Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

GIÁO TRÌNH TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.48 KB, 50 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
Chủ biên
Thân Thị Kim Oanh

GIÁO TRÌNH
TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Vinh - 2011
1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
Chủ biên
Thân Thị Kim Oanh

GIÁO TRÌNH
TƯ PHÁP QUỐC TẾ

Vinh - 2011
2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
Chủ biên
Thân Thị Kim Oanh

GIÁO TRÌNH
TƯ PHÁP QUỐC TẾ


(Giáo trình đào tạo từ xa)

Vinh – 2011
3


Phân công biên soạn
Chủ biên: Thân Thị Kim Oanh
Từ Chương 1 đến Chương 10

4


CHƯƠNG 1

KHÁI NIỆM VỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ VÀ NGUỒN CỦA TƯ PHÁP QUỐC TẾ
1. KHÁI NIỆM TƯ PHÁP QUỐC TẾ
1.1 Đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế
Mỗi ngành luật đều có đối tượng điều chỉnh riêng, đặc thù của mình. Xem xét đối
tượng điều chỉnh của một ngành luật là xác định phạm vi các vấn đề mà nó điều chỉnh.
Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là tổng thể các nhóm quan hệ xã hội mà
các quy phạm pháp luật của ngành luật đó điều chỉnh.
Tư pháp quốc tế là một nghành luật độc lập nên cũng có đối tượng điều chỉnh riêng
của mình như bao ngành luật khác.
Sự hợp tác quốc tế về mọi mặt giữa các quốc gia là hiện thực tất yếu khách quan
trong mọi thời đại. Quá trình hợp tác quốc tế này không chỉ làm phát sinh mối quan hệ
giữa các quốc gia mà còn làm phát sinh nhiều mối quan hệ khác nhau giữa các thể nhân,
pháp nhân của họ. Quan hệ quốc tế là tổng thể các quan hệ giữa các công dân và pháp
nhân của các nước và giữa các nước với nhau.
Các quan hệ phát sinh trong đời sống quốc tế giữa các quốc gia, và rộng hơn là

giữa các chủ thể của Công pháp quốc tế, thuộc đối tượng điều chỉnh của Công pháp quốc
tế.
Còn các quan hệ pháp lý giữa công dân, cơ quan, tổ chức của các nước khác nhau,
và thậm chí giữa quốc gia với công dân, cơ quan, tổ chức nước ngoài, các quan hệ giữa
công dân, cơ quan, tổ chức trong nước với nhau nhưng có yếu tố nước ngoài thì do Tư
pháp quốc tế điều chỉnh.
Đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là những quan hệ dân sự, hôn nhân và
gia đình, thương mại, lao động và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài. Ngắn gọn hơn, đó
là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
Việc xác định “yếu tố nước ngoài” trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng:
Theo pháp luật Việt Nam:
Theo điều 758 – Bộ luật dân sự 2005 thì “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là
quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên
tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan
hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan
hệ đó ở nước ngoài”.
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì yếu tố nước ngoài được xác định theo
một trong ba tiêu chí sau:
Về chủ thể: có ít nhất một trong các bên là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài
hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Theo định nghĩa tại khoản 3 – điều 3 – Luật
5


quốc tịch 2008 thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người
gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.
Đối tượng chủ thể là công dân Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài chỉ
thực sự mang yếu tố nước ngoài khi họ xác lập các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng tại
nước mà họ đang cư trú, sinh sống lâu dài chứ không phải trên lãnh thổ Việt Nam.
Đối tượng chủ thể là người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài thì

họ chính là người nước ngoài nhưng có bố, mẹ là người Việt Nam. Do vậy, về mặt địa vị
pháp lý trong quan hệ dân sự thì thực sự họ là người nước ngoài.
Vấn đề đặt ra là, ý nghĩa thực sự của quy định này của Bộ luật dân sự là gì?
Về khách thể: tài sản liên quan đến quan hệ dân sự ở nước ngoài.
Về sự kiện pháp lý: Căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật
nước ngoài hoặc phát sinh tại nước ngoài.
Luật Tư pháp quốc tế của hầu hết các nước trên thế giới xác định yếu tố nước
ngoài theo ba tiêu chí sau:
- Có người nước ngoài, pháp nhân, thậm chí là tổ chức, quốc gia nước ngoài tham
gia.
- Tài sản liên quan đến quan hệ dân sự ở nước ngoài.
- Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài.
1.2 Phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế
Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là những cách thức, biện pháp mà các
quy phạm pháp luật của ngành luật đó tác động lên các quan hệ xã hội thuộc đối tượng
điều chỉnh của nó.
Phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là những cách thức, biện pháp mà
các quy phạm pháp luật của Tư pháp quốc tế tác động lên các quan hệ xã hội thuộc đối
tượng điều chỉnh của nó.
Tư pháp quốc tế có hai phương pháp điều chỉnh đặc thù là phương pháp xung đột –
còn gọi là phương pháp gián tiếp và phương pháp thực chất – còn gọi là phương pháp trực
tiếp.
- Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột là phương pháp áp dụng các quy phạm xung đột nhằm điều
chỉnh các quan hệ của Tư pháp quốc tế.
Quy phạm xung đột là loại quy phạm pháp luật đặc biệt, mang tính chất đặc thù
của Tư pháp quốc tế. Quy phạm xung đột không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của
các bên chủ thể tham gia vào các quan hệ Tư pháp quốc tế mà chỉ ra hệ thống pháp luật
nước nào được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật đó. Ví dụ: Năng lực lập di
chúc, thay đổi và hủy bỏ di chúc phải tuân theo pháp luật của nước mà người lập di chúc

là công dân (khoản 1 – điều 768 – Bộ luật dân sự 2005), Quyền và nghĩa vụ của các bên
theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng (khoản 1 –
6


điều 769 – Bộ luật dân sự 2005),… Vì thế mà phương pháp xung đột còn được gọi là
phương pháp gián tiếp.
Phương pháp xung đột là phương pháp gắn chặt với sự ra đời và phát triển của Tư
pháp quốc tế và là phương pháp điều chỉnh chủ yếu của Tư pháp quốc tế. Điều này xuất
phát từ đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng
có yếu tố nước ngoài. Chính yếu tố nước ngoài trong các quan hệ này dẫn tới sự liên quan
của hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau. Và xuất hiện tình trạng có
hai hay nhiều hệ thống pháp luật có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ nhất
định. Mặt khác, do các yếu tố về điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện
lịch sử, kỹ thuật lập pháp mà hệ thống pháp luật các nước đều có sự khác nhau, thậm chí
là đối lập nhau khi điều chỉnh một quan hệ pháp luật nhất định. Khi đó, để giải quyết mối
quan hệ cụ thể của Tư pháp quốc tế, chúng ta cần phải xác định hệ thống pháp luật nào
trong các hệ thống pháp luật có liên quan để áp dụng. Việc lựa chọn đó được tiến hành
thông qua quy phạm xung đột.
Việc điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế bằng phương pháp xung đột đem lại
các khó khăn, phức tạp cho các cơ quan tài phán và các cơ quan có thẩm quyền khác như
sau:
Thứ nhất, các quy phạm xung đột không trực tiếp giải quyết cụ thể quyền và nghĩa
vụ của các bên tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế mà chỉ dẫn chiếu tới một hệ thống pháp
luật của một quốc gia nào đó. Khi đó, để giải quyết một mối quan hệ cụ thể thì phải căn
cứ vào nội dung các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật mà quy phạm xung đột
dẫn chiếu tới. Trong trường hợp mà quy phạm xung đột dẫn chiếu tới việc áp dụng pháp
luật nước ngoài thì cơ quan có thẩm quyền phải đối mặt với những vấn đề hết sức phức
tạp như: xác định nội dung pháp luật nước ngoài, giải thích pháp luật nước ngoài,…
Thứ hai, việc áp dụng quy phạm xung đột không phải lúc nào cũng giúp chúng ta

