Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

tieu luan viec lam va day nghe cho nguoi khuyet tat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.31 KB, 15 trang )

GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

1. Đặt vấn đề
Toàn tỉnh Đồng Nai đã thực hiện trợ cấp thường xuyên cho trên 3000 người
khuyết tật nặng. Hiện nay, người khuyết tật gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các cơ hội
tiếp cận các hoạt động, dịch vụ nhằm nâng cao năng lực, tạo thuận lợi cho việc hội
nhập đời sống của cộng đồng. Bản thân người khuyết tật không thể hội nhập vào cuộc
sống cộng đồng nếu đó chỉ là sự nỗ lực của bản thân mà còn cần được sự quan tâm
chia sẻ, tạo thuận lợi từ gia đình, cộng đồng và xã hội. Chính sách của nhà nước đóng
vai trò như là cầu nối để người khuyết tật để họ có thể dễ dàng hoà nhập với cộng
đồng và xã hội từ đó phát huy được khả năng của mình. Chính vì những lý do đó để
làm rõ “chính sách giải quyết học nghề và việc làm cho người khuyết tật" là rất cần
thiết.
Tiểu luận được thực hiện bằng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp để
xử lý tài liệu thu thập, so sánh và minh hoạ bằng biểu đồ, sơ đồ, tham khảo tài liệu có
liên quan đến người khuyết tật tại tỉnh Đồng Nai như kế hoạch số 10133/KH-UBND
trợ giúp người khuyết tật của UBND tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013-2020, các báo cáo
của Sở Lao Động Thương Binh và Xã Hội, các hoạt động với các tổ chức nước ngoài
nhằm hỗ trợ việc làm và an sinh xã hội cho người khuyết tật.
2. Thực trạng dạy nghề, việc làm của người khuyết tật ở tỉnh Đồng Nai
2.1. Thực trạng
Theo báo cáo kết quả điều tra, rà soát NKT, TEKT năm 2013 tại cộng đồng dân
cư và tại các Trung tâm, các cơ sở BTXH của sở LĐTBXH tỉnh Đồng Nai, toàn tỉnh
có 23.235 người khuyết tật, chiếm 0,93% dân số toàn tỉnh (Nam 13.846, Nữ 9.389).
Số Lượng Người Khuyết Tật

công tác xã hội với người khuyết tật

1



GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

nữ; 9.39

nam; 13.85

Ng ườ i khuyết t ật ở độ tuổi lao động

12.43

1.63
1.2
Có việc làm
Việc làm ổn định
Làm việc nhà và việc làm không ổn định

biểu đồ 2

Biểu đồ 1
công tác xã hội với người khuyết tật

2


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

Các Dạng Khuyết Tật
12.04

5.73

4.53

3.74
2.42

tật vận động

tật nghe, nói

tật nhìn

1.59

tật thần kinh

tật trí tuệ

tật khác

Chia theo độ tuổi: Từ 0 đến dưới 16 tuổi có 2.460 người; từ 16 đến dưới 60 tuổi có
15.471 người; trên 60 tuổi có 5.296 người, trong đó có 4.746 người khuyết tật đặc biệt
nặng, 18.489 người khuyết tật nặng và tương đối nặng, bao gồm các dạng tật như sau:
biểu đồ 3
Từ 16 tuổi đến dưới đến 60 có tổng số 15.259 người trong độ tuổi lao động
(Nam 9.282, Nữ 5.977),
Nhu cầu và nguyện vọng được chăm sóc sức khỏe; phục hồi chức năng 3.070
người; học văn hóa 207 người; học nghề 587 người; tìm việc làm 942 người; trợ cấp
BTXH 4.834 người và nguyện vọng khác 822 người (Vay vốn SXKD, hỗ trợ tư vấn
việc làm, hòa nhập cộng đồng...)
Về học nghề: Thực hiện Đề án số 1956 của Chính phủ, Sở Lao động – Thương

binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai đã triển khai công tác đào tạo nghề cho trên địa bàn tỉnh,
ngoài ra còn được hỗ trợ tiền ăn và tiền xe đi lại. Nghề học của người khuyết tật chủ
yếu là may công nghiệp, pha chế thức uống, massage, vi tính, đan mây tre, làm tranh
gạo, in lụa và tự kinh tại nhà.
Về việc làm: Trong những năm qua, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã
giới thiệu vào các công ty làm việc cho trên 1200 người khuyết tật, nhiều nhất là các
công ty may giầy da xuất khẩu.
2.2. Nguyên nhân
2.2.1. Trình độ văn hóa

