Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Lịch sử Đoàn chương 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.5 KB, 48 trang )

CHƯƠNG X: CÁC PHONG TRÀO “BA SẴN SÀNG”, “NĂM XUNG PHONG”
THỂ HIỆN Ý CHÍ KIÊN CƯỜNG VÀ QUYẾT TÂM CỦA THANH NIÊN CẢ
NƯỚC VÌ THẮNG LỢI CỦA SỰ NGHIỆP CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC


Ngày 5-8-1964 sau khi gây ra sự kiện “vịnh Bắc Bộ”, Mỹ cho không quân tiến hành
đánh phá một số điểm trên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam (Vinh, Thanh Hóa, Quảng
Ninh…) mở đầu cuộc chiến tranh bằng không quân chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, trắng trợn xâm phạm chủ quyền một quốc gia độc lập. Cả nước căm phẫn trước tội ác
leo thang chiến tranh của Mỹ. Từ trong các xí nghiệp, công trường, nhà máy, trên các
đường phố, cơ quan, các thôn xóm… ở đâu thanh niên cũng sục sôi khí thế sẵn sàng cho
một cuộc đối đầu lịch sử.
Bốn ngày sau, đêm 9-8-1964, 26 vạn thanh niên Thủ đô Hà Nội đã xuống đường lên án
hành động phiêu lưu chiến tranh của Mỹ. Từ quảng trường Nhà hát thành phố (nay là
Quảng trường Cách mạng Tháng Tám) lớp lớp thanh niên công nhân, nông dân, trí thức,
học sinh… ba lô trên vai, lá ngụy trang đầy người rầm rộ diễu hành qua các đường phố
Tràng Tiền, Hai Bà Trưng, Lý Thái Tổ… biểu thị quyết tâm sẵn sàng thực hiện mọi nhiệm
vụ của Đảng và Tổ quốc giao cho.
Tại hội trường Bộ Công nghiệp Nặng (đường Hai Bà Trưng) ngọn lửa truyền thống
được tuổi trẻ đốt lên khi Ban Chấp hành Thành Đoàn Hà Nội kêu gọi đoàn viên và thanh
niên vươn lên hàng đầu trong chiến đấu, lao động và học tập… kiên quyết thực hiện “Ba
sẵn sàng”:
- Sẵn sàng chiến đấu.
- Sẵn sàng nhập ngũ.
- Sẵn sàng đi bất cứ nơi nào Tổ quốc cần đến!
Từ Hà Nội, phong trào nhanh chóng lan rộng đến các tỉnh, thành phố: Hải Phòng,
Quảng Ninh, Nghệ An… Chỉ trong vòng một tháng đã có 1.500.000 đoàn viên và thanh
niên đăng ký thực hiện “Ba sẵn sàng”. Riêng Sơn La, một tỉnh miền núi nằm ở phía Tây
của Tổ quốc, sau khi phong trào “Ba sẵn sàng” được phát động một tháng đã có 40 ngàn
đoàn viên và thanh niên đăng ký tham gia, trong đó có 19 ngàn đăng ký tình nguyện tòng
quân lên đường giết giặc.


Trước hành động leo thang chiến tranh của Mỹ, đêm 2-1-1965, hơn 5 vạn thanh niên Hà
Nội lại xuống đường, một lần nữa biểu thị quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Thanh
niên các đường phố, các xí nghiệp, trường học… tự tổ chức thành đội ngũ, vai khoác ba lô,
lá ngụy trang đầy người, vũ khí trong tay… hừng hực khí thế “Ba sẵn sàng”, rầm rập đi
trên các đường phố chính, tổng duyệt lực lượng.
Từ đó những cuộc hành quân vũ trang liên tiếp được tổ chức trên các đường phố,
trong các ngõ xóm và trở thành phong trào rèn luyện “vai trăm cân, chân ngàn dặm”, chuẩn
bị sẵn sàng khi Tổ quốc cần, có đủ ý chí và sức khỏe lên đường chiến đấu được ngay.
Phát huy khí thế hào hùng của tuổi trẻ, đầu năm 1965, Ban Thường vụ Trung ương
Đoàn TNLĐ Việt Nam đã ra Nghị quyết về công tác “Đẩy mạnh sản xuất và tích cực
chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu”, quyết định đẩy mạnh phong trào tình nguyện “Ba sẵn sàng”
khắp miền Bắc với nội dung mới, thể hiện đầy đủ nhiệm vụ của Đoàn và phong trào thanh
niên trước yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước. Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đoàn lần thứ IX (khóa III) họp từ ngày 4-7 tháng 5-1965 do đồng
chí Bí thư thứ nhất Vũ Quang chủ trì đã quyết định nhiệm vụ của Đoàn thanh niên yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng; tổ chức động
viên 4 triệu đoàn viên và thanh niên miền Bắc tiến lên hàng đầu trên mặt trận sản xuất,
chiến đấu, học tập và xây dựng cuộc sống mới, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược
trong bất kỳ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng
miền Nam và đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Nhiệm vụ chủ yếu đó nêu rõ các cấp bộ Đoàn và toàn thể đoàn viên, thanh niên
phương hướng hành động trên ba mặt cụ thể: Sản xuất và bảo vệ sản xuất; chiến đấu và sẵn
sàng chiến đấu; học tập và rèn luyện. Nội dung phong trào “Ba sẵn sàng”, vì thế được bổ
sung, hoàn thiện thêm:
- Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm và sẵn sàng nhập ngũ (bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương, dân quân tự vệ).
- Sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, công tác và học tập trong bất
kỳ tình huống nào.
- Sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần đến.
Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

không ngừng quan tâm lãnh đạo phong trào có tính cách mạng sâu rộng này của Đoàn và
tuổi trẻ. Hội nghị lần thứ XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III, họp tháng 3-
1965) trong khi nêu lên nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng, toàn dân đã vạch rõ nhiệm vụ
của Đoàn: “Đối với Đoàn cần đẩy mạnh phong trào “Ba sẵn sàng” với nội dung và hình
thức mới”. Ngày 29 tháng 7 năm 1965 Ban Bí thư Trung ương Đảng lại ra chỉ thị số 105-
CT-TW “Về việc tăng cường lãnh đạo công tác vận động thanh niên trong tình hình mới”
khẳng định thanh niên là một lực lượng to lớn có giác ngộ XHCN, có trình độ văn hóa,
khoa học kỹ thuật, có sức khỏe, nếu được tổ chức giáo dục và lãnh đạo tốt sẽ có nhiều
cống hiến cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng XHCN. Cho nên, “vấn đề đặt ra
cho các cấp ủy Đảng và các ngành là phải dựa vào Đoàn TNLĐ với hơn 1 triệu đoàn viên
mà tổ chức, động viên cho được 4 triệu thanh niên nam nữ trên miền Bắc tiến lên hàng đầu
trên mặt trận sản xuất, chiến đấu, học tập và xây dựng cuộc sống mới, quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược, tích cực bảo vệ miền Bắc XHCN và góp phần vào sự nghiệp giải
phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc”.
Bản chỉ thị đã chỉ ra cho tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên những nhiệm vụ cụ
thể trên các mặt trận sản xuất, chiến đấu, học tập và xây dựng cuộc sống mới, đồng thời
coi việc ra sức củng cố Đoàn TNLĐ và tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên là một
đảm bảo để các tầng lớp thanh niên không ngừng phấn đấu vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch
sử lực lượng xung kích đi hàng đầu trong nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, sẵn sàng nhận
bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng và Nhà nước giao phó.
Là người tổ chức, rèn luyện các thế hệ thanh niên Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm đến từng bước đi lên của tuổi trẻ. Nhân ngày 20-7-1965, Người kêu gọi
thanh niên “Các cháu thanh niên gái cũng như trai hãy thực hiện tốt “Ba sẵn sàng”, xung
phong hiến dâng tất cả tinh thần và lực lượng của tuổi trẻ cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước, cho Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội”.
Cũng vào thời điểm này, nhân dịp Quốc khánh lần thứ xét XX của nước Việt Nam
độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư động viên thanh niên. Bác khen ngợi: “Các cháu
là thế hệ anh hùng trong thời đại anh hùng”, đồng thời Bác căn dặn thanh niên “Phải luôn
luôn nâng cao chí khí cách mạng “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Không sợ gian khổ, hy

sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước”. Tại lễ kỷ niệm trọng thể lần thứ 35 ngày thành lập Đoàn
(26-3-1931 - 26-3-1966), Bác Hồ kính yêu, đồng chí Bí thư thứ nhất BCH Trung ương
Đảng Lê Duẩn (khóa III), đồng chí Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh, đồng chí Thủ tướng
Chính phủ Phạm Văn Đồng cùng nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước khác đã đến
với tuổi trẻ. Bác Hồ dạy: “Với một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên cường, chúng ta nhất
định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc. Vì vậy Bác rất tự hào, sung sướng và thấy như mình trