Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.9 KB, 27 trang )

Hồng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

LỜI NĨI ĐẦU
Sở hữu là một phạm trù kinh tế xuất phát và cơ bản của kinh tế chính
trị. Nó như là một tổng thể các quan hệ kinh tế và theo đó là tổng thể các
quyền sử dụng, chi phối, quản lý.. . gắn với một chế độ xã hội nhất định.
Chế độ sở hữu chiếm giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự vận
động và phát triển của xã hội loài người, là yếu tố chi phối các yếu tố khác
của đời sống xã hội. Bản thân chế độ sở hữu cũng là yếu tố động, luôn luôn
biến đổi, ln ln có sự cải tiến. Khi chế độ sở hữu thay đổi sẽ kéo theo sự
thay đổi mọi yếu tố khác trong cấu trúc xã hội và thay đổi toàn bộ chế độ xã
hội.
Ở nước ta, Đại hội Đảng lần thứ VI đã chỉ rõ sự tồn tại của nhiều thành
phần kinh tế, Đảng và nhà nước ta thực hiện chính sách phát triển một nền
kinh tế nhiều thành phần dựa trên sự đa dạng của các hình thức sở hữu theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, coi sở hữu vừa là mục tiêu vừa là phương tiện
vì sở hữu nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung không chỉ là phương tiện
như mọi phương tiện thông thường có thể thay thế, mà là một bộ phận cấu
thành của xã hội nhất định. Chủ nghĩa xã hội có những đặc trưng riêng về sở
hữu, những quan hệ sản xuất và phân phối nảy sinh từ chế độ sở hữu đó.
Nghiên cứu vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường có ý nghĩa quan
trọng và cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với q trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội nói chung và đặc biệt đối với thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Vấn đề nghiên cứu rất sâu và phức tạp. Nó địi hỏi, một kiến thức sâu
và rộng về kinh tế. Bản thân em là một sinh viên do kiến thức hiểu biết còn
hạn chế, trong phạm vi bài viết này em chỉ đưa ra một phần nào đó của vấn đề
nhưng em rất muốn bài viết của mình có ý nghĩa trong lý luận về chế độ sở
hữu .


Bài viết của em còn nhiều hạn chế rất mong sự đóng góp của thầy cơ
và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn sự đóng góp này.
Xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Lê Thục đã hướng dẫn em hoàn
thành đề án này

1


Chương I: Lý luận về phạm trù sở hữu
I.

Khái niệm về phạm trù sở hữu và các khái niệm khác có liên quan

1.Chiếm hữu
a.Khái niệm
Chiếm hữu là một phạm trù khách quan là điều kiện trước tiên của hoạt
động sản xuất. Nó thể hiện việc giữ lấy những đối tượng vật chất cần thiết
nhằm thoả mãn mục đích con người. Sự chiếm hữu được thể hiện thơng qua
những hình thái giao tiếp vật chất tương ứng với một sự phát triển của sản
xuất, mà cụ thể là ở sự phân cơng lao động.
Sở hữu được hình thành từ sự chiếm hữu đối tượng ( trước hết là giới tự
nhiên ) để tiến hành sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, sự
chiếm hữu mang tính chất tự nhiên, vì khơng có sự chiếm hữu thì khơng có sản
xuất. Sự chiếm hữu đêm lại quyền hạn cho chủ sở hữu. Những quyền hạn này
trên thực tế thường xuyên bị xâm phạm và lạm dụng, là nguồn gốc gây ra sự
tranh chấp trong xã hội. Sản xuất càng phát triển, lĩnh vực chiếm hữu càng
được mở rộng. Những quy định về quyền được thiết chế tập trung vào một tổ
chức để bảo vệ và tiếp tục sự chiếm hữu một cách có hiệu quả. Tổ chức đó
chính là nhà nước và quyền được thiết chế thành luật.
Quyền chiếm hưũ là quyền giữ lấy đối tượng sở hữu về mình bao gồm

quyền chiếm hữu hợp pháp và chiếm hữu bất hợp pháp.
Sở hữu được bắt đầu từ sự chiếm hữu giới tự nhiên mang tính chất cộng
đồng, hình thái đầu tiên của quan hệ sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, đến hình
tháI chiếm hữu tự nhiên mang tính cá nhân, đối lập với cộng đồng và dẫn đến
sự tách biệt về sở hữu. Đó là một q trình diễn ra trong sự tác động trực tiếp
của phân công lao động xã hội. Sự phân công đã làm cho một số thành viên
trong cộng đồng được tách ra để tham gia hoạt động trong lĩnh vực sản xuất
mới được mở rộng, làm thúc đẩy nên sự hình thành các hình thức trao đổi khác
nhau . Nhưng cũng chính sự phân công với tư cách là sự tách rời của một số tế
bào ra khỏi cơ thể kinh tế đã được hình thành này đã dẫn đến sự suy giảm về


năng lực sản xuất của chính cơ thể ấy. Hệ quả là xuất hiện` một “ chế độ sở
hữu tách riêng “ năng động bên cạnh chế độ sở hữu cộng đồng bảo thủ, đang
mất dần sức sống. Sự đối lập trong quan hệ giữa người với người về sự chiếm
hữu tự nhiên.
Sở hữu là hình thức nhất định được hình thành trong lịch sử về chiếm
hữu của cảI vật chất của xã hội. Để sinh sống và tồn tại, để sản xuất và tái sản
xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng con người phải chiếm
hữu chinh phục tự nhiên. Do vậy chiếm hữu biểu hiện mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, là hành vi gắn liền với sự tồn tại và phát triển của con
người, là phạm trù vĩnh viễn trong tất cả các giai đoạn khác nhau của lịch sử
nhân loại
b.Các hình thức chiếm hữu
- Phân theo chủ thể: chiếm hữu cá nhân và chiếm hữu tập thể
- Phân theo đối tượng: Chiếm hữu tự nhiên và chiếm hữu xã hội
- Phân theo lịch sử: chiếm hữu tự nhiên, chiếm hữu nô lệ, chiếm hữu ruộng đất,
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
2. Sở hữu
a. Khái niệm.

Sở hữu là phương thức chiếm hữu mang tính lịch sử cụ thể của con người
những đối tượng dùng vào mục đích sản xuất cũng như phi sản xuất. Sở hữu
luôn luôn gắn với vật dụng (vật chất hoặc tinh thần)-đối tượng của chiếm hữu.
Đồng thời, sở hữu không chỉ đơn thuần là vật dụng nó cịn là quan hệ giữa con
người với nhau. Vì vậy,Sở hữu là hình thức xã hội lịch sử nhất định của chiếm
hữu tư liệu sản xuất. Là một phạm trù kinh tế, sở hữu biểu thị tổng thể quan hệ
kinh tế xã hội và pháp lý gắn với một chế độ xã hội nhất định.
Cần xem xét phạm trù sở hữu dưới hai góc độ có mối quan hệ chặt với
nhau. Ở góc độ thứ nhất, nó được coi là một phạm trù kinh tế khách quan-với