công tác xã hội với người khuyết tật

3


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

Nhìn chung trình độ học vấn của người khuyết tật rất thấp. Xét theo giới tính thì
người khuyết tật là nam giới có trình độ học vấn cao hơn so với người khuyết tật là nữ
giới và ở các cấp học cao hơn thì khoảng cách chênh lệch về trình độ văn hoá giữa
nam giới và nữ giới càng lớn, ở cấp Phổ thông trung học, tỷ lệ nam giới đạt được trình
độ này cao hơn gần 3 lần so với nữ giới.
Xét theo dạng khuyết tật: tỷ lệ chưa biết chữ cao nhất đối với dạng khuyết tật
về nhận thức. Trong các nhóm dạng tật thì nhóm dạng tật vận động có trình độ văn hoá
cao nhất. Như vậy rõ ràng giữa các nhóm dạng tật khác nhau thì khả năng học tập có
sự khác biệt, do vậy chính sách hỗ trợ cũng cần lưu ý sự khác biệt này. Trình độ học
vấn của người khuyết tật rất thấp và không có xu hướng cải thiện trong tương lai nếu
như không có các biện pháp hỗ trợ tích cực từ phía gia đình và cộng đồng xã hội.
2.2.2. Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Phần lớn người khuyết tật chưa qua đào tạo nghề. Về tương lai tình trạng không

qua đào tạo nghề của người khuyết tật cũng khó có thể được cải thiện khi mà nhu cầu
học nghề của người khuyết tật cũng rất thấp.
Đa số người khuyết tật rơi vào vào các gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn,
không có phương tiện đi lại, không có người đưa đón, đặc biệt là nhóm người khuyết
tật ở vùng sâu, vùng xa lại càng khó khăn hơn, do đó việc học văn hóa, học nghề hoặc
tham gia các hoạt động khác hòa nhập khác là không thực hiện được.
Việc tuyên truyền đường lối, chính sách pháp luật trực tiếp cho nhóm người
khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa không thực hiện được do họ không ở tập trung, truyền
thông gián tiếp qua hệ thống đài phát phát thanh ở khu vực này rất hạn chế, nên họ
thường thiếu thông tin về đường lối, chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật.
Người khuyết tật thường tự ty, mặc cảm, ít tiếp xúc với cộng đồng xã hội, đây
là rào cản lớn nhất đối với người khuyết tật, nếu họ không được trợ giúp về pháp lý thì
không xóa bỏ được rào cản này để tạo điều kiện cho họ hòa nhập với cộng đồng.
3. Sự tiếp cận chính sách của Người khuyết tật
Đã triển khai thực hiện tốt công tác trợ giúp đối với người khuyết tật, như: Trợ
giúp xã hội, học nghề, giải quyết việc làm…
Thông qua các hệ thống truyền thông trực tiếp và gián tiếp, nên người khuyết
tật đã hiểu biết về chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước và đã xóa được tự ty,
mặc cảm để hòa nhập với cộng đồng xã hội;

công tác xã hội với người khuyết tật

4


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

Chính sách trợ giúp học nghề hỗ trợ vốn không hoàn lại và vốn vay thông qua
Ngân hàng chính sách Xã hội đã giúp cho người khuyết tật kinh doanh thành đạt, có
thu nhập, ổn định cuộc sống, không lệ thuộc vào gia đình và xã hội.

Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm đã giúp cho người khuyết tật có thu
nhập cao, xóa bỏ được tự ty, mặc cảm và tuyệt đối tin tưởng vào đường lối chính sách
của đảng, pháp luật của Nhà nước, những tấm gương lao động sáng tạo, điển hình của
người khuyết tật ngày càng đông.
Từ tháng 3-2014, tỉnh đã thành lập Ban Vận động các doanh nghiệp tiếp nhận
người lao động khuyết tật vào làm việc. Đến nay, ngày càng có nhiều doanh nghiệp,
nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhận lao động khuyết tật vào làm
việc.
Theo như báo “Người Lao Động” của tỉnh Đồng Nai những người khuyết tật đã
được tạo cơ hội việc làm ổn định như Chị Bùi Thị Thanh Thủy, công nhân Công ty
Changshin Việt Nam bộc bạch: “Năm 17 tuổi, tôi bị mất cánh tay phải sau một tai nạn
giao thông. Tôi rất lo với hoàn cảnh của mình sẽ khó tìm được việc làm, nhưng thấy
nhiều doanh nghiệp ở Đồng Nai vẫn tiếp nhận lao động khuyết tật nên tôi tập làm việc
bằng cánh tay còn lại. Năm 2008, tôi được Công ty Chang Shin nhận vào làm việc.
Hiện tôi làm công nhân ở đây đã được 7 năm, thu nhập mỗi tháng gần 7 triệu đồng.
Tôi nghĩ, người khuyết tật còn sức lao động đều muốn làm việc, vấn đề là cộng đồng
cần tạo cho chúng tôi cơ hội được thử sức”.
Cũng như chị Thủy, chị Trần Thị Trinh, công nhân Công ty TNHH Unipax
(KCN Amata) cũng khát khao được làm việc để tự nuôi sống bản thân. Chị cùng chồng
là Lâm Văn Tâm cũng là người khuyết tật đã có 5 năm làm công nhân với thu nhập ổn
định. Vượt qua sự tự ti với đôi chân bại liệt, anh chị vẫn siêng năng, chịu khó học hỏi.
Mỗi ngày vào xưởng chị đều được người hỗ trợ đẩy xe lăn, được về trước so với thời
gian quy định và trả lương xứng đáng.
Những năm trở lại đây, nhiều doanh nghiệp FDI bắt đầu quan tâm và nỗ lực tạo
việc làm cho lao động khuyết tật. Đến thời điểm này, đã có hàng chục doanh nghiệp
tiếp nhận người khuyết tật vào làm việc. Điển hình như Công ty Changshin Việt Nam
(100% vốn đầu tư của Hàn Quốc, đóng tại KCN Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu) sử dụng
335 lao động khuyết tật, Công ty Sanlim Furniture Việt Nam (KCN Bàu Xéo, huyện
Trảng Bom) có 36 người khuyết tật đang làm việc. Ngoài ra, Công ty Taekwang Vina