xác định được hệ thống pháp luật cần được áp dụng mà có thể dẫn đến các trường hợp
dẫn chiếu ngược trở lại, dẫn chiếu tới pháp luật của nước thứ ba hay bảo lưu trật tự công
cộng,…
Thứ ba, quy tắc giải quyết xung đột ở các nước rất khác nhau, vì thế mà gây ra
không ít khó khăn cho các cơ quan giải quyết tranh chấp và các bên đương sự.
- Phương pháp thực chất
Phương pháp thực chất là phương pháp áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất
nhằm điều chỉnh các quan hệ thuộc lĩnh vực Tư pháp quốc tế.
Quy phạm pháp luật thực chất trực tiếp điều chỉnh và quy định các quyền, nghĩa vụ
của các bên chủ thể tham gia vào quan hệ Tư pháp quốc tế cụ thể. Vì thế phương pháp
thực chất còn được gọi là phương pháp trực tiếp.
Quy phạm pháp luật thực chất có hai loại:
Quy phạm thực chất thống nhất: là các quy phạm thực chất được quy định trong
các điều ước quốc tế hoặc được các quốc gia thừa nhận tập quán quốc tế. Ví dụ: các quy
phạm tập quán quốc tế trong Incoterms, Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc
tế,…
7


Quy phạm thực chất thông thường: là các quy phạm thực chất được quy định trong
các văn bản pháp luật quốc gia. Ví dụ: Người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại
Việt Nam như công dân Việt Nam (khoản 2 – điều 761 – Bộ luật dân sự 2005), Tàu biển
nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, tàu vận chuyển chất phóng xạ chỉ
được vào hoạt động trong vùng nước cảng biển, nội thủy và lãnh hải của Việt Nam sau
khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép (khoản 6 – điều 28 – Bộ luật hàng hải 2005),…
Ưu điểm của việc sử dụng phương pháp thực chất: giúp cho việc giải quyết tranh
chấp được tiến hành một cách nhanh chóng nếu chúng phát sinh vì các quy phạm thực
chất trực tiếp điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế mà không phải qua một bước trung
gian.
Tuy nhiên không thể chỉ điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế thông qua các

quy phạm thực chất. Bởi vì với đặc điểm của đối tượng điều chỉnh, bởi sự khác biệt của
hệ thống pháp luật các quốc gia và lợi ích của các quốc gia mà quy phạm xung đột vẫn
phải có mặt và chiếm vai trò cũng như số lượng rất lớn.
Hiện nay, về lý luận cũng như thực tiễn Tư pháp quốc tế của các quốc gia trên thế
giới còn có nhiều sự khác biệt, thậm chí là mâu thuẫn nhau.
Về các quy phạm pháp luật của Tư pháp quốc tế, đang có nhiều quan điểm khác
nhau như sau:
Quan điểm thứ nhất: Tư pháp quốc tế chỉ bao gồm các quy phạm xung đột. Đây là
quan điểm của các nước như Trung Quốc, Bungari, Sec và Slovakia.
Quan điểm thứ hai: cho rằng Tư pháp quốc tế ngoài các quy phạm xung đột còn
bao gồm quy phạm thực chất thống nhất.
Quan điểm thứ ba: Tư pháp quốc tế bao gồm quy phạm xung đột và quy phạm
thực chất (thống nhất và thông thường). Việt Nam theo quan điểm này.
Về phạm vi điều chỉnh của Tư pháp quốc tế: đây là vấn đề được tranh luận nhiều
nhất trong lịch sử Tư pháp quốc tế và đến nay vẫn chưa có quan điểm thống nhất.
Các nước Anh, Mỹ, Bỉ, Singapore, Úc,… nghiên cứu Tư pháp quốc tế dưới góc độ
là luật xung đột nên phạm vi điều chỉnh của nó bao gồm ba vấn đề chính của xung đột
pháp luật:
- Vấn đề xác định thẩm quyền của tòa án các nước trong việc giải quyết các tranh
chấp tư có yếu tố nước ngoài.
- Vấn đề lựa chọn pháp luật áp dụng cho các tranh chấp trên (choice of law).
- Vấn đề công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của tòa án nước ngoài,
các quyết định của trọng tài nước ngoài.
Các vấn đề này được nghiên cứu trong tất cả các quan hệ pháp luật tư như quan
hệ tài sản, quan hệ hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quan hệ hôn nhân và
gia đình,…
Ở Pháp, quan điểm về Tư pháp quốc tế mang điển hình của Châu Âu lục địa.
Những vấn đề được xác định là phạm vi điều chỉnh bao gồm:
8



- Các quy định về quốc tịch Pháp và địa vị pháp lý của người nước ngoài tại Pháp.
- Vấn đề xung đột pháp luật.
- Vấn đề thẩm quyền xét xử của tòa án.
Ở Đức, Tư pháp quốc tế là ngành luật xung đột nhưng bao gồm cả các vấn đề liên
quan đến tố tụng dân sự quốc tế.
Liên bang Nga, Việt Nam,… quan điểm rằng đối tượng điều chỉnh của Tư pháp
quốc tế là các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Vì thế phạm vi điều chỉnh được xác
định rất rộng, đó là:
- Vấn đề xung đột pháp luật.
- Địa vị pháp lý của người, pháp nhân nước ngoài.
- Các quan hệ dân sự thuần túy, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài.
- Quan hệ tố tụng dân sự quốc tế và trọng tài thương mại quốc tế.
- Ủy thác tư pháp.
- Công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, các
quyết định của trọng tài nước ngoài.
1.3 Định nghĩa Tư pháp quốc tế
Tư pháp quốc tế là tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động và tố tụng dân sự có yếu tố
nước ngoài.
1.4 Vị trí của Tư pháp quốc tế trong hệ thống pháp luật
Đến nay vẫn còn tồn tại các quan điểm rất khác nhau trong khoa học pháp lý của
các quốc gia về vị trí của Tư pháp quốc tế trong hệ thống pháp luật. Nhìn chung chúng
được chia thành ba nhóm chính:
Nhóm thứ nhất: cho rằng các quy phạm Tư pháp quốc tế phải nằm trong hệ thống
pháp luật quốc tế. Căn cứ cho quan điểm này là mối liên hệ chặt chẽ giữa Tư pháp quốc tế
và Công pháp quốc tế, sự giống nhau giữa chúng về nguồn pháp luật,… Bên cạnh đó, các
học giả đưa ra quan điểm này cho rằng, Tư pháp quốc tế điều chỉnh các quan hệ giữa các
quốc gia liên quan đến vấn đề dân sự vì tất cả các mâu thuẫn, tranh chấp giữa pháp nhân,

công dân của các nước đều có thể trở thành mâu thuẫn giữa các quốc gia.
Nhóm thứ hai: cho rằng Tư pháp quốc tế bao gồm hai phần: một phần nằng trong
pháp luật trong nước, một phần nằm trong pháp luật quốc tế, và hai phần này luôn gắn bó
chặt chẽ với nhau, không loại trừ nhau. Một số tác giả khác lại cho rằng Tư pháp quốc tế
là luật trong nước ở nguồn gốc nhưng lại là luật quốc tế ở đối tượng điều chỉnh.
Nhóm thứ ba: cho rằng Tư pháp quốc tế thuộc về hệ thống pháp luật trong nước vì
nguồn luật trong nước của nó luôn có ưu thế hơn nguồn luật quốc tế. Mặt khác, Tư pháp
quốc tế luôn phụ thuộc chặt chẽ vào chủ quyền quốc gia. Do đó mỗi nước đều có giải
pháp riêng cho xung đột pháp luật, tòa án mỗi nước đều có khuynh hướng áp dụng pháp
9


