Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

ĐỀ XUẤT TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC THỐNG KÊ CHO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.08 KB, 70 trang )

ĐỀ XUẤT TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC
THỐNG KÊ CHO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Nguyễn Thị Chiêu, Chuyên gia trong nước
Hà Hải Lý, Chuyên gia đầu mối của Bộ NN&PTNT
Josie B. Perez, Chuyên gia Quốc tế

3/11/2007

Báo cáo của Dự án 00040722
"Hỗ trợ Giám sát phát triển kinh tế-xã hội "
Tổng cục Thống kê- Hà Nội


MỤC LỤC

Trang i

Trang
I. Lời giới thiệu ………………………………………………………………………………
II. Đánh giá thực trạng cơ cấu tổ chức thống kê ……..
2.1 Chức năng, nhiệm vụ và các hoạt động …………………………………………

1
2
2

2.2 Đề xuất các thay đổi …………………………………………………………………
3
III.


Đánh giá về các hoạt động thống kê của Bộ …………………………….
4
3.1 Điều tra về nhu cầu của người dùng tin …………………………………………………
4
3.2 Biểu mẫu báo cáo ………………………….………………………………………..
5
3.3 Thu thập số liệu ………………………………………………………………………
5
3.4 Xử lý số liệu …………………………………………………………………….
5
3.5 Phân tích và dự báo ……………………………………………………………..
5
3.6 Công tác thống kê ở một số vụ có hệ thống thống kê riêng ...
6
3.7 Những yếu kém trong công tác thống kê ngành nông nghiệp …………………
7
3.8 Đề xuất giải pháp…………………………………………………………………..
8
IV. Đánh giá các cuộc điều tra chính do Bộ triển khai …………………………..
9
4.1 Đề xuất các hoạt động cần thực hiện……………………………………………….
9
V. Đánh giá các chỉ tiêu Nông nghiệp trong mối quan hệ với Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc
gia/Chương trình điều tra quốc gia …………………………………………………………….. 11
5.1 Các chỉ tiêu thống kê nông nghiệp …………………………………………………
11
5.2 Đề xuất các bước thực hiện…………………………………………………………………. 12
VI. Đánh giá về đội ngũ cán bộ thống kê và trình độ của cán bộ trong hoạt động thống kê nông
nghiệp …………………………………………………………………………………….
12

6.1 Thực trạng Cán bộ thống kê ngành nông nghiệp ………………………………….
12
6.2 Cán bộ thống kê ngành thủy sản…………………………………………………….
13
6.3 Quan điểm và nhận định …………………………………………………………
14
VII. Tóm tắt về phần nhận định, kết luận và kiến nghị …………………………
16


Trang ii

DANH SÁCH CÁC BẢNG BIỂU

Biểu 1 – Số lượng cán bộ Thống kê tại Bộ NNPTNT phân theo trình độ cao nhất đạt được và
theo đơn vị làm việc ………………………………………………………………
13
Biểu 2 – Đề xuất tăng cường năng lực cho ngành nông nghiệp………
18

SƠ ĐỒ
Hình 1 – Cơ cấu tổ chức của Bộ NN&PTNT …………………………………………….

2


Trang iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASIS

BARD
DAFF
DARD
DFM
DPP
DOF
DOV
EB
GSO
IFP
ITSC
MARD
MOH
MOLISA
MPI
NSIS
TC-AS
TWG

Hệ thống chỉ tiêu thống kê nông nghiệp
Phòng NN&PTNT
Phòng NLN&TS
Sở NNPTNT
Cục Kiểm lâm
Cục Bảo vệ thực vật
Cục Lâm nghiệp
Cục Thú y
Phòng Kinh tế
Tổng cục Thống kê
Viện quy hoạch rừng

Trung tâm Tin học thống kê
Bộ NNPTNT
Bộ Y tế
Bộ LĐTBXH
Bộ KHĐT
Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia
Ủy ban kỹ thuật về thống kê nông nghiệp
Nhóm chuyên gia kỹ thuật


Trang 1

I. Phần giới thiệu
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được thành lập từ năm 1995 trên cơ sở
hợp nhất 3 bộ: Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm; Lâm nghiệp và Thuỷ lợi.Tại kỳ
họp thứ nhất, Quốc hội khóa XII đã nhất trí thông qua nghị quyết về cơ cấu, tổ chức
mới của (Bộ NNPTNT).
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan trực thuộc Chính phủ, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy lợi,
thủy sản và phát triển nông thôn trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ
công và thực hiện tư cách đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh
nghiệp có vốn nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật. Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về
việc phát triển ngành nông nghiệp và nông thôn một cách bền vững, bảo vệ các nguồn
tài nguyên thiên nhiên,gắn chặt hơn nữa sự phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ
sản và thuỷ lợi với việc phát triển nông thôn là địa bàn sinh sống của hơn 60 triệu dân,
chiếm gần 78% dân số cả nước.
II. Đánh giá thực trạng cơ cấu tổ chức thống kê
2.1 Chức năng, nhiệm vụ và các hoạt động
Các đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, gồm Vụ Kế

hoạch, Vụ Tài chính, Vụ Khoa học công nghệ, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Pháp chế, Vụ Tổ
chức cán bộ; 13 Cục chuyên ngành gồm: Cục Trồng trọt, Cục Chăn nuôi, Cục Bảo vệ
thực vật, Cục Thú y, Cục Chế biến nông lâm sản và nghề muối, Cục Lâm nghiệp, Cục
Kiểm lâm, Cục Thuỷ lợi, Cục Quản lý đê điều và phòng, chống, lụt bão, Cục Quản lý
xây dựng công trình, Cục Hợp tác xã và phát triển nông thôn, Cục Khai thác và Bảo vệ
nguồn lợi thủy sản, Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản. Ngoài ra
còn có Ban đổi mới và quản lý doanh nghiệp, Thanh tra, Văn phòng Bộ.
Các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ: Trung tâm Tin học và Thống kê; Trung tâm
Khuyến nông quốc gia; Trung tâm Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Báo
Nông nghiệp Việt Nam; Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các viện nghiên
cứu, các trường đại học, trung học, cao đẳng và dạy nghề; các vườn quốc gia, các ban
quản lý dự án,…
Hình 1 dưới đây trình bày cơ cấu tổ chức của Bộ NN&PTNT.


Trang 2
Hình 1 – Cơ cấu tổ chức của Bộ NN&PTNT (kể từ tháng 11 năm 2007)

Văn Phòng Bộ

Vụ Hợp tác Quốc tế
Vụ Khoa học và Công nghệ

BỘ TRƯỞNG
06 Vụ

Vụ Kế hoạch
Vụ Pháp chế
Vụ Tài chính


THỨ TRƯỞNG

Thanh tra Bộ
Khối Quản trị

Quản lý Đổi mới
Doanh nghiệp Nông nghiệp

13 Vụ Chuyên môn

Khối Thông tin & Dịch vụ

Trung tâm Công nghệ Thông tin và Thống kê
Trung tâm Mở rộng Nông nghiệp Quốc gia
Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường
Báo Nông nghiệp Việt Nam
Tạp chí Nông nghiệp và PTNT

Khối Khoa học và
Đào tạo

39 trường Đại học Đào tạo và Dạy nghề
19 Viện nghiên cứu liên kết với Bộ
3 Viện nghiên cứu Quy hoạch tổng thể
5 Viện nghiên cứu
6 Trung tâm nghiên cứu
7 Vườn Quốc gia

Khối Sản xuất và
Doanh nghiệp


64 Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

Các tỉnh

16 tổng công ty
32 Doanh nghiệp độc lập

Vụ Tổ chức Nhân sự
Vụ Bảo vệ Thực vật
Vụ Chăn nuôi
Vụ Trồng trọt
Vụ Sức khoẻ động vật / Thú y
Vụ chế biến Nông lâm sản và Công nghiệp muối
Vụ Bảo vệ Rừng
Vụ Lâm Nghiệp
Vụ Quản lý Đê điều và Phòng chống Lụt
Vụ Xây dựng
Vụ Nguồn nước
Vụ Hợp tác và Phát triển Nông thôn…

Tiểu – Chi nhánh

Theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ, hệ thống thống kê nông nghiệp
hiện nay được thực hiện trên 2 kênh: Kênh thống kê tập trung trực thuộc Tổng cục
Thống kê và kênh thống kê ngành trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Hệ thống thống kê của ngành NN&PTNT, tuy không tổ chức, quản lý theo ngành
dọc như Tổng cục Thống kê, nhưng trên thực tế công tác thống kê cũng được triển khai
ở hầu hết các đơn vị trong ngành và ở tất cả các Sở Nông nghiệp và PTNT, các cơ
quan quản lý nông nghiệp ở huyện, ở xã và ở thôn (bản) trong cả nước.



Trang 3

Ở Cấp Trung ương, Trung tâm Tin học và Thống kê của Bộ NN&PTNT (ICARD)
mới được thành lập trên cơ sở sáp nhập Trung tâm Tin học và bộ phận Thống kê trước
đây thuộc Vụ Kế hoạch . Trung tâm này được mở rộng hơn khi bộ phận thống kê của
Bộ Thủy sản cũ và bộ phận thống kê tại các Cục chuyên ngành và một số Vụ chức
năng trực thuộc Bộ được bổ sung vào (năm 2007). Dưới Trung tâm Tin học và Thống
kê là một số bộ phận, trong đó có bộ phận thống kê.
Ở cấp tỉnh, 64 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đều có bộ phận thống
kê. Phần lớn bộ phận thống kê thường được bố trí ở phòng Kế hoạch và Đầu tư hoặc
Văn phòng Sở hoặc được giao cho các bộ phận chuyên môn thuộc Sở đảm nhận, như:
Phòng Trồng trọt, Chăn nuôi, Lâm nghiệp, Chính sách,...
Sơ đồ sau đây chỉ rõ luồng thông tin trong ngành nông nghiệp
Biểu đồ 1: Luồng thông tin trong ngành nông nghiệp
BỘ TRƯỞNG

THỨ TRƯỞNG

VĂN PHÒNG BỘ

TRUNG TÂM TIN HỌC THỐNG KÊ

CÁC VỤ GIÚP VIỆC VÀ KỸ
THUẬT (*)

GIÁM ĐỐC

PHÓ GIÁM ĐỐC


CÁC BỘ PHẬN HÀNH CHÍNH VÀ KỸ THUẬT (**)

Báo cáo từ TCTK và các
bộ ngành có liên quan

BỘ PHẬN THỐNG KÊ

Tất cả các doanh nghiệp và tổ
chức phi lợi nhuận thuộc Bộ

Báo cáo từ 64 Sở NN

Trang web của Trung tâm thống kê và an toàn thực phẩm: 
http//:www.mard.gov.vn/fsiu 

Cán bộ thống kê

Báo cáo từ các Vụ giúp
việc bộ trưởng và các
vụ chuyên ngành


Ở cấp huyện, có phòng làm công tác thống kê. Phòng Nông nghiệp ở một số
huyện được gọi Phòng NN&PTNT trong khi những huyện khác vẫn giữ là phòng Kinh
tế, phụ trách công tác thu thập số liệu thống kê nông nghiệp. Các phòng này đều có
cán bộ được phân công làm thống kê chuyên trách hoặc kiêm nhiệm, chủ yếu làm
nhiệm vụ thu thập thông tin tiến độ sản xuất, tình hình thiên tai sâu bệnh để báo cáo lên
cơ quan cấp trên thuộc ngành và phục vụ chỉ đạo sản xuất của địa phương. Việt Nam
có hơn 600 quận huyện có hoạt động sản xuất nông nghiệp.

Ở cấp xã, cả nước hiện có hơn 9 ngàn xã. Hiện tại, mỗi xã đều bố trí cán bộ có
chức danh Cán bộ Văn phòng kiêm thống kê. Cán bộ này có nhiệm vụ thu thập, tổng
hợp số liệu về kết quả sản xuất và các báo cáo thống kê khác cho UBND xã và làm đầu
mối thực hiện các nội dung điều tra thống kê do Tổng cục Thống kê hoặc các ngành
chức năng khác triển khai tại địa bàn xã.
Ở cấp thôn, bản (hiện có hơn 80 ngàn đơn vị thôn), trưởng thôn hoặc Chủ nhiệm
HTX thường đảm nhận nhiệm vụ thu thập số liệu thống kê theo yêu cầu của xã ở địa
bàn thôn và thực hiện các nội dung cần phải điều tra ở cấp thôn liên quan đến các hoạt
động kinh tế xã hội ở thôn. Cuộc Tổng điều tra Nông nghiệp năm 2006 do Tổng cục
Thống kê thực hiện cho thấy trong số 14 triệu hộ nông nghiệp có gần 9,8 triệu hộ nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản.
2.1.1 Trung tâm Tin học và Thống kê
Trung tâm Tin học và Thống kê thực hiện các hoạt động thống kê chuyên ngành nông
nghiệp và phát triển nông thôn. Những hoạt động này bao gồm: tham gia xây dựng,
trình Bộ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
đề án, chương trình điều tra thống kê chuyên ngành nông nghiệp và phát triển nông
thôn; Thực hiện điều tra thống kê, chế độ báo cáo thống kê cơ sở và báo cáo thống kê
tổng hợp của Nhà nước trong ngành; Tổ chức các hoạt động thống kê phục vụ yêu cầu
quản lý của Bộ; Đặc biệt Trung tâm Tin học và Thống kê thu thập, tổng hợp, phân tích
số liệu thống kê ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn; xây dựng, phát triển ngân
hàng dữ liệu và mạng thông tin thống kê nông nghiệp và phát triển nông thôn; biên
soạn Niên giám thống kê, các tài liệu thống kê của ngành nông nghiệp;
2.2 Đề xuất các thay đổi
Phòng Thống kê là một trong những cơ quan trực thuộc Trung tâm Tin học và Thống
kê. Do Bộ NN&PTNT được giao công tác thống kê nông lâm nghiệp và thuỷ sản, nên
việc làm đầu tiên là cần củng cố Bộ phận Thống kê. Nếu có thể thì nâng tầm lên thành
vụ hoặc cục, khi đó phòng sẽ làm tốt hơn công tác thống kê số liệu trong ngành nông
nghiệp và phát triển nông thôn. Ở một số nước, tổ chức/cơ quan thống kê của các bộ
ngành thường đóng vai trò chính trong việc thực hiện các hoạt động thống kê. Tổ chức
thống kê hầu hết thường được đặt ở cấp vụ/cục để có cùng hoặc hầu như cùng một

cấp với cơ quan thống kê quốc gia. Trong Vụ/cục này có một bộ phận CNTT và các
đơn vị khác để hỗ trợ cho hoạt động thống kê chẳng hạn như bộ phận xuất bản, hành
chính… Các cán bộ thống kê tham gia vào tất cả các lĩnh vực của công tác thống kê từ
lập kế hoạch và chuẩn vị các công cụ thu thập số liệu (biểu mẫu hay là bảng hỏi), các
qui trình thu thập số liệu và hiệu đính, lập biểu, tổng hợp, tính toán và ước tính; phối
hợp giữa công tác xử lý số liệu với xây dựng các chỉ tiêu ởcác bộ phận CNTT; phân


tích các chỉ tiêu tổng hợp; phổ biến và xuất bản thông tin đến các nhà dùng tin chính và
các đối tượng dùng tin khác.
Nếu bây giờ không thể nâng tầm Phòng Thống kê lên thành cấp vụ/cục thì nên
tăng số lượng cán bộ và giao cho phòng chức năng và nhiệm vụ chính của Trung tâm
Tin học và Thống kê. Công tác thu thập và tổng hợp số liệu vẫn đang được tiếp tục và
phát triển vì vậy Phòng Thống kê nên quản lý những hoạt động này
Là cơ quan chủ chốt trong công tác thống kê nông nghiệp của bộ, chức năng
thực hiện và phối hợp với các đơn vị khác trong bộ chưa được đề cập một cách rõ
ràng. Chưa thấy rõ quyền được phối hợp và nhận được sự hợp tác từ các đơn vị khác
trong bộ. Vì thế cần làm rõ chức năng “phối hợp” này và “sự hợp tác” của các đơn vị
khác trong bộ. Phòng Thống kê của Trung tâm Tin học và Thống kê nên hợp tác trong
tất cả các giai đoạn của hoạt động thống kê. Bảng 2 trang 3 cho thấy tất cả các số
được truyền từ Phòng Thống kê nhưng nó không chỉ rõ chức năng hợp tác trong tất cả
các giai đoạn của hoạt động thống kê trong bộ.
Phòng Thống kê cũng nên đi đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ về lưu trữ, tìm
kiếm tra cứu tất cả thông tin nông lâm nghiệp và thuỷ sản (trong quá khứ, hiện tại và
tương lai) cũng như lưu trữ các thông tin này vào hệ thống cơ sở dữ liệu chính. Chức
năng này nên được thực hiện đầy đủ để giải quyết vấn đề chia sẻ thông tin. Máy chủ
của Trung tâm Tin học và Thống kê nên lưu trữ hệ thống cơ sở dữ liệu chính để có thể
cung cấp toàn bộ thông tin từ các hoạt động thu thập số liệu trong quá khứ, hiện tại và
tương lai. Máy chủ này cần phải được kết nối với tất cả các cơ sở dữ liệu của các đơn
vị xử lý số liệu thống kê khác trong bộ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận thông

tin.
Một nhiệm vụ khác cần chỉ rõ của Trung tâm Tin học và Thống kê là lập kế
hoạch và thực hiện các chương trình đào tạo thống kê hàng năm. Liệu Trung tâm Tin
học và Thống kê trước đây đã chuẩn bị và thực hiện các chương trình đào tạo thống kê
hàng năm cho tất cả cán bộ làm công tác thống kê trong bộ chưa. Nếu chưa thì Trung
tâm Tin học và Thống kê nên giao Phòng Thống kê lên kế hoạch,chuẩn bị và thực hiện
chương trình đào tạo hàng năm và đưa chương trình này vào trong chương trình công
tác hàng năm của Bộ. Việc đào tạo thống kê nên dựa vào nhu cầu của các cán bộ từ
các cục/đơn vị khác trong bộ và những cán bộ ở các tỉnh, huyện và xã hoặc cấp thấp
nhất để nâng cao kỹ năng thu thập số liệu và thực hiện các hoạt động thống kê khác.
Cần lập danh sách và lên lịch cho các khóa đào tạo này.
Trung tâm Tin học-Thống kê cũng cần được giao nhiệm vụ tiến hành các cuộc
điều tra thống kê và các hoạt động thống kê khác dưới sự quản lý hành chính trực tiếp
của Bộ. Việc thu thập số liệu trong các cuộc điều tra vẫn chưa được giao cho Bộ
NN&PTNT. Để làm được điều này, Phòng Thống kê nên xây dựng hoặc cũng cố mẫu
điều tra và kỹ năng thực hiện các cuộc điều tra.
Hiện nay thông tin nông nghiệp của bộ được thu thập từ các báo cáo hành
chính. Vai trò của Phòng thống kê của Trung tâm Tin học và Thống kê cần được mở
rộng bằng cách cho phép Phòng thay đổi một số thủ tục và biểu mẫu để có thể thu thập


số liệu chính xác và đáng tin cậy hơn. Phần khuyến nghị này sẽ được đề cập sâu hơn
trong Mục IV.
III. Đánh giá về công tác thống kê của Bộ
Công tác thống kê thuộc ngành NN&PTNT chủ yếu tập trung theo dõi tiến độ sản
xuất nông, lâm, diêm nghiệp và thủy sản; dự tính, dự báo kết quả sản xuất của các lĩnh
vực trên theo định kỳ; theo dõi tình hình dịch bệnh cây trồng, vật nuôi, cháy rừng, trồng
rừng, khai thác rừng, chế biến nông lâm thuỷ sản, xuất nhập khẩu nông lâm thuỷ sản,
công tác thuỷ lợi và đê điều, phòng chống lụt bão, an ninh lương thực và phát triển
nông thôn.

Các sản phẩm thông tin thống kê do phòng Thống kê thuộc Trung tâm Tin học
và Thống kê sản xuất dựa trên kết quả thu thập, xử lý, tổng hợp và phân tích các báo
cáo từ các đơn vị trong ngành và từ các nguồn thông tin bổ sung khác trong và ngoài
ngành.
Các sản phẩm thông tin thống kê hiện đang phát hành, bao gồm:


Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch ngành Nông nghiệp và PTNT hàng
tháng, gồm kết quả sản xuất các lĩnh vực nông, lâm, diêm nghiệp và thủy
sản; xuất nhập khẩu nông lâm sản toàn ngành; kết quả hoạt động chế biến
nông lâm thủy sản và thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các đơn vị
trực thuộc Bộ.



Bản tin tháng về Sản xuất - Thị trường - An ninh lương thực.



Cơ sở dữ liệu thống kê về kết quả sản xuất nông, lâm, diêm nghiệp; xuất
nhập khẩu nông lâm sản và một số thông tin liên quan đến an ninh lương
thực



Tin tham khảo cập nhật hàng ngày về thống kê và thông tin ANLT

Toàn bộ các thông tin trên đề được phổ biến, cập nhật trên website “Thống kê –
Thông tin an ninh lương thực” do phòng Thống kê, Trung tâm Tin học và Thống kê chịu
trách nhiệm quản lý và cập nhật.

Tất cả các thông tin trên được công bố và cập nhật trên trang web “ Thông tin
Thống kê và An toàn Thực phẩm” của Phòng Thống kê thuộc Trung tâm Tin học và
Thống kê.
3.1 Điều tra về nhu cầu người dùng tin
Năm 2006, Phòng Thống kê của Trung tâm Tin học và Thống kê triển khai điều
tra nhu cầu về thông tin thống kê. Đối tượng của cuộc điều tra này là: các Sở Nông
nghiệp và PTNT, các Viện, các Trường, các Tổng công ty và Công ty, Vườn quốc gia
và một số đối tượng đang công tác tại các Hiệp hội theo ngành hàng. 882 phiếu được
thu thập. Kết quả điều tra cho thấy người sử dụng thông tin thống kê hiện nay quan tâm
nhiều nhất đến giá cả thị trường và kết quả sản xuất với tỷ lệ tương ứng trong tổng số
người trả lời là 79,3% và 76,2%. Trong khi đó thông tin về giới ít được quan tâm nhất
chỉ có 11,2%. Thông tin về kết quả thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chế biến
nông lâm sản, thiên tai dịch bệnh, khuyến nông khuyến lâm, xuất nhập khẩu nông lâm


sản và phát triển nông thôn có mức quan tâm trung bình chiếm khoảng 50%. Thông tin
về thuỷ lợi, thiên tai hạn h án, úng chỉ có 24% số người quan tâm.
3.2 Biểu mẫu báo cáo
Chế độ báo cáo thống kê Bộ ban hành năm 2001 vẫn còn hiệu lực, gồm 15 biểu
áp dụng cho khối các Sở NN&PTNT và 27 biểu áp dụng cho các Tổng công ty, công ty
trực thuộc Bộ. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện thu thập các biểu mẫu báo cáo theo
qui định đạt tỷ lệ rất thấp với nhiều lý do, trong đó có các lý do chủ yếu là: lực lượng
cán bộ thống kê ở các đơn vị thiếu và yếu về nghiệp vụ chuyên môn thống kê; do phân
cấp quản lý nên có quá nhiều đầu mối thu thập; do cổ phần hóa doanh nghiệp; do thay
đổi chức năng nhiệm vụ.
Sau khi ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành NN&PTNT vào tháng 9/2006,
Bộ trưởng đã giao nhiệm vụ cho Trung tâm Tin học và Thống kê chủ trì phối hợp với
các đơn vị chức năng thuộc Bộ xây dựng chế độ báo cáo thống kê mới thay thế chế độ
báo cáo trước đây. Hiện tại, hệ thống biểu mẫu báo cáo dựa trên hệ thống chỉ tiêu
thống kê ngành đang được Trung tâm Tin học và Thống kê xây dựng và dự kiến sẽ

trình Bộ ban hành vào cuối năm 2007. Tuy nhiên do Bộ NN&PTNT được sát nhập với
Bộ Thuỷ sản, nên chỉ tiêu sau này phải bao gồm Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành
NN&PTNT cũng như phải thay đổi trong chế độ báo cáo, vì vậy chế độ này có thể được
ban hành muộn hơn
3.3 Thu thập số liệu
Thu thập số liệu chủ yếu dựa vào hệ thống báo cáo thống kê hành chính. Nhiều số
liệu không thu thập được từ các cuộc điều tra do không có nguồn kinh phí điều tra và kỹ
năng tổ chức điều tra của cán bộ thống kê ngành còn hạn chế. Trong thời gian tới cần
xây dựng chương trình điều tra thống kê cho ngành.
3.4 Xử lý số liệu
Phòng Thống kê – Trung tâm Tin học và Thống kê là cơ quan đầu mối thu thập và
xử lý những số liệu thống kê hành chính theo báo cáo hàng tháng do các đơn vị, cơ
quan trong ngành chuyển tới. Căn cứ vào từng lĩnh vực, mảng công việc, mỗi cán bộ
trong phòng đảm trách một phần công việc tập hợp, xử lý số liệu thống kê ngành. Tuy
nhiên, việc xử lý những số liệu thống kê thu thập được còn giản đơn và đa số mới chỉ
dừng lại ở việc ứng dụng những tính năng trên bảng tính Excel với số liệu thống kê
hành chính, hoặc sử dụng SPSS, ACCESS với những cơ sở dữ liệu lớn hơn.
3.5 Phân tích và dự báo
Một trong những hạn chế lớn nhất là công tác phân tích, dự báo thống kê đều yếu
kém ở cả hệ thống thống kê tập trung và thống kê ngành. Phần lớn thời gian làm công
tác thống kê giành cho công tác thu thập, tổng hợp dựa trên nền báo cáo thống kê
hành chính có chất lượng thông tin thấp nên gây khó khăn cho công tác phân tích, dự
báo. Mặt khác, kỹ năng về dự báo, phân tích của cán bộ làm công tác thống kê nói
chung còn yếu. Bên cạnh đó, còn nhiều lĩnh vực hoạt động thuộc ngành thông tin cần
phải được thu thập thông qua điều tra mới có số liệu đủ độ tin cậy để có thể ứng dụng
những phần mềm phân tích, dự báo thống kê có hiệu quả.


3.6 Hệ thống thống kê của một số Cục trong Bộ
3.6.1 Hệ thống thuộc ngành bảo vệ thực vật

Việc tổ chức thu thập thông tin của ngành bảo vệ thực vật được thực hiện theo
hình thức tổ chức từ dưới lên thông qua mạng lưới bảo vệ thực vật cấp cơ sở, các
Trạm bảo vệ thực vật huyện, các Chi cục bảo vệ thực vật tỉnh và Cục Bảo vệ thực vật ở
TW, theo chế độ 10 ngày 1 lần. Nội dung thông tin chủ yếu gồm báo cáo diễn biến tình
hình sâu bệnh, kết quả thực hiện các chủ trương và biện pháp phòng trừ, mức độ thiệt
hại và dự báo sâu bệnh trong thời gian tới. Chức năng tổng hợp thông tin về công tác
bảo vệ thực vật tại Cục Bảo vệ thực vật do phòng Kế hoạch đảm nhận thông qua 1 cán
bộ thống kê chuyên trách.
3.6.2 Hệ thống thuộc ngành thú y
Hệ thống thông tin, thống kê ngành thú y do Cục Thú y đảm nhận. Các thông tin
được thu thập gồm: tiêm phòng dịch bệnh; kiểm dịch động vật; quản lí, cung cấp thuốc
thú y và công tác truyền giống. Các nội dung thống kê thuộc ngành thú y được thu thập
thông qua các Chi cục thú y tỉnh và mạng lưới các Trạm thú y huyện theo định kỳ tháng
và hệ thống báo cáo đột xuất hàng ngày khi dịch bệnh nghiêm trọng xảy ra. Hệ thống
thống kê của ngành thú y mới chỉ theo dõi tình hình dịch bệnh chính đang xảy ra trên
diện rộng, còn các loại dịch bệnh khác phát sinh rải rác trên diện hẹp, số liệu tập hợp
không đầy đủ và thường xuyên.
Chức năng thống kê ở Cục Thú y tập trung ở Phòng Dịch tễ. Có 2 cán bộ làm
thống kê kiêm nhiệm. Ở các Chi cục tỉnh, bộ phận theo dõi dịch tễ nằm ở phòng Tổng
hợp. Cán bộ thống kê ở các Chi cục và ở các Trạm đều kiêm nhiệm.
Phương tiện đang được các Chi cục sử dụng báo cáo tình hình dịch bệnh về
Cục Thú y thông qua hệ thống e-mail (45/64 tỉnh/TP) hoặc qua phương tiện điện
thoại/fax.
Do chưa có hệ thống thú y cơ sở đủ mạnh; tổ chức ngành thú y không theo
ngành dọc nên công tác thống kê chuyên ngành thú y thiếu đồng bộ. Về trang bị
phương tiện làm việc chưa được quan tâm đầu tư sử dụng các công nghệ tiên tiến như
xây dựng bản đồ dịch tễ, phân tích thống kê về diễn biến và dự báo sớm dịch bệnh.
Chưa có báo cáo về đầu mối thống nhất.
Cục Thú ý có thể là đầu mối thu thập số liệu về thú y bởi Cục này chịu trách
nhiệm chính về hệ thống thống kê. Do đó, Cục Thú y cần tập trung cải tiến quá trình thu