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

gúc này, sở hữu được định nghĩa là quan hệ giữa người với người trong sự
chiếm hữu về tư liệu sản xuất. ậ góc độ thứ hai, sở hữu với tư cách là hình thức
pháp lý-hình thức phản ánh quan hệ sở hữu khách quan vào pháp luật. Để
không dừng lại sở hữu về mặt hình thức và điều kiện sản xuất, người ta gắn sở
hữu với quyền sở hữu và việc thực hiện quyền sở hữu về mặt kinh tế trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất với tư cách là kết quả của quyến sở hữu-cái mà
các chủ sở hữu phảI quan tâm.
Quan hệ sở hữu là sự tổng hoà các mối quan hệ sản xuất xã hội, tức là các
quan hệ của các giai đoạn tái sản xuất xã hội. Những phương tiện sống, bao
gồm những quan hệ sản xuất trực tiếp, phân phối, trao đổi, lưu thông và tiêu
dùng được xét trong tổng thể của chúng. Quan hệ sở hữu về kinh tế là hiện
diện của bộ mặt pháp lý. Quan hệ sở hữu pháp lý là tổng hoà các mối quan hệ
sở hữu, sử dụng và quản lý. Những quan hệ này tạo ra và ghi nhận các quan hệ
kinh tế thông qua các nguyên tấc, chuẩn mực pháp lý.
Phạm trù sở hữu khi được luật hoá thành quyền sở hữu được thực hiện

qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là sự thể chế hoá
các quan hệ sở hữu thành các quyền : sở hữu, sử dụng, thừa kế, thế chấp,
chuyển nhượng.. trong đó quyền sở hữu và quyền sử dụng là đáng chú ý nhất.
Đó là hai mặt vừa thống nhất vừa mâu huẫn với nhau trong phạm trù sở hữu.
b, Đối tượng của sở hữu
Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, biến đổi. Trong
q trình đó, tượng của sở hữu cũng có sự biến đổi thích ứng. Trong xã hội
cộng sản nguyên thuỷ đối tượng của sở hữu là những cáI có sẵn trong tự nhiên
(hiện vật). Đến xã hội nơ lệ, cùng với sở hữu vật cịn có sở hữu nơ lệ. Xã hội
phong kiến đối tượng của sở hữu là tư liệu sản xuất (đất đai, công cụ lao
động.,). Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, đối tượng sở hữu không chỉ là hiên vật
mà quan trọng hơn là giá trị và tiền tệ. Ngày nay, cùng với sở hữu về mặt hiện
vật và giá trị của tư liệu sản xuất, người ta chú trọng nhiều đến sở hữu trí tuệ,
giáo dục..
II, Sự hình thành phát triển và biến đổi của sở hữu về tư liệu sản xuất

5


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

1. S hình thành, phát triển và biến đổi của sở hữu về tư liệu sản xuất là
quá trình lịch sử tự nhiên
Như đã biết, sở hữu về tư liệu sản xuất là hình thái xã hội của sự chiếm
hữu về tư liệu sản xuất, một nội dung chủ yếu trong hệ thống sản xuất. Hình
thức, mức độ, quy mơ, phạm vi và tính đa dạng của sở hữu khơng phảI do ý
muốn chủ quan của con người quyết định mà là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Sự xuất hiện, tồn tại, phát triển và chuyển hố các hình thức sở hữu về tư liệu

sản xuất là do tính chất và trình độ phát triển của một lực lượng sản xuất tương
ứng quyết định.
Nói cách khác, sự biến đổi của các hình thức sở hữu được quyết định bởi
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất. Chính vì thế C.Mac đã dùng quy luật này để lý giảI sự ra đời và phát
triển của 5 phương thức sản xuất xã hội trong lịch sử và coi phương thức sản
xuất xã hội là nhân tố có ý nghĩa quyết định.
Với tư cách là người sáng lập ra trường phái kinh tế chính trị Mac xit,
C.Mac và F.Angghen khơng phải chỉ một lần bàn về vấn đề sở hữu. Đặc biệt,
trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản, ông đã nhấn mạnh : “ Chủ nghĩa cộng sản
khơng xố bỏ của ai quyền chiếm hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ việc dùng
những của cải ấy để nô dịch lao động của người khác “.” Tuyên ngôn đã chỉ ra
rằng,chế độ sở hữu không cố định mà luôn luôn vận động và phát triển, đã trải
qua những thay đổi liên tiếp, những cải biến liên tiếp trong lịch sử. Mỗi một
hình tháI kinh tế xã hội có một chế độ sở hữu cơ bản đặc trưng cho hình thái
kinh tế xã hội đó. Hình thái kinh tế xã hội tiếp theo xố bỏ chế độ sở hữu cơ
bản của xã hội trước đó và thiết lập một chế độ sở hữu mới phù hợp với hình
tháI kinh tế xã hội mơí.
Để nhấn mạnh quan điểm về sự biến đổi của các hình thức sở hữu như là
quá trình lịch sử tự nhiên. F.Angghen khun rằng: “ khơng thể xố bỏ ngay tư
hữu và thiết lập ngay chế độ công hữu về tư liệu sản xuất”.
2. Các hình thức sở hữu trong lịch sử.
Sở hữu khơng phải cái bất biến, cố định. Nó luôn luôn vận động, biến đổi
một cách khách quan theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Loài người đã
6


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị


ln lt trảI qua 5 hình thái kinh tế xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội
có nhiều hình thức sở hữu, trong đó bao giờ cũng có một hình thức sở hữu đặc
trưng.
a. Hình thái kinh tế xã hội cộng sản nguyên thuỷ.
Hình thức sở hữu đầu tiên là sở hữu bộ lạc, phù hợp với giai đoạn chưa
phát triển của sản xuất. Khi sức phát triển đến một trình độ nhất định ( con
người khơng hồn tồn phụ thuộc vào thiên nhiên ) thì xuất hiện hình thức sở
hữu cơng xã về ruộng đất, tiếp đó là hình thức sở hữu gia đình, cá thể về súc
vật. Ở thời kỳ đầu có lịch sử thành văn, đất đai đã bị phân chia và chuyển hoá
thành sở hữu tư nhân, tình hình đó thích hợp cho nền sản xuất hàng hoá tương
đối phát triển .Bên cạnh của cải bằng hàng hố đã xuất hiện của cảI bằng nơ lệ,
tiền, ruộng đất. Tuy nhiên, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, hình thức sở
hữu đặc trưng vẫn là sở hữu cơng xã, sở hữu bộ lạc
b. Hình thái kinh tễ xã hội chiếm hữu nô lệ.
Trong thời kỳ này, công cụ sản xuất có bước chuyển biến lớn, con người sản
xuất chủ yếu với những công cụ bằng kim loại làm tăng năng suất lao động. Sở
hữu công xã được thay thế bằng sở hữu tư nhân. Nhà nước nô lệ xuất hiện. Bên
cạch sở hữu công xã chưa mất hẳn đi là hình thức sở hữu nhà nước. Trong xã
hội chiếm hữu nô lệ tù binh chiến tranh, nông dân, những người bị phá sản, là
một lực lượng có thể tạo ra sản phẩm thặng dư lớn, họ trở thành nơ lệ bị coi là
những cơng cụ biết nói và nhứng gia súc, bị coi là những món hàng có thể trao
đổi mua bán cả sức lao động cũng thế. Như vậy hình thức chiếm hữu trong chế
độ chiếm hữu nô lệ: sở hữu công xã, sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân nhưng
nét đặc trưng trong chế độ chiếm hữu nô lệ là chiếm hữu về mặt thân thể người
nơ lệ.
c.Hình thái kinhtế xã hội phong kiến
Sở hữu công xã chưa mất đi mà vẫn tồn tại. Người nông nô chẳng những là
những người chủ mặc dầu đó là những người chủ phải nộp cống vật của những
mảnh đất đó thuộc về nhà ở của họ, mà họ là những người chủ chung của

những đất đai của những công xã nữa. Bên cạnh sở hữu công xã, cịn có sở hữu
nhỏ của người nơng dân. Người nơng dân tự do làm chủ mảnh ruộng của mình.
7