luật nước mình cho các tranh chấp Tư pháp quốc tế. Và vì thế Tư pháp quốc tế là một
ngành luật đặc biệt nằm trong hệ thống pháp luật trong nước. Trên thực tế không có một
ngành luật tư pháp quốc tế chung cho tất cả các nước mà mỗi nước đều có Tư pháp quốc
tế riêng của mình.
Việc xác định vị trí của Tư pháp quốc tế trong hệ thống pháp luật phải xem xét dựa
trên nhiều yếu tố như đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, chủ thể, nguồn
luật,…
2. NGUỒN CỦA TƯ PHÁP QUỐC TẾ
2.1 Khái niệm nguồn của Tư pháp quốc tế
Nguồn pháp luật là những hình thức chính thức thể hiện các quy tắc bắt buộc
chung được nhà nước thừa nhận có giá trị pháp lý để áp dụng việc giải quyết các sự việc
trong thực tiễn pháp lý và là phương thức tồn tại trên thực tế của các quy phạm pháp luật.
Nguồn của Tư pháp quốc tế là những hình thức chứa đựng và thể hiện các quy
phạm pháp luật của Tư pháp quốc tế.
Nguồn của Tư pháp quốc tế bao gồm:
- Pháp luật quốc gia.
- Án lệ.
- Điều ước quốc tế.

- Tập quán quốc tế.
Đặc điểm cơ bản của nguồn của Tư pháp quốc tế là luôn mang hai tính chất:
“Tính quốc tế”: thể hiện bởi nguồn của Tư pháp quốc tế bao gồm điều ước quốc
tế và tập quán quốc tế.
“Tính quốc gia”: thể hiện bởi nguồn của Tư pháp quốc tế bao gồm pháp luật của
mỗi quốc gia.
2.2 Các loại nguồn của Tư pháp quốc tế
2.2.1 Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia là nguồn của Tư pháp quốc tế bao là hệ thống văn bản pháp
quy, kể cả luật bất thành văn cùng với những tập quán và án lệ, thực tiễn tư pháp.
Đây là loại nguồn cơ bản của Tư pháp quốc tế. Bởi vì đối tượng điều chỉnh của Tư
pháp quốc tế là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, phần lớn được
phát sinh giữa các thể nhân và pháp nhân. Cho nên các quy phạm pháp luật trong các hệ
thống pháp luật quốc gia giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong việc điều chỉnh các quan
hệ của Tư pháp quốc tế.
Tùy theo đặc điểm của từng quốc gia, các quy phạm Tư pháp quốc tế quốc nội có
thể được tập trung trong một đạo luật riêng biệt (như Luật tư páp quốc tế của Nhật Bản,
Thái Lan, Ba Lan, Anbani,…) hoặc được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật về
dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, lao động,… (như Pháp, Đức, Hà Lan, Việt
Nam,…).
10


Ở Việt Nam chưa có một đạo luật riêng về Tư pháp quốc tế, các quy phạm pháp
luật Tư pháp quốc tế nằm rải rác trong các văn bản luật Việt Nam ban hành. Như: Luật
Hiến pháp, Luật Hàng hải, Luật thương mại, Luật Hôn nhân và gia đình,…Nhưng chỉ
những quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài mới là nguồn của Tư
pháp quốc tế.
Tại Việt Nam, bản án và quyết định của tòa án, trọng tài không được công nhận là
nguồn của pháp luật nói chung và nguồn của Tư pháp quốc tế nói riêng. Chỉ có các văn

bản quy phạm pháp luật mới là nguồn của Tư pháp quốc tế.
2.2.2 Điều ước quốc tế
Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của quan hệ hợp tác quốc tế,
các điều ước quốc tế với tư cách là nguồn của Tư pháp quốc tế ngày càng tăng nhanh về
số lượng và có xu hướng trở thành một trong những nguồn luật chủ yếu, quan trọng của
Tư pháp quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, trong một số lĩnh vực và trong những mối quan hệ nhất định,
các quy phạm của điều ước quốc tế đóng vai tò chủ đạo trong việc điều chỉnh các quan hệ
Tư pháp quốc tế.
So với luật quốc gia, điều ước quốc tế có nhiều ưu điểm hơn trong việc điều chỉnh
các quan hệ Tư pháp quốc tế vì điều ước quốc tế được hình thành trên cơ sở thỏa thuận
giữa các quốc gia nên đã xây dựng những quy phạm thực chất thống nhất và những quy
phạm xung đột thống nhất. Các quy phạm này được áp dụng một cách thống nhất giúp
cho việc giải quyết các vấn đề trong Tư pháp quốc tế được tiến hành một cách thuận lợi,
nhanh chóng.
Để điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế, các quốc gia đã ký kết hàng loạt các
điều ước quốc tế đa phương và song phương.
2.2.3 Án lệ
Án lệ là một loại nguồn khá phổ biến ở các nước tư bản, nó có ý nghĩa thiết thực
trong việc phát triển hệ thống luật pháp trong nước của các nước này.
Án lệ là các bản án hoặc quyết định của tòa án mà trong đó thể hiện các quan điểm
của thẩm phán đối với các vấn đề pháp lý có tính chất quyết định trong việc giải quyết các
vụ việc nhất định và mang ý nghĩa giải quyết đối với các quan hệ tương ứng trong tương
lai.
Ở các nước theo hệ thống Common Law, án lệ có vai trò vô cùng quan trọng trong
việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Việt Nam không thừa nhận án lệ
là một loại nguồn pháp luật.
2.2.4 Tập quán quốc tế
Tập quán quốc tế là những quy tắc xử sự được hình thành trong một thời gian dài,
được áp dụng liên tục và một cách có hệ thống, được sự thừa nhận của đông đảo các quốc

gia.
Tập quán quốc tế đôi khi vừa là nguồn của Công pháp quốc tế và của cả Tư pháp
quốc tế.
11


Phụ thuộc vào tính chất và giá trị hiệu lực của tập quán quốc tế mà có thể chia
chúng thành các loại sau:
- Tập quán mang tính chất nguyên tắc: là tập quán mang tính nền tảng, cơ bản và
có bao trùm, là cơ sở của chủ quyền và bình đẳng giữa các quốc gia và có giá trị bắt buộc
chung đối với các quốc gia.
- Tập quán quốc tế mang tính chất chung: là tập quán được nhiều nước thừa nhận
và áp dụng rộng rãi mọi nơi trên thế giới.
- Tập quán mang tính chất khu vực: là tập quán được sử dụng ở từng khu vực, từng
nước, thậm chí là từng cảng biển hoặc cảnh hàng không riêng biệt ở mỗi quốc gia
=> Tập quán quốc tế là nguồn bổ trợ của Tư pháp quốc tế nhưng nó lại có vai trò
đặc biệt trong thương mại và hàng hải.

CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế.
2. Phân tích “yếu tố nước ngoài” trong các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư
pháp quốc tế.
3. Trình bày các loại nguồn của Tư pháp quốc tế.