công tác xã hội với người khuyết tật

5


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

(KCN Biên Hòa 2), Công ty Pousung Việt Nam (Khu công nghiệp Bàu Xéo), Công ty
TNHH Watabase Weeding (KCN Biên Hòa 2)… cũng đang sử dụng nhiều lao động
khuyết tật.
Theo bao cáo của Sở LĐ-TBXH tỉnh Đồng Nai, đến thời điểm này, các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã tiếp nhận hơn 1.600 lao động khuyết tật vào làm
việc với mức lương từ 3,5 triệu đồng/tháng đến trên 6 triệu đồng/tháng. Trong số này,
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sử dụng hơn 1.200 lao động
khuyết tật.
Tại Công ty Sanlim Furniture Việt Nam, từ năm 2009, doanh nghiệp bắt đầu
tuyển dụng lao động khuyết tật, đến thời điểm này, doanh nghiệp đã tiếp nhận gần 40
người khuyết tật (các dạng tật như khiếm thính, bị cụt chân, cụt tay…) vào làm việc
với thu nhập từ 4,8 đến 6,3 triệu đồng/tháng.
Thời gian qua, công ty đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho lao động khuyết tật
như cho phép lao động khuyết tật được xuống ca trước 20 phút để ăn cơm, đi về. Giờ
bắt đầu làm việc của người khuyết tật cũng trễ hơn so với người thường. Thuyết phục
doanh nghiệp nhận người khuyết tật đa số người khuyết tật luôn cố gắng, chăm chỉ làm
việc, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, vẫn có một số ít lao động dù đã được
công ty nhận vào làm nhưng do tâm lý mặc cảm, một số người được gia đình quá bao
bọc, khiến họ chán nản, thiếu động lực lao động, tự ý xin nghỉ việc.
Về góc độ doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp FDI đã đề ra chính sách riêng
nhằm hỗ trợ, phát huy năng lực làm việc của người khuyết tật. Song vẫn còn một số
doanh nghiệp chưa nắm được thông tin về chính sách pháp luật liên quan đến lao động
khuyết tật. Doanh nghiệp băn khoăn về giải pháp an toàn lao động, chống cháy nổ khi

tuyển người khuyết tật vào làm việc. Trước tình hình đó, từ tháng 3-2014, tỉnh đã
thành lập Ban Vận động các doanh nghiệp tiếp nhận người lao động khuyết tật vào làm
việc. Sau 8 tháng hoạt động, Ban đã tổ chức tuyên truyền chính sách pháp luật và chủ
trương của Nhà nước về công tác hỗ trợ người khuyết tật. Tổ chức gặp gỡ gần 40
doanh nghiệp tại Đồng Nai để vận động các công ty tiếp nhận người khuyết tật vào
làm việc. Trong số các doanh nghiệp mà Ban Vận động đến làm việc, có gần 20 doanh
nghiệp đang sử dụng lao động khuyết tật. Các doanh nghiệp còn lại sau khi được tuyên
truyền đã tuyển dụng 32 lao động vào làm việc.

công tác xã hội với người khuyết tật

6


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

Để hỗ trợ người khuyết tật có khả năng lao động được làm việc lâu dài, thời
gian tới, Ban Vận động sẽ tăng cường gặp gỡ, khuyến khích doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp FDI để tăng cường thuyết phục tiếp nhận lao động khuyết tật. Đồng thời,
đẩy mạnh công tác đào tạo nghề song song với việc hỗ trợ, giới thiệu người khuyết tật
vào làm việc tại các công ty.
4. Nguồn lực tại tỉnh Đồng Nai trong việc triển khai chính sách
4.1. Nguồn lực tài chính
Theo kế hoạch số 997/KH-UBND ngày 20 tháng 11 năm 2013 của tỉnh Đồng
Nai, kinh phí huy động để thực hiện kế hoạch trợ giúp người khuyết tật của tỉnh giai
đoạn 2013 - 2015 dự kiến là 56.620 triệu đồng, trong đó: Ngân sách của Nhà nước
30.720 triệu đồng, (Trung ương: 1.500 triệu đồng để thực hiện công tác tuyên truyền,
xây dựng mô hình; ngân sách của tỉnh là 22.900 triệu đồng (để thực hiện chính sách
BTXH là 21.000 triệu đồng; tổ chức các hội nghị sơ tổng kết, thi đua khen thưởng, đi
hướng dẫn, kiểm tra giám sát là 1.500 triệu đồng; ngân sách của huyện 3.300 triệu

đồng (100 triệu/1 huyện/1 năm); ngân sách của xã là 3.420 triệu đồng (20 triệu
đồng/xã /năm); huy động các tổ chức Quốc tế, các tổ chức phi chính phủ: 15.000 triệu
đồng; các tổ chức từ thiện xã hội và của các Hội: Chữ thập đỏ, Hội Nạn nhân chất độc
da cam, Hội hỗ trợ NKT vươn lên, Quỹ BTTE… là: 9.000 triệu đồng; 500 gia đình
NKT được hỗ trợ sinh kế sản xuất kinh doanh là 500 triệu đồng (1 triệu đồng/hộ/3
năm); hàng, quà, hiện vật quy tiền là 1.000 triệu đồng (kèm theo phụ lục dự toán kinh
phí).
Nguồn ngân sách nhà nước, đơn vị tính: Triệu đồng
Kinh
TT

Hoạt động

phí nhà

2013 - 2015
2013

2014

2015

500

100

150

250


400

100

200

100

2.100

500

800

800

nước
1

Công tác tổ chức và cơ chế, nghiên

2

cứu ban hành chính sách
Khảo sát, bổ sung NKT nhẹ; hoàn
thiện phần mềm, nâng cấp phục vụ

3

quản lý số liệu về NKT

Nâng cao năng lực và truyền
thông, Xây dựng mô hình hỗ trợ
NKT

công tác xã hội với người khuyết tật

7


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

4

Hỗ trợ về y tế, giáo dục, học nghề,
việc làm và chính sách BTXH, an

27.720

9.400

9.100

9.220

30.720

10.100

10.250


10.370

sinh xã hội
Tổng cộng
Nguồn vận động, đơn vị tính: Triệu đồng
TT
1

2

3

4

Hoạt động
Công tác tổ chức và cơ chế,
nghiên cứu ban hành chính sách
Khảo sát, bổ sung TKT nhẹ; hoàn
thiện phần mềm, nâng cấp phục
vụ quản lý số liệu về TKT
Nâng cao năng lực và truyền
thông, xây dựng mô hình điểm
Hỗ trợ về y tế, giáo dục, học nghề,
việc làm và chính sách BTXH, an

Vận

2013 - 2015
2014
2015


động

2013

2.000

600

700

1.000

200

800

2.900

900

1.000

1.000

19.600

4.000

7.500


8.100

25.500

5.700

10.000

9.800

700

sinh xã hội
Tổng cộng

Nguồn kinh phí ngân sách và vận động trong hỗ trợ học nghề và việc làm ở
mức cao, đánh giá sự quan tâm của chính quyền địa phương và việc thực hiện chính
sách cho Người khuyết tật luôn được ưu tiên.
4.2. Nguồn lực con người công tác tổ chức và cơ chế chính sách
Tiếp tục củng cố ban chỉ đạo thực hiện Kế hoạch trợ giúp người khuyết tật cấp
tỉnh và ban điều hành các huyện, thị xã Long Khánh và thành phố Biên Hòa đảm bảo
sự phối hợp giữa các ngành, đồng thời tăng cường công tác hướng dẫn, giám sát và
đánh giá việc triển khai thực hiện ở cơ sở.
Củng cố mạng lưới cộng tác viên làm công tác quản lý trường hợp, tham vấn
cộng đồng tại xã, phường, thị trấn. Mỗi xã, phường, thị trấn có ít nhất 04 cộng tác viên
(cán bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cán bộ Giáo dục - Đào tạo, Cán bộ Trạm Y
tế, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ hoặc Hội Nạn nhân chất độc da cam). Huy
động nguồn lực và kinh phí để tập huấn công tác xã hội với người khuyết tật, hỗ trợ
duy trì mạng lưới cộng tác viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.


