Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Chuyên đề ôn tập ngữ văn phần truyện thi vào 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.5 KB, 16 trang )

đề cơng tập làm văn
Đề 1: Hình tợng ngời anh hùng dân tộc Quang Trung hiện lên thật cao đệp trong hồi thứ mời bốn của tác
phẩm Hoàng Lê nhất thống chí. Đó là một con ngời có khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lợc
hơn ngời.Em hÃy làm rõ điều đó qua việc phân tích trích đoạn Hoàng Lê nhất thống chí đợc in trong SGK
Ngữ văn 9
Dàn ý chi tiết:
I/ Mở bài: Trong nền văn học cổ Việt Nam, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí đợc coi là một cuốn tiểu
thuyết tiêu biểu viết bằng chữ Hán của Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du. Đó là một bức tranh hiện thực rộng lớn về
XHPK Việt Nam khoảng 30 năm cuối TK 18 và mấy năm đầu TK 19. Mời bảy hồi của tác phẩm đà ghi lại cuộc
sống thối nát của vua quan triều Lê - Trịnh và phong trào phát triển của phong trào Tây Sơn với hình t ợng ngời
anh hùng Nguyễn Huệ đánh thắng thù trong giặc ngoài.
ở hồi thứ 14 của tác phẩm đà kể lại lần thứ 3 ra Bắc của Nguyễn huệ với chiến công thần kỳ vào bậc nhất
trong lịch sử đại phá 20 vạn quân Thanh chỉ trong 10 ngày và ở đây, hình tợng ngời anh hùng áo vải Quang
Trung với khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt, tài thao lợc hơn ngời mÃi mÃi là hình ảnh đẹp trong những trang
lịch sử chói ngời của dân tộc.
II/ Thân bài
1/ Trớc hết ở Quang Trung là hình ảnh vị hoàng đế có trí tuệ sáng suốt, có hành động mạnh mẽ
quyết đoán.
- Sự sáng suốt của Nguyễn Huệ chính là ở việc nhận định tình hình và quyết định lên ngôi hoàng đế:
+ Khi 20 vạn quân Thanh tràn vào đất Bắc Hà chiếm giữ kinh thành Thăng Long thì lúc đó Nguyễn Huệ
mới chỉ là Bắc Bình Vơng đang ở Phú Xuân. Nhận đợc tin cấp báo Nguyễn Huệ đà định thân chinh cầm quân đi
ngay song trớc lời bàn của các tớng sĩ, ông đà nhận thấy rằng cần phải lên ngôi hoàng đế, chính vị niên hiệu rồi
mới đàng hoàng xuất quân. ở cơng vị của Nguyễn Huệ, việc tiếp thu lời bàn của các tớng sĩ, biết lắng nghe và
thực thi những điều ngoài ý định của mình, đó chính là một sự sáng suốt, sự sáng suốt của vị chỉ huy biết làm gì
để đem đến những lợi chung cho sự nghiệp. Cho nên chỉ trong một ngày Nguyễn Huệ đà làm xong 2 việc lớn: lên
ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và cũng ngày 25 tháng Chạp, Mậu Thân, đà kịp thời hạ lệnh xuất
quân. Việc lên ngôi trong tình thế cấp bách ấy đủ ®Ĩ thÊy sù s¸ng st trong tr¸i tim cđa con ngời luôn biết vì đất
nớc.
+ Quang Trung còn là ngời mu lợc sáng suốt khi nhận định tình hình của giỈc, cđa ta. Ta h·y nghe Quang
Trung dơ tíng sÜ trớc lúc lên đờng ra Bắc: trong khoảng vũ trụ đất nào sao ấy đều đà phân biệt rõ ràng . Và
để khích lệ lòng yêu nớc của tớng sĩ, để nêu bật chính nghĩa của ta và sự phi nghĩa của địch, ông đà dẫn ra một hệ


thống song hành liên tục: cứ một triều đại phong kiến phơng Bắc thì đi liền với một nhân vật kiệt xuất, tiêu biểu
phơng Nam. Rồi để giúp tớng sĩ nhận ra chân tớng Phù Lê diệt Trịnh của Tôn Sĩ Nghị, nhận ra dà tâm, bản chất
xâm lợc của quân Thanh. ¤ng khÐo lÐo khÝch lƯ tíng sÜ khi ngỵi ca truyền thống đánh giặc của tổ tiên để từ đó
mà kêu gọi tớng sĩ những kẻ có lơng tri, lơng năng hÃy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng nên công lớn.
Lời lẽ phân tích của đấng minh quân thật rõ ràng, lập luật thật chặt chẽ khiến ta nhớ tới Hịch tớng sĩ của Trần
Quốc Tuấn và nhớ tới Nam quốc sơn hà của Lý Thờng KiƯt. Cã thĨ nãi Quang Trung thËt s¸ng st khi nhậns
thấy rõ bản chất của kẻ thù và cũng rất sáng suốt khi khơi gợi lòng yêu nớc cho nên quân lính nhất nhất xin
vâng lệnh không dám hai lòng.
- ở Quang Trung còn là sự quyết đoán mu lợc trớc mọi biến cố, quyết đoán trong việc nhìn nhận bề tôi, ở cơng vị hoàng đế việc nhìn nhận bề tôi là một điều quan trọng. Qua lời lẽ phân tích của ông đối với Ngô Văn Sở,
Phan Văn Lân, những ngời mà đáng lẽ ra đang có tội quan thua chém tớng song Quag Trung rất hiểu năng lực
của họ cho nên ông đà nhận rõ các tớng lĩnh của mình đều là hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc
tuỳ cơ ứng biến là không có tài. Vì thế ông đà xếp Ngô Thì Nhậm hỗ trợ cho họ. Hiểu rõ tớng lĩnh của mình,
Quang Trung không phạt họ mà trái lại họ còn an ủi động viên họ biết lo xa biết làm cho kẻ địch chủ quan kiêu
ngạo. Cách hiểu ngời, dùng ngời đến mức tri âm tri kỷ mà sáng suốt nh thÕ chØ cã ë Quang Trung. Nhê cã sù
s¸ng suốt am hiểu bề tôi tờng tận, ân uy đúng mực nh vậy bậc anh quân đó đà tập hợp, tổ chức đợc lực lợng giống
nh Lê Lợi xa kia:Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc, ngọn cờ phấp phới
Tớng sĩ một lòng phu tử, hoà nớc song chén rợu ngọt ngào
- ở Quang Trung ta còn thấy một sự sáng suốt thật đáng quý, đó là tầm nhìn xa trông rộng. Cho dù quân
Thanh đang đóng gần hết đất Bắc Hà nhng nhờ sự sáng suốt tự tin, mu lợc tiến đánh đà sẵn mời ngày đánh đuổi
ngời Thanh. Nhng đó không phải là cái đích lớn mà đích lớn Quang Trung tính đến đó là khéo lời lẽ để dẹp yên
binh đao cho nên Nguyễn Huệ đà sáng suốt chọn Ngô Thì Nhậm vào việc giao dịch với nhà Thanh sau này. Nh ng tầm nhìn của ông còn xa hơn nữa. Ngay cả khi ngồi trên lng voi trớc trận đánh, Quang Trung đà chuẩn bị kế
hoạch cho mời năm sau, quả là một nhà chính trị văn hoá, một đấng minh quân, một ngời anh hùng tài trí có tầm
nhìn chiến lợc sâu sắc biết bao.
* Qua việc phân tích tình hình ta, địch, qua việc chuẩn bị kế hoạch 10 năm xây dựng Đại Việt ta có thể
khẳng định Quang Trung là con ngời có tài trí sáng suốt. Đó là điều cần thiết ở một đấng minh quân mà không
phải ai cũng có đợc.
2/ Dới ngòi bút của tác giả Ngô gia văn phái nhân vật ng ời anh hùng áo vải còn mang vẻ đẹp của vị
tớng có tài thao lợc hơn ngời.
+ Tài thao lợc của Nguyễn Huệ ở đoạn trích hồi thứ 14 đó là sự nhanh nhẹn của một nhà quân sự, một bậc
kỳ tài trong việc dùng binh. Díi sù s¸ng st trong viƯc chØ huy cđa Quang Trung, đội quân của ông đà lớn mạnh

không ngừng. Sáng suốt trong việc nhận định tình hình của giặc để rồi chớp lấy thời cơ, tổ chức chiến dịch thần
tốc có một không hai trong lịch sử. Nghệ thuật cầm quân và tài năng quân sự, tài thao lợc của Quang Trung chính
là ở phơng diện thần tốc bất ngờ.
+ Tài thao lợc của Quang Trung thể hiện ở phơng diện chỉ huy thần tốc mà cho đến nay chúng ta vẫn cha
hết ngạc nhiên: tại sao Nguyễn Huệ có thể vợt qua quÃng đờng từ Phú Xuân đến Thăng Long chóng vánh, hơn
bốn trăm dặm mét trong bốn ngày, một tốc độ di chuyển quân thần tốc và cũng một tốc độ tuyển quân thần kỳ:

1


cứ 3 suất đinh thì lấy 1. Rồi lạ chỉ trong mét ngµy 30 TÕt mµ cã thĨ tỉ chøc đ ợc cho quân lính ăn Tết rồi kịp ban
bố lời dụ về chủ quyền đất nớc. Đó cũng là một ngày đủ để chia thành 5 đoạ quân tiến về Thăng Long rồi dám dự
tính đánh tan quân Thanh vào ngày 7 tháng Giêng. Tất cả những công việc to lín Êy chØ diƠn ra trong thêi gian
tÝnh b»ng ngày. Không phải là một bậc kỳ tài thì không thể làm nổi, đó chính là điều kỳ diệu của Quang Trung.
+ Tài thao lợc của Quang Trung còn thể hiệ rõ khi chọn cách đánh bất ngờ, biết giặc kiêu căng khinh suất
là tổ chức đánh ngay, biết chọn tớng chỉ huy, hoạch định hớng tiến công, phối hợp giữa các cánh quân. Kết quả
tài thao lợc đợc thể hiện rõ ở đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi khiến quân Thanh không kịp trở tay. Cách đánh bất ngờ thần
tốc táo bạo đến mức khi quân Tây Sơn kéo vào thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không hề đợc tin cấp báo . Vì vậy
quân tớng nhà Thanh nhìn thấy quân Tây Sơn nh nhìn thấy tớng ở trên trời rơi xuống, quân ở dới đất chui lên.
Sự thảm bại của quân Thanh là kết quả tất yếu (so sánh với Bình ngô đại cáo)
Thành Đan Xá thây chết đầy núi .
Quang Trung cùng với đội quân của mình đánh dấu thêm mốc son chói lọi trong những trang lịch sử
hào hùng của dân tộc.
3/ Hình ảnh Quang Trung khí phách hào hùng lẫm liệt.
Quang Trung cỡi voi chỉ huy chiến dịch thần tốc nhng phong thái ung dung tỉnh táo khác thờng. Quang
Trung đà tự tin khẳng định 10 ngày đánh đuổi quân Thanh thể hiện trí tuệm sáng suốt, biết làm chủ trong mọi
tình thế. Chính phong th¸i ung dung tù tin cđa con ngêi cã tài thao lợc đà tô đậm vẻ đẹp khí phách hào hùng.
Dới những trang văn hào hùng mang tính sử thi của đoạn trích, ta nh nhìn thấy hình ảnh Quang Trung
khoác áo bào đỏ cỡi trên lng voi chỉ huy 1 đội quân dàn trận chữ Nhất tiến vào Thăng Long.
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến

Trăm họ chật đờng vui tiếp nghênh.
- Trong lịch sử phong kiến Việt Nam đà có nhiều ông vua từng thân chinh cầm quân đánh giặc nhng vừa
nắm quyền chỉ huy, vừa quyết đoán phơng lợc, vừa đốc xuất chiến dịch và đi với 1 mũi tiến công xông pha nơi
hòn tên mũi đạn thì chỉ có một Quang Trung. Trong ánh sáng lê mê cđa bi ban mai, trong khãi to¶ mï trời của
súng đạn, Quang Trung với khí phách lẫm liệt, hào hùng đà khắc tạo một hình tợng đẹp trong chiến trận. Hình
ảnh ấy đà đợc sử sách còn ghi lại ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu tấm áo bào đỏ của quang Trung sạm
đen khói súng. Quang Trung đà trở thành một hình tợng đẹp đẽ về ngời anh hùng với khí phách hiên ngang lẫm
liệt trong văn học cổ Việt Nam, trở thành một tợng đài bất hủ trong văn học cổ dân tộc.
- Các tác giả Ngô gia văn phái là những cựu thần, chịu ơn sâu nghĩa nặng của nhà Lê nhng họ đà không thể
bỏ qua sự thực là ông vua nhà Lê hèn yếu cõng rắn cắn gà nhà và chiến công lõng lÉy cđa vua Quang Trung lµ
niỊm tù hµo lín lao của cả dân tộc. Họ là những ngời tôn trọng sự thực lịch sử và có ý thức dân téc bëi thÕ hä viÕt
thùc vµ hay vỊ ngêi anh hùng dân tộc Quang Trung.
III/ Kết luận- ở tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14 là một sự cống hiến vô giá của các tác giả
về những trang t liệu hào hùng trong lịch sử dân tộc qua việc khắc hoạ vẻ đẹp của hình tợng ngời anh hùng
Quang Trung. Hình ảnh Quang Trung trong đoạn trích giống nh một thứ ánh sáng trong những phút đầu còn le
lói nhng vẫn sáng ấy, mỗi lúc một cao rộng, lan toả để rồi khắc sâu vào tâm khảm chúng ta vẻ đẹp trí tuệ sáng
suốt, tài thao lợc hơn ngời và một khí phách hào hùng lẫm liệt.- Vẻ đẹp của Quang Trung trong khúc khải hoàn
ca chiến thắng còn in dấu trong những câu thơ của Ngô Ngọc Du một nhà thơ đơng thời:
Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một giận oai bốn phơng
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới
Nh trên trời xuống ai dám đơng
Đề 2:. Cm nhn v p truyn thng và số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam trong xã
hội phong kiến qua nhân vật Vũ Nương.
* Khái quát về tác giả, tác phẩm:
Nguyễn Dữ là gương mặt nổi bật của văn học Việt Nam thế kỉ XVI.
Với tập truyện ngắn “Truyền kì mạn lục” ơng thực sự đã mang đến cho nền văn học
dân tộc một “Thiên cổ kì bút” có khả năng lay động lịng người bởi giá trị mọi mặt của nó.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16 và là thiên tiêu biểu trong tập sáng tác này.
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể

hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời
khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng truyện,
miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
1. Vẻ đẹp truyền thống và số phận oan nghiệt của người phụ nữ:
a. Vẻ đẹp truyền thống:
- Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung
tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hồn hảo. - Sau đó ơng đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm
chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.
* Trước hết Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắc trong tình nghĩa vợ chồng:
Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng ln “giữ gìn khn
phép, khơng từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng ln giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui.
Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!

2


Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu
quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dị chồng những lời tình
nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về
quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ
dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi cơng danh phù phiếm. Nàng
cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khơn
lường.Giặc cuồng cịn lẩn lút, qn triều cịn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín q kì, khiến
thiếp ơm nỗi quan hồi, mẹ già triền miên lo lắng.”.Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ
chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn
thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ khơng có cánh hồng bay bổng”. Đúng là
lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng
những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!
Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trơng đến thổn thức “Giữ trọn tấm lịng thủy
chung, son sắt”, “tơ son điểm phấn từng đã ngi lịng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài

theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn,mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào
ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với
nỗi cơ đơn vị võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người
chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
"… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"
(Chinh phụ ngâm)
-> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy
chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
- Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn
ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lịng
của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn
một tiết.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà
chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.
- Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ
chồng con. Vừa gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt xót
thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây
lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không bợn chút thù hận, chỉ có sự
u thương và lịng vị tha.
* Vũ Nương cịn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, một người mẹ hiền đầy tình yêu thương con.
- Trong ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc
phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ.
- Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu
đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt
nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ
của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những
lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dịng tươi tốt,
con cháu đơng đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".
- Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình

gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng
mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ : để con trai mình bớt đi cảm giác
thiếu vắng tình cảm của người cha.
=> Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa
thành cơng hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.
b. Số phận oan nghiệt:
- Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của một phụ nữ, người vợ, người mẹ, người con, ở cương vị nào nàng cũng
làm rất hoàn hảo. Nàng đúng là người phụ nữ lí tưởng của gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc
nhưng hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng.
- Ngày Trương Sinh trở vể cũng là lúc bi kịch cuộc đời nàng xảy ra. Câu chuyện của béĐản, đứa con trai vừa
lên ba tuổi, về “ một người đàn ông đêm nào cũng đến” đã làm choTrương Sinh nghi ngờ. Với bản tính hay ghen
cộng thêm tính gia trưởng, thất học, Trương Sinh đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương

3


Sinh đã “ mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi” mặc cho Vũ Nương hết sức phân trần, mặc cho “hàng xóm can ngăn
cũng chẳng ăn thua gì”. Nàng đau khổ đến xé lịng “nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao,
liễu tàn trước gió”, “khóc tuyết bơng hoa rụng cuống, kêu xn cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa…” Bi kịch
dâng tràn đến đỉnh điểm, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của chính mình! Cịn
gì đớn đau, cịn gì bi thương hơn thế???...
- Thật ra, nỗi bất hạnh của Vũ Nương không phải bắt đầu ở tấn bi kịch này. Nỗi bất hạnh đến với Vũ Nương từ
khi nàng chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Từ đầu, ta đã nhận ra đây là một cuộc hơn nhân khơng bình
đẳng. Vũ Nương vốn “ con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, cịn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương chỉ
cần “ nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Sự cách bức ấy cộng thêm cái thế của người chồng,
người đàn ông trong chế độ nam quyền phong kiến đã khiến cho Trương Sinh tự cho mình cái quyền đánh đuổi
vợ khơng cần có chứng cứ rõ ràng. Trong những ngày làm dâu nhà họ Trương, Vũ Nương cũng đâu hạnh phúc
hơn gì! Nàng phải ln chịu đựng sự xét nét “ phòng ngừa quá sức” của chồng.
- Lấy chồng khơng được bao lâu thì niềm vui “nghi gia nghi thất” của Vũ Nương bị mất đi bởi chồng “có tên
trong số lính đi vào loại đầu”. Nàng thiếu phụ tuổi xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu nỗi buồn “chiếc bóng

năm canh” của đời người chinh phụ.
Mặt biếng tơ miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều dịi dõi nương song
Nương song luống ngẩn ngơ lòng
Vắng chàng điểm phấn tô hồng với ai
(Chinh phụ ngâm khúc)- Rồi gánh nặng gia đình chồng cộng thêm noi cơ
đơn vì phịng khơng gối chiếc đã bào mịn tuổi xn của Vũ Nương. Ta có thể cảm nhận được nỗi vất vả của
nàng qua những vần điệu ca dao cổ: Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng”
Hình như số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa đều có chung nỗi bất hạnh
như thế!
- Ở phần sau của câu chuyện, ta thấy Vũ Nương được sống sung sướng dưới Thủy cung, được kề cận với Linh
Phi, vợ vua biển Nam Hải nhưng khơng vì thế mà ta thấy nàng hạnh phúc. Và làm sao có thể hưởng thụ hạnh
phúc cho được khi quyền làm mẹ,làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn? Bi kịch vẫn đeo bám theo Vũ Nương
vào tận chốn Thủy cung huyền bí. Người đọc càng cảm thấy xót xa hơn khi nghe câu nói của nàng ở cuối truyện:
“ Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”. Âm dương đã cách trở đôi đường. Hạnh phúc bị tan
vỡ khó lịng hàn gắn lại được. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt… Đằng
sau yếu tố hoang đường, câu chuyện về nàng Vũ Nương mang đậm tính hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân
đạo.
3) KÕt bµi:- Khẳng định lại phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nơng.- Liên hệ hình ảnh ngời phụ nữ hiện nay.
Đề 3-:Truyn ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới
trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp?
(Cần nêu được tình u làng quyện với lịng yêu nước ở nhân vật ông Hai, một nét mới trong đời sống tinh thần
của người nông dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp)
MB: 1/(Đi từ khái quát đến cụ thể - từ nhà văn đến tác phẩm đến nhân vật);
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân là một giương mặt độc đáo. Do hoàn cảnh sống của mình,
ơng am hiểu sâu sắc sinh hoạt , tâm lý của người nông dân. Kim Lân được xem là nhà văn của nông thôn, của
người dân quê Việt Nam với những vẻ đẹp mộc mạc mà đậm đà . “Làng” là một trong những truyện ngắn đặc
sắc của Kim Lân. Tác phẩm này được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, thể hiện một cách
sinh động vẻ đẹp tình u làng, lịng u nước ở người nông dân. Ai đến với ông “Làng”, chắc khó qn được

ơng Hai - một nhân vật nơng dân mang những nét đẹp thật đáng yêu qua ngòi bút khắc họa tài tình của Kim Lân
(nếu đề Hai : .......khó qn được ơng Hai - một nhân vật nông dân mang những nét đẹp thật đáng yêu . Ở ơng có
những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp)
2/(Nêu trực tiếp những suy nghĩ của người viết):
Tình u làng, sự gắn bó với nơi chơn nhau cắt rốn vốn là một tình cảm sâu nặng ở con người Việt Nam nói
chung, đặc biệt ở người nơng dân nói riêng. Lịch sử văn học dân tộc từng xây dựng thành cơng nhiều nhân vật
mang tình cảm đáng q ấy . Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một trong những
trường hợp tiêu biểu như thế . Ơng Hai khơng những u làng màtình u làng ở ơng thống nhất bền chặt với
lịng u nước. Đó là một tình cảm mới xuất hiện trong tâm hồn và tình cảm người nơng dân Việt Nam từ sau
Cách mạng tháng Tám, trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
II-TB-a/ Tình u làng u nước của nhân vật ơng Hai là tình cảm nổi bật, xun suốt tồn truyện:

4


-Khi tản cư, ông Hai nghĩ đến những ngày hoạt động kháng chiến giữ làng cùng anh em, đòng đội. Tình cảm u
làng của ơng đã gắn bó với tình cảm kháng chiến. Ơng khơng chỉ là một dân làng mà còn là một phụ lão , một
chiến sĩ đã từng tham gia đánh giặc giữ làng mà nay phải xa làng đi tản cư.
- Ở nơi tản cư, ông luôn theo dõi tin tức kháng chiến , tin tức của làng Dầu. Sáng hôm ấy ,ông Hai đang ở trong
phịng thơng tin, tâm trạng rất phấn chấn:Ruột gan ơng lão như múa lên. Vui quá! Vui vì kháng chiến bao nhiêu,
ông càng cụt hứng và đau khổ bấy nhiêu.
-Trong lúc ơng Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương dũng cảm anh hùng của quân và
dân ta thì ơng như bị sét đánh về cái tin cả làng Dầu “Việt gian theo Tây” .
+Ông sững sờ, “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi, tưởng như không thở được.....”- một
cái tin động trời mà trước đó ơng khơng thể tin, khơng thể ngờ lại có thể xảy ra như thế . Ơng Hai cịn cố gắng
hỏi lại để hy vọng đó chỉ là tin đồn thất thiệt. Nhưng rồi, bằng những chứng cứ cụ thể, ông Hai đành phải tin cái
sự thật khủng khiếp ấy. Cử chỉ đầu tiên của ông là lảng chuyện, cười cái nhạt thếch của sự bẽ bàng, rời quán về
nhà (nơi tản cư). Những câu nói mỉa móc, căm ghét của những người tản cư nói về cái làng Việt gian ấy đuổi
theo ơng làm ông xấu hổ, ê chề như là họ đang mắng chửi chính ơng-vì ơng là người chợ Dầu, cái làng đốn mạt
ấy. Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi : đi trong sự trốn tránh vì xấu hổ và nhục nhã.