12


CHƯƠNG 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
1. KHÁI NIỆM VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT


1.1 Thế nào là xung đột pháp luật
Để điều chỉnh các mối quan hệ xảy ra trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia khi
không có yếu tố nước ngoài tham gia thì pháp luật của chính quốc gia đó sẽ được áp
dụng. Và khi đó không đặt ra vấn đề lựa chọn luật áp dụng.
Xung đột pháp luật là trạng thái hai hay nhiều hệ thống pháp luật đều có thể điều
chỉnh một quan hệ pháp luật nhất định.
Như vậy, vấn đề đặt ra là cần phải lựa chọn một trong các hệ thống pháp luật liên
quan để áp dụng giải quyết quan hệ pháp luật được nói tới đó.
Chọn luật phải dựa trên những nguyên tắc nhất định chứ không thể tự do, tùy ý và
tùy tiện. Việc lựa chọn đó sẽ không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của tòa án có thẩm
quyền hay hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia vào quan hệ.
Nguyên nhân gây ra hiện tượng xung đột pháp luật:
- Xuất phát từ đặc điểm của đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế, là các quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Do vậy mà mà các quan hệ này thường không chỉ chịu sự
điều chỉnh của pháp luật của một quốc gia mà liên quan tới ít nhất hai quốc gia với hai hệ
thống pháp luật. Về mặt lý luận thì nếu một quan hệ xã hội có liên quan tới bao nhiêu
quốc gia thì có bấy nhiêu hệ thống pháp luật có thể được áp dụng để giải quyết. Điều này
xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia và dẫn tới sự bình đẳng
giữa các hệ thống pháp luật trong việc điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến các quốc
gia đó.
- Có sự khác nhau trong pháp luật các quốc gia khi giải quyết các vấn đề cụ thể.
Nhưng xuất phát từ những đặc điểm khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cho
tới điều kiện tự nhiên, quan điểm lập pháp, đặc trưng của hệ thống pháp luật,… mà hệ
thống pháp luật của các quốc gia không bao giờ giống nhau hoàn toàn, thậm chí là rất
khác và trái ngược nhau.
Pháp luật các nước đều cố gắng để áp dụng pháp luật nước mình trong các mối
quan hệ mà công dân, cơ quan, tổ chức của mình tham gia. Tuy nhiên, các nước không
thể chỉ quy định các quy phạm thực chất thông thường trong pháp luật nước mình để điều
chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài bởi vì trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại,

công dân và cơ quan, tổ chức của nước này mới được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
tại nước khác.
Phạm vi nảy sinh hiện tượng xung đột pháp luật
Xung đột pháp luật nảy sinh trong tất cả các quan hệ dân sự, hành chính, hình sự
chứ không chỉ trong phạm vi các quan hệ dân sự. Ví dụ: Công dân Việt Nam sang Mỹ du
lịch và có hành vi phạm tội giết người. Hay công dân Anh sang Việt Nam du lịch và có
hành vi ảnh hưởng đến môi trường và bị xử phạt hành chính. Tuy nhiên, Tư pháp quốc tế
13


không đặt ra vấn đề xung đột pháp luật vì lĩnh vực hành chính, hình sự mang tính hiệu lực
theo lãnh thổ rất nghiêm ngặt. Vì vậy trong lĩnh vực hành chính, hình sự không có quy
phạm xung đột và áp dụng pháp luật nước ngoài.
Chú ý: Sỡ hữu trí tuệ cũng không có xung đột pháp luật vì quyền sở hữu trí tuệ chỉ
được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ nhất định. Nếu xuất hiện tại Việt Nam thì chỉ được
bảo hộ tại Việt Nam nếu không có điều ước quốc tế điều chỉnh.
1.2 Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật
Có hai phương pháp chủ yếu để giải quyết xung đột pháp luật, đó là phương pháp
xung đột và phương pháp thực chất.
1.2.1 Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột là phương pháp áp dụng quy phạm xung đột để giải quyết
xung đột pháp luật.
Đây là phương pháp được hình thành từ sớm trong lịch sử Tư pháp quốc tế và là
phương pháp chính thống từ xưa đến nay của Tư pháp quốc tế. Ngay từ khi mới bắt đầu
hình thành, vào khoảng thế kỷ XVII, ngành luật này đã được gọi là Luật xung đột. Và
hiện nay, một số nước như Anh, Mỹ vẫn sử dụng cụm Luật xung đột – Conflict of Law
đồng thời với Tư pháp quốc tế – Private International Law.
Phương pháp xung đột được hình thành và xây dựng trên nền tảng hệ thống các
quy phạm xung đột của quốc gia. Điều này có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền giải quyết
phải chọn pháp luật của nước này hay nước kia có liên đới tới yếu tố nước ngoài để xác

định quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự. Việc lựa chọn này phải trên cơ sở quy định
của các quy phạm xung đột.
Phương pháp xung đột được áp dụng chủ yếu và rộng rãi hiện nay trong Tư pháp
quốc tế của các nước trên thế giới. Nó cũng là công cụ chủ yếu để thiết lập và đảm bảo
một trật tự pháp lý trong quan hệ pháp luật dân sự quốc tế.
Hạn chế của phương pháp xung đột:
- Không đảm bảo được một quyết định nhất quán đối với một vụ việc nếu tòa án
của các nước khác nhau giải quyết.
- Là phương pháp trừu tượng, bởi phải có chuyên môn rất sâu trong lĩnh vực pháp
luật mới có thể hiểu được.
Phương pháp xung đột luôn được hoàn thiện và pháp điển hóa trong điều kiện quốc
tế và đồng thời cũng luôn được bổ sung và hoàn thiện trong luật pháp của mỗi quốc gia.
1.2.2 Phương pháp thực chất
Phương pháp thực chất là phương pháp áp dụng quy phạm pháp luật thực chất để
giải quyết xung đột pháp luật.
Quy phạm thực chất là quy phạm pháp luật trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ
của các bên chủ thể tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế.

14


Khi sử dụng quy phạm thực chất vào việc giải quyết một mối quan hệ cụ thể của
Tư pháp quốc tế, cơ quan có thẩm quyền cũng như các đương sự chỉ cần căn cứ vào nội
dung của quy phạm thực chất để giải quyết mà không cần phải chọn luật áp dụng. Do vậy
mà việc xây dựng và áp dụng các quy phạm thực chất là một phương pháp giải
quyết
xung đột pháp luật và là phương pháp đơn giản nhưng hiệu quả.
Xu hướng hiện nay là các nước muốn ký nhiều điều ước quốc tế để xây dựng nhiều
hơn nữa các quy phạm thực chất thống nhất, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại quốc
tế. Một số quan điểm còn cho rằng “nên tập trung xây dựng các quy phạm thực chất thống

nhất trên phạm vi quốc tế để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, bởi như vậy
sẽ không còn phải đặt ra vấn đề xác định pháp luật có hiệu lực áp dụng đối với quan hệ
đó…” Tuy nhiên, đây không phải là công việc dễ thực hiện vì lợi ích của các quốc gia khi
tham gia vào quan hệ Tư pháp quốc tế là khác nhau, trình độ phát triển kinh tế - xã hội
khác nhau,… Do đó trên thực tế, các điều ước quốc tế có các quy phạm thực chất chủ yếu
là trong lĩnh vực thương mại nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản nhưng bản thân các điều
ước này cũng chưa điều chỉnh được hết các quan hệ tài sản trong lĩnh vực thương mại.
Bên cạnh đó, không phải tất cả các nước trên thế giới đều là thành viên của các điều ước
quốc tế này. Chính vì thế dù việc xây dựng quy phạm thực chất được xem là một trong
những phương pháp giải quyết xung đột pháp luật hữu hiệu nhưng nó vẫn chỉ là một trong
các phương pháp và không thể thay thế phương pháp xung đột.
Quy phạm thực chất bao gồm hai loại: quy phạm thực chất thống nhất và quy
phạm thực chất thông thường.
- Quy phạm thực chất thống nhất: là các quy phạm thực chất được các bên thỏa
thuận, thống nhất trong các điều ước quốc tế hoặc thừa nhận trong các tập quán quốc tế.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, có rất nhiều điều ước quốc tế đa phương được ký
kết và thực hiện, trong đó quy định các quy phạm thực chất. Có thể nói đây là một xu
hướng phát triển rất tích cực trong Tư pháp quốc tế. Có thể kể đến những điều ước quốc
tế quan trọng như: Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về mua bán hàng hóa quốc tế,
Công ước Pari 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Công ước Berne 1886 về bảo
hộ quyền tác giả, Công ước 1980 của Liên hợp quốc về vận tải hàng hóa đa phương thức
quốc tế,…
Bên cạnh đó, trong các điều ước quốc tế song phương, các quốc gia cũng xây dựng
các quy phạm thực chất thống nhất để giải quyết xung đột pháp luật giữa hai quốc gia.
Các quy phạm thực chất thống nhất còn được ghi nhận trong các tập quán quốc tế,
nhất là trong lĩnh vực thương mại và hàng hải quốc tế. Nổi tiếng và được áp dụng rộng rãi
nhất là Incoterms các năm.
Ngoài ra, có thể nói, trong một chừng mực nào đó, các quy phạm thực chất thống
nhất được hình thành trên cơ sở các quyết định của trọng tài thương mại quốc tế.
- Quy phạm thực chất thông thường: là các quy phạm thực chất được quy định

trong pháp luật quốc gia.
Ưu điểm của phương pháp thực chất:
Thứ nhất, giải quyết trực tiếp quan hệ Tư pháp quốc tế.
15


Thứ hai, tăng khả năng điều chỉnh hữu hiệu và tính khả thi của luật pháp.
Thứ ba, loại bỏ sự khác biệt, thậm chí mâu thuẫn trong luật pháp giữa các nước với
nhau.
2. QUY PHẠM XUNG ĐỘT

2.1 Khái niệm
Quy phạm xung đột là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần phải áp dụng để
giải quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế.
Quy phạm xung đột không trực tiếp giải quyết quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia quan hệ, nó chỉ ấn định hệ thống pháp luật nước nào sẽ là luật được áp dụng để giải
quyết quan hệ.
Quy phạm xung đột luôn mang tính chất “dẫn chiếu” hay “chỉ ra”, bởi nó chỉ xác
định hệ thống pháp luật có thẩm quyền giải quyết một quan hệ cụ thể mà không quy định
quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên đương sự tham gia quan hệ. Do đó, muốn
giải quyết nội dung của quan hệ đó, cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào hệ thống
pháp luật mà quy phạm xung đột dẫn chiếu tới. Nói cách khác quy phạm xung đột quy
định các quy tắc để xác định hệ thống pháp luật quốc gia được áp dụng để điều chỉnh các
quan hệ Tư pháp quốc tế.
Ví dụ:
Thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản
thừa kế có quốc tịch trước khi chết (khoản 1 – điều 767 – Bộ luật dân sự 2005).
Quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước nơi có bất
động sản đó (khoản 2 – điều 767 – Bộ luật dân sự 2005).
Hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng

(khoản 1 – điều 770 – Bộ luật dân sự 2005).
Cần nhấn mạnh là, quy phạm xung đột quy định việc áp dụng hệ thống pháp luật
của một nước nhất định để điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế chứ không quy định
việc chọn một đạo luật hoặc một quy phạm pháp luật riêng rẽ.
2.2 Cơ cấu và phân loại quy phạm xung đột
2.2.1 Cơ cấu quy phạm xung đột
Cơ cấu của quy phạm pháp luật quốc gia thông thường bao gồm ba bộ phận: giả
định, quy định và chế tài. Trong đó:
Giả định: là phần chỉ ra những tình huống, hoàn cảnh, điều kiện có thể xảy ra trong
đời sống xã hội mà quy phạm pháp luật sẽ tác động đối với những chủ thể nhất định, hay
nói cách khác, giả định nêu lên phạm vi tác động của quy phạm pháp luật đối với những
chủ thể nào? trong những hoàn cảnh, điều kiện nào?
Quy định: là phần nêu lên những cách xử sự mà các chủ thể có thể hoặc buộc phải
thực hiện gắn với những tình huống được nêu lên trong phần giả định.

16


Chế tài: là phần chỉ ra các biện pháp mang tính chất trừng phạt mà các chủ thể có
thẩm quyền áp dụng quy phạm có thể áp dụng đối với đối với các chủ thể vi phạm pháp
luật, tức là không thực hiện đúng những mệnh lệnh được nêu lên trong phần quy định.
Ví dụ: Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục
người lệ thuộc mình làm người đó tự sát thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm (khoản 1 –
điều 100 – Bộ luật hình sự 1999).
Tuy nhiên, không phải bất kỳ quy phạm pháp luật quốc gia nào cũng có đầy đủ ba
bộ phận là giả định, quy định và chế tài mà rất nhiều quy phạm chỉ bao gồm hai phần là
giả định và quy định, thậm chí là chỉ bao gồm phần quy định.
Cơ cấu của quy phạm xung đột bao gồm hai bộ phận là phần phạm vi và phần hệ
thuộc.
Phần phạm vi: là phần chỉ ra những quan hệ xã hội nào được quy phạm xung đột

đó điều chỉnh.
Phần hệ thuộc: là phần chỉ ra hệ thống pháp luật cần được áp dụng đối với các
quan hệ xã hội do phần phạm vi nêu ra.
Ví dụ: Hình thức của di chúc phải tuân theo pháp luật của nước nơi lập di chúc
(khoản 2 – điều 768 – Bộ luật dân sự 2005). Ở đây phần phạm vi là hình thức của di chúc,
còn phần hệ thuộc là pháp luật của nước nơi lập di chúc.
Lưu ý:
Cùng một phạm vi nhưng có thể được điều chỉnh bởi bởi nhiều hệ thuộc khác
nhau.
Ví dụ: điều 767 – Bộ luật dân sự 2005 quy định
“1. Thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di
sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết.
2.Quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước nơi có bất
động sản”.
Như vậy, với phạm vi là thừa kế theo pháp luật thì có hai hệ thuộc là pháp luật của
nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết hoặc pháp luật của nước
nơi có di sản là bất động sản
Một hệ thuộc nhưng có thể được áp dụng để điều chỉnh nhiều phạm vi khác nhau.
Ví dụ:
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo
pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch (khoản 1 – điều 761 – Bộ luật dân sự 2005).
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp
luật của nước mà người đó là công dân (khoản 1 – điều 762 – Bộ luật dân sự 2005).
Như vậy, cùng một hệ thuộc luật quốc tịch nhưng được áp dụng cho hai phạm vi là
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài.