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

Trong xó hội phong kiến, sở hữu ruộng đất gắn liền với sở hữu tư hữu C.Mac
viết “ Nói chung sự thống trị của chế độ tư hữu bắt đầu cùng với chế độ chiếm
hữu ruộng đất là cơ sở của chế độ tư hữu”. Cùng với sở hữu ruộng đất ở nơng
thơn thì ở thành thị cũng có sở hữu phường hội tức là tổ chức phong kiến của
tiểu thủ công nghiệp. Như vậy trong thời đại phong kiến hình thức chủ yếu một
mặt là sở hữu ruộng đất với lao động của nơng nơ đã bị cột chặt vào nó, mặt
khác là lao động của bản thân tiến hành với một tư bản nhỏ chi phối lao động
của thợ bạn.
d. Hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa.
Nền sản xuất xã hội có nhiều biến đổi sâu sắc. Phương thức sản xuất cũ
tự cung tự cấp của xã hội phong kiến bị nền sản xuất hàng hoá tư bản phá vỡ,
công cụ thủ công được thay thế bằng cơng cụ cơ khí một cách phổ biến. Những
biến đổi to lớn của công cụ sản xuất của nền sản xuất hàng hố đã chi phối q
trình vận động của các hình thức sở hữu. Chuyển lên chủ nghĩa tư bản, sở hữu
công xã về ruộng đất vẫn tiếp tục tồn tại thậm chí cịn phổ biến ở nhiều nơi. Sở
hữu ruộng đất dưới chủ nghĩa tư bản tồn tại với tư cách là hàng hoá cho nên
thường xuyên diễn ra sự canh tranh giữa những người sở hữu ruộng đất, biến
sở hữu nhỏ thành sơ hữu lớn của một số ít người. Bên cạnh sự canh tranh, cịn
có sự tước đoạt ruộng đất, tư liệu sản xuất, công cụ lao động của đông đảo
quần chúng lao động. Sự tước đoạt đó diễn ra theo quy luật nội tại của bản thân
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Do sự phát triển của lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá nên trong
chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện một số hình thức sở hữu mới bên cạnh sở hữu tư
nhân như : sử hữu cổ phần, sở hữu tư bản nhà nước... “Trong công nghiệp lớn
và cạnh tranh, tất cả các điều kiện tồn tại của các nhân đIều hồ trong hai hình
thức đơn giản nhất : sở hữu tư nhân và lao động “. Vì vậy, trong chủ nghĩa tư
bản hình thức sở hữu đặc trưng là sở hữu tư nhân.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, sở hữu tư nhân vẫn giữ vai trò chủ đạo,
nhưng xuất hiện nhiều hình thức mới như cơnh nhân có sở hữu trong các công
ty cổ phần của tư bản, và xuất hiện các xí nghiệp cơng quản.

III. Sự tách rời quyền sở hữu với quyền sử dụng và quyền quản lý
8


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

Quy lut phát triển của nền kinh tế dã cho thấy các quyền gắn liền với
phạm trù đã có sự biến đổi rất đáng kể.ở thời kỳ đầu quyền sở hữu , quyền
quản lý và quyền sử dụng .. thống nhất với nhau trong cùng một người chủ sở
hữu về mặt pháp lý. Sự xuất hiện của tư bản cho vay đã làm cho hai quyền sở
hữu và sử dụng tách rời nhau “ tư bản sở hữu tách rời tư bản sử dụng “ Tài sản
và vốn chỉ sinh lợi khi đưa vào sử dụng trong kinh doanh một cách hợp lí.
Người có quyền sở hữu thơng qua việc giao quyền sử dụng cho ngườ khác để
thực hiện lợi ích kinh tế của mình, nếu có quyền sở hữu mà khơng đạt lợi ích
kinh tế thì quyền đó trở thành vơ nghĩa. Mặt khác, người sử dụng cần thiết phảI
dựa vào và tôn trọng quyền sở hữu của người khác mới được sử dụng tư liệu
sản xuất cần thiết. Người sử dụng phảI đạt được lợi ích của mình thơng qua
hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, quan hệ lợi ích phải đảm bảo lợi ích

cho cả chủ sở hữu và người sử dụng,làm tách biệt quyền quản lý và quyền sử
dụng. Sự ra đời của công ty cổ phần và khi lao động quản lý trở thành một
nghề đã dẫn đến sự tách rời giữa quyền quản lý và quyền sử hữu.
Tất nhiên sự tách rời này chỉ có ý nghĩa tương đối vì giám đốc khi tực
hiện các chức năng quản lý phảI dựa vào các chiến lược sản xuất kinh doanh,
kỹ thiật và công nghệ do Hội Đồng Quản Trị, với tư cách là người đại diện cho
quyền sở hữu, đề ra. Vì vậy, quyền sở hữu vẫn giữ vai trò quyết định, nhưng
quyền quản lý và phân phối khơng vì thế mà khơng cịn giá trị.

Chương II: Cơ cấu sở hữu trong thời kỳ quá độ ở nước ta
I.Vấn đề sở hưũ trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung
Trong những năm nền kinh tế vận hành trong cơ chế hoạch hoá tập
trung, quan liêu, bao cấp, khi giảI quyết vấn đề sở hữu chúng ta đã mắc phảI
khuyết đIểm khá trầm trọng. Chúng ta đã tuyệt đối hố tính hơn hẳn của sở hữu
xã hội chủ nghĩa và quan niệm rằng chỉ có chế độ cơng hữu mới bảo đảm mục
đích thoả mãn mọi nhu cầu xã hội, mới thúc đẩy sản xuất theo kế hoạch nhà
nước. Chúng ta coi chế độ cơng hữu là mục tiêu, là tiêu chí số một để đánh giá
mức độ đạt được của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, thậm chí được coi là
tiêu thức để đánh giá mức độ lập trường giai cấp.
ĐIều đó dẫn tới một sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức là hợp tác xã
càng lớn, càng có nhiều “ hợp tác xã cấp cao “, xí nghiệp có quy mơ ngày càng
9


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

ln thỡ chất chủ nghĩa xã hội càng nhiều, càng tiến gần đến chủ nghĩa xã hội

hơn. Chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí
cịn coi đó là hình thức sở hữu đối lập với xã hội chủ nghĩa, là mầm mống khôI
phục lại chế độ người bóc lột ngươI lao động.
Nhà nước ta đã thực hiện chủ trương ồ ạt xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hình thức sở hữu tồn dân và sở hữu
tập thể. Song “sở hữu toàn dân” thực tế là “sở hữu nhà nước”, nhà nước đại
diện cho người lao động thực hiên quyền sở hữu đối với các tư liệu sản xuất
chứ không phải người lao động là các chủ sở hữu trực tiếp, không được bảo
đảm bằng cơ sở kinh tế trực tiếp. Còn “sở hữu tập thể” (trong hợp tác xã) được
vân hành theo cơ chế cũ, tự nhiên biến thành sở hữu của ban quản lý hợp tác
xã, cịn xã viên thì như người đi làm thuê. Thực tế trên đã cho thấy người dân
chỉ là chủ sở hữu hình thức, các quan hệ lợi ích chưa được tạo ra nhằm thúc
đẩy người lao động hăng say làm việc, năng suất lao động thấp, hiệu quả kinh
tế rất thấp, hàng hoá thiếu thốn, đời sống nhân dân rất khó khăn.Tình trạng bao
cấp ỷ lại vào Nhà nước kéo dài và ngày càng nặng nề.
Sỡ dĩ chủ trương trên được thực hiện một cách như vậy là do chúng ta
cho rằng có thể và cần sử dụng tính chủ động của nền chun chính vơ sản đưa
quan hệ sở hữu đI trước một bước, mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. Đó là quan đIểm sai lầm nghiêm trọng, đã kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất trong một thời gian dài.
Đại hội VI đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong quá trình thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển. Đảng ta đã nhân thức được lực lượng sản xuất lac
hậu không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà ngay cả khi quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển khơng đồng bộ, có những yếu tố
quan xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong khi nền kinh tế
nước ta còn phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ cơng là chủ yếu, kinh tế
hàng hố chưa phát triển, trình độ xã hội hố cịn thấp, muốn hồn thành quá
trình cảI tạo XHCN trong một thời gian ngắn, đưa nhanh quan hệ sản xuất lên
trình độ xã hội hố cao, bỏ qua các hình thức trung gian quá độ là thốt ly tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chủ trương đó đã kìm hãm

