Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

CAO BÁ QUÁT NGUYỄN CÔNG TRỨ NHÀ NHO TÀI TỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.27 KB, 10 trang )

CAO BÁ QUÁT-NGUYỄN CÔNG TRỨ NHÀ NHO TÀI TỬ
I.

KHÁI NIỆM.
1. Khái niệm loại hình tác giả
− Theo từ điển tiếng việt loại hình là tập hợp sự vật, hiện tượng cùng có chung
những đặc trưng cơ bản nào đó.
− Trong nghiên cứu văn học, bên cạnh sự nghiên cứu riêng về từng tác giả văn
học, cũng thường thấy phạm trù loại hình tác giả được nhấn mạnh, như loại
hình nhà nho hành đạo, loại hình nhà nho tài tử trong văn học Trung đại Việt
Nam, loại hình nghệ sĩ ẩn dật trong văn học Nhật Bản v.v.), với tư cách những
loại hình chủ thể thẩm mỹ, được hình thành như những sản phẩm xã hội, lịch
sử, văn hóa cụ thể. Những loại hình tác giả văn học đó thường có dấu hiệu
chung về cách nhìn và cách lựa chọn thái độ sống, tư thế ứng xử, quan điểm
thẩm mỹ, xu hướng nghệ thuật v.v.
2. Nhà nho tài tử một quan niện nghiên cứu
Khái niệm “Nhà nho tài tử” là một trong những khái niệm then chốt trong các tiểu
luận về nho giáo và văn học trung cận đại Việt Nam của Trần Đình Hượu như: Vấn
đề xuất xử của nhà nho và sự phát triển trong thơ Tam Nguyên Yên Đổ; Văn chương
Ông già Bến Ngự; Tản Đà – đấng “trích tiên”, cái Trang Tử đa dục chán đời và lạc
lõng trong xã hội tư sản; Về nội dung tính giáo thời khi nghiên cứu sáng tác của Tản
Đà; Quan niệm văn học của Tản Đà(1)… Khái niệm ấy được kế thừa từ người thầy
của ông là nhà nghiên cứu Nguyễn Bách Khoa – Trương Tửu. Nguyễn Bách Khoa
trong công trình Tâm lí và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (Tạp chí Văn mới, Hà Nội,
1944) lần đầu tiên dùng khái niệm “người tài tử”, “nhà nho tài tử”. Ông viết: “Quan
niệm “cầm kỳ thi tửu” là một quan niệm tài tử
Có thể chia nhà nho thành hai loại đối lập nhau:
1) Nhà nho chính thống (hành đạo và ẩn dật) và thể hiện trong văn học là có
thể gọi là người quân tử/ kẻ sĩ quân tử như trong tác phẩm của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm – những tác gia tiêu biểu của văn học Trung kỳ trung đại.
2) Nhà nho phi chính thống được thể hiện trong văn học thành người tài tử/


nhà nho tài tử như trong tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát…
3. Nhà nho tài tử trong lich sử
Khái niệm “Tài tử” đầu tiên xuất phát từ Trung Quốc.Từ điển Từ nguyên giải thích:
“Tài tử là từ chỉ những người giỏi ở tài hoa” (Ưu ư tài hoa giả chi xưng). Dẫn Văn
tuyển, Phan Nhạc Tây chinh phú: “Giả Sinh, Lạc Dương chi tài tử” (Gi ả Sinh là người
tài tử ở Lạc Dương)... Từ điển Từ hải giải thích hơi khác một chút: “Gọi những người
có tài là tài tử” (Ưu ư tài giả xưng tài tử). Từ hải cho biết từ “Tài tử” đã có từ sách Tả
truyện thời Chiến quốc: Tả truyện, Văn thập bát niên viết: “Họ Cao Dương có 8
người tài tử”.Vào đời Đường, từ “tài tử” xuất hiện phổ biến hơn.Trong Đường thư,
Nguyên Chẩn truyện có viết: “Nguyên Chẩn giỏi làm thơ, thường sáng tác nhạc phủ,
trong cung người ta gọi ông là Nguyên Tài Tử”.Trong lịch sử Trung Quốc, từ “tài tử”
được dùng khá nhiều, nhất là từ đời Đường trở đi.

