử dụng cho 2 hoặc 5 năm.
Mô hình thời gian dài hơn thì có khoảng 10 chỉ số (nên dùng công nghệ phát
triển hơn). Phân tích 10 số liệu có cả chỉ số…Bất kỳ cái gì có ảnh hưởng đến chỉ số
đó sẽ đưa ra dự báo.
Tùy thuộc chỉ số, ví dụ chỉ số về thị trường lao động cập nhật số liệu theo
tháng, tuần, nhưng có những chỉ số khác lại cập nhật theo quý. Tất cả những chỉ số
này đều liên quan đến chỉ số GDP? (xem lại)
Quan trọng nhất dự báo là nghệ thuật, thu thập nguồn thông tin, tổng hợp, xử
lý và các nhà phân tích đưa ra các dự báo.

Về mối quan hệ giữa NH và các bộ khác: Mối quan hệ chính thức thì không
có quan hệ gì lắm, chủ yếu alf mối quan hệ cá nhân giữa vụ kinh tế của bộ khinh tế
với ngân hàng. Họ vẫn thường xuyên trao đổi với nhau.
Ngân hàng cung cấp số liệu thế nào sát với thực tế để chính phủ đưa ra các
chính sách?
Vì ngân hàng TBN làm cho cộng đồng chung châu âu nên không quá quan
trọng đối với chính phủ để đưa ra chính sách. Những gì họ tham mưu phải nộp cho
vụ kinh tế, thống đốc ngân hàng có trách nhiệm liên hệ với vụ đó.
Ngân hàng có những số liệu bí mật kinh doanh, vậy việc công bố số liệu cho
người dân cho xã hội như thế nào?
Về những chỉ số hàng tháng qua rồi công bố công khai
những chỉ số dự báo chỉ thông báo một lần vào đầu tháng 4
Họ đang cố gắng rút ngắn thời gian về số liệu:
Ví dụ: hiện tại chỉ có số liệu xuất nhập khẩu tháng 8/2010
18


Đặt câu hỏi cho bộ kinh tế, ngân hàng, TCTK về những vấn đề gì còn tồn
tảitong các con số thống kê này để có thể cải tiến số liệu thông kê. Ví dụ mức tăng
lương của người dân dự báo 2 quý nhưng cũng không hữu ích lắm cho người sử
dụng
Con số thống kê phân tích nhiều tính huống, ví dụ chỉ số sản xuất công
nghiệp tháng 8 giảm theo hàng năm do người dân đi du lịch, nhà máy đóng cửa
nhưng họ không phân tích yếu tố đó (yếu tố mùa vụ).
Tất cả các nhà băng đều phải cung cấp cho ngân hàng TBN các thông tin về
nhà băng của mình (luật ngân hàng bắt buộc) Mối quan hệ giữa các nước có sử
dụng đồng EUR với 12 nước còn lại trong cộng đồng chung châu âu như thế nào?
Chính sách tỷ giá như thế nào?
Tùy thuộc từng nước, các chỉ số du di trong 1 số nhất định ký với các nước
thsnhf viên EROZON.

Sau khi có khủng hoảng thì ủy ban châu âu đã đề ra chính sách chung để
khắc phục khủng hoảng, vậy có đề xuất riêng cho TBN khắc phục khủng hoảng hay
không?
Mỗi nước có ảnh hưởng khác nhau, riêng với TBN không bị ảnh hưởng nhiều
về tài chính, mà chỉ bị ảnh hưởng nhiều về bất động sản.
TBN chi cho cho phúc lợi xã hội rất nhiều dẫn đến bị ảnh hưởng về ngân
sách, thâm hụt ngân sách. Hy lạp, Ai len có lãi suất ngân hàng rất cao, tháng 5/2010
là lúc Hy lạp nóng bỏng nhất khối liên minh châu âu đã hỗ trợ rất nhiều để cứu Hy
lạp khỏi phá sản, nhưng yêu cầu các nước phải tuân thủ những quy định bắt buộc
nhất định
Đối phó với khủng hoảng:
Đưa ra chính sách khi nợ công tăng, thì không được tăng lãi suất ngân hàng
Củng cố lại hệ thống ngân hàng (tái cấu trúc)

19


Các doanh nghiệp vay tiền thế chấp đất đai (phải bắt buộc doanh nghiệp có
thế chấp tiền mặt để trả cho ngân hàng)
Thành lập 1 quỹ để thu hẹp các tổ chức tín dụng (Qũy tái cấu trúc – sát nhập/
giải thể). Hoạt động ngân hàng TBN phát triển quá nhanh trong thời gian không dài
do vậy phải thu hẹp so với nhu cầu của dân,
Luật pháp quy định quỹ tiết kiệm, cấp giấy phép chuyên nghiệp hơn cho các
quỹ
Chính phủ TBN có đặt câu hỏi: liệu tình hình kinh tế đi xuống thì các ngân
hàng có phá sản không? Tháng 6/2010 liên minh châu âu đã làm 1 bài test về các
ngân hàng TBN, các nước châu âu đã khẳng định các ngân hàng TBN tương đối ổn,
hoạt động tương đối tốt và họ đã có những dự báo tốt.
2. Về công tác thu thập dữ liệu và CSDL:
1. Về công tác phân tích, dự báo và cảnh báo sớm kinh tế vĩ mô:

2. Về công tác thu thập dữ liệu và CSDL:
5. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
1. Về phát triển kinh tế - xã hội nói chung:
2. Về công tác phân tích, dự báo và cảnh báo sớm kinh tế vĩ mô:
3. Về công tác thu thập dữ liệu và CSDL:
4. Về bài học ứng phó với khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 của 6.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT:
Nên duy trì và mở rộng mối quan hệ hợp tác giữa Trung tâm với các cơ quan
nói trên
Các ban chuyên môn của Trung tâm, các cá nhân truy cập trực tiếp tới các
trang web nói trên để phục vụ cho công tác nghiên cứu, phân tích chính sách.
Các số liệu (qua website của TCTKTBN) phong phú, đa dạng và cập nhật
được các số liệu về cộng đồng chung châu âu (28 nước).

20


Nghiên cứu nhu cầu của công ty INDRA để xây dựng chương trình, kế hoạch
hợp tác
Nên đặt hàng (báo cáo chuyên đề) cho tham tán sứ quán TBN về tình hình
thực tiễn của TBN nói riêng cũng như EU nói chung (về tiền tệ, tỷ giá, thị trường
thương mại, xúc tiến đầu tư,…)

21



×