tiềm năng phát triển to lớn của nhân dân về vốn, sức lao động và tay nghề để
phát triển lực lượng sản suất. Hơn nữa, việc cải tạo quan hệ sản xuất chủ yếu
chỉ chú ý tới chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, coi quan hệ phấn phối và quản
lý. Tuy chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là nền tảng cho quan hệ sản xuất
mới, nhưng khi chế độ quản lý và chế độ phân phối khơng phù hợp thì ngay cả
10


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

cỏc n vị kinh tế thuộc sở hữu toàn dân, được trang bị kỹ thuật cao hơn cũng
làm ăn kém hiệu quả.

II. Cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Qua những đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
chứng tỏ tính đúng đắn của đường đối đổi mới, của chính sách đa dạng hố các
hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực
tiễn cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phảI bao gồm
nhiều hình thức sở hữu, khơng thể chỉ có hai hình thức sở hữu toàn dân và tập
thể như trước đây. Hiện nay chúng ta đang xây dựng và phát triển một cơ cấu
sở hữu đa dạng với các hình thức sở hữu : sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở
hữu cá thể, sở hữu tư nhân tư bản và sở hữu hỗn hợp.
1. Sở hữu nhà nước
Xét về bản chất, chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là chế
độ công hữu. Mọi thành viên trong xã hội là chủ nhân của các tư liệu sản xuất
và các tàI nguyên quan trọng của nền kinh tế. Trong chế độ đó khơng ai có
quyền chiếm đoạt tư liệu sản xuất để làm phương tiện nô dịch lao động của

người khác. Chế độ đó được hình thành khơng phảI do áp đặt chủ quan mà là
do kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hố sản xuất lao động.
Phạm trù sở hữu tồn dân là để chỉ bản chất của sở hữu xã hội chủ nghĩa còn
sở hữu nhà nước xã hội chủ nghĩa là hình thức thể hiện của sở hữu nói trên.
Sở hữu nhà nước là hình thức sở hữu mà nhà nước là đại diện cho nhân
dân sở hữu những tài nguyên, tàI sản, những tư liệu sản xuất chủ yếu và những
của cảI của đất nước.
Sở hữu nhà nước nghĩa là nhà nước là chủ sở hữu, còn quyền sử dụng giao
cho các đơn vị tổ chức kinh tế và các cá nhân để phát triển kinh tế một cách
hiệu quả nhất.Đó là sự tách biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng, chủ sở hữu
11


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

vi ch kinh doanh, làm cơ sở và đIều kiện để nhà nước thực hiện vai trị kinh
tế của mình, cịn doanh nghiệp được tính tự chủ của đơn vị sản xuất, kinh
doanh hàng hố thực sự. Tính đến sự tách biệt tương đối giữa quyền sở hữu nhà
nước với quyền sử dụng của các chủ thể sản xuất kinh doanh và tính đến việc
sử dụng theo nhiều mức độ khác nhau về sự tách biệt nói trên là hai khuynh
hướng rất cơ bản để hồn thiện hình thức sở hữu nhà nước xã hội chủ nghĩa
theo sự tiến bộ, hiện đại của quản lý kinh tế xã hội.
Trong tính đa dạng của các hình thức sở hữu, sở hữu nhà nước giữu vai trò
chủ đạo. Khái niệm sở hữu nhà nước có nội dung và phạm vi rộng lơn, trong đó
có doanh nghiệp nhà nước.Do vậy, khơng chỉ có doanh nghiệp nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, mà là kinh tế nhà nước trong đó doanh nghiệp nhà nước là một
bộ phận giữ vai trị chủ đạo.
Sở hữu nhà nước có thể tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp 100% vốn

của nhà nước, hoặc dưới hình thức doanh nghiệp mà vốn của nhà nước chiếm
đa số hay nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt hoặc có cổ phần trong các
hình thức doanh nghiệp khác với hàm lượng chưa nhiều. Hiện nay, ở nước ta,
sở hữu nhà nước đang được củng cố và hồn thiện dưới nhiều hình thức đa
dạng và phong phú như : khoán thuê, đấu thầu, hợp đồng, liên doanh về kinh
tế.. và đang từng bước hình thành những cơng ty cổ phần.
2.Sở hữu tập thể
Sở hữu tập thể là sở hữu của những chủ thể kinh tế (cá nhân người lao động)
tự nguyện tham gia cùng hợp tác với nhau để tổ chức sản xuất kinh doanh.
Đảm bảo tính tự nguyện của người lao động là nguyên tắc cơ bản nhất trong
việc hình thành và hồn thiện hình thức sở hữu tập thể. Người lao động chỉ
thực sự tự nguyện xây dựng và bảo vệ sở hữu tập thể khi có những hình thức tổ
chức quản lý sản xuất phân phối sản phẩm bảo đảm lợi ích kinh tế chính đáng
của họ.
Sở hữu tập thể biểu hiện ở sở hữu tập thể của các hợp tác xã trong nông
nghiệp, công nghiệp, xây dựng vận tải... ở các nhóm, tổ đội trong các cơng ty
cổ phần. Sự chuyển đổi từ cơ chế hành chính bao cấp sang cơ chế thị truờng có

12


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

s qun lý của nhà nước đang thúc đẩy sự ra đời của nhiều hình thức hợp tác
kiểu mới.
Trong hình thức sở hữu tập thể sở hữu cá thể vẫn tồn tại và được bảo đảm
tôn trọng là cơ sở để mỗi hộ thành viên vẫn giữ được tính độc lập tự chủ,
nhưng lại gắn bó và phát triển trong cộng đồng. Mặt khác nó là một trong

nhũng cơ sở để phân phối lợi ích cho mỗi thành viên. Sở hữu tập thể một phần
bảo vệ lợi ích, quyền lợi của những người lao động nghèo thường bị yếu thế
trong hoạt động của kinh tế thị trường vì nếu chỉ có một mình thì họ thường
chỉ có số vốn ít ỏi, lực không đủ mạnh nên họ thường bị yếu thế trong cạnh
trạnh.
3. Sở hữu cá thể
Sở hữu tư nhân của người sản xuất nhỏ là sở hữu về tư liệu sản xuất của bản
thân người lao động. Chủ thể của sở hữu này là nông dân, cà thể, thợ thủ công,
tiểu thuơng.. Họ vừa là chủ sở hữu đồng thời là người lao động. Với quy mô và
phạm vi rộng hơn là tư hữu của tiểu chủ, chủ trang trại có lao động.
Trong thời kỳ quá độ, sự tồn tại của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
không đối lập với chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, bởi vì nó là sở hữu của
những người lao động.” Với tư cách là sở hữu của người sản xuất trực tiếp thì
tư liệu sản xuất và tư liệu sing hoạt không phải là tư bản”.
“Sở hữu tư nhân là hình thức giao tiếp cần thiết ở một trình độ phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất.. Hình thức giao tiếp đó khơng thể bị xố bỏ
và là đIều kiện cần thiết cho sự sản xuất ra đời sống vật chất trực tiếp, chừng
nào chưa tạo ra được những lực lượng sản xuất mà đối với chúng sở hữu tư
nhân trở thành xiềng xích hoặc trở ngại.” (C.Mac)
Sở hữu tư nhân cá thể tận dụng và phát huy một cách tối đa tiềm lực sẵn có
trong nhân dân, trong từng hộ gia đình, giảI quyết những nhu cầu thiết yếu
trong cuộc sống của nhân dân.Đối với đất nước ta, nến kinh tế cịn lạc hậu, việc
khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ là đIều kiện cần thiết để giải
phóng lực lượng sản xuất, thơng qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế.

13


Hoàng Thị Minh Hạnh


Đề án kinh tế chính trị

Cn xỏc định quyền tư hữu của người lao động đối với tư liệu sản xuất của
mình là cơ sở của nền sản xuất nhỏ, mà nền sản xuất nhỏ là đIều kiện tất yếu
để phát triển nền sản xuất xã hội và cá tính tự do của bản thân người lao động.
Có quyến sở hữu và được tự do là những tiền đề quan trọng để biến người nông
dân trong nền nông nghiệp tự cấp tự túc thành người tiểu chủ trong nền sản
xuất hàng hố. Q trình náy là một tất yếu khách quan. Nó khơI dậy động lực
của sự phát triển, kích thích người lao động phát huy năng lực sáng tạo, tính
tích cực và tinh thần trách nhiệm trong hoạt động sản xuất.

4. Sở hữu tư nhân tư bản
Sở hữu tư nhân tư bản là hình thức sở hữu của các nhà tư bản vào các
ngành,lĩnh vực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa vẫn tồn tại ở một mức độ nhất định
trong thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, trong thời kày quá độ, phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa khơng cịn ngun vẹn nữa. Bởi thế, kinh tế tư bản tư nhân ở
nước ta chỉ hoạt động với tư cách là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế
hàng hoà nhiều thành phần, được “ bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp “.
Xét về thực chất, đây là quan hệ tư hữu mang tính chất bóc lột. Tuy nhiên nó
vẫn có cơ sở kinh tế để tồn tại một cách khách quan. Vấn đề quan trọng là sử
dụng hình thức sở hữu này làm sao có lợi đối với nền kinh tế phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần có chính sách, biện pháp thích hợp
để hạn chế mặt tiêu cực của nó, để hướng nó đI theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã
hội bằng những hình thức : hợp tác, liên doanh, liên kết, chủ nghĩa tư bản nhà
nước, công ty cổ phần..
Hiện nay, so với yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế, nhất là trong lĩnh vực
sản xuất công, nông nghiệp và so với tiềm năng có thể huy động được cịn thấp
chưa tương xứng. Điều này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
chưa đánh giá đúng mức vai trị của nó và cịn có sự phân biệt đối xử giữa nó

với các thánh phần kinh tế khác cũng như với chủ đầu tư nước ngồi. Qua thực
tiễn đã cho thấy hình thức sở hữu tư nhân tồn tại với tư cách là một động lực có
tác dụng khơng nhỏ đối với sự phát triển kinh tế.
5. Sở hữu hỗn hợp
14


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

S hu hỗn hợp là hình thức sở hữu có sự tham gia của nhiều loại chủ thể
khác nhau về tính chất.
Sở hữu hỗn hợp là hình thức phù hợp, linh hoạt và hiệu quả trong thờ kỳ quá
độ. Mỗi chủ thể kinh tế có thể tham gia một hoặc nhiều đơn vị tổ chức kinh tế,
khi thấy có lợi. Các thành phần kinh tế trong sở hữu hỗn hợp có mối liên hệ nội
tại và tác động qua lại lẫn nhau, nó là kế quả của cơng cuộc cảI tạo và xây
dựng kinh tế theo định hướng xa hội chủ nghĩa.
Có thể nói, đây là một loại hình kinh tế trung gian, có tính chất đan xen giữa
các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa, thường có ba loại chủ thể kết hợp với nhau để tạo ra các hình thức sở
hữu hỗn hợp khác nhau. Đó là sự kết hợp, liên kết giữa các chủ thể nhà nước,
tập thể và tư nhân để tạo nên các dạng sở hữu sinh động như : nhà nước và
nhân dân; nhà nước và tập thể; nhà nước, tập thể và tư nhân; tập thể và tư
nhân.. Thực chất, đây cũng là các xí nghiệp ( hoặc cơng ty ) cổ phần, chỉ có sự
khác biệt ở chỗ các chủ thể không đồng nhất về tính chất. Đó là hình thức tổ
chức kinh tế khơng thuộc hẳn vào một thành phần kinh tế nào – hình thức kinh
tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu dưới dạng cơng ty, xí nghiệp cổ phần hùn vốn liên
doanh hai bên và nhiều bên ở trong nước với nước ngồi.
Trong cơng cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hióa nhiều thành

phần, chúng ta càn phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, hay hình thức kinh
tế tư bản nhà nước làm phương tiện cứu cánh để phát triển. Bởi chủ nghĩa tư
bản nhà nước là một hình thức phổ biến trong thời kỳ quá độ, và sự tồn tại của
nó là thực sự cần thiết. Đây là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó có cổ
phần tham dự của nhà nước và tư nhân với nhiều hình thức cụ thể, trên mọi
lĩnh vực sản xuất, lưu thơng, dịch vụ, tín dụng.
Hiện nay, ở nước ta, kinh tế tư bản nhà nước bao gồm nhiều hình thức hợp
tác liên doanh kinh tế giữa tư bản tư nhân trong nước và hợp tác kinh tế giữa
nhà nước với tư bản nước ngồi. Nó có ưu thế mạnh hơn tư bản tư nhân ở chỗ,
nó đã kết hợp được sức mạnh tổng hợp của hai thành phần kinh tế có tiềm lực
lớn nhất trong thời kỳ quá độ. Bởi vậy, hình thức sở hữu hỗn hợp ở nước ta là
cáI có khả năng thực hiện tập trung hố, chun mơn hố sản xuất và tạo ra sản
phẩm có chất lượng cao, có sức mạnh cạnh tranh lớn trên thị trường trong nước
và ngoài nước.
15


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

cho “ chủ nghĩa tư bản nhà nước “ có những đóng góp thực sự cho việc
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướn xã hội chủ
nghĩa, chúng ta cần phải tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho sự tồn tại và
phát triển của nó. Hiện nay, chúng ta đang chủ trương cổ phần hoá dong nghiệp
nhà nước, đó chính là một giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư bản nhà nước,
đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Tuy nhiên vấn đề này còn hết sức mới mẻ,
cần phảI nhận thức một cách đầy đủ và áp dụng từng bước.

III. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ

nghĩa
1. Mối quan hệ giữa vấn đề sở hữu và các hình thức kinh tế.