công tác xã hội với người khuyết tật

8


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

Ban hành, bổ sung, điều chỉnh các quy định về chế độ bồi dưỡng cho giáo viên
dạy hòa nhập, ưu tiên tăng định biên cho các trường có dạy hòa nhập và chuyên biệt,
chế độ đãi ngộ cho các cơ sở dạy nghề và các cơ sở sản xuất tư nhân có nhận dạy nghề
cho người khuyết tật, quy định về chế độ hỗ trợ cho người khuyết tật được tham gia
học nghề, quy chế dạy nghề linh hoạt đối với người khuyết tật (quy trình, thời gian đào
tạo…), thực hiện chế độ ưu tiên về nước sạch, vệ sinh môi trường phù hợp đối với các
gia đình có người khuyết tật.
Hỗ trợ một số trường, trung tâm dạy nghề trong tỉnh tiếp tục xây dựng, hoàn
chỉnh chương trình đào tạo nghề phù hợp với năng lực của người khuyết tật.
Cung cấp trang thiết bị đào tạo chuyên sâu và phù hợp với các ngành nghề dành
cho người khuyết tật tại các cơ sở dạy nghề có nhận đào tạo cho người khuyết tật. Tư
vấn nghề cho 100% người khuyết tật trong độ tuổi lao động và có khả năng học nghề
để các có lựa chọn nghề phù hợp với tình trạng khuyết tật và sức khoẻ. Tổ chức dạy
nghề cho 60% người khuyết tật được tư vấn.
Vận động 100% các cơ sở dạy nghề của Nhà nước, tư nhân và ít nhất 10% các
cơ sở sản xuất tư nhân nhận dạy nghề cho người khuyết tật.
Vận động các cơ sở sản xuất (đặc biệt là các Cơ quan, Doanh nghiệp Nhà nước)
nhận những người khuyết tật đã qua đào tạo nghề vào làm việc, giới thiệu việc làm cho
người khuyết tật đã được đào tạo tại các cơ sở dạy nghề.
5. Khó khăn, giải pháp trong việc triển khai chính sách học nghề, việc làm
cho Người khuyết tật tại tỉnh Đồng Nai
5.1. Khó khăn

Bên cạnh đó không ít người khuyết tật gặp khó khăn trong quá trình tiếp cận cơ
hội học nghề, tìm việc làm, người khuyết tật gặp rất nhiều khó khăn. Thiếu thông tin
về học nghề, việc làm là một trong những trở ngại, nhất là người khiếm thính. Để khắc
phục cần có sự quan tâm của gia đình, đoàn thể, tổ chức hội, chính quyền địa phương
giới thiệu, cung cấp thông tin cho người khuyết tật, những điều này không được như
mong đợi. Cùng với đó là bản thân người khuyết tật còn tự ti không mạnh dạn liên hệ
hoặc chủ động đề nghị giới thiệu, giúp đỡ.
Rào cản giao thông cũng là thách thức không nhỏ. Quy định cấm xe 3 bánh chở
hàng, nhưng đồng thời lại chưa có giải pháp tháo gỡ thỏa đáng khiến một bộ phận
người khuyết tật sống bằng nghề chở hàng xe ba bánh mất việc, không có thu nhập và

công tác xã hội với người khuyết tật

9


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

cũng chưa chuyển đổi nghề khác phù hợp. Đi lại bằng giao thông công cộng thì xe
buýt không tiếp cận được, thái độ phục vụ còn thờ ơ. Đến đi lại bằng đường hàng
không còn trường hợp bị từ chối phục vụ. Khó khăn trong đi lại đồng nghĩa với khó
khăn tìm kiếm việc làm (trừ một số người làm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,
nhận gia công tại nhà....)
Rào cản về môi trường xây dựng như: Trụ sở nơi làm việc, cơ sở học nghề
không có lối đi người khuyết tật. Rào cản về nhận thức khi hầu hết chủ doanh nghiệp
cho rằng sử dụng người khuyết tật sẽ thêm nặng trách nhiệm, tốn kém. Còn ở địa
phương vẫn tồn tại nhận thức giải quyết việc làm cho người lành còn chưa xong, làm
sao lo được cho người khuyết tật. Nhận thức này sai lầm, vì tình trạng thất nghiệp là
một tồn tại xã hội, không giải quyết triệt để được. Nếu việc gì cũng phải chờ lo cho
xong người lành mới đến người khuyết tật thì họ không bao giờ có cơ hội việc làm.

Quy định người khuyết tật làm việc 7h/ngày kiến nhiều doanh nghiệp ngại
tuyển dụng người khuyết tật vì không đảm bảo hoạt động sản xuất bình thường. Với
một số công việc đòi hỏi trình độ cao, người khuyết tật có thể đáp ứng nhưng không
được sự quan tâm đào tạo. người khuyết tật tự tạo việc làm gặp nhiều khó khăn trong
tiếp cận vốn vì vay Ngân hàng Chính sách thì không có tài sản thế chấp, thủ tục vay
vốn phức tạp....
5.2. Giải pháp đề xuất hỗ trợ cho Người khuyết tật trong quá trình dạy nghề,
việc làm
Để cải thiện tình trạng trên, nâng cao cơ hội cho người khuyết tật học nghề, có
việc làm cần sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả của các ngành hữu quan và sự quan tâm
của cả cộng đồng. Phải phổ cập và nâng cao trình độ văn hóa cho người khuyết tật, tạo
điều kiện cho họ học tập và học càng cao càng tốt. Cần đào tạo cho Người khuyết tật
(NKT) ở mọi trình độ văn hóa. Đào tạo nghề phải gắn với tạo việc làm, có thu nhập.
Quan tâm đến vấn đề can thiệp sớm, phục hồi chức năng ngay từ khi còn nhỏ để tránh
khuyết tật nặng, tránh gây khó khăn trong học nghề và tìm việc làm sau này.
Tạo điều kiện cho NKT đi lại thuận lợi. Các cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở giáo
dục, đào tạo, dạy nghề phải sửa chửa, cải tạo cơ sở vật chất để NKT tiếp cận và sử
dụng. Nếu như cùng chung một ngành nghề, một môi trường làm việc, thì hãy quan
tâm chia sẽ và ưu tiên hơn 1 chút cho những người NKT. Thay đổi nhận thức của chủ
sử dụng lao động về khả năng làm việc của NKT, thay đổi định kiến cho rằng NKT