7
thập số liệu bằng cách xây dựng chiến lược ở các kênh thông tin đặc biệt là kênhTrang
thông
tin tuyến xã, đầu mối thu thập thông tin ban đầu.
3.6.3 Hệ thống thuộc Cục Kiểm lâm
Hệ thống thống kê kiểm lâm được tổng hợp và cập nhật theo tháng, gồm các
thông tin về quản lí rừng, bảo vệ rừng, tình hình vi phạm luật bảo vệ rừng và diễn biến
về lực lượng lao động trong từng lĩnh vực.


Công tác xử lí thông tin thuộc hệ thống ngành kiểm lâm cơ bản đã được chương
trình hóa thông qua hệ thống máy tính được nối mạng hoạt động tương đối ổn định.
Ngoài ra, hàng năm Cục Kiểm lâm còn thu thập, tổng hợp và công bố số liệu về tài
nguyên rừng chi tiết đến huyện. Thời gian gần đây, Cục đã đầu tư xây dựng cơ sở dữ
liệu ngành. Cơ sở dữ liệu hiện có bao gồm các số liệu báo cáo tháng, số liệu lịch sử về
diễn biến tài nguyên rừng, thông tin về cảnh báo cháy rừng và các số liệu về tình hình
vi phạm lâm luật.
Khó khăn hiện nay của hệ thống thống kê kiểm lâm là việc phân công chưa rõ
ràng giữa Cục và Viện Điều tra qui hoạch rừng trong việc tổ chức điều tra thu thập và
công bố số liệu tài nguyên rừng. Tính cập nhật trong số liệu thống kê của hệ thống kiểm
lâm chưa cao.
Giải pháp đưa ra cho quá trình thu thập số liệu về kiểm lâm là phối hợp giữa Cục
và Viện Điều tra qui hoạch rừng trong việc thu thập số liệu, trong đó trách nhiệm chính
thuộc về Cục Kiểm lâm bởi Cục đã đầu tư rất nhiều cho công tác thu thập, xứ lý số liệu
cũng như hệ thống cơ sở dữ liệu. Viện Điều tra qui hoạch rừng nên tham gia hỗ trợ cải
tiến nội dung, phương thức thu thập số liệu, cập nhật, xử lý và tổng hợp kết quả dựa
trên kinh nghiệm đã có. Cả hai cơ quan này đều là cơ quan công bố kết quả cho người
dùng tin vì mỗi cơ quan có một mục đích riêng trong việc sử dụng kết quả.
3.6.4 Hệ thống thuộc Cục Lâm nghiệp
Hệ thống thống kê lâm nghiệp nằm ở 35 Chi cục Lâm nghiệp tỉnh/thành phố. Số

còn lại ở phòng Lâm nghiệp thuộc các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc do
một số Chi cục Kiểm lâm địa phương kiêm nhiệm.
Nội dung thống kê của hệ thống thuộc Cục Lâm nghiệp gồm các chỉ tiêu về lâm
sinh, như: trồng và bảo vệ rừng, khoanh nuôi chăm sóc rừng; thực hiện vốn đầu tư và
khai thác rừng. Ở Văn phòng Cục, Phòng Điều tra cơ bản được giao nhiệm vụ thống kê
phần lâm sinh và vốn, nhưng trên thực tế chỉ theo dõi tình hình thực hiện dự án trồng
mới 5 triệu ha rừng còn phần thống kê khai thác gỗ và lâm sản do Phòng Quản lí sử
dụng rừng đảm nhận.
3.7 Tồn tại chung của hoạt động thống kê ngành NN&PTNT
Do hình thức tổ chức phân tán nên trong một thời gian dài hệ thống thống kê
ngành NN&PTNT với lực lượng cán bộ làm công tác thống kê mỏng, năng lực chuyên
môn hạn chế; cơ sở hạ tầng phục vụ công tác thống kê yếu kém; chưa có qui định rõ
ràng về trao đổi thống tin giữa các cơ quan, đơn vị; hệ thống chỉ tiêu thống kê thu thập
không được chuẩn hóa; các mảng thông tin thị trường nông, lâm sản và phát triển nông
Trang 8
thôn mới bắt đầu hoặc chưa được triển khai. Vì vậy công tác thống kê ngành
nông
nghiệp tồn tại rất nhiều bất cập, như:
• Số liệu, thông tin có độ chính xác thấp do thiếu cập nhật, trùng lặp và còn
nhiều mâu thuẫn giữa các đơn vị với nhau.
• Số liệu thống kê thường chỉ được thu thập để phục vụ cho yêu cầu chỉ đạo
riêng của từng cơ quan đơn vị. Do đó không mang tính hệ thống, không đáp
ứng nhu cầu sử dụng chung, rất khó tổng hợp.


• Số liệu điều tra thống kê thu thập thường chỉ được sử dụng ở dạng thô,
chưa qua qui trình ước tính. Vì vậy độ tin cậy thấp
• Số liệu được lưu giữ tản mạn, ít có tác dụng trong lĩnh vực phân tích và dự
báo.
• Cơ quan thống kê chuyên trách của Bộ hoạt động mang tính sự vụ là chính,

chưa vươn lên nắm vai trò quản lí hệ thống thống kê ngành một cách đầy đủ.
• Hoạt động thống kê còn phụ thuộc quá nhiều vào hệ thống thống kê tập trung
thuộc Tổng cục Thống kê.
3.8 Đề xuất giải pháp
Do hệ thống thống kê nông nghiệp không tập trung nên hệ thống này cần có một
đơn vị làm đầu mối phối hợp. Như đã đề xuất ở phần trước, Phòng Thống kê của
Trung tâm Tin học Thống kê cần được giao toàn quyền và hoạt động như một đầu mối
cho tất cả các hoạt động thống kê của Bộ. Vì vậy, Trung tâm Tin học Thống kê sẽ là
đầu mối phối hợp hệ thống thống kê ngành nông nghiệp. Nếu đã được Bộ giao cho
chức năng này, Phòng Thống kê của Trung tâm Tin học Thống kê nên thành lập một
Ủy ban kỹ thuật về thống kê Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản. Ủy ban này sẽ đánh giá
các hoạt động thống kê khác nhau của từng cục để xác định hoạt động nào cần được
tiên hành thường xuyên và hoạt động nào cần được tiến hành không thường xuyên.
Bằng cách này, các số liệu thiếu thống nhất, trùng lặp hoặc không đáng tin cậy sẽ
được giảm thiểu tối đa. Trung tâm Tin học Thống kê cũng xây dựng hướng dẫn thực
hiện các hoạt động mới và chuẩn bị chương trình công tác thống kê hàng năm để đồng
bộ hóa chương trình công tác thống kê nông nghiệp nhằm tránh mâu thuẫn khi tiến
hành các hoạt động này.
Ủy ban Kỹ thuật nên gặp mặt định kỳ để thảo luận về các vấn đề và phương
thức cải tiến cho từng hoạt động của Bộ kể cả hệ thống thống kê của một số cục.
Thành viên của Ủy ban sẽ bao gồm: Trung tâm Tin học Thống kê đóng vai trò chủ trì.
Ngoài ra cón có các cục và đơn vị khác thuộc Bộ, các bộ ngành có liên quan hoặc các
cơ quan có liên quan đến thống kê nông lâm nghiệp và thủy sản như TCTK, Bộ LĐTB
và XH... Các bộ, ngành có thể cùng đóng vài trò chủ trì trong Ủy ban.
Dưới Ủy ban là các nhóm làm việc có tính chất kỹ thuật. Có thể có vài nhóm làm
việc kỹ thuật tùy vào nhu cầu của ngành nông nghiệp. Sau đây là đề xuất một số nhóm
làm việc kỹ thuật:







Các chuẩn thống kê (TWG-SS) - định nghĩa chuẩn, phân loại, mã hóa, chia
sẻ số liệu, làm báo cáo, các quy trình áp dụng, công cụ/qui trình thu thập số
liệu (bảng hỏi/biểu mẫu và tài liệu hướng dẫn) và hướng dẫn chuẩn bị, v..v
Chất lượng số liệu/chỉ tiêu/phân tích (TWG-QDA) - tính chính xác và tính
Trangtin
9
cậy của hệ thống chỉ tiêu nông nghiệp, phương pháp luận sử dụng, phần
mềm phân tích, tổng hợp số liệu, làm báo cáo, phân tích và dự báo, v..v.
Xử lý số liệu và xây dựng/duy trì hệ thống cơ sở dữ liệu (TWG-DPDS)- quy
trình biên tập, lưu trữ số liệu, phần mềm sử dụng, tính đầy đủ của số liệu
trong hệ thống cơ sở dữ liệu, duy trì và cải thiện hệ thống cơ sở dữ liệu, cập
nhật và lưu trữ số liệu, duy trì các trang web thống kê tài chính...