Có thể nói, đặc đIểm rõ nét nhất trong đường lối phát triển của chúng ta là
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,
sở hữu tư nhân.
Vấn đề sở hữu có liên quan đến thành phần kinh tế, vì nó là cơ sở kinh tếmột căn cứ để xác định thành phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tễ có những
đặc trưng riêng có của nó về tính chất xã hội hố lao động, trình độ phát triển
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, lợi ích kinh tế.. Trong đó quan trọng nhất
là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định bản chất của các thành phần
kinh tế đó. Quan hệ sở hữu quyết định sự vận động và phát triển của các thành
phần kinh tế. Còn các thành phần kinh tế là biểu hiện của quan hệ sở hữu. Mỗi
thành phần kinh tế biểu hiện ra ở bề mặt cuộc sống dưới dạng các hình thức
kinh tế cụ thể.
Trong thực tiễn, các thành phần kinh tế không tách biệt nhau, mà quan hệ
với nhau, tác động lấn nhau, đan kết với nhau dưới nhiều hình thức kinh tế.
Tuy thế khơng có nghĩa là bản chất của chúng đã bị hồ tan khơng cịn xác
định được nữa. Các hình thức kinh tế bao giờ cũng là sự biểu hiện ra bên ngoàI
của các quan hệ sở hữu khác nhau.
16


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

Trong thi kỳ quá độ ở nước ta, tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu, chúng
khơng tồn tại biệt lập mà đan xen với nhau, và quyết định sự hình thành các tổ
chức kinh tế đa dạng. Mối quan hệ giữa sở hữu và các hình thức kinh tế là mối

quan hệ giữa nội dung và hình thức. Nội dung và hình thức phảI phù hợp nhau.
Sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sở hữu và hình thức kinh tế được thể hiện
thơng qua lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế là một trong những nhân tố cơ bản
thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, cần phân biệt sở hữu, thành phần kinh tế với các hình thức doanh
nghiệp.Với cơ chế cũ chúng ta vơ tình hay hữu ý đã đồng nhất chế độ sở hữu
và thành phần kinh tế. Khi đó chúng ta thừa nhận có ba thành phần kinh tế :
quốc doanh, hợp tác xã, kinh tế cá thể. Trong đó kinh tế cá thể được coi là “
phi xã hội chủ nghĩa “. Ngoài ra, kinh tế quốc doanh – vốn là sở hữu nhà nứơc,
lại đồng nhất với sở hữu tồn dân. Với cách giảI thích nhà nước là đại diện cho
toàn dân đãlàm giảm nhẹ trách nhiệm của nhà nước, khiến chúng ta rơi vào
tình trạng khơng xác định rõ chủ sở hữu gắn liền với trách nhiệm.
Chế độ sở hữu chỉ xét về quan hệ với những tư liệu sản xuất chủ yếu, còn
thành phần kinh tế lại là những tác nhân kinh tế, là nguồn tạo ra những giá trị
sản xuất dịch vụ cho xã hội. Cũng là sở hữu tư nhân nhưng các tác nhân kinh tế
có thể là người sản xuất các thể, tiểu chủ hay tư sản tư nhân. Chủ nghĩa tư bản
chỉ có hai hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Chúng ta
mong muốn xây dựng một chế độ sở hữu duy nhất là sở hữu tồn dân. Nhưng
để đi tới đó, lồi người phải đi một bước quá độ là xây dựng chủ nghĩa xã hội
với hai hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.Trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, một mặt chế độ sở hữu đã được đa dạng
hoá, xuất hiện hình thức đan xen về chế độ sở hữu, mặt khác cũng thấy rõ nét
xuất hiện 5 thành phần kinh tế : kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể
tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Rõ ràng, chúng ta
đã có một sự điều chỉnh có thể gọi là điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hơn
với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất nhằm giải phóng sức sản xuất,
nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Chính nhờ
việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần công cuộc đổi mới kinh tế của
nước ta đã nhanh chóng đạt được những kết quả quan trọng.
2.Các thành phần kinh tế

a.Kinh tế nhà nước.
17


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

Thnh phn kinh tế nhà nước là những đơn vị tổ chức trực tiếp sản xuất
kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở
hữu nhà nước , hoặc phần của toàn nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế.
Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước ( kinh tế quốc doanh),
các tàI sản thuộc sở hữu nhà nước.
Kinh tế nhà nước thuộc sở hữu nhà nước, sản xuất kinh doanh theo nguyên
tắc hạch toàn kinh tế, thực hiện phân phối theo hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Đổi mới và phát triển
kinh tế nhà nước để đảm bảo những mục tiêu kinh tế-xã hội. Cần hồn thiện
chế độ chính sách, luật pháp bảo đảm doanh nghiệp nhà nước thật sự là một
đơn vị sản xuất hàng hố có tư cách pháp nhân. Phân định rõ quyền sơ hữu nhà
nước với quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước; quyền sở hữu nhà nước với
quyền sử dụng quyền quản lý. Tách bạch chức năng quản lý kinh tế với quản lý
tàI sản nhà nước và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
b.Kinh tế hợp tác.
Kinh tế hợp tác là sự liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với
các hình thức đa dạng phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên
tham gia.
Hình thức quan trọng của kinh tế hợp tác là hợp tác xã. Kinh tế hợp tác xã là
những hình thức liên kết kinh tế có pháp nhân, tuân thủ theo những nguyên tắc,
có tổ chức chặt chẽ và điều lệ hoạt động rõ ràng.Kinh tế hợp tác xã được phát
triển dưới nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao theo ngun tắc tự nguyện,

bình đẳng cùng có lợi.
Nhà nước cần xây dựng và thực hiện cị hiệu lực các chính sách kinh tế vĩ
mô đối với nông nghiệp, nông dân, đầu tư trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ
tầng cho sản xuất đời sống, chính sách thị trường để từng bước đưa kinh tế hợp
tác đưa kinh tế hợp tác xã cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân.

18


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

c.Kinh t tư bản nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước vào hoạt
động của các đơn vị tổ chức kinh tế tư bản trong và ngoài nước.
Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác, liên doanh
sản xuất kinh doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài
nước, nhằm sử dụng khai thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia, đặt
dưới sự kiểm soát, giúp đỡ của nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước có vai trị quan trọng trong việc huy động, sử dụng
vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của nhà tư bản. Cần đa
dạng hố các hình thức liên doanh liên kết với các tổ chức và cơng ty nước
ngồi, nâng dần tỷ lệ đầu tư của phía Việt Nam. Đồng thời áp dụng nhiều hình
thức góp vốn kinh doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong
nước dưới nhiều hình thức cơng ty cổ phần, cơng ty trách nhiệm hữu hạn..
nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, tăng sức
cạnh tranh và hợp tác với nước ngồi. Cải thiện mơi trường đầu tư và nâng cao
năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ quyền lợi của người

lao động.
d.Kinh tế cá thể.
Kinh tế cá thể của tiểu chủ của nông dân, thợ thủ công, những người buôn
bán, dịch vụ cà thể. Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản
xuất kinh doanh phân tán, trình độ kỹ thuật thủ cơng. Mục đích chủ yếu là nI
sống mình, cịn tiểu chủ bản thân vừa lao động vừa thuê một số ít lao động.
Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ phát huy nhanh có hiệu quả tiền vốn, sức
lao động, tay nghề, sản phẩm truyền thống. Vì thế, nó có vai trị quan trọng
trong nền kinh tế, có khả năng đóng góp phát triển kinh tế xã hội. Do những ưu
thế của nó, Nhà nước và các thành phần kinh tế không thể không tạo điều kiện,
hướng dẫn thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ về vốn, kỹ thuật, công nghệ,tiêu
thụ sản phẩm.. để từng bước tham gia kinh tế hợp tác một cách tự nguyện hoặc
làm “vệ tinh” cho các doanh nghiệp của nền kinh tế.
e. Kinh tế tư bản tư nhân.
19


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

Kinh t tư bản tư nhân là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà
tư bản trong nước hoặc nước ngoài đầu tư để sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Nét nổi bật của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn
hợp, thuê và bóc lột sức lao động làm thuê, thường đầu tư vào những ngành
vốn ít, lãI cao. Kinh tế tư bản tư nhân tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần..
Cần khẳng định nhất quán chủ trương phát triển kinh tế tư bản tư nhân, bình
đẳng với các thành phần kinh tế khác. Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào
sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp lý, tạo đIều kiện thuận lợi cho các

nhà tư bản đầu tư phát triển.

Chương III. Đa dạng hố các hình thức sở hữu trong nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
I. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa với các thành phần kinh tế.
Đối với thành phần kinh tế, tiểu chủ chúng ta nên và chỉ có thể đặt vấn đề
từng bước đi vào làm ăn hợp tác với hai đIều kiện : Một là, sản xuất vẫn phát
triển nhu cầu phải đi vào hợp tác xã thực sự. Hai là, nhà nước vừa tạo đIều kiện
vật chất, vừa hướng dẫn và có chính sách thoả đáng khuyến khích họ đi vào
con đường hợp tác.
Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân, muốn đưa họ vào quỹ đạo cũng
chỉ có thể bằng cơ chế chính sách và bằng pháp luật của nhà nước. Nêú có liên
doanh với nhà nước, thành phần kinh tế tư bản nhà nước lớn lên nhưng như thế
vẫn không phải thành phần kinh tế nhà nước lớn lên. Điều đó có nghĩa là việc
hạ tỷ trọng thành phần kinh tế tư bản tư nhân, tư bản nhà nước chỉ có thể băng
phát triển thành phần kinh tế nhà nước, trước hết về trị số tuyệt đối và từ đó mà
tăng tỷ lệ tương đối.
Cho đến nay, tỷ trọng bộ phận kinh tế nhà nước chỉ mới chiếm trên 1/3 tổng
sản phẩm trong nước và nếu xét cả một q trình cùng với sự tăng trưởng của
tồn bộ nền kinh tế, tỷ trọng đó cũng khơng có sự thay đổi đáng kể. Điều đó có
20


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

th gii thích một phần là do vị trí đặc biệt và những khó khăn mà kinh tế nhà
nước phải gánh chịu. Nhà nước phải nắm các ngành then chốt có liên quan đến
những cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân như nguyên liệu năng lượng,

giao thông vận tải,thông tin liên lạc.
Việc phấn đấu để kinh tê nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế
hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân là một sự nghiệp khó khăn,
khơng thể thực hiện một sớm một chiều. Chúng ta dự kiến đến năm 2020 tỷ
trọng thành phần kinh tế này phảI chiếm khoảng 60% GDP trong đIều kiện các
thành phần kinh tế vẫn phát triển. Đó là một cuộc chạy đua thực sự trong hành
lang pháp lý nhưng vẫn phảI với tinh thần vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Mọi sự
nơn nóng, áp đặt sẽ không đem lại hiệu quả.
II, Sự tiếp cận chế độ sở hữu công hữu xã hội chủ nghĩa.
Chế độ cơng hữu với tư cách là hình thức phủ định của chế độ tư bản tư
nhân
Tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa sở hữu cá nhân và sở hữu
xã hội , giữa làm chủ của cá nhân người lãnh đạo và làm chủ của cộng đồng xã
hội trên cơ sở kết hợp biện chứng hàI hoà giữa lợi ích các nhân, lợi ích tập thể
và lợi ích xã hội. Đồng thời nó dựa trên trình độ phát triển hiện đại của lực
lượng sản xuất, do đó sẽ tạo ra một động lực phát triển mới trong nền sản xuất.
Công hữu và tư hữu, mặc dù là hai mặt đối lập, nhưng không phải là sự đối
lập tuyệt đối, nên khơng thể tuỳ tiện xố bỏ, tuyệt đối hoá mặt nào, mà là sự
đối lập biện chứng. Sự ra đời của chế độ công hữu không phảI là giản đơn máy
móc.Với tính tất yếu của q trình tự nhiên thì đó là q trình khắc phục sự
hạn chế chật hẹp của chế độ tư hữu, làm cho vai trị cơng hữu ngày càng tăng,
trở thành nhân tố chi phối nhân tố thống trị đối với tư hữu, đồng thời tư hữu
vẫn được duy trì như một động lực tất yếu cho cơng hữu.
Q trình chuyển hố từ tư hữu sang công hữu nhất thiết phảI trảI qua những
hình thức trung gian q độ. ĐIều đó khơng phảI do ý muốn chủ quan , mà do
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định, ứng với mỗi
thời kỳ khác nhau của lực lượng sản xuất có những hình thức tổ chức kinh tế
cho phù hợp. Các hình thức kinh tế quá độ do vậy sẽ vơ cùng phong phú, đa
dạng, nhưng khơng có hình thức nào là tuyệt đối, bất biến cả. Chúng đều tự
hồn thiện mình trong q trình phát triển và đến một lúc nào đó lại bị các hình

21


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

thc cao hơn thay thế. Xu thế vận động chung của các hình thức kinh tế q độ
là vai trị của cơng hữu trong cơ cấu kinh tế, trong hoạt động kinh tế ngày càng
lớn và chiếm ưu thế.
III. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất trong quá trình
xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hưỡng xã hội chủ nghĩa ở VIệt
Nam.
1.Kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa.
Gắn liền với q trình hình thành va phát triển của phân cơng lao động trong
xã hội và đa dạng hố các hình thức sở hữu là quá trình hình thành và phát
triển của kinh tế hàng hố, kinh tế thị trường. Chính phân cơng lao động xã hội
và đa dạng hố các hình thức sở hữu đã sinh ra kinh tế thị trường; đến lượt nó,
kinh tế thị trường lạt là động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lực lượng
sản xuất, phân công lao động xã hội và đa dạng hố các hình thức sở hữu. Kinh
tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở, các quan hệ kinh tế trong nước và
quốc tế không ngừng phát triển. Đây là một hệ thống kinh tế có cơ chế đIều
chỉnh thông qua quan hệ cung cầu, giá cả, nên nó có tính năng động và tính
nhạy cảm cao. Nhờ vậy, nó phát huy cao độ tính tích cực của con người trong
sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng
suất lao động, góp phần thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng lên của xã hội.
Bên cạnh mặt tích cực, kinh tế thị trường cũng bộc lộ nhiều mặt tiêu cực.
Trong kinh tế thị trường, những người sản xuất kinh doanh không nắm chắc
được quan hệ cung cầu dẫn đến khủng hoảng kinh tế làm cho sản xuất không
ổn định. Kinh tế thị trường đẩy nhanh q trình phân hố người giàu, người

nghèo, bất bình đẳng xã hội phát triển, tệ nạn xã hội gia tăng. Chính vì vậy,
ngay trong các nước tư bản, Nhà nước cũng phảI can thiệp vào kinh tế thị
trường nhằm đảm bảo đIều kiện sản xuất kinh doanh ổn định, đIều chỉnh các
mối quan hệ xã hội, bảo vệ mơi trường. Trên thực tế, hiện nay khơng có một
nền kinh tế thị trường thuần tuý mà đó là một nền kinh tế hỗn hợp với các tên
gọi khác nhau.
Trong lịch sử hình thành nhà nước, chức năng kinh tế thường xuất hiện
sau chức năng công quyền và thường lúc đầu rất mờ nhạt chỉ đơn thuần là thu
thuế của tầng lớp dân cư có hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng dần dần tình
tự phát của kinh tế thị trường đã đưa lại những hậu quả nặng nề mà xã hội phảI
22


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

gỏnh chu. Từ đó, chức năng kinh tế của nhà nước cũng được dần dần hình
thành. Học thuyết Keynes là một đIển hình về sự kêu gọi phảI có bàn tay hữu
hình của nhà nước để can thiệp vào thị trường khống chế tính tự phát tiêu cực
của thị trường. Tiếp sau học thuyết Keynes là hàng loạt các học thuyết kinh tế
khác đều coi vai trò của nhà nước can thiệp vào quá trình kinh tế thị trường là
đương nhiên và mang tính quy luật. Như vậy, nguồn gốc của định hướng phát
triển kinh tế thị truờng là từ chức năng kinh tế của nhà nước, không phảI như
quan niệm rằng chúng ta đã duy ý chí, áp đặt cho thị trường một định hướng
phát triển theo quỹ đạo xã hội chủ nghĩa.
Chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là tất
yếu đối với tất cả các nước do sự phát triển của lục lượng sản xuất, của phân
công lao động xã hội và đa dạng hố các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất.
Hơn nữa, kinh tế thị trường có sự đIều tiết của nhà nước dưới hình thức này

hay hình thức khác cũng là tất yếu đối với tất cả các nước. Song, sự đIều tiết
của nhà nước đối với kinh tế như thế nào vừa tuỳ thuộc vào đIều kiện kinh tế,
vừa tuỳ thuộc vào ý chí giai cấp cầm quyền. Cho nên khơng có nền kinh tế thị
trường “ tự nó ” , mà là nền kinh tế thị trường có sự tác động của nhà nước
theo một định hướng chính trị nhất định.
Vấn đề đặt ra là giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa có
quan hệ với nhau như thế nào ? Cho đến nay, xung quanh vấn đề này đang còn
nhiều ý kiến khác nhau. Thực chất, xã hội chủ nghĩa là một khái niệm dùng để
chỉ một xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản, nó do sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản tạo ra. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển cao bao nhiêu càng tạo ra
tiền đề vật chất đầy đủ cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu. Với lo gic
như vậy, những nước tư bản triển sẽ có điều kiện để chuyển trực tiếp lên chủ
nghĩa xã hội. Ngược lại, những nước lạc hậu như nước ta, tiến lên chủ nghĩa xã
hội phải trải qua nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ . Chủ nghĩa xã hội
đối với nước ta còn là mục tiêu đi tới, chúng ta phải thực hiện hố mục tiêu đó
trong từng bước phát triển. Nói “ định hướng xã hội chủ nghĩa là với tinh thần
đó. Để đi tới mục tiêu đó, tất yếu chúng ta phải sử dụng kinh tế thị trường là
công cụ thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, từng bước
tạo ra những tiền đề vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, định hướng xã
hội chủ nghĩa nhằm chủ động ngay từ đầu định hướng kinh tế thị trường phát
triển theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Như vậy, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa không loại trừ
nhau, mà bổ sung cho nhau. Việc xây dựng kinh tế thị trường là phù hợp với
xu hướng của thời đại và phù hợp với đIều kiện cụ thể ở nước ta.

23


Hoàng Thị Minh Hạnh


Đề án kinh tế chính trị

2.a dng hố các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất trong quá trình
xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đa dạng hố các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là quy luật chung
đối với tất cả các nước gắn liền với phát triển lực lượng sản xuất và phân công
lao động xã hội. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường không thể tách rời việc
đa dạng hố các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên nền kinh tế thị
trường mà chungs ta đang xây dựng là nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, đa dạng hố các hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất ở nước ta lại có nét độc đáo riêng.
Đối với nước ta hiện nay, việc phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước phải gắn liền với cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật và công nghệ, với phân công và hợp tác lao động trong nước cũng
như quốc tế và khu vực.
Quá trình đó vừa địi hỏi lại vừa tạo ra điều kiện để đa dạng hố một
cách nhanh chóng các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Sự hình thành và
phát triển một cách đa dạng các hình thức sở hữu đó cho phép giải phóng được
các năng lực sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, cảI thiện đời sống nhân
dân.
Trong quá trình phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, để đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải giải quyết hai vấn đề cơ bản sau:
Phải đảm bảo kinh tế nhà nước giữ được vai trị chủ đạo trong nền kinh tế.
Nó phải nắm được các vị trí kinh tế then chốt để có thể hướng các thành phần
kinh tế khác phát triển theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội, vừa đảm bảo phát
triển kinh tế nhanh, vừa đảm bảo thực hiện tốt công bằng xã hội, bảo vệ mơI
trường. Khi tính hiệu quả của kinh tế nhà nước phải tính đến hiệu quả của sản
xuất kinh doanh, nhưng mặt quan trọng hơn phải tính đến hiệu quả kinh tế xã
hội.
Phải đặt biệt chú ý phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới mọi hình

thức. Đây là xu hướng phát triển tất yếu trong quá trình liên doanh, liên kết,
hợp tác trong sản xuất kinh doanh. Nó cho phép phát triển mạnh mẽ lực lượng

24


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

sn xut, tiếp cận với khoa học công nghệ tiên tiến và là bước đi tất yếu quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.

KẾT LUẬN

Hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới chuyển từ mơ hình kế hoạch hố
tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước chúng ta đã đạt được những thành tựu lớn
Tốc độ tăng trưởng GDP tăng nhanh và liên tục, đặc biệt trong 5 năm (19911995). Nhiều sản phẩm công nghiệp quan trọng như đIện , dầu thơ.. góp phần
tăng trưởng lớn cho nền kinh tế . Sản xuất tăng, lạm phát được kiềm chế, đời
sống dân cư ổn định. Vốn đầu tư nước ngoàI vào nhiều lĩnh vực tăng đáng kể.
Nền kinh tế bước vào thời kỳ tăng trưởng ổn định. Cơ cấu kinh tế quốc dân
chuyển đổi theo hướng tích cực. Bộ mặt đất nước đổi mới theo hướng văn
minh và hiện đại, đời sống các tầng lớp nhân dân được cảI thiện. ĐIều đó đã
chứng minh tính đúng đắn trong đướng lối đổi mới của Đảng ta. Mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh đang từng bước trở thành hiện
thực. Cơ cấu kinh tế ngày càng hoàn thiện với sự đa dạng của các hình thức sở
hữu về tư liệu sản xuất.
Nghiên cứu vấn đề sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng bởi sở hữu là một phạm
trù kinh tế vừa xuất phát vừa cơ bản của kinh tế chính trị. Nó khơng những

đóng vai trị nền tảng quyết định các quan hệ tổ chức, quản lý và phân phối
trong chỉnh thể quan hệ sản xuất, mà còn tấc động mạnh mẽ lực lượng sản xuất
cũng như kiến trúc thượng tầng. Tuy nhiên vấn đề sở hữu là một vấn đề rất
phức tạp và càng phức tạp bởi sự đan xen hai khía cạnh khách quan và chủ
quan trong tổng thể các quan hệ tất yếu khác như giai cấp, nhà nước, pháp luật,
thị trường.

25


Hoàng Thị Minh Hạnh

Đề án kinh tế chính trị

Nc ta, từ đại hội VI của Đảng đã thừa nhận vai trò và sự tồn tại của chế độ
tư hữu trong tính đa dạng của các hình thức sở hữu . Đây là bước ngoặt về
nhận thức, lí luận mang tầm vóc chiến lược mới, thể hiện sự đổi mới từ gốc của
Đảng ta. Bỏi vậy, cần có cách tiếp cận khoa học không phiến diện khi đổi mới
và xác lập chế độ sở hữu để tránh lặp lại những sai lầm cũ về sở hữu.
Đối với bản thân mỗi sinh viên việc nghiên cứu vấn đề sở hữu có ý nghĩa rất
quan trọng để nâng cao sự hiểu biết, kiến thức kinh tế và có một nền tảng tiếp
cận mơn kinh tế chính trị học. Nghiên cứu vấn đề sở hữu là tiền đề quan trọng
và thiết thực cho mỗi sinh viên khi bước vào cuộc sống.

26


×