công tác xã hội với người khuyết tật

10


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

không đảm bảo sức khỏe làm việc, nhận NKT thêm phiền phức, tốn kém, kinh doanh
không có lãi. Bên cạnh những lợi ích của việc sử dụng lao động NKT, cần phải nhận

thức đây cũng là trách nhiệm đối với xã hội. Vì nếu không được làm việc thì NKT sẽ
phải sống phụ thuộc, gánh nặng gia đình và cộng đồng.
Thông tin về dạy nghề, việc làm cho NKT phải đến được NKT. Nên thông qua
tổ chức tự lực của NKT, tổ chức vì NKT để tuyên truyền về các chương trình, các dự
án, khóa học nghề, tuyển dụng NKT để họ nắm được thông tin và đăng ký tham dự.
Cần tổ chức nhiều hơn hội chợ việc làm, ngày hội tuyển dụng dành cho NKT....
Tiếp tục hoàn thiện chính sách cần nghiên cứu, có cơ chế phù hợp về việc NKT
làm việc 7 giờ/ngày. Cần có quy định về ngành nghề dành riêng cho NKT. Cần chặt
chẽ hơn trong các quy định về tổ chức dạy nghề cho NKT như: Giáo án phù hợp, chính
sách thỏa đáng cho giáo viên dạy văn hóa, dạy nghề, phiên dịch cho người khiếm
thính. Thời gian học nghề đối với NKT cần phải linh hoạt, tăng thêm thời gian so với
người không khuyết tật. Tạo điều kiện cho NKT tiếp cận các nguồn vốn vay, hỗ trợ
kinh phí cho các tổ chức tự lực, cơ sở sản xuất kinh doanh của NKT. Đặc biệt quan
tâm và tạo điều kiện cho đơn vị, cơ sở của NKT tự tạo việc làm phát triển như: Cho họ
được tham gia thực hiện các dự án, chương trình về việc làm cho NKT; ưu đãi về vốn,
thuế, mặt bằng, địa điểm tổ chức sản xuất, được tham gia tập huấn về quản lý....
Không nên chỉ dành chính sách ưu đãi đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh mà nên mở
rộng chính sách ưu đãi đối với cơ sở của NKT ở các lĩnh vực như: dịch vụ du lịch,
dịch vụ tư vấn, .... Vì hiện nay, NKT đã có mặt và tham gia vào mọi lĩnh vực của cuộc
sống.
Lồng ghép vấn đề việc làm cho NKT vào các chương trình xóa đói giảm nghèo,
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Phải tách riêng kinh phí dạy nghề để tạo
tạo việc làm cho NKT, không để chung với kinh phí hỗ trợ cho nông dân. Tạo thuận
lợi và ưu tiêu tìm đầu ra cho sản phẩm đảm bảo chất lượng do NKT sản xuất, tương tự
ưu tiên dành đường, chỗ đỗ xe ... Cho NKT.
Có chính sách khuyến khích dạy nghề cho NKT tại cộng đồng. Vì phần lớn
NKT sống ở gia đình, gắn với cộng đồng dân cư nên hướng dạy nghề, tạo việc làm cho
NKT ở cộng đồng là thích hợp và thuận tiện nhất. Đầu tư nâng cao năng lực, trang
thiết bị kiến thức, kỹ năng, tay nghề, phát huy tài năng của lao động NKT. Với NKT ở
vùng xâu, vùng xa, khu vực nông thôn, nên quan tâm và nâng thành tầm chiến lược


công tác xã hội với người khuyết tật

11


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

cấp quốc gia thực hiện "Chương trình tạo việc làm tại chỗ", tạo điều kiện cho NKT và
gia đình của họ tự tạo việc làm.
Người khuyết tật (NKT) là đối tượng xã hội luôn tồn tại. Dạy nghề và tạo việc
làm, hỗ trợ, giúp đỡ NKT ổn định cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng là việc làm có ý
nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Để làm tốt việc này, theo ý
kiến của các chuyên gia thì cần phải có khảo sát, thống kê phân loại NKT theo dạng tật
và khả năng lao động, từ đó nghiên cứu ban hành các danh mục nghề đào tạo phù hợp,
phát triển các mô hình dạy nghề tạo việc làm cho NKT...
Nếu như NKT khu vực thành thị có cơ hội tìm việc làm phù hợp trong nhiều
công ty với mô hình và loại hình công việc đa dạng, thì ở vùng sâu vùng xa, ngay cả
người khỏe mạnh bình thường muốn tìm công việc ổn định cũng là điều khó. Đây
được cho là một trong những khó khăn lớn mà nếu không có sự chung tay của cả cộng
đồng, thì NKT dù có nỗ lực đến đâu cũng khó thoát cảnh thất nghiệp và nghèo khó.
Những năm gần đây khi đất nước ngày càng phát triển thì cơ hội việc làm cho
NKT ngày càng nhiều hơn bởi sự quan tâm của Nhà nước thông qua các chính sách và
sự ra đời của các tổ chức tự lập, các tổ chức phi chính phủ. Đặc biệt là Luật NKT Việt
Nam đã được Quốc hội thông qua và đi vào thực tiễn.
Song song đó, trình độ dân trí, phương tiện giao thông và thông tin đại chúng
phát triển cũng mang đến cơ hội học tập cho NKT, cụ thể là ngày càng nhiều sinh viên
khuyết tật và các Câu lạc bộ Sinh viên khuyết tật các trường đại học được thành lập.
Người sử dụng lao động đã có cách nhìn tích cực hơn đối với lực lượng lao động là
NKT. Họ tuyển NKT vì trình độ và năng lực chứ không nhìn vào sự “khuyết tật”, lòng