17


2.2.2 Phân loại quy phạm xung đột

Trong khoa học Tư pháp quốc tế có rất nhiều cách phân loại quy phạm xung đột
dựa vào các căn cứ khác nhau.
Căn cứ vào nguồn, quy phạm xung đột bao gồm:
Quy phạm xung đột thống nhất: là quy phạm xung đột được các quốc gia thỏa
thuận xây dựng trong các điều ước quốc tế hoặc qua việc thừa nhận các tập quán quốc tế.
Quy phạm xung đột trong nước: là các quy phạm xung đột được các quốc gia xây
dựng trong pháp luật nước mình nhằm hướng dẫn các cơ quan có thẩm quyền của nước
mình hoặc các bên tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế trong việc chọn luật áp dụng để điều
chỉnh các quan hệ đó.
Căn cứ vào hình thức biểu hiện thì quy phạm xung đột gồm:
Quy phạm xung đột một chiều: là quy phạm xung đột chỉ ra việc áp dụng pháp luật
của một nước cụ thể.
Quy phạm xung đột hai chiều: là quy phạm chỉ ra khả năng áp dụng hoặc pháp luật
trong nước hoặc pháp luật nước ngoài để điều chỉnh một quan hệ Tư pháp quốc tế cụ thể.
Căn cứ vào tính chất của quy phạm xung đột, quy phạm xung đột gồm:
Quy phạm xung đột mệnh lệnh: là quy phạm ấn định sự nhất thiết phải áp dụng một
hệ thống pháp luật nào đó nhằm điều chỉnh một quan hệ Tư pháp quốc tế nhất định.
Quy phạm xung đột tùy nghi: là quy phạm chỉ ra việc áp dụng pháp luật của một
nước nào đó hoặc pháp luật của nước do các bên đương sự lựa chọn.
Căn cứ vào các quy tắc chọn luật được quy định trong phần hệ thuộc, quy phạm
xung đột bao gồm: quy phạm xung đột quy định áp dụng Luật nhân thân, quy phạm xung
đột quy định áp dụng Luật quốc tịch của pháp nhân, quy phạm xung đột quy định áp dụng
Luật nơi có tài sản, …
2.3 Các kiểu hệ thuộc cơ bản
Hệ thuộc trong Tư pháp quốc tế đó chính là các quy tắc chung trong việc chọn luật
áp dụng để giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Nguyên nhân hình thành các hệ thuộc chính là việc các quốc gia xây dựng và áp
dụng các quy phạm xung đột.
- Do đặc điểm của đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế, do sự khác biệt của
hệ thống pháp luật các nước mà dẫn tới hiện tượng xung đột pháp luật. Để giải quyết hiện

tượng này, các quốc gia không chỉ xây dựng các quy phạm thực chất mà còn các quy
phạm xung đột.
- Các quốc gia để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của thể nhân, pháp nhân
trong các quan hệ Tư pháp quốc tế thì không chỉ tính đến việc áp dụng pháp luật nước
mình mà còn phải áp dụng pháp luật các nước khác trên cơ sở có đi có lại.
- Bên cạnh đó, các quốc gia cũng cần phải tính đến lợi ích của thể nhân, pháp nhân
nước khác.
18


Hiện nay, trong khoa học Tư pháp quốc tế có các hệ thuộc cơ bản sau:
2.3.1 Hệ thuộc Luật nhân thân (Lex personalis)
Luật nhân thân là pháp luật của nước mà đương sự mang quốc tịch hoặc cư trú.
Hệ thuộc Luật nhân thân được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ sau:
- Xác định năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của các bên
đương sự là thể nhân.
- Xác định việc một người mất tích hoặc chết.
- Các quan hệ về hôn nhân và gia đình: điều kiện kết hôn, ly hôn, nghi thức kết
hôn, quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ và chông,…
- Thừa kế đối với di sản là bất động sản.
-…
Luật nhân thân bao gồm: Luật quốc tịch và Luật nơi cư trú.
Luật quốc tịch (Lex patriae hay Lex nationalis) là luật của nước mà đương sự
mang quốc tịch.
Hầu hết các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa áp dụng luật quốc tịch
cho quy chế nhân thân.
Ví dụ:
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo
pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch (khoản 1 – điều 761 – Bộ luật dân sự 2005).
Năng lực lập di chúc, thay đổi và hủy bỏ di chúc phải tuân theo pháp luật của nước

mà người lập di chúc là công dân (khoản 1 – điều 768 – Bộ luật dân sự 2005)
Luật nơi cư trú (Lex domicilii) là luật của nước mà đương sự cư trú.
Các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ hoặc bị ảnh hưởng bởi hệ thống pháp
luật này áp dụng luật nơi cư trú cho quy chế nhân thân.
Ví dụ:
Trong trường hợp giao kết hợp đồng vắng mặt thì việc xác định nơi giao kết hợp
đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi cư trú của các nhân hoặc nơi có trụ sở chính
của pháp nhân là bên đề nghị giao kết hợp đồng (đoạn 1 – điều 771 – Bộ luật dân sự
2005).
Trong quan hệ giao dịch đơn phương, quyền và nghĩa vụ của bên tự nguyện thực
hiện quan hệ giao dịch đơn phương được xác định theo pháp luật của nước nơi cư trú
hoặc nơi có hoạt động chính của bên đó (điều 772 – Bộ luật dân sự 2005).
Ngoài ra, có nhiều nước áp dụng đồng thời cả luật quốc tịch và luật nơi cư trú mà
Việt Nam là một ví dụ.
Trường hợp ngoại lệ

19


Thứ nhất, đương sự không quốc tịch, áp dụng luật nơi cư trú. Khoản 1 Điều 760
BLDS Việt Nam 2005: Căn cứ áp dụng luật đối với người không quốc tịch…
“1. Trong trường hợp Bộ luật dân sự này hoặc các văn bản pháp luật khác của
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dẫn chiếu đến áp dụng pháp luật của nước mà người
nước ngoài là công dân thì pháp luật áp dụng đối với người không quốc tịch là luật của
nước nơi người đó cư trú…”
Thứ hai, đương sự nhiều quốc tịch, nếu đương sự cư trú một trong những nước mà
đương sự có quốc tịch thì áp dụng luật của nước đó, nếu không cư trú tại một trong những
nước mà đương sự có quốc tịch, thì luật áp dụng cũng chỉ có thể là luật của nước mà
đương sự có quốc tịch và có mối quan hệ gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân.
Khoản 2 Điều 760 BLDS Việt Nam 2005: Căn cứ áp dụng pháp luật đối với người nước

ngoài có hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài:
“2. Trong trường hợp Bộ luật này hoặc các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật của nước mà người là
công dân thì pháp luật áp dụng đối với người nước ngoài là pháp luật của nước người đó
có quốc tịch và cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự, nếu người đó có không cư
trú tai một trong các nước mà người đó có quốc tịch thì áp dụng pháp luật của nước người
đó có quốc tịch và có quan hệ gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân”.
Trong trường hợp này thì đương sự có nghĩa vụ chứng minh pháp luật nước nào
được xem là có mối quan hệ gắn bó nhất. Trong trường hợp đương sự không chứng minh
được về mối quan hệ gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân thì áp dụng pháp luật
Việt Nam (Khoản 3 Điều 4, Điều 5 Nghị định 138/2006/NĐ-CP.
2.3.2 Hệ thuộc Luật quốc tịch của pháp nhân (Lex societatis)
Luật quốc tịch của pháp nhân là pháp luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch.
Hệ thuộc Luật quốc tịch của pháp nhân thường được áp dụng để xác định quy chế
pháp luật của pháp nhân, như: năng lực pháp luật của pháp nhân, tư cách chủ thể của pháp
nhân, giải quyết vấn đề tài sản của pháp nhân trong trường hợp tổ chức lại hay chấm dứt
hoạt động,…Tuy nhiên, các quốc gia hiện nay chưa thống nhất các dấu hiệu để xác định
quốc tịch của pháp nhân. Đang tồn tại ba dấu hiệu cơ bản sau:
- Nơi có trung tâm quản lý/trụ sở chính của pháp nhân. Các nước Châu Âu lục địa
xác định quốc tịch của pháp nhân theo dấu hiệu này.
- Nơi đăng ký điều lệ/nơi thành lập pháp nhân. Các nước theo hệ thống pháp luật
Anh – Mỹ và các nước Mỹ Latinh áp dụng dấu hiệu này để xác định quốc tịch của pháp
nhân.
- Nơi pháp nhân thực tế tiến hành kinh doanh, hoạt động chính. Các nước theo hệ
thống pháp luật Hồi giáo sử dụng dấu hiệu này để xác định quốc tịch của pháp nhân.
Pháp luật Việt Nam quy định một pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt
Nam và đăng ký điều lệ ở Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. Và trên cơ sở đó, “năng
lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi
pháp nhân đó được thành lập” (khoản 1 – điều 765 – Bộ luật dân sự 2005).
20



Trường hợp pháp nhân có hai hay nhiều quốc tịch, thực tiễn pháp lý ở các nước
thường giải quyết như sau:
- Khi cần xác định tư cách chủ thể của pháp nhân thì áp dụng luật nơi đăng ký điều
lệ (thành lập) của pháp nhân.
- Khi cần xác định các điều kiện hoạt động của pháp nhân thì áp dụng luật nơi có
trụ sở hoạt động
2.3.3 Hệ thuộc Luật nơi có vật/tài sản (Lex rei sitae)
Luật nơi có tài sản là pháp luật của nước nơi tài sản là đối tượng của quan hệ Tư
pháp quốc tế đang tồn tại. Ví dụ: Quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp
luật của nước nơi có bất động sản đó (khoản 2 – điều 767 – Bộ luật dân sự 2005).
Hệ thuộc Luật nơi có tài sản là một trong những hệ thuộc ra đời sớm nhất trong Tư
pháp quốc tế. Thời kỳ đầu, nó thường được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật phát
sinh trong quan hệ Tư pháp quốc tế mà đối tượng là bất động sản.
Hiện nay, hệ thuộc Luật nơi có tài sản được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ về:
- Quyền sở hữu về tài sản. Ví dụ: Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt
quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật
của nước nơi có tài sản đó (khoản 1 – điều 766 – Bộ luật dân sự 2005).
- Thừa kế di sản là bất động sản. Ví dụ: Quyền thừa kế đối với bất động sản phải
tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó (khoản 2 – điều 767 – Bộ luật dân sự
2005).
- Định danh tài sản. Ví dụ: Việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản
được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản (khoản 4 – điều 766 – Bộ luật dân sự
2005).
Hiện nay, tất cả các nước đều áp dụng hệ thuộc này, riêng trong lĩnh vực định
danh, Pháp áp dụng hệ thuộc luật tòa án. Điều này có nghĩa, tòa án nào thụ lý thì tòa án đó
áp dụng chính luật pháp của nước mình để định danh tài sản, bất chấp tài sản đang ở đâu.
Điều 766 BLDS Việt Nam 2005: Quyền sở hữu tài sản
“1. Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung

quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đo, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều này.
2. Quyền sở hữu đối với tài sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp
luật của nước nơi có động sản chuyển đên, nếu không có thỏa thuận khác.
3. Việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp
luật của nước nơi có tài sản”
Các trường hợp ngoại lệ:
- Tài sản của quốc gia
- Tài sản của pháp nhân nước ngoài khi chấm dứt hoạt động
- Đối với tài sản trong sở hữu trí tuệ
21


- Tài sản trên đường vận chuyển
- Tài sản là tàu bay, tàu biển
2.3.4 Hệ thuộc Luật nơi thực hiện hành vi (Lex loci actus)
Luật nơi thực hiện hành vi là pháp luật của nước nơi hành vi được thực hiện. Hệ
thuộc này có các dạng sau:
Luật nơi giao kết hợp đồng (Lex loci contructus): là pháp luật của nước nơi hợp
đồng được giao kết. Hợp đồng được giao kết ở đâu thì áp dụng pháp luật nước đó để điều
chỉnh các vấn đề liên quan hình thức của hợp đồng. Hiện nay, tất cả các nước đều áp dụng
nguyên tắc này
Trong giao lưu dân sự thương mại quốc tế, người ta thường quan niệm khi ký kết
hợp đồng ở đâu thì có nghĩa là các bên ký kết đã nắm được luật nơi hợp đồng được ký
kết. Vì vậy, trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có tranh chấp phát sinh thì sẽ là hợp
lý nếu áp dụng pháp luật nơi hợp đồng được ký kết để giải quyết trong trường hợp hợp
đồng không có quy định khác. Do đó mà luật nơi giao kết hợp đồng là một trong những
quy tắc xung đột được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn quan hệ hợp đồng thương mại
quốc tế. Luật nơi giao kết hợp đồng thường được áp dụng để xác định hình thức của hợp
đồng. Tuy nhiên, vẫn có những nước áp dụng luật nơi giao kết hợp đồng để xác định cả

hình thức của hợp đồng cùng với quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng như
Italia.
Pháp luật Việt Nam áp dụng luật nơi giao kết hợp đồng để xác định hình thức của
hợp đồng, “hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp
đồng” (khoản 1 – điều 770 – Bộ luật dân sự 2005).
Liên quan chặt chẽ tới việc xác định luật nơi ký kết hợp đồng là việc xác định thời
điểm và nơi ký kết hợp đồng trong trường hợp hợp đồng được giao kết vắng mặt. Pháp
luật của các nước quy định rất khác nhau về vấn đề này.
Pháp luật đa số các nước Châu Âu lục địa và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây
dựa trên cơ sở thuyết “Tiếp thu” quy định thời điểm ký kết hợp đồng trong trường hợp
này là thời điểm bên đề nghị giao kết hợp đồng (bên chào hàng) nhận được trả lời chấp
nhận chào hàng vô điều kiện của bên được đề nghị giao kết hợp đồng (bên chào hàng),
nơi ký kết hợp đồng là nơi cư trú của người đề nghị giao kết hợp đồng.
Pháp luật các nước Anh – Mỹ dựa trên cơ sở thuyết “Tống phát” quy định thời
điểm ký kết hợp đồng là thời điểm bên được đề nghị giao kết hợp đồng gửi chấp nhận
chào hàng vô điều kiện cho bên đề nghị giao kết hợp đồng, và nơi ký kết hợp đồng là nơi
cư trú của người được đề nghị giao kết hợp đồng.
Việt Nam quy định vấn đề này tại điều 771 – Bộ luật dân sự 2005 và theo học
thuyết “Tiếp thu”.
Luật nơi thực hiện hợp đồng (Locus regis actum): Hợp đồng được thực hiện ở đâu
thì pháp luật nước đó sẽ được áp dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Hiện nay, đa số các nước áp dụng hệ thuộc này, trường hợp các bên đã thỏa thuận
chọn luật áp dụng thì không thể áp dụng hệ thuộc nay. Nếu một nước áp dụng hệ thuộc
22


này thì không áp dụng hệ thuộc luật nước người bán và ngược lại. Luật nơi thực hiện hợp
đồng thường được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về nội dung của hợp đồng.
Quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của
nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác (khoản 1 – điều 769 – Bộ

luật dân sự 2005).
Luật nơi thực hiện nghĩa vụ (Lex loci solutionis): là pháp luật của nước nơi nghĩa
vụ/nghĩa vụ chính được thực hiện.
Luật nơi thực hiện nghĩa vụ thường được áp dụng nhằm giải quyết xung đột pháp
luật về nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
Ví dụ:
Luật nơi tiến hành kết hôn (Lex loci celebrationis): là pháp luật của nước nơi tiến
hành kết hôn.
Luật nơi tiến hành kết hôn thường được áp dụng để xác định điều kiện kết hôn,
hình thức kết hôn.
Điều 103 – Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định: “Trong việc kết hôn giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước
mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của luật này về
điều kiện kết hôn.
Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của luật này về điều kiện kết hôn”.
2.3.5 Hệ thuộc Luật nơi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti commissi)
Luật nơi vi phạm pháp luật là pháp luật của nước nơi vi phạm pháp luật. Nghĩa là
hành vi vi phạm pháp luật ở đâu thì áp dụng pháp luật nước đó để giải quyết trách nhiệm.
Đây là hệ thuộc được hình thành sớm trong Tư pháp quốc tế và được ghi nhận
trong hầu hết luật pháp của các nước trên thế giới. Luật nơi vi phạm pháp luật được áp
dụng để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, các nước
lại có sự xác định khác nhau về nơi vi phạm pháp luật:
Một số nước, như Hy Lạp, Italia, cho rằng nơi vi phạm pháp luật là nơi xảy ra hành
vi gây thiệt hại.
Pháp luật Anh – Mỹ lại quy định rằng nơi vi phạm pháp luật là nơi phát sinh hậu
quả của hành vi gây thiệt hại.
Bên cạnh đó, pháp luật một số nước, trong đó có Việt Nam, kết hợp cả hai phương
pháp trên, tức là quy định rằng nơi vi phạm pháp luật là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại

hoặc nơi phát sinh hậu quả của hành vi gây thiệt hại.
Điều 773 BLDS Việt Nam: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
“1. Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật nơi xảy
ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại.
23