1


Ở Việt Nam, chưa có điều kiện khảo sát đầy đủ xem chữ “Tài tử” xuất hi ện l ần
đầu tiên trong sách nào, theo như phỏng đoán của: trong thơ văn Lý Trần chưa thể
xuất hiện khái niệm “tài tử”, khái niệm ấy chỉ có thể xuất hiện trong các loại sách có
tính chất tiểu thuyết kiểu như Truyền kỳ mạn lục (thế kỷ XVI) hay trong các tác
phẩm sớm hơn một chút.Tuy nhiên thời đại của từ “Tài tử” là Hậu kỳ trung đại, t ức
là từ thế kỷ XVIII trở đi. Tài tử thường gắn với loại tác giả thích cầm kỳ thi họa, sống
ngoài vòng cương tỏa, ngông nghênh “khinh thế ngạo vật”.
II.

NỘI DUNG
1. TÁC GIẢ NGUYỄN CÔNG TRỨ.
a. Thân thế và thời đại.
Trên lam thủy, dưới hồng sơn

Nơi nào đọc sách, gảy đờn, nhà anh













Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu
là Hy Văn, sinh ngày 01 tháng 11 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39,
tức ngày 19 tháng 12 năm 1778; người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh.
Thuở thiếu thời Nguyễn Công heo nghiệp nho, lúc nhỏ học với cha, lớn lên
học với các danh nho, tài năng nảy nở khá sớm nhưng thời thế không ổn
định:Triều Lê Trịnh sụp đổ triều Tây Sơn chóng tàn, triều Nguyễn Gia Long
mới thiết lập.Tuổi trẻ Nguyễn Công Trứ phải trải qua nhiều biến thiên dữ
dội.Ông đã từng trông thấy nếp trải đủ thứ mùi đời của cảnh bể dâu đó.
Hơn nửa cuộc đời, kể từ lúc sinh ra cho đến khi thi đậu, được bổ làm quan,
ông sống trong cảnh nghèo túng bần bách suốt 42 năm.Do đó cái vốn sống ,
bản lĩnh không phải bắt nguồn từ sách vở thánh hiền, từ những giáo điều của
Nho gia mà từ cuộc sống phong phú, đa dạng và vô cùng sôi động của thời Lê
Mạc-Nguyễn Sơ.
Cuộc đời làm quan: Nguyễn Công Trứ là viên quan thanh liêm nổi tiếng trong
triều ngoài nội, luôn luôn xông xáo trong mọi lĩnh vực, cả văn và võ.Nhiều lần

ông bị giáng chức, cách chức với những lí do phi lí.Có thể nói cuộc đời làm
quan của Nguyễn Công Trứ có hai việc đáng chú ý hơn cả là dẹp giặc và khẩn
hoang.
Lòng yêu nước, ghét ngoại xâm năm 1858, dưới triều Tự Đức, giặc Pháp đặt
chân lên của biển Đà Nẵng rồi lấn chiếm Nam Kì, triều thần định cử ông cầm
quân nhưn Tự Đức còn lưỡng lự vì ông tuổi cao, ông liền dâng sớ tấu bày
“thân già này còn thở ngày nào thì xin hiến cho nước ngày ấy.”
Nguyễn Công Trứ là người có cá tính độc đáo.
b. Thơ văn Nguyễn Công Trứ.
Nguyễn Công Trứ không có văn tập thi tập để lai .Văn ông đã sưu tậm được
chỉ là những bài tấu sớ và một số bài phú câu đố. Thơ Ông sáng tác hầu hết
bằng chữ Nôm (trên 50 bài thơ, 60 bài hát nói, 1 bài phú Nôm Hàn Nho phong
vị phú)

2


Nguyễn Công Trứ là nhà thơ có một vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam.
Thơ văn của ông mang màu sắc thời đại rõ rệt. Nhìn tổng quát thơ văn
Nguyễn Công Trứ tập trung vào ba chủ đề chính:
+ Những bài thơ xoay quanh chí nam nhi.
Đây chính là lý tưởng sống của nhà thơ Nguyễn Công Trứ khi còn đầu xanh
tuổi trẻ.Nói về sự tồn tại của mình trong cuộc đời, Nguyễn Công Trứ viết:
“Thiên phú ngô, địa tái ngô
Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý”
Con người sinh ra là sự “hữu ý” của trời đất.Nguyễn Công Trứ không thể “tiêu
lưng ba vạn sáu” được. Ông đặt vấn đề sống ở đời phải làm việc có ích:


“Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phái có danh gì với núi sông”
Nguyễn Công Trứ hay nói đến công danh:
“Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,
Cái công danh là cái nợ lần”.
Quan niệm của ông sống trong xã hội phải chiếm lấy một địa vị để...làm việc “trí
quân trạch dân”; công danh trong Nguyễn Công Trứ thường gắn liền quan niệm
trung hiếu, quân thân:
“Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác”.
Trong bài thơ LUẬN KẺ SỸ ông nói rõ.
“Đem quách cả sở tồn làm sở dụng,
Trong lăng miếu ra tài lương đống.
Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương,
Sĩ làm cho bách thế lưu phương,
Trước là sĩ sau là khanh tướng”
Nguyễn Công Trứ đằng sau ý thức về bổn phận, vai trò cá nhân cũng được đề cao:
“ Cũng có lúc mưa tuôn sóng vỗ,
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”
Nguyễn Công Trứ cũng là một hồn thơ lạc quan, bay bổng. Sống trong hoàn cảnh
nghèo khổ đến cay đắng mà ông vẫn tin tưởng:
“ Còn trời, còn đất, còn non nước,
Có lẽ đâu ta mãi thế này”
Đi thi nhiều lần không đậu, ông vẫn không một chút bi quan, chán nản:
3


“ Đã từng tắm gội ơn mưa móc,
Cũng phải xênh xang hội gió mây.
Hãy quyết phen này xem thử đã,
Song còn tuổi trẻ chịu đâu ngay.”

Ông tự tin ở mình, tự động viên: “Có tầng gian hiểm mình càng trí”. Ông viết lời châm
ngôn: “Hữu chí sự cánh thành”.Ưu điểm trong quan niệm chí nam nhi của Nguyễn
Công Trứ là nó khẳng định một cách dứt khoát vai trò tích cực của con người trong xã
hội. Những vần thơ đầy lạc quan tin tưởng của nhà thơ vang lên trong không khí xã
hội triều Nguyễn, cho dù có hạn chế như thế nào, nó vẫn có ý nghĩa.
+

Những bài thơ xoay quanh cảnh nghèo và thế thái nhân tình.

Nguyễn Công Trứ là một người theo tinh thần Nho giáo tích c ực, một ông quan thanh
liêm, rất chú ý đến vấn đề nhân sinh và xã hội. Văn Thơ Nguy ễn Công Tr ứ có ghi l ại
tình cảnh nghèo khổ của bản thân ông, cũng như của những nho sỹ đương thời:
“ Kìa ai, bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ,
Đầu kèo mọt tạc vẻ sao, trước cửa nhện giăng màn gió.
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre mối dũi quanh co,
Góc tường đất trùn lên lố nhố,
Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó,
Trong cũi lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,
Đầu giàn chuột lóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, quân tử ăn chẳng cần no,
Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho,
đời thái bình cổng thường bỏ ngỏ...”
(Hàn Nho phong vị phú)
Có lúc nhiều chua chát:
4



“ Nói phô nghe cũng giỏi trai,
Vì nỗi không tiền hoá dở ngài ”
Hay:
“ Nợ có chết ai đâu, đòi mà chi, trả mà chi, cha cóc!
Trời để tao sống mãi, tiền cũng có, bạc cũng có, mẹ bò ”
Trong cái nhìn khỏe khoắn, Nguyễn Công Tr ứ không muốn nói nhi ều đến cái x ấu, cái
tiêu cực. Ông giải thích “người giỏi thường nghèo” hay “ vốn hễ anh hùng m ới có
nghèo ”. Nhưng thiện chí của nhà thơ không được bù đắp lại, cuộc sống tàn b ạo c ủa
xã hội vẫn liên tiếp tấn công ông, và phải mất một thời gian, nhà th ơ m ới nhìn ra
được cái “thế thái nhân tình” của thời buổi ấy. Cảm xúc của nhà thơ về ch ủ đề này
thấm đượm cái sâu sắc của một con người từng trải. Ông thấm thía tình c ảnh c ủa
những người lép vế trong xã hội:
“ Ăn ở sao cho trải sự đời
Vừa lòng cũng khó há rằng chơi.
Nghe như chọc ruột tai làm điếc,
Giận đã căm gan miệng mỉm cười ”
Ông thấy rõ đạo đức của bọn giàu có.
“ Khôn khéo chẳng qua thằng có của,
Yêu vì đâu đến đứa không nhà ”...
Quan lại trong triều cũng bất tài, hại người:
“Tuổi tác càng già càng xốp xáp,
Ruột gan chẳng có có gai chông.”
Ông nhận thức thế thái nhân tình qua nhận thức về vai trò c ủa đồng ti ền, nó là
thước đo mọi giá trị tình cảm, quan hệ, đánh đổ cả nhân nghĩa:
“ Tiền tài hai chữ son khuyên ngược,
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi ”.
5