+Về đến nhà , ông nằm vật ra giường như bị cảm.Trong đau khổ và xấu hổ, nhục nhã nhìn đàn con chơi
đùa, ơng Hai nghĩ đến sự hắt hủi,khinh bỉ của nọi người dành cho ngững đứa trẻ của cái làng Việt gian. Thương
con, ông thoắt vô cùng căm giận dân làng - những kẻ mà ông đã gọi là chúng bay một cách căm ghét và khinh
bỉ . Ông nguyền rủa họ đã làm một việc điếm nhục bậc nhất hại đến danh dự của làng, và tội cịn to hơn thế: đó
là tội phản bội, đầu hàng, bán nước.
+ Nhưng rồi ơng lại khó tin là chuyện tày đình ấy có thể xảy ra. Nhưng những chứng cứ hiển nhiên trở lại
làm ông đành một lần nữa cay đắng chấp nhận sự thật và sự nhục nhã, sự giày vị tâm trí lại sơi réo trong lịng
ơng. Ơng nghĩ tới sự tẩy chay của mọi người, tới tương lai chưa biết làm ăn sinh sống như thế nào? Cụ thể nhất
là ơng sắp phải đón đợi thái độ ghẻ lạnh , móc máy của mụ chủ nhà khó tính, lắm điều.
+Trị chuyệnvới vợ trong gian nhà ở nhờ , thái độ của ông vừa bực bội , vừa đau đớn, cố kìm nén, ơng gắt
gỏng vơ cớ,trằn trọc thở dài, rồi lo lắng đến mức chân tay nhũn ra, nín thở, lắng nghe, khơng nhúch nhích, nằm
im chịu trận.
+Trong mấy ngày sau đó , ơng khơng dám ra khỏi nhà, không dám đi đâu, chỉ ru rú trong nhà nghe ngóng
tình hình bên ngồi, lo lăng sợ hãi thường xuyên: lúc nào cũng nghĩ đến chuyện ấy, cũng tưởng mọi người chỉ
nói đến chuyện ấy.
+Khi mụ chủ nhà khó tính đẩy vợ chồng ơng Hai đến tình thế khó xử là khơng biết sẽ sống nhờ ở đâu, tâm
trạng ông Hai lại càng trở nên u ám bế tắc và tuyệt vọng . Chính trong phút giây tuyệt vọng ấy, ơng lão đã chớm
có ý định quay về làng cũ. Nhưng trong ông lập tức lại diễn ra cuộc tự đấu tranh quyết liệt: Về làng tức là bỏ
kháng chiến, bỏ Cụ Hồ, về làng là chịu đầu hàng thằng Tây.....Đến đây, tình cảm tự do, tình cảm cách mạng,
lịng u làng u nước đã thực sự hịa quyện trong tâm hồn người lão nơng tản cư. Và ơng quyết định dứt khốt,
trong cực kì đau khổ, uất hận: Muốn sao thì sao, khơng thể bỏ về làng, phải thù cái làng theo giặc ấy dù trước
đây, dù cả đời ơng đã gắn bó máu thịt với nó, vơ cùng u thương, tự hào về nó. Thế là mâu thuẫn nội tâm trong
ông Hai đã tạm thời tự ơng tìm được hướng giải quyết trong tình thé thúc bách, Nhưng trong lịng ơng đau đớn
biết bao. Ông chỉ còn biêt san vợi phần nào nỗi đau ấy trong câu chuyện với đứa con út còn thơ dại.
+Đoạn đối thoại đã biểu hiện tình cảm thiêng liêng và sâu nặng của ông Hai với quê hương, đất nước, với
kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời tâm tình thủ thỉ của ơng với đứa con nhỏ đó chính là tiếng lịng sâu thẳm của
ơng, nó nói lên thành tiếng quyết tâm và ý chí của ơng, tâm sự của ơng trong một hồn cảnh cụ thể của ơng với
quê hương, với kháng chiến , với vị lãnh tụ kính u của tồn dân. Đó là tự nhủ giải bày lịng mình, như là tự
minh oan cho chính mình . Đó là tình u sâu nặng với cái làng quê đang tạm thời phải xa, phải thù. Đó là tấm
lòng chung thủy với cách mạng và kháng chiến, tấm lòng biết ơn chân thành, bền vững và thiêng liêng cho đến

chết:
Anh em đồng chí biết cho bố con ơng
Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ơng
Cái lịng bố con ơng là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
quả là những suy nghĩ và lời lẽ chân thành rất mực, mộc mạc rất mực của người nông dân nghèo Bắc Bộ.
+ Nhưng rồi cái tin làng theo giặc được cải chính. Đến lúc này, mọi nỗi đau của ông Hai biến mất. Mới đến
ngõ, chưa vào nhà, ông đã “bô, bô”, rồi “lật đật” sang nhà bác Thứ, “lật đật” bỏ lên nhà trên,“lật đật” đi nơi
khác để khoe. Vừ khoe vừ múa tay lên. Ơng vui vì làng ơng vẫn kiên gan đi theo kháng chiến , vui đến mức
chuyện nhà ông bị Tây đốt nhẵn tở thành nhỏ bé, không đáng lưu tâm. Chi tiết này khiến người đọc cảm thấy
cảm động hơn, trân trọng hơn tình yêu làng,tình yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến của ơng Hai. Giờ đây tình u lớn

5


lao sâu sắc ấy đã khiến ông quên mọi ưu phiền, ông đi khắp nơi để khoe . Mà lần này, ơng khoe rành rọt , tỉ mỉ
như chính ơng vừa dự xong trận đánh ấy.
Đây lại là những lúc ông Hai lấy làm vinh dự về làng, tự hào về làng quê mình, anh dũng phá càn, thắng giặc.
* Từ bao đời nay, tình yêu làng yêu quê đã trở thành tình u tự nhiên, sâu nặng , nó đã thấm sâu vào tâm
thức tâm linh của người dân q. Thậm chí nhiều khi tình cảm ấy đã bị đẩy tới sự thiên vị và trở thành tâm lý
bản vị hẹp hòi . Truyện “Làng” , qua nhân vật ông Hai đã thể hiện sinh động và cả động tình u làng q của
người nơng dân thống nhất với tình yêu nước và tinh thần kháng chiến. Tình yêu Làng của người nông dân , sau
Cách mạng tháng Tám có những biến đổi . Tình u làng của người nong dân đã gắn bó với lịng u nước và ý
thức giai cấp, tinh thần kháng chiến . Tình yêu làng được đặt trong tình yêu nước rộng lớn.
b/+Đặt nhân vật trong một tình huống bất ngờ mà hợp lý không chỉ tạo thành nút truyện , tạo sự căng thẳng và
hấp dẫn của truyện mà còn là dịp tốt để đẩy câu chuyện đến cao trào, để có dịp trình bày những day dứt, những
đau khổ và giải tỏa của nhân vật và là dịp tốt để khẳng định chủ đề, ca ngợi tình yêu làng yêu quê, yêu nước gắn
bó như thế nào, mang màu sắc riêng độc đáo như thế nào trong tâm hồn người nông dân Việt Nam.
+Tác giả nắm bắt, thể hiện rất sinh động và tài tình nét tâm lý nổi bật của người nơng dân là tình u làng và
tâm lý cộng đồng. Tình u làng của ơng Hai tiêu biểu và độc đáo. Khơng chỉ diễn tả chính xác, tinh tế các trạng
thái tâm lý mà cịn miêu tả thành cơng những quá trình vận động chuyển biến của tâm trạng nhân vật. Tác giả đã

dùng nhiều biện pháp miêu tả tâm lý nhân vật :đối thoại, độc thoại và qua những trạng thái cảm xúc trực tiếp
+Ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân vật rất sinh động, gần gũi với lời ăn tiếng nói, cách nghĩ của người nơng
dân.
*Có thể nói Kim Lân đã thấu hiểu và diễn tả thực sinh động và cảm động tâm lý của người nông dân mà hiếm
thấy cây bút nào đạt được như vậy.
III-KB: Ông Hai trong “Làng” là một nhân vật tạo ấn tượng sâu sắc với người đọc . Qua truyện ngắn này, bằng
những tình huống, chi tiết chân thực , thú vị, bằng nghệ thuật miêu tả tâm lý sinh động, Kim Lân đã đem đến cho
chúng ta một hình tượng hấp dẫn về người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp . Tình yêu
tha thiết, sự gắn bó sâu nặng với làng quê, đất nước của nhân vật ơng Hai ln ln có ý nghĩa giáo dục thấm
thía đối với các thế hệ bạn đọc.
(Một kết luận khác: Ơng Hai là một người nơng dân chất phác có tình u làng, gắn liền với tình u nước . Tinh
yêu làng được thể hiện độc đáo và cảm động. Tình u đó gắn liền với tình u kháng chiến, căm ghét bọn Việt
gian bán nước và giặc Pháp xâm lược . Đặc sắc của truyện “Làng” là mieu tả tâm lý với diễn biến phức tạp; giáo
dục tình yêu quê hương đất nước, gắn với cội nguồn, với truyền thống gia đình, q hương.)
§Ị 4: Nhân vật anh thanh niên làm cơng tác quan trắc khí tượng trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa
Pa” của Nguyễn Thành Long.
I- MB :Viết về một mảng hiện thực trên đất Sa Pa trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long như muốn nói với ta
rằng : Bên trong vẻ đẹp lặng lẽ của núi rừng, cuộc sống ở đây chứa bao vẻ đẹp đáng u, đang có khơng ít sự hi
sinh thầm lặng. Dù được miêu tả nhiều hay ít , trực tiếp hay gián tiếp, nhân vật nào của truyện cũng hiện lên với
nét cao quí đáng khâm phục . Trong đó, anh thanh niên làm cơng tác quan trắc khí tượng – nhân vật chính của
tác phẩm – đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ.
II-TB-a/ Anh không phải là con người đặc biệt, chỉ là một con người tầm vóc nhỏ bé, thậm chí tên anh, tác giả
cũng khơng giới thiệu. Hình như tác giả muốn nói : tên anh khơng phải là điều quan trọng đáng nhớ, bỡi mỗi
người trên đời này đều có thể giống như anh ta. Cũng như mọi người, anh anh không muốn sống cô độc, anh sợ
buồn . Cái việc anh đẩy một khúc cây ra giữa đường, buộc xe đi qua phải dừng lại , vừa ngộ nghĩnh buồn cười
vừa thật đáng yêu.
b/ +Với cuộc gặp gỡ chưa đầy nửa giờ , anh đã hoàn toàn chinh phục một họa sĩ già và một cô kĩ sư trẻ . Bị
chinh phục không phải bỡi lời lẽ, mà bằng tất cả những gì tốt ra từ con người của anh, xung quanh anh , công
việc của anh, họ đã nhận ra ở anh những vẻ đẹp của một con người cao q.Như nhận xét có tính chất vui đùa

của bác lái xe, anh là “một con người sống cô độc nhất thế gian” . Bởi anh làm việc một mình trên đinh núi cao,
quanh năm chỉ có bầu trời với những đám mây , sương mù bao phủ và lạnh buốt lúc nửa đêm . Nhưng trong sự
cô độc ấy, anh, tâm hồn anh gần gũi con người biết chừng nào,ấm áp tình người biết chừng nào!
Khao khát được gặp con người, được trò chuyện với con người, anh đã nghĩ ra cái mẹo vừa thông minh, vừa
tinh nghịch để mỗi chuyến xe qua đều dừng lại với anh, dẫu chỉ trong chốc lát. Không ai trách hành động ấy, vì
nó nói lên một tình cảm đáng q ở anh. Trái lại người ta cịn cảm động vì hình ảnh ấy . Bác lái xe đã xử sự rất
đúng khi đặt ra thành lệ việc ngừng xe lại nửa giờ nơi đỉnh núi cao, để thỏa mãn nguyện vọng của anh, nhưng
cũng là để được gặp gỡ và tỏ lòng yêu mến một tâm hồn trong sáng như anh.