2. Việc bồi thường thiệt hại do tày bay, tàu biển gây ra ở không phận quốc tế hoặc
biển cả được xác định theo pháp luật của nước mà tàu bay, tàu biển mang quốc tịch, trừ
trường hợp pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác.
3. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công dân
hoặc pháp nhân Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
2.3.6 Hệ thuộc Luật nước người bán (Lex venditoris)
Luật nước người bán là pháp luật của nước mà người bán trong quan hệ mua bán
hàng hóa quốc tế mang quốc tịch.
Đây là một hệ thuộc có tính truyền thống trong thương mại quốc tế và nó được
hình thành như là một tập quán. Luật nước người bán thường được áp dụng để điều chỉnh
các vấn đề liên quan đến quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế, nhất là các quyền và nghĩa
vụ của các bên liên quan hoặc phát sinh từ hợp đồng nếu các bên không có thỏa thuận
khác. Trong lý luận cũng như trong thực tiễn đối với quan hệ mua bán động sản, pháp luật
của nước người bán được áp dụng như một trong những quy tắc chọn luật hợp lý nhất để
giải quyết tranh chấp trong các hợp đồng mua bán quốc tế trong trường hợp các bên
không thỏa thuận luật áp dụng đối với hợp đồng.
Luật nước người bán được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia và các điều
ước quốc tế về thương mại và mua bán quốc tế.
2.3.7 Hệ thuộc Luật quốc kỳ (Lex banderae) và hệ thuộc Luật nơi đăng ký phương
tiện vận tải (Lex libri sitae)
- Luật quốc kỳ là pháp luật của nước mà tàu biển mang cờ quốc tịch.

Luật quốc kỳ thường được áp dụng trong lĩnh vực hàng hải quốc tế. Điều 3 – Bộ
luật hàng hải 2005 quy định pháp luật của nước mà tàu biển mang cờ quốc tịch sẽ được áp
dụng để điều chỉnh các mối quan hệ sau: quan hệ pháp luật liên quan đến quyền sở hữu tài
sản trên tàu biển, hợp đồng thuê tàu biển, hợp đồng thuê thuyền viên, hợp đồng vận
chuyển hành khách và hành lý, phân chia tiền công cứu hộ giữa chủ tàu cứu hộ và thuyền
bộ của tàu cứu hộ, trục vớt tài sản chìm đắm ở biển cả, các vụ việc xảy ra trên tàu biển khi
tàu đang ở biển cả, trường hợp tai nạn đâm va xảy ra ở biển cả hoặc trong nội thủy, lãnh
hải của quốc gia khác giữa các tàu biển có cùng quốc tịch.
Luật nơi đăng ký phương tiện vận tải là pháp luật của nước mà phương tiện vận tải
(tàu bay) được đăng ký. Luật nơi đăng ký phương tiện vận tải được áp dụng trong lĩnh
vực hàng không dân dụng.
Điều 4 – Luật hàng không dân dụng 2006 quy định pháp luật của nước đăng ký
quốc tịch tàu bay sẽ được áp dụng đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong tàu bay đang
bay và để xác định các quyền đối với tàu bay.
2.3.8 Hệ thuộc Luật tòa án (Lex fori)
Luật tòa án là pháp luật của nước có tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.

24


Đây là nguyên tắc xung đột có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Về nguyên tắc, khi giải quyết các vụ việc mang bản chất dân sự dù có hay không có yếu
tố nước ngoài thì Tòa án cũng chỉ áp dụng pháp luật tố tụng của nước mình. Như vậy, về
mặt luật hình thức/luật tố tụng thì hệ thuộc luật tòa án luôn được áp dụng, trừ trường hợp
tuân theo các hiệp định tương trợ tư pháp, các bên có thể cho phép các cơ quan tiến hành
tố tụng nước mình trong những chừng mực nhất định được áp dụng luật tố tụng nước
ngoài. Còn đối với luật nội dung, tòa án có thể áp dụng pháp luật nước mình hay pháp
luật nước ngoài phụ thuộc vào sự chỉ dẫn của quy phạm xung đột hoặc sự thỏa thuận của
các bên. Thông thường, luật tòa án thường được áp dụng trong lĩnh vực tố tụng dân sự
quốc tế, trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.

Ví dụ: nếu một người cư trú trên lãnh thổ của bên ký kết này, còn người kia cư trú
trên lãnh thổ của bên ký kết kia thì áp dụng pháp luật của bên ký kết có tòa án đang giải
quyết việc ly hôn (khoản 2 – điều 26 – Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Liên bang
Nga).
2.3.9 Hệ thuộc Luật lựa chọn (Lex voluntatis)
Luật lựa chọn là pháp luật của nước do các bên chủ thể tham gia quan hệ Tư pháp
quốc tế lựa chọn.
Trên thực tế, pháp luật các nước thường chỉ thừa nhận quyền chọn luật của các
bên đối với quan hệ hợp đồng, do vậy mà hệ thuộc này còn có tên là Luật do các bên ký
kết hợp đồng lựa chọn. Tuy nhiên, các bên cũng chỉ đối với quyền và nghĩa vụ giữa các
bên phát sinh hoặc liên quan đến hợp đồng chứ không phải chọn luật để điều chỉnh tất cả
các vấn đề liên quan đến hợp đồng như hình thức hợp đồng, năng lực giao kết hợp
đồng,…
Luật lựa chọn thực sự là quy tắc xung đột hợp lý nhất cho việc giải quyết các tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, được hầu hết pháp luật các nước
thừa nhận và áp dụng. Quy tắc này được đưa ra dựa trên sự tôn trọng nguyên tắc tự thỏa
thuận các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thì tất yếu phải cho các bên
quyền lựa chọn hệ thống pháp luật để giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến vấn đề
đó. Luật được chọn có thể là pháp luật quốc gia của một bên ký kết, của quốc gia thứ ba
hay điều ước quốc tế, tập quán quốc tế.
Luật lựa chọn được sử dụng phổ biến trong quan hệ thương mại và hàng hải quốc
tế. Trong quan hệ hợp đồng quốc tế, luật được lựa chọn thường được các bên ghi nhận
trong một điều khoản, và đó phải là luật không trái cơ bản với pháp luật quốc gia của các
bên và điều ước quốc tế mà các quốc gia đó là thành viên, không có ý định lẩn tránh pháp
luật.
Tại Việt Nam, quyền tự do chọn luật áp dụng của các bên trong hợp đồng được
pháp luật thừa nhận và ghi trong một số văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thuộc này cũng
chỉ được áp dụng trong lĩnh vực thương mại và hàng hải quốc tế.

25



×