Trong bài VỊNH TIỀN, nhà thơ hình dung ra đồng tiền như tóm thâu cả trời đất:

“ Đủ vuông tròn tượng đất tượng trời,
Khẳm hoạ phúc nguy yên tử hoạt ”
Tác hại của đồng tiền ghê gớm:
“... Đương om sòm chớp giật sấm ran,
Nghe xóc xách lại gió hoà mưa ngọt...”
Tiếng thơ của Nguyễn Công Trứ về đề tài này có yếu tố nhân dân.
+ Những bài thơ xoay quanh triết lý cầu nhàn, hưởng lạc.
Từ hành động đến hưởng lạc, ông đều xuất phát từ động cơ t ư tưởng thể
hiện nhân sinh quan hoàn chình của ông.Ông xem hành động cũng nh ư h ưởng
lạc là trách nhiệm, quyền lợi mỗi người.
Nguyễn Công Trứ say mê thú ả đào nhưng không phải lúc nào ông cũng d ừng
lại ở câu ca tiếng hát, mà còn đắm chìm vào các thú vui vật dục.
…Thú tiêu sầu rượu rót thơ đề,
Có yến yến hường hường mới thú!
Khi đắc ý mắt đi mày lại, …
Nghệ Thuật.
+ Thơ Nguyễn Công Trứ chủ yếu viết bằng thơ chữ Nôm giản dị,
dễ nhớ, dễ thuộc.
+ Thơ ngoài cái phóng khoáng hào hung còn cái rắn rỏi, minh xác,
nghệ thuật tả cảnh, tả cảnh tả tình đáng ghi nhận.
+ Nguyễn Công Trứ là nhà thơ có công lớn nâng thể hát nói thành
thể tài trong thi ca.
2. CAO BÁ QUÁT.
a.
Thân thế và thời đại.
− Cao Bá Quát (1809? – 1855), tên tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường,
biệt hiệu là Mẫn Hiên. Ông là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (nay
thuộc thị xã Sơn Tây, Hà Nội), và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ
19 trong văn học Việt Nam.
− Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong cảnh nghèo khó, nhưng nổi tiếng là

trẻ thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt.
− Ông là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh và được người đương thời
gọi là thánh Quát.


6


Ông đã mất trong cuộc khởi nghĩa chống lại chế độ phong kiến nhà
Nguyễn.
Thơ văn Cao Bá Quát
− Tác phẩm hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài vi ết theo
thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ. Trong
số này về chữ Nôm, có một số bài hát nói, thơ Đường luật và bài phú Tài
tử đa cùng (Bậc tài tử lắm cảnh khốn cùng). Về chữ Hán, khối lượng thơ
nhiều hơn, được tập hợp trong các tập:Cao Bá Quát thi tập,Cao Chu
Thần di thảo,Cao Chu Thần thi tập,Mẫn Hiên thi tập
− Thơ ông chứa đựng một nội dung hiện thực phong phú.


b.

Thơ văn Cao Bá Quát thuộc khuynh hướng phê phán hiện thực, bộ mặt của xã hội
đương thời được phản ánh khá rộng rãi, đa dạng và phong phú trong tác phẩm của
ông. Chẳng hạn qua thơ văn của ông người ta có thể thấy cuộc sống thiếu thốn,
vất vả của một nhà nho nghèo có hoài bão, tâm huyết đến cuộc sống của một kẻ
bị tù tội oan uổng; những sức ép tàn bạo bằng ngục tù, roi đòn của nhà Nguyễn
đối với những con người có tài năng, có tư tưởng tiến bộ rồi cuộc đời cùng quẫn
của nhân dân lao động trong xã hội đương thời. Cũng như bao nhà thơ tiến bộ
khác, Cao Bá Quát cũng bắt đầu từ những vấn đề của cá nhân để đi đến những vấn

đề có tính xã hội và càng về sau thơ văn ông càng giàu tính hiện thực.Từ những chi
tiết mang tính hiện thực ấy ta thấy hiện lên bộ mặt của một chế độ đã già cỗi, tàn
bạo, bất nhân đáng nguyền rủa và đáng bị tiêu diệt.


Thơ Cao Bá Quát chứa đựng nhiều tình cảm tốt đẹp, nhiều tư tưởng
tiến bộ.
+ Lòng yêu nước và tự hào dân tộc.

Khâm phục và ngưỡng mộ những người anh hùng cứu nước, ông viết các bài thơ
Vịnh Phù Ðổng Thiên Vương, Vịnh Trần Hưng Ðạo...Qua việc ca ngợi những người
anh hùng đó Cao Bá Quát bộc lộ ước muốn cứu dân, cứu nước của mình.Ông như tìm
thấy sự tiếp sức từ trong lịch sử của dân tộc.Ðây là điểm khác biệt giữa thơ vịnh lịch
sử của ông và các nhà thơ khác (họ vịnh lịch sử để quay lưng với hiện thực cuộc
sống).
Cao Bá Quát còn là con người say mê với những cảnh đẹp của non sông đất nước,
ông ca ngợi những cảch đẹp ấy. Hầu hết các danh lam thắng cảnh của miền Bắc, ông
đều có đến thăm và đề thơ ngâm vịnh như: núi Ba Vì, hồ Tây, núi Thúy Dục, sông
Hương. Nét đặc sắc của nhà thơ khi miêu tả các cảnh này là ở chỗ ông không miêu t ả
nó theo lối của những ẩn sĩ đi du ngoạn để chữa bệnh tinh thần mà lại kèm theo hào
khí dân tộc. Dải sông Hương mềm mại đến thế mà khi hiện lên trong thơ ông vẫn
mang một hào khí hùng tráng:
Trường giang như kiếm lập thanh thiên
(Con sông dài như thanh kiếm dựng giữa trời xanh)
7


(Buổi sáng qua sông Hương).
Núi Dục Thúy, núi Tản Viên, hồ Tây từ lâu đã trở thành niềm tự hào của đất nước và
đặc biệt là là hình tượng núi Tản đã từng tượng trưng cho khí phách hào hùng của

dân tộc ta. Và trong thơ Cao Bá Quát nét đặc sắc là câu tự vấn của tác giả: Non sông
như thế, mình thì sao đây? khi đứng trước những thắng cảnh ấy. Tình cảm của ông
bao giờ cũng là tình cảm hai chiều: Yêu thương và trách nhiệm. Ðây không phải là
điều dễ tìm thấy ở các nhà thơ đương thời.Ðặc biệt trong thời đại sống của mình
Cao Bá Quát đã ý thức, đã băn khoăn cho số mệnh của đất nước trước hi ểm họa xâm
lăng từ phương Tây.
+

Lòng yêu thương con người nghèo khổ, bất hạnh.

Ðây là nét đặc sắc nổi bật nhất, phân cách gi ữa Cao Bá Quát và các nhà th ơ đ ương
thời. Cao Bá Quát có một ý thức vì dân thực sự, ông đã đ ứng v ề phía qu ần chúng lao
động để thông cảm với những nỗi khổ đói cơm, rách áo của họ.Nhà th ơ đã th ực s ự
xúc động trước những tình cảnh đói cơm, rách áo của những người dân nghèo:
Lủi thủi ai đi kia
Áo rách nón không nguyên vẹn
Chợt từ phía nam lại
Ðến trước mặt ta than thở
Hỏi ông có gì lo buồn
Nói rằng gặp khó khăn hoài
Nhà nghèo làm nghề thuốc, nghề bói quẻ
Tôi tìm đến kinh đô
Ở kinh đô không có người bệnh
Thầy thuốc mọc nhiều như gò đống
Cô đơn không nơi nương tựa, ngóng đường về
Nhìn mút mắt xa thăm thẳm mây mênh mang
Ngày thứ hai đem cầm cái tráp rỗng
Ngày thứ ba nhịn ăn bữa sáng bữa trưa
Gặp người chỉ mừng hụt
Muốn nói thêm nhưng nghẹn lời