6


+Thái độ quan tâm đến con người ở anh không chỉ vì một niềm vui của chính mình mà vì anh thực lịng u
mến và q trọng con người. Anh chu đáo đi tìm củ tam thất và ân cần trao cho bác lái xe để bác ngâm rượu cho
vợ bác uống. Thái độ quan tâm ấy còn bộc lộ ở cử chỉ hiếu khách đặc biệt, khi ông họa sĩ và cô nữ kĩ sư lên thăm
nơi ở và làm việc của anh . Anh cắt tặng cô gái một bó hoa to với lời lẽ chân thành “ cô muốn lấy bao nhiêu nữa,
tùy ý...”.Ai mà không hởi lòng hởi dạ trức những cử chỉ trân trọng và chân thành như thế.Củ tam thất gửi vợ bác
lái xe,làn tứng ,bó hoa tiễn người họa sĩ già, cơ gái trẻ tiếp tục cuộc hành trình, đó là những kỉ niệm của một tấm
lịng sốt sắng, tận tình đáng q.
+ Chính thái độ với con người đã cắt nghĩa thái độ của anh đối với công việc . Làm việc một mình, khơng ai
kiểm tra, anh thật đã có một ý thức trách nhiệm đầy đủ với công việc. Chỉ nói về mình có năm phút, một cách rất
khiêm tốn, anh đã làm cho ta hiểu hết cái gian khổ của công việc anh làm, cũng thấy hết sự tận tụy của anh.
Những quan trắc khí tượng theo giờ, và cả giữa ban đêm gió lạnh, có cả mưa tuyết, cái im lặng đáng sợ của núi
cao vào lúc nửa đêm . Thế nhưng anh không bỏ qua một giờ quan trắc nào, bỡi anh hiểu được rằng mỗi công
việc làm của anh là một mắt xích trong cái chuỗi công việc chung của nhiều người. Cái sai, cái đúng của anh,
dẫu bé nhỏ,góp phần quyết định vào cái sai cái đúng, cái thất bại hay thành công của những điều lớn lao . Việc
dự báo chính xác một đám mây bất ngờ có thể góp phần tạo nên thắng lợi của một trận đánh quan trọng, là có sự
tham gia của anh. Sống ở vị trí của một người “cô đọc nhất thế gian” mà anh không buồn, không chán nản,
chính vì anh đã tìm được ý nghĩa lớn lao trong cơng việc của mình như thế.
+Có trách nhiệm đối với mọi người và công việc, anh cũng sống có trách nhiệm đối với chính mình. Thơng

thường, trong hồn cảnh sống như anh , người ta rất dễ sống cẩu thả. Chính ơng họa sĩ cũng đã có ý nghĩ như
vậy : “Khách tới bất ngờ chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn”. Không , nơi
anh ở chẳng những không hề bừa bộn mà còn sạch sẽ, tinh tươm và đẹp nữa. Ngay trước sân nhà anh ta bắt gặp
vườn hoa với bao nhiêu loài hoa, màu hoa,...cũng đủ để ta u mến và q trọng anh . Căn phịng anh ở ngăn nắp
gọn gàng . Nếp sống hàng ngày của anh được tổ chức có nền nếp, anh làm việc, ăn uống , nghỉ ngơi, đọc sách ,
đọc báo... như một người đang sống và làm việc giữa một xã hội, với mọi người, chứ khơng phải chỉ có một
mình anh. Đó là một thái độ tự trọng, đó chính là nếp sống đẹp, sống có văn hóa. Sống như thế khơng phải dễ,
nhưng đó mới là thực chất sống đẹp. Cái đẹp ấy không bắt nguồn từ bản chất tâm hồn đẹp.
+ Hãy xem anh khiêm tốn biết bao! Nói về mình rất ít (chỉ năm phút/ba mươi phút) ,anh chỉ giới thiệu cơng
việc của mình với những người khách cần biết.Khơng những nói ít mà cách nói cũng hết sức nhẹ nhàng.Anh như
cho rằng những điều anh làm, cái khắc nghiệt của cuộc sống cô đơn mà anh sống, thật khơng có nghĩa lí gì so
với mọi người. Khơng khoa trương , cường điệu mình trước một cơ gái trẻ. Và khi chợt nhận ra ông họa sĩ đang
vừa trò chuyện vừa ghi vào sổ tay những nét kí họa về anh. Anh thực tình bối rối, cảm thấy mình khơng có gì
đáng để một họa sĩ ghi lại .Anh chân thành giới thiệu bao nhiêu người đáng vẽ hơn anh, nghĩa là tốt hơn, đẹp
hơn, đáng quí mến hơn anh : Một người kĩ sư tận tụy với cây rau, một nhà nghiên cứu sét để làm một bản đồ sét
cho đất nước, ngày đêm miệt mài với công việc.
+Tại sao anh sống giản dị thế, tốt thế, đẹp thế? Đây là chỗ xuất phát mọi điều. Anh là một con người trong
lịng ln cháy rực ngọn lửa của một khát vọng :sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống có ích cho đất nước, cho mọi
người. Đất nước có chiến tranh, anh xin ra trận . Khơng được ra trận, anh tận tụy làm công việc của mình . Khi
biết cơng việc của mình góp phần vào chiến thắng của không quân ta đã hạ được máy bay địch, anh cảm thấy
thật hạnh phúc . Hạnh phúc của anh thật cụ thể, ý nghĩa đời sống của anh thật rõ ràng . Một người cảm thấy hạnh
phúc vì cơng việc , vì được làm việc thì làm sao có thể sống chán nản , bng thả, cảm thấy cơng việc nặng nề,
làm sao có thể khơng u q và trân trọng con người, làm sao có thể khơng chân tình quan tâm đến niềm vui và
hạnh phúc của người khác?
III- KB
Bằng một cốt truyện khá nhẹ nhàng, những chi tiết chân thực, tinh tế bằng ngôn ngữ đối thoại sinh
động, Nguyễn Thành Long đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nơi Sa Pa lặng lẽ. Chưa đầy ba mươi
phút tiếp xúc với anh thanh niên khiến người họa sĩ già thêm suy ngẫm về vẻ đẹp cuộc đời mà mình khơng bao
giờ thể hiện hết được, khiến cơ kĩ sư trẻ lịng bao cảm mến , bâng khuâng . Với truyện ngắn này, phải chăng nhà
văn muốn khẳng định:Cuộc sống của chúng ta được làm nên từ bao phấn đấu, hi sinh lớn lao và thầm lặng ?

Những con người cần mẫn, nhiệt thành như anh thanh niên ấy thật đáng trân trọng, thật đáng tin u.
§Ị 5: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”
của Nguyễn Quang Sáng.
I- MB:
“ Chiếc lược ngà” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng thời chống Mỹ. Truyện được viết trong hoàn
cảnh chiến tranh ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người. Cụ thể ở đây là tình cha con trong cảnh ngộ éo le
của chiến tranh. Đó khơng chỉ là một tình cảm mn thuở, bền vững mà cịn được thể hiện trong hoàn cảnh ngặt

7


nghèo, éo le của chiến tranh. Vì thế tình cảm ấy thật đáng trân trọng và đồng thời cũng cho thấy nỗi đau mà
chiến tranh mang đến cho đời sống bình thường của mọi người.
II-TB:1-Tóm tắt đoạn trích:
Ơng sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ơng mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu
khơng nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cha em không giống với cha trong bức ảnh chụp chung với má. Em
đối xử với ba như người xa lạ. Đến lúc Thu nhận ra cha, lúc tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là
lúc ông Sáu phải ra đi. Tại khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm
chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ơng hy sinh. Trước lúc nhắm mắt ơng
cịn kịp trao cây lược cho người bạn để gởi cho con.
2-Tình cha con:a/ Tình cha đối với con (nhân vật anh Sáu):
Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến khi con gái mới một hai tuổi. Mãi khi con gái tám tuổi, anh mới có dịp về thăm
nhà thăm con. Cái khao khát của một người lính sau những năm xa cách được trở lại quê hương , được gặp lại vợ
con, được nghe con cất tiếng gọi “ba” một tiếng cũng khơng trọn vẹn! Đó là bi kịch thời chiến tranh. Lúc chia
tay để ra đi , ơng mới có được một khoảnh khắc hạnh phúc khi đứa con gái ngây thơ nhận ra ba mình và kêu thét
lên “Ba...Ba!”. Bom đạn chiến tranh làm thay đổi hình hài của ơng. Vết thẹo dài trên má - vết thương chiến
tranh- đã làm cho đứa con gái thương yêu, bé nhỏ không nhận ra bóng dáng người cha nữa!
Anh đã ra đi ,mang theo hình ảnh vợ con, với lời hứa mang về cho con chiếc lược cùng với nỗi ân hận day dứt
“sao mình lại đánh con” cứ giày vị ơng mãi . Những ngày ở rừngvô cùng thiếu thốn, gian khổ , nguy hiểm, anh
Sáu vẫn không nguôi nhớ vợ con. Khi kiếm được khúc ngà voi, ông mừng vô cùng, ơng dành hết tâm trí, cơng

sức vào làm một cây lược. Chiếc lược ngà đã trở hành báu vật đối với ơng. Nó làm dịu đi nỗi ân hận day dứt. Nó
chứa đựng bao tình cảm u mến, nhớ thương, mong đợi của người cha trong những ngày xa cách. Nhưng rồi
tình cảnh đau thương lại đến với cha con ơng Sáu. Ơng Sáu hy sinh khi chưa gặp lại con. Chiếc lược chưa tới
được tay bé Thu. Chiếc lược ngà trở thành vật ký thác thiêng liêng của người lính về tình cha con sâu nặng trong
bom đạn quân thù không thể nào tàn phá được...Chiến tranh làm cắt đứt tình cảm cha con ngay với một vật kỉ
niệm chưa kịp trao.
b/ Tình con đối với cha (nhân vật bé Thu):
Gặp lại con sau bao ngày xa cách với nỗi nhớ thương nên anh Sáu vồ vập nôn nóng , ngược lại bé Thu lại
ngỡ ngàng, xa lạ . Ba ngày phép của cha, Thu tỏ ra rất lạnh nhạt. Tình cảm của em đối với cha ngày càng xấu đi,
nó nhất định khơng gọi ba, khơng nhận sự chăm sóc của anh Sáu. Sự phản ứng của Thu ngày càng quyết liệt, từ
chỗ ngấm ngầm đến rõ ràng, mạnh mẽ . Nó phản ứng vì anh Sáu có vết sẹo trên má ,khơng giống với hình mà
“ba” nó chụp chung với má nó mà nó được biết. Sự phản ứng của em chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, có tình
u cha sâu sắc. Tình u ấy đã khắc ghi trong trái tim ngây thơ đầy kiêu hãnh nên em khơng chấp nhận người
đàn ơng có sẹo là cha.Sự ngang ngạnh của bé Thu hoàn toàn “có lý” và khơng đáng trách vì trong hồn cảnh xa
cách và trắc trở của chiến tranh, nó cịn q bé nhỏ để hiểu được những tính khắc nghiệt, éo le của đời sống và
người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường nên nó khơng tin ơng Sáu là
ba nó.
Nhưng vào thời điểm không ai ngờ, vào phút cuối của cuộc chia tay, thái độ và hành động của bé Thu hồn
tồn thay đổi. Thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc khơng ai ngờ đến
thì nó bỗng kêu thét lên:
- Ba...a...a...ba!
Đó là tiếng “Ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay. Từ ngờ vực xa cách, nó đã đi tới niềm tin thực sự
và tình cảm được bộc lộ thật mãnh liệt và chân thành.Chiến tranh đã làm cho họ xa nhau và chiến tranh cũng
không cho phép họ có điều kiện gặp nhau lâu.
Hình ảnh bé Thu và tình yêu cha sâu sắc của Thu đã gây xúc động mạnh trong lòng người đọc, để lại những
ấn tượng sâu sắc.
3/Về tình cảm cha con trong chiến tranh:
-Truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện tình cha con sâu sắc của ơng Sáu và bé Thu trong
những tình huống:Cuộc gặp gỡ của cha con ông Sáu sau tám năm xa cách . Trớ trêu thay, bé Thu không nhận
cha. Đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thì ơng Sáu phải ra đi .Chiến tranh đã làm cho họ xa nhau và chiến