nhân đạo hay một sự “quen biết” nào đó.
Tuy nhiên, những thách thức vẫn còn rất nhiều. Hàng năm, Bộ LĐ-TB&XH
đều có giao chỉ tiêu và ngân sách cho các Sở LĐ-TB&XH các tỉnh và thành phố để
đào tạo nghề cho NKT, nhưng số NKT sau khi đào tạo vẫn không có nhiều việc làm
nên tình hình không được cải thiện bao nhiêu. Câu hỏi đặt ra là Bộ LĐ-TB&XH có
đánh giá chất lượng của việc đào tạo nghề cho NKT sau mỗi khóa học? Trước và sau
khi đào tạo nghề có tìm hiểu nhu cầu của NKT và tình hình thực tế của nghề đó liệu có
phù hợp với thực tế?
Trình độ và lòng nhiệt tình của người dạy. Đây là một vấn đề tế nhị vì người
dân ta thường “tôn sư trọng đạo” nếu người dạy nghề không đủ trình độ chuyên môn

công tác xã hội với người khuyết tật

12


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

sẽ đào tạo “hỏng” học sinh và hậu quả là người học sẽ thất nghiệp khi ra trường. Thêm
vào đó, thầy cô phải hiểu tâm lý học trò của mình và tránh làm tổn thương họ. NKT rất
dễ tổn thương và suy diễn vì những hành động, lời nói vô tình của giáo viên. Ngoài ra,
mỗi địa phương đều có những đặc thù riêng nên ngành nghề cũng phải dựa trên đó.
Nghề đó có đáp ứng với nhu cầu thực tế cuộc sống? Có thể “sống” được với nghề?
Điều quan trọng nữa là ngân sách, thời gian đào tạo và máy móc thiết bị có trang bị đủ
cho việc đào tạo nghề? Thời gian đào tạo nên được hiểu là thời gian đủ để học viên
học, thực hành và sáng tạo để sau khóa học, họ khá thạo nghề và có thể kiếm sống
được từ nghề đã đào tạo.
Ngoài các cơ sở đào tạo nghề của Nhà nước thì những năm gần đây, các tổ chức
phi chính phủ và các tổ chức tự lực của NKT cũng đã và đang tham gia vào việc đào
tạo nghề cho NKT. Ngoài những khó khăn nêu trên, những tổ chức này lại gặp vấn đề

nan giải khác: ý thức của NKT và gia đình họ. Đa số những NKT thường mặc cảm và
tự ti về sự khuyết tật của mình nên rất ngại khi xa gia đình đi học nghề. Tâm lý tự ti và
trở ngại về khoảng cách địa lý làm họ e ngại, không muốn vươn lên học nghề cũng
như không tự tin là mình có thể làm việc tự nuôi sống mình và gia đình. Bên cạnh, hầu
hết gia đình NKT là gia đình nghèo, ở nông thôn, dân trí thấp nên họ không khuyến
khích con, cháu mình đi học nghề mà chỉ muốn họ ở nhà để giữ nhà và làm hết việc
cho mọi người đi làm. Điều này đã làm tăng cao tỷ lệ thất nghiệp của NKT. Đây chính
là cái vòng lẩn quẩn mà NKT luôn gặp phải.
Không khí nơi làm việc cũng là một rào cản rất lớn khi NKT tìm việc làm.
Trước tiên, hãy nói về thái độ làm việc của NKT. Bên cạnh một số NKT thực sự đi làm
vì muốn tự lực, còn có một số NKT làm việc chỉ vì ở nhà buồn, muốn tìm chỗ đông
người để vui chơi, không cần kiếm tiền, vì đã có gia đình chu cấp. Chính quan điểm
như thế nên thái độ làm việc không tích cực, không nỗ lực, cầu tiến, dẫn đến người sử
dụng lao động có suy nghĩ lệch lạc về thái độ làm việc của NKT, không muốn tuyển
dụng.
Về việc làm: các cơ quan chức năng có liên quan tổ chức các dự án xúc tiến
việc làm cho người khuyết tật như: tạo nghề và phổ biến nghề nghiệp phù hợp cho
những người khuyết tật, thiết kế và xây dựng các nhà xưởng và nơi làm việc phù hợp
để những người tàn tật thuộc các dạng tật khác nhau có thể tiếp cận được, hỗ trợ sử
dụng các công nghệ mới, phát triển và sản xuất các phương tiện và phương pháp hỗ trợ

công tác xã hội với người khuyết tật

13


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

người khuyết tật để họ có thể có việc làm và duy trì công việc của mình, cung cấp các
khoá đào tạo và việc làm phù hợp và tiếp tục các trợ giúp cá nhân và các dịch vụ phiên

dịch, thiết kế, xây dựng các chiến dịch nâng cao nhận thức cho công chúng nhằm loại
bỏ các thái độ tiêu cực hay các định kiến về các công nhân, nhân viên là người khuyết
tật, có các biện pháp cải thiện môi trường làm việc để phòng ngừa các tai nạn hay các
bệnh nghề nghiệp và phải có biện pháp giáo dục, phục hồi chức năng cho những người
bị tai nạn nghề nghiệp.
5. Kết luận
Trong bất cứ 1 xã hội nào cũng có 1 bộ phận người ít có may mắn, có thể là
những người nghèo, hay bệnh nan y hoặc người khuyết tật…sự không may mắn của
họ là do nhiều nguyên nhân đưa đến, cũng như đối với người khuyết tật, để lý giải
nguyên nhân gây khuyết tật cũng có nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như: tai nạn giao
thông, thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn lao động, bệnh hoặc bẩm sinh…Song Đảng, Nhà
nước và nhân dân luôn quan tâm bằng cách đưa ra những chính sách phù hợp nhất để
họ tự phát triển bản thân và không là gánh nặng cho gia đình, cộng đồng xã hội.
Chính sách về giải quyết học nghề, việc làm cho người lao động khuyết tật là
những quy định pháp lý được xây dựng nhằm loại bỏ những bất công mà người khuyết
tật đang phải gánh chịu, xóa bỏ các cơ chế khiến người khuyết tật bị tách biệt ra ngoài
xã hội, đồng thời tăng cường cơ hội việc làm bình đẳng cho họ trong thị trường lao
động.
Đất nước ta đang trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, với
mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, chính vì lẽ
đó, việc chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật
là yêu cầu quan trọng. Hơn lúc nào hết cần phải tổ chức tốt hoạt động thực hiện chính
sách về người khuyết tật với hệ thống pháp luật đồng bộ, không rào cản đối với người
khuyết tật nói riêng và hoạt động thực hiện hệ thống pháp luật nói chung. Thực trạng
người khuyết tật và công tác thực hiện pháp luật về người khuyết tật cho thấy mặc dù
đã có nhiều tiến bộ trong quá trình tổ chức thực hiện song đời sống của người khuyết
tật vẫn gặp nhiều khó khăn, việc tiếp cận đầy đủ và hoà nhập đời sống xã hội của họ
vẫn còn nhiều rào cản. Thực tế này đòi hỏi phải có sự đổi mới trong nhận thức cũng
như thực hiện pháp luật về người khuyết tật trong giai đoạn hiện nay. Những giải pháp
nhằm bảo đảm thực hiện chính sách về người khuyết tật hướng đến việc xác định trách


công tác xã hội với người khuyết tật

14


GVHD: TS.Nguyễn Minh Tuấn

nhiệm từ phía nhà nước cũng như vai trò của các tổ chức xã hội, đó là những chủ thể
quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người khuyết
tật.
Như vậy, giải quyết việc làm cho người khuyết tật không chỉ trông chờ vào tinh
thần nhân đạo của các tổ chức, doanh nghiệp hoặc theo chương trình hợp tác dự án với
các tổ chức nhân đạo ngước ngoài. Về phía người khuyết tật cũng phải tự trang bị cho
mình những kiến thức, kỹ năng chuyên môn, sẵn sàng đảm đương được công việc của
nhà tuyển dụng để khẳng định được mình là những người “tàn mà không phế”. Đã đến
lúc, cần phải có hành lang pháp lý chặt chẽ hơn về trách nhiệm của người quản lý. Có
như vậy, người khuyết tật mới được hưởng đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý như
những người lao động bình thường khác, góp phần đưa ước nguyện “hãy đưa chúng
tôi hòa nhập với cộng đồng” của người khuyết tật trở thành hiện thực.
Tài liệu tham khảo
/>Báo cáo của Sở Lao Động Thương và Xã Hội tỉnh Đồng Nai về Người Khuyết
Tật
Luật Người khuyết tật được Quốc Hội thông qua ngày 17/06/2010 có hiệu lực
ngày 01/01/2011.
Kế hoạch số 9971 trợ giúp người khuyết tật tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2013-2015
( />Báo vnexpress
Báo người lao động
Báo tuổi trẻ
Hội nghị diễn đàn Người khuyết tật Châu Á Thái Bình Dương năm 2014.

( />
công tác xã hội với người khuyết tật

15



×