8


Thôi, ông đừng khóc nữa
Một bữa ăn đây, cùng ông vui
Ðời người như quán trọ
Trăm năm mấy ai được ung dung
Hãy thong thả, đừng vội nuốt
(Ðang đói) ăn nhanh đầy bụng không tốt đâu.
Cao Bá Quát cũng đã nhìn thấy được nguyên nhân của sự đói kh ổ c ủa qu ần chúng lao
động là do sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống tr ị. Vì th ế nhà th ơ đã h ết s ức căm
giận và trực tiếp phê phán chính sách cai trị hà khắc c ủa tri ều đình nhà Nguy ễn.
Lòng yêu thương quần chúng của Cao Bá Quát cũng đã bi ến thành trách nhi ệm, đây
cũng là nét đặc sắc của tác giả này. Ông băn khoăn, day d ứt v ề trách nhi ệm c ủa mình
đối với dân. Có lúc ông tỏ ra bực tức vì thấy mình đã già, đã bất l ực:
Lòng thẹn với lòng này hóa lão
Cúi đầu lẳng lặng dựa bên tường
+

Thơ ông chứa đựng nhiều tình cảm đậm đà, chung thủy

trong quan hệ bè bạn, gia đình, làng xóm.Thời kỳ bị giam, nhà thơ đã vi ết nhi ều bài
thơ thể hiện lòng thương vợ, nhớ con, nhớ quê hương, bạn bè da diết.Ở bài thơ Ti ếp
thư của vợ gửi áo rét, bút và vài thứ nhà thơ đã viết những câu thơ thật xúc động:
Trước đèn thư mở lệ muôn hàng
Hồn gửi phòng the luống vấn vương
Bài Mộng vong nữ (Chiêm bao thấy con gái đã mất) là tiếng nói yêu thương, đau
xót thể hiện một tâm hồn giàu chất nhân văn của nhà thơ. Tronh m ơ ông th ấy
người con gái đã mất trở về với quần áo mong manh, rách nát, sắc diện thê thiết.
Bài Trả lời người bạn hỏi thăm viết khi bị thải về nhà:

Chợt nghĩ tới mình ruột gan như từng khúc
Nhớ bạn mỗi ngày tính đến trăm lần
+

− Nghệ Thuật
Sáng tác của ông mang tính chất phóng túng: Tiêu biểu nhất là trong thơ chữ
Hán, ông sử dụng nhiều hình tượng mới mẻ, có nhiều tứ thơ đột xuất. Nói tới
hoa mai, các nhà thơ xưa thường ca ngợi sự trắng trong và tinh khiết của nó.
Cao Bá Quát cũng ca ngợi cái tinh khiết, cái trắng trong đó của hoa mai nhưng
thiết thực hơn ông muốn tự tay mình gieo lên núi một rừng mai để rồi khi
xuân đến mai sẽ xanh tươi điểm tô cho bầu trời, mai sẽ trở thành bức tranh
9


tuyệt tác cho đời xem chung (Tài mai). Nói đến dòng sông Hương của Huế,
người ta thường nghĩ tới một dòng sông hiền hòa mềm mại, nhưng dưới con
mắt của Cao Bá Quát thì sông Hương lại giống như một thanh kiếm dựng
đứng giữa trời xanh. Bài phú Tài tử đa cùng cũng là một hiện tượng đặc biệt.
Do tính chất biền ngẫu của câu văn nên phú thường có cái gò bó của nó nhưng
đọc bài phú của Cao Bá Quát ta thấy ngòi bút của ông vẫn phóng túng hết mực.
Ông vẫn diễn tả được một cách sôi nổi cái háo hức của tuổi trẻ. Trong bài phú
ông dùng nhiều động từ diễn tả hành động mạnh bạo để thể hiện tư tưởng
lành mạnh, tiến bộ của mình.
+ Thơ Cao Bá Quát kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy nghĩ, giữa tình
cảm và lí trí. Lí trí làm cho tình cảm của nhà thơ trở nên sâu sắc hơn, đậm đà
hơn ngược lại tình cảm làm cho suy nghĩ của nhà thơ trở nên đúng đắn hơn.
Ông luôn băn khoăn về con đường đi của mình, về trách nhiệm của một nhà
nho đối với nhân dân.
+ Hiện thực trong thơ ông nôm na mà bay bổng (chất thơ) để nói rõ sự vi ệc Cao
Bá Quát đã không ngại đi vào những chi tiết chân thực nhất của cuộc sống.


10



×