tranh cũng khơng cho phép họ có điều kiện gặp nhau lâu. Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn hết tình cảm yêu thương
con vào việc làm một cây lược ngà tặng con . Cây lược làm xong thì ơng hi sinh khi chưa kịp gửi cây lược ấy
cho con.Chiến tranh làm cắt đứt tình cảm cha con ngay với một vật kỉ niệm chưa kịp trao. Nếu tình huống thứ
nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc của người
cha với con. Tất cả diễn ra trong xa cách của chiến tranh . Hai tình huống đã gắn kết lại thành một mối tình có
qua có lại : tình cha con

8


Câu chuyện về chiếc lược ngà khơng chỉ nói lên tình u thương thắm thiết, sâu nặng mn đời của cha con
người chiến sĩ mà còn gợi cho ta nghĩ đến những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh mang đến cho bao
gia đình, bao người trở thành côi cút, bất hạnh đáng thương. Nỗi đau, nỗi nhớ thương và mất mát...do quân giặc
đem đến cho ông Sáu, cho bao người lính, cho bao bà mẹ, em thơ trên khắp đất nước ta có bao giờ ngi.Anh
Sáu cũng như hàng triệu chiến sĩ, đồng bào hy sinh chiến đấu vì đất nước và dân tộc, vì tình vợ chồng, tình cha
con
Chiếc lược ngà với dịng chữ “u nhớ tặng Thu con của ba” mang theo bao tình cảm sâu nặng của người
cha đối với đứa con bé bỏng ; mãi mãi là kỷ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt để
lại nhiều ám ảnh đau thương trong lòng ta.
III –KL : Truyện “Chiếc lược ngà” tập trung vào chủ đề tình cha con, nhưng ở đây tình cha con của anh Sáu
và bé Thu đã không mất đi sau khi anh Sáu hy sinh. Tình cảm ấy vẫn sống mãi trong lòng con gái anh, trong
lòng người bạn của anh là bác Ba và các đồng chí. Tình cha con được nối dài trong tình cảm cách mạng, tình
cảm của những người đồng chí. .Nhà văn khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con sâu nặng trong hồn cảnh éo
le, thời chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc. Tình cảm ấy càng cao
đẹp trong những hồn cảnh khó khăn.Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là bài thơ về tình cha con.
Đề 6 : Cảm nghĩ về nhân vật Phương Định trong truyện ngắn « Những ngơi sao xa xơi » của Lê Minh Khuê
A. Mở bài :
- Giới thiệu con đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ - được coi là biểu tượng anh hùng của cuộc
chiến đấu giành độc lập tự do.
- Nhà văn Lê Minh Khuê đã từng là thanh niên xung phong trên tuyến đường TS máu lửa.

- Những tác phẩm của chị viết về cuộc sống chiến đấu của bộ đội và thanh niên xung phong ở đây đã gây được
sự chú ý của bạn đọc mà truyện ngắn « những ngơi sao xa xơi » là một trong những tác phẩm ấy.
- Truyện viết về 3 cô gái trong một tổ trinh sát mặt đường làm nhiệm vụ phá bom trên tuyến đường TS đạn bom
khốc liệt. Phương Định, nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật chính để lại nhiều ấn tượng đẹp và tình cảm sâu sắc
trong lịng người đọc.
B. Thân bài.
1. Cảm nhận về tính hồn nhiên, ngây thơ, tinh nghịch của Phương Định.
- Phương Định là nữ sinh của thủ đơ thanh lịch bước vào chiến trường. Phương Định có một thời học sinh- cái
thời áo trắng ngây thơ, hồn nhiên và vô tư lự của cô thật vui sướng ! Những hồi niệm của cơ về thời học sinh
thật đáng yêu luôn sống trong cô ngay giữa chiến trường.
- Cơn mưa đá ngắn ngủi đột ngột xuất hiện ở cuối truyện, ngay sau trận phá bom đầy nguy hiểm cũng thức dậy
trong cô bao niềm vui thơ trẻ : cô nhớ về mẹ, cái cửa sổ căn nhà, những ngơi sao to trên bầu trời thành phố…
Nó thức dậy những kỉ niệm và nỗi nhớ về thành phố, gia đình, về tuổi thơ thanh bình của mình. Nó vừa là niềm
khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn trong hồn cảnh, khốc liệt và nóng bỏng của chiến trường.
- Những thử thách và nguy hiểm ở chiến trường, thậm chí cả cái chết khơng làm mất đi ở cơ sự hồn nhiên trong
sáng và những ước mơ về tương lai. Phương Định vẫn là người con gái nhậy cảm, hồn nhiên, hay mơ mộng và
thích hát.
- Cơ đem cả lòng say mê ca hát vào chiến trường TS ác liệt. Cơ thích hát những hành khúc bộ đội, những bài dân
ca quan họ, dân ca Nga, dân ca Ý. Giọng của Phương Định chắc là hay lắm nên « chị Thao thường yêu cầu cô
hát đấy sao » ? Định cịn có tài bịa ra lời bài hát nữa. Chị Thao đã ghi cả vào sổ những lời hát cô bịa ra….
+ Phương Định là một cô gái xinh xắn. Cũng như các cô gái mới lớn, cô nhạy cảm và quan tâm đến hình thức
của mình. Chiến trường khốc liệt nhưng không đốt cháy nổi tâm hồn nhạu cảm của cơ. Cơ biết mình đẹp và được
nhiều người để ý : « Tơi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tơi là một cơ gái khá….. » ; cịn mặt tơi thì
các anh lái xe bảo « : Cơ có cái nhìn sao mà xa xăm ». Điều đó làm cơ thấy vui và tự hào.
+ Biết mình được cánh lính trẻ để ý nhưng cơ « khơng săn sóc, vồn vã », khơng biểu lộ tình cảm của mình,
nhưng chưa để lịng mình xao động vì ai : « thường đứng ra xa, khoanh tay lại trước ngực và nhìn đi nơi khác,
mơi mím chặt ». Đó là cái vẻ kiêu kì đáng u của các cơ gái Hà Nội như chính cơ đã thú nhận : « chẳng qua là
tơi điệu đấy thơi ».
- Cơ ln u mến đồng đội của mình, u mến và cảm phục tất cả các chiến sĩ mà cô gặp trên truyến đường
Trường Sơn.

2. Cảm nhận về chất anh hùng trong công việc của cô.
- Là một nữ sinh, Phương Định xung phong ra mặt trận, cùng thế hệ của mình « xẻ dọc TS đi cứu nước – mà
lòng phơi phới dậy tương lai » để giành độc lập tự do cho TQ. Cô ra đi mà khơng tiếc tuổi thanh xn, nguyện
dâng hiến hết mình cho Tổ quốc.

9


+ Cơ kể : « chúng tơi có ba người. Ba cô gái. Chúng tôi ở trong một cái hang dưới chân cao điểm. Con đường đi
qua trước hang bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường khơng có lá xanh. Chỉ có thân cây bị
tước khô cháy. Trên cao điểm trống trơn, cô và các bạn phải chạy giữa ban ngày phơi mình ra giữa vùng trọng
điểm đánh phá của máy bay địch.
+ Cô nói về cơng việc của mình gọn gàng khơ khốc, tĩnh nhẹ như khơng : « việc của chúng tơi là ngồi đây. KHi
có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom » .
+ PĐnghĩ về cơng việc của mình q giản dị, cơ cho là cái thú riêng : « có ở đâu như thế này khơng : đất bốc
khói, khơng khí bàng hồng, máy bay đang ầm ĩ xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp
điệu, chân chạy mà vẫn khơng hay biết rằng khắp xung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có
thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ ». Giản dị mà cũng thật anh hùng. Chiến tranh và đạn bom đã làm cô lớn
lên, trở thành dũng sĩ mạnh mẽ mà cô không hề biết. Thật đáng phục !
3. Cảm nhận về tình thần dũng cảm trong một cuộc phá bom đầy nguy hiểm.
- Lúc đến gần quả bom :
+ Trong khơng khí căng thẳng và vắng lặng đến rợn người, nhưng rồi một cảm giác bỗng đến với cơ làm cơ
khơng sợ nữa : « tơi đến gần quả bom . Cảm thấy ánh mắt cás chiến sĩ dõi theo mình, tơi khơng sợ nữa. Tơi sẽ
khơng đi khom. Các anh ấy khơng thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hồng mà bước tới ». Lịng dũng
cảm của cơ như được kích thích bởi sự tự trọng.
+ Và khi đã ở bên quả bom, kề sát với cái chết có thể đến tức khắc, từng cảm giác của cô như cũng trở nên sắc
nhọn hơn và căng như dây đàn : « thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người
cứa vào da thịt tơi, tơi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí ! Vỏ quả bom nóng.
Một dấu hiệu chẳng lành ». Thần chết nằm chực ở đó chờ phút ra tay. Cơ phải nhanh hơn, mạnh hơn nó, khơng
được phép chậm chễ một giây.

- Tiếp đó là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom. Thật đáng sợ cái cơng việc chọc giận Thần Chết
đó. Ai dám chắc là quả bom sẽ không nổ ngay bây giờ, lúc Phương định đang lúi húi đào đào, bới bới ấy. Thế
mà cô vẫn không run tây, vẫn tiếp tục cái cơng việc đáng sợ : « tơi cẩn thận bỏ gói thuốc mình xuống cái lỗ đã
đào, châm ngịi. Tơi khoả đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình : liệu mìn có nổ, bom có nổ khơng ? Khơng thì
làm cách nào để châm mìn lần thứ hai.. Nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì qi đến váng óc. Ngực tơi nhói,
mắt cay mãi mới mở ra được. Mùi thuốc bom buồn nôn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan đi âm
thanh trong những bụi cây. Mảnh bom xé khơng khí, lao và rít vơ hình trên đầu. Bốn quả bom đã nổ. Thắng rồi !
Nhưng một đồng đội đã bị bom vùi ! Máu túa ra từ cánh tay Nho, túa ra, ngấm vào đất. Da xanh, mắt nhắm
nghiền, quần áo đầy bụi… ». Nhưng khơng ai được khóc trong giờ phút rất cần sự cứng cỏi của mỗi người.
- Cái cơng việc khủng khiếp bóp nghẹt trái tim ấy không chỉ đến một lần trong đời mà đến hàng ngày : « Quen
rồi. Một ngày tơi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít : ba lần. Tơi có nghĩ đến cái chết. Nhưng một cái chết mờ
nhạt, không cụ thể. »
=>Cảm xúc và suy nghĩ chân thực của cô đã truyền sang cho người đọc nỗi niềm đồng cảm u mến và sự kính
phục. Một cơ nữ sinh nhỏ bé, hồn nhên, giàu mơ mộng và nhạy cảm mà cũng thật anh hùng, thật xứng đáng với
những kì tích khắc nghi trên những tuyến đường TS bi tráng. Một ngày trong những năm tháng TS của cô là như
vậy. Những trang lịch sử TS không thể quên ghi một ngày như thế.
C. Kết luận.
- Chúng ta luôn tự hào về những chiến sĩ, những thanh niên xung phong TS như Phương Định và đồng đội của
cô. Lịch sử những cuộc kháng chiến và chiến thắng hào hùng của dân tộc không thể thiếu những tấm gương như
cô và thế hệ những người đã đổ máu cho nền độc lập của Tổ Quốc.
- Chúng ta càng yêu mến tự hào về cô, càng biết ơn và học tập tinh thần của những người như cô trong công
cuộc xây dựng đất nước hơm nay.
§Ị 7: Cảm nghĩ về nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà’’
1. Mở bài:
- Giới thiệu được tác giả, tác phẩm và nhân vật bé Thu với tài năng miêu tả tâm lý nhân vật.
- Cảm nhận chung về nhân vật bé Thu.
Có một nhà văn đã nói rằng : "Khơng có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống viết ra". Cuộc chiến
tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như
những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong số ấy phải kể đến "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật
bé Thu trong truyện đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc về tình thương cha mãnh liệt và có cá

tính mạnh mẽ.
Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ trong 30 năm chiến tranh,
“Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba, người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi

10


theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động của cha con anh Sáu- bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác
Ba, chúng ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam bộ trong chiến tranh và sức mạnh của tình cha con
thiêng liêng, bất tử.
2. Thân bài:
Phân tích diễn biến tâm lý của nhân vật bé Thu - nhân vật chính của đoạn trích “Chiếc lược ngà’’ một cơ bé hồn
nhiên ngây thơ, có cá tính bướng bỉnh nhưng u thương ba sâu sắc.
- Khái quát được cảnh ngộ của gia đình bé Thu, đất nước có chiến tranh, cha đi cơng tác khi Thu chưa đầy một
tuổi, lớn lên em chưa một lần gặp ba được ba chăm sóc u thương, tình yêu Thu dành cho ba chỉ gửi trong tấm
ảnh ba chụp chung cùng má.
- Diễn biến tâm lý của bé Thu trước khi nhận anh Sáu là cha:
+ Yêu thương ba nhưng khi gặp anh Sáu, trước những hành động vội vã thái độ xúc động, nơn nóng của cha…
Thu ngạc nhiên lạ lùng, sợ hãi và bỏ chạy….những hành động chứa đựng sự lảng tránh đó lại hồn tồn phù hợp
với tâm lí trẻ thơ bởi trong suy nghĩ của Thu anh Sáu là người đàn ông lạ lại có vết thẹo trên mặt giần giật dễ sợ.
+ Trong hai ngày sau đó Thu hồn tồn lạnh lùng trước những cử chỉ đầy yêu thương của cha, nó cự tuyệt tiếng
ba một cách quyết liệt trong những cảnh huống mời ba vào ăn cơm, xử lí nồi cơm sơi, và thái độ hất tung cái
trứng cá trong bữa cơm…Từ cự tuyệt nó đã phản ứng mạnh mẽ….nó căm ghét cao độ người đàn ơng măt thẹo
kia, nó tức giận, và khi bị đánh nó đã bỏ đi một cách bất cần…. đó là phản ứng tâm lí hồn tồn tự nhiên của một
đứa trẻ có cá tính mạnh mẽ… Hành động tưởng như vô lễ đáng trách của Thu lại hồn tồn khơng đáng trách mà
cịn đáng thương, bởi em cịn q nhỏ chưa hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le của đời sống. Đằng sau
những hành động ấy ẩn chứa cả tình yêu thương ba,sự kiêu hãnh của trẻ thơ về một tình yêu nguyên vẹn trong
sáng mà Thu dành cho ba.
- Diễn biến tâm lý của Thu khi nhận ba:
+ Sự thay đổi thái độ đến khó hiểu của Thu, khơng ương bướng mà buồn rầu nghĩ ngợi sâu xa, ánh mắt cử chỉ

hành động của bé Thu như thể hiện sự ân hận, sự nuối tiếc, muốn nhận ba nhưng e ngại vì đã làm ba giận.
+ Tình yêu thương ba được bộc lộ hối hả ào ạt mãnh liệt khi anh Sáu nói “Thơi ba đi nghe con”. Tình u ấy kết
đọng trong âm vang tiếng Ba trong những hành động vội vã: Chạy nhanh như con sóc, nhảy thót lên, hơn ba nó
cùng khắp, trong lời ước nguyện mua cây lược, tiếng khóc nức nở…Đó là cuộc hội ngộ chia tay đầy xúc động,
thiêng liêng đã tác động sâu sắc đến bác Ba, mọi người …
+ Sự lý giải nguyên nhân việc hiểu lầm của bé Thu đựợc tác giả thể hiện thật khéo léo đó là do vết thẹo trên mặt
người ba khi hiểu ra sự thực Thu “nằm im lăn lộn thở dài như người lớn”. Vết thẹo không chỉ gây ra nỗi đau về
thể xác mà còn hằn nên nỗi đau về tinh thần gây ra sự xa cách hiểu lầm giữa cha con bé Thu. Nhưng chiến tranh
dù có tàn khốc bao nhiêu thì tình cảm cha con anh Sáu càng trở lên thiêng liêng sâu lặng.
- Khẳng định lại vấn đề: Ngòi bút miêu tả tâm lý khắc hoạ tính cách nhân vật tinh tế thể hiện được ở bé Thu một
cô bé hồn nhiên ngây thơ, mạnh mẽ cứng cỏi yêu ghét rạch ròi. Trong sự đối lập của hành động thái độ trước và
sau khi nhân ba lại là sự nhất quán về tính cách về tình yêu thương ba sâu sắc.
- Những năm tháng sống gắn bó với mảnh đất Nam Bộ, trái tim nhạy cảm, nhân hậu, am hiểu tâm lý của trẻ thơ
đã giúp tác giả xây dựng thành công nhân vật bé Thu.
- Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh, trân trọng tình cảm gia đình trong cuộc sống hôm
nay.
3. Kết bài:Khẳng định thành công, đồng thời bộc lộ ấn tượng sâu đậm nhất về nhân vật cũng như toàn bộ tác
phẩm.
Đề bài 8: Cảm nhận về nhân vật ơng Sáu trong đoạn trích « Chiếc lược ngà » của nhà văn Nguyễn Quang
Sáng.
A. Mở bài :
- Truyện « Chiếc lược ngà » được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì
cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt. Truyện viết trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nhưng lại tập
trung nói về tình người - cụ thể ở đây là tình cha con trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Đặc biệt tình là tình
cảm của ông Sáu - người cha cán bộ cách mạng đối với đứa con gái nhỏ - Bé Thu thật sâu sắc và cảm động.
B. Thân bài :
1. Tóm tắt qua về cuộc đời của ơng Sáu : Ơng Sáu là một nơng dân Nam Bộ giàu lịng u nước đã tham gia
hai cuộc kháng chiến (đánh Pháp và đánh Mĩ), và đã anh dũng hi sinh. Ông Sáu là một người cha hi sinh cả cuộc
đời để gìn giữ tình cha con bất diệt.Vì cuộc chiến đấu chung của dân tộc, ông Sáu đã mang vế sẹo trên mặt, đã hi
sinh cả vẻ đẹp của một thời trai trẻ. Đấy là nỗi đau thể xác. Mấy ngày về thăm nhà, ông lại phải trải qua nỗi đau

về tinh thần : đứa con gái duy nhất ông hằng mong nhớ, không chịu nhận ơng cha, khơng một lời gọi « ba ». Cho
đến phút cuối cùng trước lúc chia tay, ông mới được hưởng hạnh phúc của người cha. Nhưng phút ấy ngắn ngủi

11


quá. Để rồi cuối cùng ông vĩnh viễn phải xa con. Ơng đã ngã xuống lặng thầm mà khơng một lời trăng trối,
không một nấm mồ, không bia mộ…
2. Trong những ngày về phép thăm nhà.
- Ra đi đánh giặc từ năm 1946, mãi đến năm 1954 hồ bình lập lại, ông mới được về phép thăm nhà và quê
hương một vài ngày. Ngày ra đi bộ đội, đứa con gái bé bỏng thân yêu của ông mới lên một tuổi, ngày về thì con
bé đã tám, chín tuổi. Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh ra tử trở lại quê hương, được
gặp lại vợ con, được nghe con cất tiếng gọi « ba » một tiếng cũng khơng được trọn vẹn. Đó là bi kịch thời chiến
tranh.
+ Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu khơng kìm được nỗi vui mừng trong
phút đầu nhìn thấy đứa con. Ông vừa bước, vừa khom người đưa tay chờ đón con”, có lẽ ơng rất vui, rất xúc
động và hạnh phúc, tin rằng đứa con sẽ đến với mình. Nhưng bé Thu đã từ chối, chạy và kêu thét lên gọi má.
Ơng Sáu vơ cùng buồn bã, thất vọng, đau đớn.
+ Trong hai ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu không đi đâu chỉ quanh quẩn ở nhà với con, chăm sóc con nhưng bé
Thu khơng nhận cha khiến ông vô cùng buồn. .....nhưng ông sẵn lòng tha thứ cho con. Tình yêu thương của
người cha dành cho con trở nên bất lực khi ông Sáu đánh con bé một cái vào mơng vì nó đã hất miếng trứng cá
mà ông gắp ra khỏi bát cơm làm cơm văng tung toé.....Bom đạn giặc đã làm thay đổi hình hài ông. Vết thẹo dài
trên má phải - vết thương của chiến tranh – đã làm cho đứa con gái thương u, bé bỏng khơng nhận ra bóng
dáng người cha nữa !
- Cho đến lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc chiến đấu mới, ông mới được một khoảnh khắc
hạnh phúc khi đứa con gái ngây thơ chợt nhận ra ba mình và kêu thét lên: “Ba…………. ba!”. Trước cử chỉ của
bé Thu, “anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi hơn lên mái tóc con”. Đó là giọt nước mắt
sung sướng, hạnh phúc của một người cha cảm nhận được tình ruột thịt từ con mình.Và ơng Sáu đã ra đi với nỗi
thương nhớ vợ con không thể nào kể xiết.
3. Tình cảm của ơng Sáu với con đã được thể hiện phần nào trong chuyến về phép thăm nhà, nhưng biểu

hiện tập trung và sâu sắc ở phần sau của truyện, khi ông Sáu ở trong rừng tại khu căn cứ.
- Trước hết là nỗi nhớ thương xen lẫn sự day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày vì ơng đã đánh con khi
nóng giận. Ông Sáu đúng là một người cha hiền lành, nhân hậu, biết nâng niu tình cảm cha con. Mang lời hẹn
ước của con gái ra đi : “Ba về, ba mua cho con một cây lược ngà nghe ba!” đã thúc đẩy ông nghĩ đến việc làm
một chiếc lược ngà dành cho con. Ông quả là một người cha chiều con và ln biết giữ lời hứa với con, đó là
biểu hiện tình cảm trong sáng và rất sâu nặng
- Kiếm được khúc ngà, anh vui sướng như đứa trẻ được q, rồi để hết tâm trí, cơng sức vào việc làm cây lược,
cưa răng, chuốt bóng, khắc chữ... tỉ mỉ, cần mẫn, cơng phu. Lịng u con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ
nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo một tác phẩm duy nhất trong cuộc đời. Cho nên nó khơng chỉ là chiếc lược xinh
xắn và quý giá mà đó là chiếc lược kết tụ tất cả tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, sâu xa, đơn sơ mà kì diệu
làm sao! Cây lược ngà ấy chưa trải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng ơng. Nó
trở thành vật thiêng, an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hằng đêm, ơng đã
nhìn ngắm chiếc lược, cố mài lên mái tóc, cho chiếc lược thêm bóng, thêm mượt. Tác giả khơng miêu tả rõ song
người đọc vẫn hình dung cái kỉ vật nhỏ bé mà thân thương ấy, mỗi ngày một đẹp lên, trắng ngà, toả sáng lung
linh. Đó là biểu tượng trắng trong, quý giá, bất diệt của tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Chiếc lược nhỏ bé
mà thiêng liêng đã làm dịu nỗi ân hận và ánh lên niềm hi vọng khắc khoải sẽ có ngày anh Sáu được gặp lại con,
trao tận tay nó món quà kỉ niệm này.
- Nhưng tình cảnh thật đáng thương, anh không kịp đưa cây lược ngà đến tận tay cho con, người cha ấy đã hi
sinh trong một trận càn. Trước khi vĩnh biệt con, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược, đã chuyển nó cho người bạn như
một cử chỉ chuyển giao sự sống, một sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân: ước nguyện của
tình phụ tử. Điều đó đúng như ơng Ba nói: “chỉ có tình cha con là khơng thể chết được”. Đó là điều trăng trối
khơng lời, nó rõ ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc.
=> Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong chuyện “Chiếc lược ngà” là hình ảnh sâu nặng về tình cha – con.
Ông Sáu quả là một người cha chịu nhiều thiệt thịi nhưng vơ cùng độ lượng và tận tuỵ vì tình yêu thương con,
một người cha để bé Thu suốt đời yêu quý và tự hào. Chiếc lược ngà với dòng chữ mãi mãi là kỉ vật, là nhân
chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng ta. Ơng Sáu là
người lính của một thế hệ anh hùng mở đường đi trước đã nếm trải nhiều thử thách, gian khổ và hi sinh.
C. Kết luận
Câu chuyện về chiếc lược ngà làm người đọc cảm động vì tình cha con thắm thiết, đẹp đẽ. Nhưng cảm động hơn
nữa, nó cịn khiến cho ta nghĩ đến những đau thương, mất mát, éo le mà con người phải gánh chịu vì cuộc chiến

tranh. Ơng Sáu đã hi sinh trong những ngày đen tối và gian khổ. Ngôi mộ ông là “ngôi mộ bằng” giữa rừng sâu.

12


Nhưng chỉ có tình cha con là khơng thể chết được.
Câu 9: (5điểm): Phân tích các nhân vật Thao, Nho trong tác phẩm "Những ngôi sao xa xôi" của

Lê Minh Khuê (Ngữ văn 9, nhà xất bản giáo dục - 2008)
Phân tích các nhân vật Thao và Nho trong đoạn trích Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
HS có thể chọn bố cục và diễn đạt sáng tạo nhng phải đạt đợc những yêu cầu cơ bản sau:
I. Mở bài :
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật
- Tác giả: LMK là nhà văn trởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Những tác phẩm đầu tay của chị viết
về cuộc sống chiến đấu của thanh niên xung phong và bộ đội ở tuyến đờng TS
- Tác phẩm: Những ngôi sao xa xôi là tác phẩm đầu tay của LMK, viết năm 1971.
- Nhân vật: Tuy không phải là nhân vật chính trong tác phẩm nhng Thao và Nho đà để lại những ấn tợng khó phai
với những phẩm chất cao đẹp.
II. Thân bài:
1. Hoàn cảnh sống và chiến đấu
( 1,0 điểm)
a) Nhiệm vụ đợc giao:
( 0,75 điểm)
-Thao và Nho cùng Phơng Định làm thành một tổ làm nhiệm vụ trinh sát mặt đơng. Họ là những cô gái thanh
niên xung phong sống và chiến đấu trên một cao điểm của tuyến đờng TS. Đây là nơi tập trung bom đạn và sự
hiểm nguy ác liệt. Họ phải giữa ban ngày, phơi mình gia vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch.
- Sau mỗi trận bom, các chị phải chạy trên cao điểm, đo và ớc tính khối lợng đất đá bị bom địch đào xới, đếm
những quả bom cha nổ và dùng mìn để phá bom: Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lợng dất lấp vào hố bom,
đếm bom cha nổ và nếu cần thì phá bom. Có ngày phá bom đến năm lần.
- Đó là công việc mạo hiểm và cái chết luôn rình rập; đòi hỏi s dũng cảm, bình tĩnh lạ thờng. Những công việc ấy

đà trở thành thờng ngày: Có ở đâu nh thế này không .... chạy về hang.
b) Điều kiện sống và sinh hoạt:
( 0,25 điểm)
- Họ ở ngay dới chân cao điểm, mỗi khi bom nổ,đất đá rơi rào rào phía cưa hang, khãi bom xéc vµo trong hang.
- Hä ng nớc suối đựng trong ca hay bi đông, tắm ở khúc suối thờng có bom nổ chậm. Phơng tiện giải trí duy
nhất chỉ có chiếc đài bán dẫn nhỏ để nghe ca nhạc và tin tức.
2. Hình ảnh các nhân vật Thao và Nho:
( 2,5 điểm)
a) Chị Thao:
( 1,5 điểm)
- Dũng cảm ngoan cờng:
+ Trong công việc: Chị là ngời chØ huy vµ cịng lµ ngêi lín ti nhÊt cđa tổ trinh sát phá bom mặt đờng. Trong
chiến đấu chị là ngời từng trải: Tiếng máy bay trinh sát .... căng thẳng. Điều đó báo hiêu hiểm nguy sắp tới, nhng chị vẫn bình tĩnh lạ thờng: Chị Thao móc bánh bích quy trong túi, thong thả nhai. Những khi biết rằng cái
sắp tới sẽ không yên ả thì chị tỏ ra bình tĩnh đến phát bực. Ai cũng gờm chị về tính cơng quyết táo bạo.
+ Trong cuộc sống: Chị là ngời rất cứng cỏi. Khi Nho bị thơng, trong lòng chi bộn bề bao suy nghĩ lo lắng, nhng
chị không khóc vì ý thức sâu sắc: Nớc mắt đứa nào chảy trong khi cần cái cứng cỏi của nhau này là bị xem nh
bằng chứng của một sự tự nhục mạ. Chị còn hát để tự đông viên mình: Chị Thao hát: Đây Thăng Long, đây
Đông Đô .... Hà Nội....
- Tâm hồn trong sáng mộng mơ:
+ Chị có tình yêu thơng đồng đội sâu sắc. Chị Thao phân công PĐ ở nhà trực điện thoại vì PĐ có vết thơng ở đìu
cha lành, còn chị và Nho đi trinh sát lúc máy bay địch ném bom. Chị Thao cầm cái thớc trên tay tôi, nuốt nốt
miếng bích quy ngon lành: Định ở nhà. Lần này nó bỏ ít, hai đứa đi cũng đủ.
Lúc Nho bị thơng, chi Thao vội vàng lao tới, nghẹn ngào xúc động: Nho, bị thơng ở chỗ nào? Bị ở đâu, em?
Chị cứ luẩn quẩn lúng túng nh chẳng biết làm gì. Chị đa mắt nhìn Nho, lấy tay sửa cổ áo, ve áo và tóc Nho.
+ Là ngời thích hát: ...Chị không hát trôi chảy đợc bài nào nhng chị lại có ba quyển sổ dày, chép bài hát. Rỗi là
ngồi chép bài hát .... Chị cũng thích làm duyên: áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu. Chị lại hay tỉa đôi
lông mày của mình, tỉa nhỏ nh cái tăm.
b) Chị Nho:
(1,0 điểm)
- Là cô gái dũng cảm gan dạ. Chiến đấu trong môi trờng khó khăn ác liệt, chị đà vợt lên để hoàn thành nhiệm vụ.

Cô cùng chị Thao đi trinh sát mặt đờng khi máy bay địch đang ném bom và Nho đợc phân công phá hai quả bom
dới lòng đờng...
- Là cô gái trẻ trung và đáng yêu: Nho có cái cổ tròn và chiếc những cúc áo nhỏ nhắn; nhẹ và mát mẻ nh một que
kem trắng.
- Sống hồn nhiên vô t: Là cô gái ít tuổi nhất tổ có lúc hồn nhiên trẻ con ( tắm ở suối có bom nổ chậm, khi vừa lên,
cứ quần áo ớt ngồi đòi ăn kẹo).
3. Đánh giá:
( 0,5 điểm)
- Trong hoàn cảnh sống và chiến đấu khó khăn nguy hiểm, các nhân vật Thao và Nho đà sáng ngời lên tinh thần
dũng cảm, tâm hồn trong sáng mộng mở và trẻ trung. Đó là những phẩm chất cao đẹp của những cô gái thanh
niên xungphong trên tuyến đờng TS, của thÕ hƯ trỴ ViƯt Nam thêi chèng MÜ.
- NghƯ tht nổi bật: Tác giả đà thành công trong bút pháp cá trể hóa nhân vật. Hình ảnh mỗi nhân vật đợc miêu
tả với những nét cá tính riêng bệt nên rất chân thực, sinh động.
- Nguyên nhân thành công: Phải là ngời trong cuộc và gắn bó yêu thơng ... mới có thể tả đợc chân thực, sinh động
nh vậy.
- Liên hệ so sánh: Các tác phẩm thơ ca, truyện kÝ viÕt vỊ ti trỴ VN thêi chèng MÜ.

13


III. Kết bài:
- Nêu ấn tợng khái quát về hai nhân vật Thao và Nho.
- Liên hệ bản thân
Cõu 10 (5,0 điểm):
“Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện
niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời
khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ”.
Phân tích nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ để làm sáng tỏ nhận
định trên.
1. Mở bài: 0,5 điểm.

Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và trích nguyên văn ý kiến.
2. Thân bài: 5,0 điểm.
Gồm 3 luận điểm:
- Luận điểm 1: Giải thích ý kiến. (0,5 điểm)
+ Số phận oan nghiệt là số phận khổ đau, oan trái.
+ Vẻ đẹp truyền thống đáng quý: Là những nét đẹp đáng quý, đáng trân trọng của người phụ nữ Việt
Nam từ xa xưa như tấm lòng hiếu thảo, thủy chung, giàu lòng yêu thương,...
 Ý kiến ở đề bài đã khẳng định giá trị nội dung sâu sắc của tác phẩm Chuyện người con gái Nam
Xương: Phản ánh số phận bi kịch của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ
đẹp truyền thống của họ. Chính điều này đã tạo nên sức sống muôn đời của tác phẩm.
- Luận điểm 2: Phân tích nhân vật Vũ Nương để làm sáng tỏ ý kiến. (4,0 điểm)
* Qua nhân vật Vũ Nương, tác phẩm phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế
độ phong kiến.
+ Là nạn nhân của chiến tranh phong kiến: Vì chiến tranh Vũ Nương phải sống trong cảnh cơ phụ chờ
chồng, một mình gánh vác việc gia đình. Sự xa cách vì chiến tranh đã tạo cơ hội cho tính đa nghi, cả ghen của
Trương Sinh trỗi dậy. Chiến tranh gây chia lìa xa cách, chiến tranh là nguyên nhân gián tiếp gây ra bi kịch cho
cuộc đời Vũ Nương. (0,5 điểm)
+ Là nạn nhân của chế độ phong kiến nam quyền, của thói đa nghi, hồ đồ, vũ phu của người đàn ông.
Trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, người đàn ơng có quyền lực tối cao trong gia đình. Vậy nên
Trương Sinh với bản tính đa nghi, lại là người thất học, chuyên quyền, vũ phu cùng với sự dung túng của chế độ
PK đã tạo thế cho Trương Sinh ức hiếp vợ - nguyên nhân quan trọng, quyết định gây ra cái chết của Vũ Nương.
Cái chết của Vũ Nương thực sự là một sự bức tử, người bức tử chính là Trương Sinh - hiện thân của chế độ
phong kiến với tư tưởng nam quyền độc đoán. Cái chết của nàng là lời tố cáo thói ghen tng, hồ đồ, vũ phu của
người đàn ông; tố cáo những luật lệ hà khắc của XHPK đã trói buộc người phụ nữ và dung túng cho người đàn
ông. (1,0 điểm)
 Số phận của Vũ Nương cũng như số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa luôn
bị chà đạp, vùi dập. Trong xã hội bất công với tư tưởng định kiến hẹp hòi, người phụ nữ không thể tự đứng ra
bảo vệ cho giá trị nhân phẩm của mình, họ chỉ biết tìm đến cái chết. Đây chính là bi kịch, là số phận oan nghiệt
của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. (0,25 điểm)
* Qua nhân vật Vũ Nương tác phẩm còn khẳng định vẻ đẹp truyền thống đáng quý của họ.

+ Vũ Nương là người vợ hiền thục, đảm đang, hết lịng u thương, chung thủy với chồng: Nàng ln cư
xử đúng phận làm vợ, giữ gìn khn phép, nhẫn nại, nhịn nhường để giữ hịa khí êm ấm cho gia đình. Khi chồng
đi lính, nàng bày tỏ sự lo lắng với những gian nan, nguy hiểm mà chồng phải chịu, cầu mong chồng trở về với
hai chữ bình yên. Suốt ba năm vắng chồng, nàng sống trong sự cô đơn, nhớ mong mịn mỏi; nàng hết sức giữ gìn
tiết hạnh: cách biệt 3 năm giữ gìn một tiết, tơ son điểm phấn từng đã ngi lịng, ngõ liễu tường hoa, chưa hề
bén gót. Nàng một lịng một dạ chung thủy sắt son chờ chồng. Bị chồng nghi oan, nàng tìm mọi cách phân trần
để chồng hiểu rõ về mình, tìm đến cái chết để chứng minh tấm lòng trinh bạch. (1,0 điểm)
+ Vẻ đẹp của Vũ Nương còn tiếp tục tỏa rạng ngay khi nàng ở một thế giới khác: Vẫn thương nhớ chồng
con, lo lắng cho phần mộ tổ tiên; khi Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng đã hiện về nói lời đa tạ tình chàng. Tuy
chỉ là chi tiết kì ảo hoang đường nhưng nhờ đó mà tác giả đã tạo nên một kết thúc phần nào có hậu để ca ngợi Vũ
Nương - người phụ nữ đức hạnh nhân từ, người vợ có tấm lịng chung tình tận nghĩa với chồng. (0,25 điểm)
+ Vũ Nương cịn là một người mẹ hết lòng yêu thương con: dỗ dành, an ủi, trị chuyện cùng con để ni
dưỡng tình cảm phụ tử trong lòng con, muốn khắc ghi vào lịng con hình bóng người cha thân u. (0,25 điểm)
+ Nàng là một người con dâu hiếu nghĩa: chăm sóc, động viên, an ủi khi mẹ chồng ốm đau; lo ma chay tế
lễ chu đáo khi mẹ qua đời. (0,5 điểm)

14


 Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu, hiện thân của vẻ đẹp chuẩn mực của một phụ nữ phong kiến. Nàng là
người phụ nữ của gia đình. Lần đầu tiên trong văn học viết phong kiến Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ bình
dân bước vào tác phẩm đẹp đẽ, đáng quý, đáng yêu như thế. Đây chính là tấm lòng ghi nhận, trân trọng, ngợi ca
của Nguyễn Dữ dành cho người phụ nữ. (0,25 điểm)
Lưu ý: Nếu học sinh phân tích vế thứ hai của ý kiến lên trước (Qua nhân vật Vũ Nương tác phẩm còn
khẳng định vẻ đẹp truyền thống đáng quý của họ) thì luận điểm 2 giám khảo chỉ cho tối đa 3,5 điểm.
- Luận điểm 3: Đánh giá nghệ thuật miêu tả nhân vật và tấm lòng của nhà văn. (0,5 điểm)
+ Trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, nhân vật Vũ Nương được khắc họa qua nhiều
phương diện: vẻ đẹp, ngoại hình, phẩm chất, hành động, đời sống nội tâm và đặc biệt là lời nói. Trong suốt câu
chuyện, diễn biến tâm lí nhân vật được tác giả miêu tả phù hợp với tính cách thùy mị, nết na được giới thiệu ở
đầu tác phẩm.

+ Tác giả viết về Vũ Nương bằng cả tấm lịng và trái tim thương xót, bênh vực, ngợi ca. Đồng thời ơng
cịn gián tiếp lên án xã hội phong kiến nam quyền; tính đa nghi, gia trưởng, vũ phu của người đàn ông đã làm
mất đi quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ. Đây chính là tấm lịng u thương, trân trọng con người
- tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn.
3. Kết bài: 0,5 điểm
- Đánh giá nghệ thuật đặc sắc của truyện.
- Bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc của bản thân về nhân vật Vũ Nương.
Câu 11: Cảm nhận của em về nhân vật Phương Định trong đoạn trích sau:
“…Vắng lặng đến phát sợ. Cây còn lại xơ xác. Đất nóng. Khói đen vật vờ từng cụm trong khơng trung, che đi
những gì từ xa. Các anh cao xạ có nhìn thấy chúng tơi khơng? Chắc có, các anh ấy có những cái ống nhịm có thể
thu cả trái đất vào tầm mắt. Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ theo dõi mình, tơi không sợ
nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy khơng thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới.
Quả bom nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô, một đầu vùi xuống đất. Đầu này có vẽ hai vịng trịn màu vàng…
Tơi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh thoảng
lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tơi. Tơi rùng mình và bỗng thấy
tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên
trong quả bom. Hoặt là mặt trời nung nóng.
Chị Thao thổi cịi. Như thế là đã hai mươi phút trôi qua. Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào,
châm ngịi. Dây mìn dài, cong, mềm. Tơi khỏa đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình.
Hồi cịi thứ hai của chị Thao. Tơi nép người vào bức tường đất, nhìn đồng hồ. Khơng có gió. Tim tơi cũng đập
khơng rõ. Dường như vật duy nhất vẫn bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động chung là chiếc kim đồng hồ. Nó chạy,
sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh cửu. Còn đằng kia, lửa đang chui bên trong cái dây mìn, chui
vào ruột quả bom…
Quen rồi. Một ngày chúng tơi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần. Tơi có nghĩ tới cái chết. Nhưng một
cái chết mờ nhạt, khơng cụ thể. Cịn cái chính: liệu mìn có nổ, bom có nổ khơng? Khơng thì làm cách nào để
châm mìn lần thứ hai? Tơi nghĩ thế, nghĩ thêm: đứng cẩn thận, mảnh bom ghim vào cánh tay thì khá phiền. Và
mồ hơi thấm vào mơi tơi, mằn mặn, cát lạo xạo trong miệng.
Nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì qi, đến váng óc. Ngực tơi nhói, mắt cay mãi mới mở ra được. Mùi
thuốc bom buồn nôn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan đi âm thầm trong những bụi cây. Mảnh bom
xé khơng khí, lao và rít vơ hình trên đầu.”...

(Lê Minh Khuê, Những ngôi sao xa xôi, Ngữ văn 9, tập hai, trang 117-118)
------------ Hết -----------a, Nội dung trình bày (2,5 điểm)
- Giới thiệu nhà văn Lê Minh Khuê, nhà văn nữ trưởng thành trong giai đoạn chống Mĩ, đã trực tiếp tham
gia chiến đấu trên đường mòn Trường Sơn. (0,25 điểm)
- Giới thiệu nhân vật chính trong các sáng tác: người nữ thanh niên xung phong trên đường mòn Trường
Sơn trong giai đoạn chống Mĩ. Trong đó, có nhân vật Phương Định, một cô gái Hà Nội để lại nhiều cảm xúc nơi
người đọc.
- Giới thiệu đoạn trích: được trích từ truyện ngắn Những ngơi sao xa xơi của Lê Minh Khuê sáng tác năm
1971 lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễn ra ác liệt. (0,25 điểm)
Nội dung đoạn trích thuật lại khung cảnh và công việc phá bom của Phương Định và hai nữ đồng đội ở
một cao điểm trên đường Trường Sơn.
- Đoạn trích biểu hiện những phẩm chất của Phương Định: (2,0 điểm)

15


+ Phương Định đã sống trong một hoàn cảnh chiến tranh rất gian khổ và nguy hiểm : vùng đất bị bom
đạn tàn phá; cây còn lại xơ xác; đất nóng và khói đen thì vật vờ từng cụm.
+ Phương Định là một cơ gái có tình cảm tha thiết đối với đồng đội, nhất là với các chiến sĩ lái xe trên
đường mòn, các chiến sĩ ở các cao điểm gần nơi mà các cô công tác.
+ Là một cô gái xuất thân từ Hà Nội, lãng mạn, giàu xúc cảm. Cho nên, khi làm công việc phá bom,
Phương Định khơng tránh khỏi cảm xúc bình thường ở nơi con người: cảm thấy hồi hộp, căng thẳng, cảm thấy
nhức nhối, mắt cay.
+ Phương Định là một cô gái dũng cảm. Phân tích: Tư thế; Hành động; Suy nghĩ; Kết quả của hành
động phá bom.
Để phá được bom, cô phải đến gần quả bom, dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom trong lúc vỏ quả bom
nóng (một dấu hiệu chẳng lành). Cơ bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, sau đó châm ngịi, chạy lại chỗ ẩn
nấp…, lo lắng liệu bom có nổ, ... bom nổ, tiếng kỳ qi đến váng óc… Đó là một cơng việc diễn ra một cách
thường xuyên trong cuộc sống hàng ngày của Phương Định và các đồng đội. Công việc nguy hiểm nhưng cơ
ln cố gắng để hồn thành nhiệm vụ thật tốt.

- Ngồi đoạn trích này, nhà văn cịn có những chi tiết khác về Phương Định: một cô gái Hà Nội đẹp,
nhiều mơ mộng, lãng mạn, giàu tình cảm đối với gia đình, đối với q hương. Điều đó mang lại cho hình ảnh
nhân vật một vẻ đẹp hồn chỉnh, tiêu biểu cho vẻ đẹp tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.
- Khi xây dựng nhân vật, nhà văn đã đặc biệt khai thác hoàn cảnh sống và hành động, ngơn ngữ của nhân
vật để khắc họa tính cách.
- Phương Định, một hình tượng đẹp, có ý nghĩa tiêu biểu về người thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Cùng với những hình tượng nghệ thuật khác như hình tượng anh thanh niên trong
Lặng lẽ Sa Pa, người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính… thì nhân vật Phương Định đã góp
phần phong phú hóa hình tượng cao đẹp của con người Việt Nam trong chiến đấu.

16



×