Phổ biến số liệu (TWG-DD) - các loại xuất bản phẩm, gặp mặt/tham vấn
người dùng tin, đánh giá số liệu, cập nhật số liệu…



Phát triển nguồn nhân lực (TWG-HRD)- đào tạo (kỹ thuật và đào tạo thực tế/
từ công việc), các khóa đào tạo thêm, hội thảo, chia sẻ kinh nghiệm, học tập
kinh nghiệm...

Thành viên của Nhóm kỹ thuật là các nhà thống kê và chuyên gia CNTT trong
Trung tâm Tin học và Thống kê và ở các vụ khác của bộ. Vai trò của các thành viên

trong Nhóm kỹ thuật là hỗ trợ Uỷ ban Kỹ thuật thống kê Nông, Lâm, Ngư nghiệp bằng
cách tập trung giải quyết những hoạt động khác được giao cho họ như xây dựng
hướng dẫn chia sẻ thông tin, chuẩn hoá các khái niệm và định nghĩa ...
Việc thành lập Uỷ ban Kỹ thuật thống kê Nông, Lâm, Ngư nghiệp sẽ được bắt
đầu ở cấp trung ương mà Bộ NN&PTNT không cần phải mất quá nhiều chí phí. Các
buổi họp hay kỳ họp của ban có thể tổ chức ở một trong những phòng hội nghị của Bộ
NN&PTNT, vì vậy không phải tốn chi phí cho việc đi lại. Thỉnh thoảng có thể mời một số
cán bộ thống kê từ các cấp (tỉnh hoặc huyện) tham dự các cuộc họp nếu thấy cần thiết
và phụ thuộc vào kinh phí có sẵn
Một giải pháp khác để tăng cường hệ thống thống kê của một số cục trong Bộ là
xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê nông nghiệp như là một hệ thống chính của tất cả
các tiểu hệ thống thông tin khác trong Bộ. Biến các hệ thống của các cục trong Bộ
thành các tiểu hệ thống của hệ thống chỉ tiêu thống kê nông nghiệp. Việc cải thiện hệ
thống chỉ tiêu thống kê nông nghiệp và các tiểu hệ thống khác cũng như việc xây dựng
cơ sở dữ liệu để lưu trữ thông tin thu thập và tổng hợp được từ báo cáo hành chính,
các cuộc điều tra thống kê nông nghiệp và các cuộc điều tra thống kê khác do các bộ
ngành thực hiện cần được lưu giữ trong máy chủ của Trung tâm tin học-thống kê. Máy
chủ này cần được kết nối với các hệ thống của các cục/đơn vị khác để cập nhật và hỗ
trợ việc truy cập thông tin.
IV. Đánh giá các cuộc điều tra chính của Bộ
Do số lượng cán bộ làm thống kê ít cộng với không có kinh phí điều tra nên hoạt
động thống kê của ngành NN&PTNT thời gian qua chủ yếu thu thập thông tin dựa vào
hệ thống báo cáo thống kê hành chính. Năm 2006, do yêu cầu bức xúc về cần thiết
phải củng cố và tăng cường hệ thống thống kê ngành để triển khai thực hiện các chỉ
tiêu thống kê do Bộ ban hành, Bộ đã giao cho Trung tâm Tin học và Thống kê tổ chức
điều tra thực trạng hệ thống thống kê ngành. Các phiếu điều tra được thiết kế và tổ
chức thu thập thông tin về thực trạng hoạt động thống kê của các đối tượng là các Sở
NN&PTNT trong cả nước, Các cục, vụ, ban trực thuộc Bộ và các đơn vị thuộc khối sản
xuất kinh doanh, sự nghiệp thuộc ngành. Kết quả điều tra đã cho thấy một bức tranh
chung về hoạt động thống kê của ngành từ đó làm căn cứ đề xuất các giải pháp củng

cố và tăng cường hệ thống thống kê ngành để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin của
các đối tượng sử dụng trong và ngoài ngành.
4.1 Đề xuất các hoạt động cần thực hiện


Bộ nên chia công tác thống kê ở 2 cấp: các hoạt động ở cấp trung ương và địa
phương. Việc lập kế hoạch, chuẩn bị công cụ thu thập số liệu và các tài liệu khác, tổng
hợp cuối cùng, phân tích, dự báo, và phổ biến bất cứ hoạt động thống kê nào nên giao
cho cấp trung ương còn thu thập số liệu, tổng hợp kết quả nên giao cho địa phương.
Phòng Thống kê nên đóng vai trò chính thực hiện tất cả mọi lĩnh vực của hoạt động cấp
trung ương và hỗ trợ các tỉnh/huyện/xã và tất các đơn vị khác thuộc Bộ
NN&PTNT&PTNT thực hiện các hoạt động ở cấp địa phương.
Từ danh mục các chỉ tiêu của hệ thống chỉ tiêu thống kê nông nghiệp ta có thể
thấy rằng số liệu về trồng trọt chẳng hạn như diện tích lúa gieo trồng và diện tích gieo
trồng các loại cây trồng hàng năm, diện tích thu hoạch lúa và cây trồng hàng năm
khác... đều do Cục Trồng trọt hoặc Trung tâm tin học-Thống kê của các Sở NN& PTNT
thu thập. Trong khi số liệu về vật nuôi và chăn nuôi thì do Cục Chăn nuôi hoặc TCTK
hoặc Sở NN&PTNT thu thập. Số liệu về lâm nghiệp do Phòng kiểm lâm hoặc Phòng
Lâm nghiệp thuộc sở NN&PTNT thu thập; số liệu về diêm nghiệp do Sở NN&PTNT thu
thập. Số liệu về bảo vệ thực vật do Phòng bảo vệ thực vật thu thập. Thông tin về thú y
do Phòng Thú y thu thập. Thông tin về thủy lợi do Phòng Thủy lợi thuộc Sở NN&PTNT
thu thập... Các số liệu có thể được lấy từ các cuộc điều tra (thường do TCTK tiến hành)
hoặc các báo cáo hành chính. Cho dù tất cả các thông tin này đều được lấy từ báo cáo
hành chính, phương thức thu thập số liệu có thể thông qua giám sát hoặc quan sát
hoặc từ ghi chép của thôn bản (có thể cho kết quả thiên lệch), hoặc từ bất kỳ phương
tiện nào khác thì phương pháp thu thập số liệu cũng cần phải được cải tiến. Trước hết
cần tăng cường phương pháp thu thập từ các báo cáo hành chính. Một số chỉ tiêu
được liệt kê trong hệ thống chỉ tiêu thống kê nông nghiệp nên được lấy từ cuộc điều tra
thông qua phỏng vấn hoặc các bảng câu hỏi điều tra tự quản thay vì chỉ dựa vào các
báo cáo hành chính.


Dựa vào các chỉ tiêu được liệt kê trong hệ thống chỉ tiêu thống kê nông nghiệp ,
10 mục số liệu chính chỉ được các vụ của Bộ NN&PTNT hoặc các Phòng của Sở
NN&PTNT tỉnh thu thập. Từ các số liệu này hai chỉ tiêu bổ sung về cây trồng hàng năm
và cây trồng lâu năm cần được thu thập và xử lý. Đây là sản lượng và năng suất thực
tế, và là chỉ tiêu tốt hơn so với sản lượng và năng suất ước tính. Các chỉ tiêu cho các
cây trồng hàng năm, cây trồng lâu năm và diêm nghiệp đáng tin cậy hơn nếu được thu
thập thông qua cuộc điều tra. Các chỉ tiêu còn lại của 7 mục số liệu chính tốt nhất là lấy
từ bảng ghi chép hành chính. Xem Bảng 1 trang tiếp theo.
Table 1 – Các phương tiện thu thập các chỉ tiêu thống kê nông nghiệp được chọn
Mục số liệu chính
1. cây trồng hàng năm
(lúa, ngô...)

Các chỉ tiêu được công
bố
Diện tích gieo trồng các
loại cây trồng , diện tích
thu hoạch cây trồng , sản
lượng ước tính
Sản lượng thực tế (chỉ tiêu
đề nghị được thu thập)

Được thu thập tốt nhất
từ
Cuộc điều tra (bằng
phỏng vấn trực tiếp
hoặc... (tự quản)
Cuộc điều tra (bằng
phỏng vấn trực tiếp



Diện tích lúa bị phá hoại
do thiên tai hoặc nguyên
nhân khác.
2. Các cây trồng lâu năm
( cà phê, trà, dừa ...)

3. Lâm sản
4. Diêm nghiệp
5. Bảo vệ thực vật
6. Thú y
7. Thuỷ lợi

8. Quản lý đê và Phòng
chống lụt bão.
9. Cơ khí hoá và xử lý
sản phẩm Nông, Lâm
nghiệp, ngành ngề
nông thôn
10. Quản lý Xây dựng
công trình

Tổng diện tích, Diện tích
trồng mới (báo cáo hàng
năm), Diện tích xây dựng
cơ bản, diện tích thanh lý,
Diện tích kinh doanh (để
sản xuất), Sản lượng ước
tính , năng suất ước tính

Sản lượng thực tế (các chỉ
tiêu đề nghị để thu thập)

hoặc... (hoặc tự quản)
Cuộc điều tra hoặc ước
tính thông qua quan sát
về diện tích thiệt hại do
người thu thập số liệu
cung cấp.
Cuộc điều tra (bằng
phỏng vấn trực tiếp
hoặc... (hoặc tự quản)

Cuộc điều tra (bằng
phỏng vấn trực tiếp
hoặc... (hoặc tự quản)
Tất cả các chỉ tiêu được
Ghi chép hành chính;
liệt kê
Các diện tích được đo
bằng ảnh vệ tinh
Tất cả các chỉ tiêu được
Cuộc điều tra (bằng
liệt kê
phỏng vấn trực tiếp
hoặc... (hoặc tự quản)
Tất cả các chỉ tiêu được
Bảng ghi chép hành
liệt kê
chính

Tất cả các chỉ tiêu được
Bảng ghi chép hành
liệt kê
chính
Tổng diện tích được tưới Cuộc điều tra (bằng
tiêu,... Volume, giá trị điện phỏng vấn trực tiếp
dùng cho tưới tiêu và hoặc... (hoặc tự quản)
thoát nước
Tất cả các chỉ tiêu được Bảng ghi chép hành
liệt kê
chính
Tất cả các chỉ tiêu được Bảng ghi chép hành
liệt kê
chính
Tất cả các chỉ tiêu được Bảng ghi chép hành
liệt kê
chính
Tất cả các chỉ tiêu được Bảng ghi
liệt kê
chính

chép

hành

Phòng Thống kê nên được giao trách nhiệm tạo mối quan hệ chặt chẽ hoặc thoả
thuận với Sở NN&PTNT và Phòng NN&PTNT/Kinh tế với UBND Xã để cải thiện thu
thập số liệu và các biểu mẫu được dùng. Cần tổ chức các cuộc họp kỹ thuật với Sở
NN&PTNT, Phòng NN&PTNT, UBND xã để thảo luận mục tiêu, xử lý và thay đổi cách
thu thập số liệu ở cấp xã/thôn. Phòng Thống kê nên yêu cầu mỗi xã cung cấp danh



sách đầy đủ các hoạt động nông nghiệp ở từng thôn bản để xác định xem thôn bản đó
có hoạt động nông nghiệp nào là chính: sản xuất lúa gạo hay sản xuất các cây trồng
hàng năm khác, trồng cây lâu năm. Nếu có thể, Phòng cũng nên yêu cầu cung cấp
danh sách các hộ tham gia vào các hoạt động đó (chủ hộ đại diện cho hộ)
Đồng thời, SID cùng với Nhóm TWG-QDA và TWG-SS nên đánh giá lại các hoạt
động thu thập số liệu của bộ trong thời gian qua về số liệu đưa ra, biểu mẫu được dùng
và quy trình hoạt động ở các lĩnh vực được áp dụng. Cần cải tiến biểu mẫu hoặc bảng
câu hỏi hay sổ ghi chép và hướng dẫn/quy trình thu thập số liệu nông nghiệp bao gồm
số liệu lâm nghiệp và thuỷ sản. Khi thiết kế lại biểu mẫu hoặc bảng câu hỏi của mỗi
hoạt động nông nghiệp, nên hạn chế số trang khoảng từ 1 đến 4 trang. Sử dụng hệ
thống mã hoá cho các câu trả lời được vòng tròn hoặc đánh dấu tích. Biểu mẫu/bảng
câu hỏi không nên quá phức tạp cho người thu thập số liệu. Hoạt động này mang tính
chất tự quản, nghĩa là các hộ nông nghiệp có thể trả lời hoặc có thể giúp trưởng thôn
hoặc cán bộ thôn sử dụng dễ dàng thông qua việc kết hợp với phương pháp quan sát
với phương pháp phỏng vấn . Phương pháp cuối cùng được sử dụng để hỏi một số câu
hỏi đặc bịêt như diện tích và sản lượng hay năng suất. Biểu mẫu/bảng câu hỏi phải
được thử nghiệm nhiều lần trước khi đưa vào thực hiện. Xem Bảng phụ lục C về dàn
mẫu hay biểu mẫu minh hoạ. Nếu sử dụng sổ ghi chép, cần cải thiện nội dung. Cần
lưu giữ hồ sơ của tất cả các giai đoạn của hoạt động nông nghiệp (trước, trong khi và
sau khi). Nếu sử dụng các biểu mẫu hay bảng câu hỏi, hay sổ ghi chép thì Phòng
Thống kê nên tổ chức đào tạo về cách sử dụng các công cụ này ở các cấp (từ trung
ương đến xã).
Nếu trong tương lai Bộ NN&PTNT thực hiện cuộc điều tra này, thì nên sử dụng
phương pháp chọn mẫu hệ thống hoặc phương pháp chọn mẫu hệ thống phân tầng.
Tuy nhiên, khi các đơn vị mẫu giảm xuống cấp thấp hơn nhằm đưa ra số liệu thống kê ở cấp
này, thì ngân sách cũng phải tăng lên. Bất kỳ phương pháp chọn mẫu nào cũng cần lấy danh
sách hộ gia đình/ trang trại có sản xuất vụ mùa chính như trong dàn mẫu.
Nên xử lý và tổng hợp kết quả ở cấp xã rồi chuyển lên các Phòng NN&PTNT và

sau đó gửi lên Sở NN&PTNT rồi lên Phòng Thống kê để tổng hợp kết quả cuối cùng và
phân tích và chế độ báo cáo cuối cùng. Phòng Thống kê cùng với Phòng CNTT tổ chức
đào tạo cho cán bộ thống kê ở các huyện và Sở NN&PTNT để họ có thể xử lý và tổng
hợp đúng.
Nếu không thể thực hiện được các đề xuất trong phần này ở tất cả các xã ở tất
cả các tỉnh, thì có thể tiến hành so le bắt đầu từ những tỉnh mà sẵn sàng thay đổi quy
trình thu thập số liệu để có được số liệu chính xác và tin cậy
V. Đánh giá về các chỉ tiêu nông nghiệp trong mối liên hệ với Hệ thống chỉ tiêu
thống kê quốc gia/Chương trình điều tra quốc gia
5.1 Các chỉ tiêu thống kê nông nghiệp

Trang 12

Hệ thống chỉ tiêu thống kê Nông nghiệp và phát triển nông thôn (ARDSIS) bao
gồm 230 chỉ tiêu, trong đó 70% hay 159 chỉ tiêu do bộ sản xuất, 24% được lấy từ TCTK
và phần còn lại được lấy từ các Bộ ngành khác như Bộ LĐTB&XH, Bộ Y tế và Bộ Đầu


tư ... MPI. Trong số 55 chỉ tiêu lấy từ TCTK có 16 chỉ tiêu do TCTK phối hợp với Sở
NN&PTNT tính toán, 2 chỉ tiêu do TCTK phối hợp với Bộ LĐTB&XH tính và 1 chỉ tiêu do
TCTK phối hợp với Trung tâm Tin học-Thống kê tính toán. Bộ NN&PTNT có 2 chỉ tiêu
về lâm nghiệp (cùng với TCTK) và 4 chỉ tiêuvề bảo vệ môi trường nằm trong hệ thống
chỉ tiêu thống kê quốc gia (NSIS). Các chỉ tiêu nông nghiệp và thủy sản trong NSIS
thuộc trách nhiệm của Vụ Nông lâm nghiệp và Thủy sản- TCTK.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê Nông nghiệp và phát triển nông thôn (ARDSIS) có 48
chỉ tiêu được phân tổ theo giới tính. Ba chỉ tiêu trong số này được phân tổ theo dân tộc.
Ngoài 48 chỉ tiêu đựoc phân tổ theo giới tính, có thêm hai chỉ tiêu có thể phân tổ được
theo giới tính, đó là diện tích rừng hiện có phân theo loại rừng, chức năng rừng, chủ
quản lý (có thể phân theo giới tính của chủ quản lý), loại cây, độ tuổi, tỉnh/ thành phố.
Số liệu phân tổ theo dân tộc cũng nên được tăng lên bởi vì dân tộc có liên quan đến

một trong những đặc điểm cá nhân.
Việc sử dụng số liệu phân tổ theo giới tính trong thống kê hay chỉ tiêu nông
nghiệp sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách xác định được số lượng phụ nữ
tham gia vào các hoạt động nông lâm nghiệp và thủy sản, loại hoạt động mà họ tham
gia, loại công việc họ đang làm, khả năng tiếp cận với các phương tiện nông nghiệp và
các thông tin có liên quan khác. Tuy nhiên, không có nhiều thông tin thuộc loại này
trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hầu hết các chỉ
tiêu trong 48 chỉ tiêu nói trên liên quan đến các đặc điểm của dân số, mức sống và y
tế.... Chỉ có một số chỉ tiêu có liên quan đến nông nghiệp.
Mặc dù cuộc điều tra về người dùng tin do Trung tâm tin học-Thống kê thực hiện
năm 2006 cho thấy chỉ có 11.2% quan tâm đến số liệu về giới tính, điều này không có
nghĩa là số liệu này không cần được quan tâm. Phụ nữ đóng góp rất lớn cho nông
nghiệp, ngay cả trong ngành thủy sản và lâm nghiệp. Nếu điều này không được thể
hiện trong các số liệu thống kê nông nghiệp thì số liệu sẽ không bảo đảm được tính
chính xác bởi người dùng tin sẽ hiểu rằng phần lớn các đóng góp cho những ngành
này là của nam giới.
5.2 Đề xuất các bước thực hiện
Như đã đề xuất trong phần 4.1, các biểu mẫu/bảng câu hỏi hay sổ ghi chép
được dùng để thu thập số liệu cần phải thử nghiệm. Để có thể sản xuất ra số liệu phân
tổ theo giới tính về nông lâm nghiệp và thủy sản, Phòng Thống kê nên xem xét lại tất cả
các biểu mẫu được dùng cho quá trình thu thập số liệu để xác định phương thức lồng
ghép thông tin về tuổi giới tính và dân tộc vào. Nếu biểu mẫu không bảo đảm lồng ghép
được thông tin về giới tính và dân tộc thì Phòng Thống kê nên phối hợp với các
cục/đơn vị, Sở NN&PTNT, các cơ quan ở huyện cũng như ở xã và thôn bản để chỉnh
sửa lại các biểu mẫu này.

VI. Đánh giá về đội ngũ cán bộ thống kê ngành nông nghiệp và trình độ của cán
bộ trong hoạt động thống kê nông nghiệp



6.1 Cán bộ thống kê ngành nông nghiệp
Phòng Thống kê của Trung tâm Tin học-Thống kê có 10 cán bộ, trong đó có 3 người
có bằng đại học hoặc cao hơn nhưng chỉ có 1 cân bộ được đào tạo chuyên
ngành
Trang 13
thống kê. Đây là một trong những khó khăn cho hoạt động thống kê. 6 người trong
số họ là nữ.
Biểu 1: Số cán bộ thống kê trong ngành nông nghiệp, phân theo trình độ cao nhất đạt đựoc và nơi làm việc
Trình độ cao nhất đạt
đựoc
Tổng số
Bằng đại học hoặc cao
hơn
Cao đẳng
Trung cấp
Sơ cấp

Total

Nơi làm việc
Đơn vị ở Trung
ương thuộc Bộ

Phòng NN
huyện

Sở NN&PTNT

840


193

72

575

723

168

64

491

18
92
7

9
12
4

8

9
72
3

Nguồn: Kết quả điều tra thực trạng hệ thống thống kê ngành NN&PTNT, tháng 9/2006, do
Trung tâm Tin học và Thống kê thực hiện


Ngành nông nghiệp có đội ngũ cán bộ làm công tác thống kê gồm 840 người như
được trình bày ở biểu 1. Trong số lực lượng cán bộ thống kê này, 1/3 đang làm tại các
ban thuộc Phòng kinh tế huyện hoặc tại xã. Khoảng 22% đang làm việc tại các đơn vị ở
trung ương thuộc Bộ và khoảng 8% là làm tại các Sở NN&PTNT. Đội ngũ cán bộ làm
thống kê cấp trung ương, tỉnh và huyện hầu hết có trình độ đại học và trên đại học,
chiếm 86% so với tổng số cán bộ đang làm công tác thống kê. Số còn lại chỉ có bằng
cao đẳng, trung cấp hoặc sơ cấp. Mặc dù một tỷ lệ lớn các cán bộ thống kê làm việc tại
huyện nhưng rất ít người trong số họ nhưng số được đào tạo theo chuyên ngành thống
kê. Tình trạng tương tự cũng diễn ra tại các Sở NN&PTNT. Hầu hết các cán bộ thống
kê ở tỉnh và huyện đều làm kiêm nhiệm, nên không có thời gian tham gia vào các khóa
đào tạo về thống kê. 1/5 cán bộ thống kê ở trung ương được tham gia vào các khóa
đào tạo về thống kê thông qua các lớp đào tạo ngắn hạn.
6.2 Nhân lực làm công tác thống kê thủy sản
Hiện tại, cả nước có 28 tỉnh ven biển, có 26 tỉnh có tổ chức Sở Thuỷ sản, 01 tỉnh
tổ chức Chi cục Thủy sản thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT (Ninh Bình) và 1 tỉnh có Chi
cục Bảo vệ nguồn lợi Thủy sản thuộc Sở NN và PTNT (TP Hồ Chí Minh). Nguồn nhân
lực làm công tác thống kê thủy sản chỉ được bố trí từ 1-2 người dưới hình thức kiêm
nhiệm ở mỗi đơn vị, nhìn chung thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Do ngành thủy
sản không có hệ thống cơ quan quản lý cấp huyện, xã như ngành nông nghiệp nên
không có mạng lưới cán bộ thống kê cấp cơ sở. Với địa bàn hoạt động rộng, làm cho
việc thu thập số liệu thủy sản gặp rất nhiều khó khăn.
Mặc dù hầu hết cán bộ được phân làm thống kê ở cả 2 Bộ cũ đều không được
tuyển chọn cán bộ có bằng cấp về thống kê và cũng không được đào tạo, bồi dưỡng


nghiệp vụ và phương pháp thống kê khi được giao làm nhiệm vụ thống kê, nhưng Bộ
NN&PTNT vẫn có 62 cán bộ (7%) từ trung ương cho đến xã có kiến thức về thống
Trangkê.
14

Những cán bộ này là tài sản để thực hiện công tác thống kê của Bộ. Có thể sử dụng họ
để nâng cao chất lượng của đội ngũ thống kê cho từng kênh thông tin thông qua tổ
chức các khóa đào tạo trong nước do Bộ tổ chức. Kiến thức học được từ các khóa đào
tạo này và kiến thức cũng như kỹ năng thu được từ kinh nghiệm làm việc sẽ giúp tăng
cường năng lực của đội ngũ thống kê và hoạt động thống kê của Bộ NN&PTNT.
6.3 Quan điểm và nhận định
Tăng cường năng lực của các cán bộ thống kê tại Sở NN&PTNT, các huyện, xã, thôn
bản
Lựa chọn thứ nhất: Thông qua tham khảo ý kiến hoặc hội thảo công bố và ghi chép lại
các kinh nghiệm thu thập và xử lý số liệu trong lĩnh vực
Khi thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu ở trung ương, Phòng Thống kê nên
xem đây là một cơ hội để thảo luận kết quả với các Sở NN&PTNT, các huyện, xã thông
qua tham khảo nội bộ hoặc hội thảo công bố. Trung tâm Tin học-Thống kê cần xây
dựng chương trình làm việc hàng quý để thu hút các Sở NN&PTNT, các huyện, xã
tham gia vào hội thảo này. Trung tâm Tin học-Thống kê có thể chia các Sở NN&PTNT,
các huyện, xã ra thành 4 nhóm và mời từng nhóm đến từng cuộc họp/hội thảo tùy vào
việc công bố kết quả cho đến khi tất cả các nhóm đều có cơ hội được tham dự. Bằng
cách này cuộc họp mặt/hội thảo sẽ là địa điểm để thảo luận kết quả của thông tin nông
nghiệp do các cơ quan phụ trách các lĩnh vực khác nhau cung cấp, về tính chính xác và
kịp thời của thông tin, về kinh nghiệm thu thập và tổng hợp số liệu cũng như thảo luận
các mối quan tâm khác. Tại mỗi cuộc họp mặt/hội thảo tham vấn hoặc công bố, tất cả
phần thảo luận cần được ghi chép lại đầy đủ nhất là phần kinh nghiệm của các cán bộ
làm công tác thu thập số liệu hoặc xử lý số liệu.

Lựa chọn thứ hai: Tổ chức đào tạo thống kê trong nước cho các Sở NN&PTNT, các
Phòng NN&PTNT, và các xã
Phòng Thống kê nên thiết kế một khóa đào tạo thống kê cơ bản, sử dụng những
người có chuyên môn thống kê làm giảng viên. Khóa đào tạo này có thể được tổ chưc
ở cấp tỉnh. Học viên là những cán bộ thống kê từ các Sở NN&PTNT, các Phòng
NN&PTNT, và các xã. Thậm chí các cán bộ ở các tỉnh và huyện nếu có kiến thức về

thống kê cũng có thể hỗ trợ cho các khóa học này. Bằng cách này, các học viên ít nhất
cũng có thể học được các công cụ thống kê cơ bản. Giảng viên cũng có dịp ôn lại kiến
thức thống kê đã học và bắt buộc phải áp dụng những gì họ đã học được từ các khóa
đào tạo thống kê bổ sung. Dạy thống kê không chỉ mang lại lợi ích cho học viên mà còn
cho cả giảng viên vì họ sẽ có cơ hội học hỏi từ những gì họ giảng cho học viên.
Khóa đào tạo nên được tiến hành vài lần cho đến khi tất cả các cán bộ thống kê
từ tỉnh, huyện và xã đều có cơ hội được học.


Lựa chọn thứ ba: Học thêm về thống kê hoặc các lĩnh vực có liên quan đối với những
người chưa có bằng đại học
Trang 15

Bộ NN&PTNT có thể thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với một trong những trường
Đại học ở Việt Nam để tổ chức khóa học đặc biệt, có thể cấp bằng thống kê hoặc các
lĩnh vực có liên quan cho những người chưa có bằng đại học. Bộ có thể cử(cấp học
bổng) ít nhất hai cán bộ thống kê tham gia toàn thời gian vào khóa học đặc biệt này.
Nếu không có ngân sách thì Bộ có thể nên khuyến khích những cán bộ có khả năng tự
trang trải tiền học tạm nghỉ việc ở cơ quan để đi học.
Tăng cường năng lực của các cán bộ đã có bằng đại học (từ cấp trung ương đến xã)
Lựa chọn thứ nhất: Các cán bộ thống kê nhất là ở cấp trung ương nên giành thời gian
để thảo luận kinh nghiệm cũng như các vấn đề họ gặp phải trong công
việc. Điều này có thể thực hiện được bằng cách tổ chức họp giao ban
hàng tháng hoặc quý. Trung tâm Tin học-thống kê nên khởi xướng cuộc
họp giao ban này một cách đều đặn. Trong cuộc họp tất cả những phần
thảo luận cần được ghi chép lại đầy đủ để làm tài liệu tham khảo.
Lựa chọn thứ hai: Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với TCTK để tổ chức thêm các khóa
đào tạo thống kê
Bộ NN&PTNT có thể ký thỏa thuận với TCTK để TCTK hỗ trợ Bộ trong việc tổ
chức các khóa đào tạo trong nước về thống kê cho ngành nông nghiệp. Bộ nên cung

cấp địa điểm cho các khóa đào tạo và nếu có thể cả phần giải khát giữa giờ. Các khóa
đào tạo nên bao gồm những phần sau:







Thiết kế cuộc điều tra và phương pháp chọn mẫu
Phân tích theo chuỗi thời gian và các phương pháp dự báo
Các công cụ phân tích thống kê như phân tích hồi quy, phân tích đa biến,...
Kỹ năng viết báo cáo Kỹ thuật/ phân tích
Kinh tế nông nghiệp và toán kinh tế
Sử dụng các phần mềm như SPSS và STATA trong phân tích thống kê

Sử dụng chương trình phần mềm SPSS (từ trang web của SPSS), ta có thể:
ƒ
ƒ
ƒ
ƒ
ƒ
ƒ

Truy cập và tổng hợp số liệu từ các nguồn khác nhau
Thu thập một cách hiệu quả số liệu mới
Khám phá ra các mô hình ngay cả với một lượng số liệu rất lớn
Trình bày thông tin dưới dạng đồ họa nhằm giúp hiểu số liệu được dễ dàng
hơn
Chia sẻ thông tin một cách an toàn với các vụ/cơ quan khác

Quản lý các mô hình dự báo như tài sản thông tin

Ngoài ra STATA là một phần mềm thống kê hoàn thiện có thể cung cấp mọi điều mà bộ
cần về phân tích số liệu, quản lý số liệu và đồ họa.


Cả hai phần mềm này đều có công cụ để phân tích theo chuỗi thời gian. Cũng có
những phần mềm khác có thể sử dụng cho các cuộc điều tra/phân tích số liệu thu thập
được.

Lựa chọn thứ ba: Học thêm về thống kê hoặc các lĩnh vực có liên quan thông qua việc
thiết lập quan hệ chặt chẽ với một trường đại học
Khi thiết lập quan hệ với một trường đại học, Bộ NN&PTNT nên đề xuất xây
dựng một khóa học khác để cấp bằng thạc sĩ thống kê hoặc các lĩnh vực có liên quan
như kinh tế nông nghiệp, cho các cán bộ. Bộ NN&PTNT có thể đầu tư dưới dạng trang
trải chi phí như là một cách để động viên cán bộ làm việc tận tụy hơn. Bộ có thể cử hai
cán bộ đi học trong một năm. Chi phí có thể sẽ không đắt bằng việc cử cán bộ đi học
nước ngoài.
Bộ NN&PTNT cũng nên khuyến khích cán bộ của mình (hai hoặc ba cán bộ một
lần) nghỉ việc để đi học nếu họ sẵn sàng trả chi phí cho việc đi học của mình.
Lựa chọn thứ tư: nên đề xuất các khóa đào tạo hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ trong các đề
xuất dự án với bất kỳ tổ chức quốc tế nào.
Trong tương lai, khi đề xuất dự án với bất kỳ tổ chức quốc tế nào, Bộ cũng nên
có đề xuất về phần đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ. Cũng nên đề xuất cả
phần cải tiến các phương tiện xử lý số liệu như mua sắm máy tính, phần mềm và các
chương trình phần mềm thống kê (SPSS, STATA, ...) cũng như các công cụ khác để
dùng cho việc đo lường đất nông nghiệp...
VII. Tóm tắt phần nhận định, kết luận và khuyến nghị
Hệ thống thống kê nông nghiệp tồn tại ở nhiều cấp, từ trung ương (Bộ
NN&PTNT) tỉnh (Sở NN&PTNT), huyện (Phòng NN&PTNT) hoặc Phòng kinh tế đến xã

thông qua Văn phòng của UBND xã để đáp ứng nhu cầu của người dùng tin, chủ yếu
phục vụ công tác điều hành ở`các cấp quản lý khác nhau trong ngành. Tuy nhiên hệ
thống này chưa bao gồm số liệu thủy sản do ngành thủy sản mới được sáp nhập vào
Bộ. Hệ thống thống kê nông nghiệp được các hệ thống thông tin chuyên ngành khác hỗ
trợ (thông qua các cục chuyên ngành của Bộ) để có thể đáp ứng được nhiệm vụ quản
lý nhà nước cũng như nhiệm vụ chuyên môn từ cấp trung ương đến địa phương.
Hệ thống thu thập thông tin từ Bộ xuống cấp xã mới chỉ tập trung làm tương đối
tốt khâu thu thập thông tin về kết quả hoạt động sản xuất (gọi tắt là thông tin tiến độ sản
xuất) và diễn biến về thiên tai, dịch bệnh theo định kì tháng/10 ngày/tuần tuỳ theo yêu
cầu của mỗi cấp để phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ và của các cấp trong
ngành.
Vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ thống
kê do một số yếu tố như lực lượng cán bộ làm công tác thống kê ở các cấp mỏng, số
cán bộ được đào tạo chính qui đúng chuyên ngành thống kê rất ít; cán bộ được phân
công làm công tác thống kê hiện tại phải kiêm nhiệm nhiều việc khác, đồng thời các nội


dung báo cáo do các cấp yêu cầu chưa được chuẩn hóa,... Vì vậy các hệ thống thu
thập số liệu chưa đủ mạnh. Hệ thống này mới chỉ bổ sung cho hệ thống tổng hợp và chỉ
mới đáp ứng được một số yêu cầu chuyên môn.
Nhiều thông tin khác chủ yếu vẫn phải dựa vào các Sở Nông nghiệp và
PTNT.
Trang
17
Các thông tin về kết quả cuối cùng thuộc ngành như số liệu về diện tích, năng suất, sản
lượng cây trồng (hàng năm, lâu năm); số lượng đầu con và sản lượng sản phẩm vật
nuôi, cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông thôn…ngành nông nghiệp đều phải dựa vào
kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê. Điều này làm cho Bộ/ngành rất bị động về số
liệu phục vụ công tác chỉ đạo điều hành.
Bức tranh tổng thể của đề xuất tăng cường năng lực thống kê của Bộ NN&PTNT

bao gồm:
Phòng Thống kê cần được cũng cố và đảm nhiệm chức năng và nhiệm vụ chính
của Trung tâm Tin học và Thống kê. Các phòng khác trực thuộc vụ này cần nổ lực để
hỗ trợ Phòng Thống kê. Cần phối phối hợp các hoạt động thống kê trong bộ cũng như
hợp tác với các vụ/đơn vị trong bộ. Phòng Thống kê cần đi đầu trong việc thực hiện
nhiệm vụ lưu trữ, phục hồi số liệu để đẩy mạnh việc sử dụng và kết nối các cơ sở dữ
liệu nằm ở các đơn vị trong bộ; chuẩn bị và triển khai các chương trình đào tạo phù
hợp với nhu cầu của các cán bộ thống kê.
Nếu thực hiện được điều này thì Phòng Thống kê có thể thành lập Ủy ban kỹ
thuật TC-FS và nhóm công tác kỹ thuật để phục vụ như một địa điểm dành cho việc
thảo luận các vấn đề có liên quan đến sản xuất số liệu thống kê tài chính và chuẩn bị
hướng dẫn, qui trình, đánh giá chất lượng số liệu và phân tích… Để hỗ trợ cho các kết
quả đầu ra và các quyết định của Uỷ ban kỹ thuật thống kê nông lâm ngư nghiệp, Bộ
cần hỗ trợ Phòng Thống kê và các đơn vị khác trang thiết bị, tài liệu cũng như hỗ trợ
phát triển nguồn nhân lực.
Phòng Thống kê nếu được cũng cố và trao quyền thì có thể cải thiện các hoạt
động thống kê trong bộ. Biểu 2 dưới đây tóm tắt phần khuyến nghị cho tất cả các vấn
đề được đề cập đến trong báo cáo này.


Trang 18
Biểu 2 - Đề xuất tăng cường năng lực thống kê cho ngành nông nghiệp
Vấn đề

Các vụ có liên quan

Mục tiêu

1. Chức năng phối hợp của
Trung tâm Tin học và Thống kê

của Bộ NN&PTNT chưa rõ

Trung tâm Tin học và
Thống kê NN&PTNT,
đặc biệt là Bộ phận
Thống kê

1. Trung tâm Tin học và
Thống kê trở thành
đầu mối của tất cả
các số liệu TK của Bộ

Đề xuất các hoạt động
Ngắn hạn
Dài hạn
1. Bắt buộc các đơn vị khác
trong bộ thực hiện chức
năng “phối hợp” và “hợp tác”
với Phòng Thống kê trong tất
cả các giao đoạn của hoạt
động thống kê.
2. Nhiệm vụ lưu trữ và khôi
phục tất cả các thông tin về
NLN và TS (quá khứ, hiện tại
và tương lai) cũng như lưu
trữ những TT này vào một
hệ thống CSDL nên được
giao cho Phòng Thống kê
và nên được thực hiện
đầy đủ. Trung tâm Tin học Thống kê nên có 1 máy chủ

có thể giúp tích hợp tất cả
các TT thu thập đựợc từ
quá khứ, hiện tại và tương
lai. Máy chủ này cần kết nối
được với các CSDL của các
đơn vị khác trong Bộ để sử
dụng số liệu
3.. Một chức năng nữa cần bổ
sung là lập kế hoạch và triển
khai thực hiện chương trình
đào tạo TK hàng năm để
đưa vào chương trình hoạt
động trong năm của Bộ.


×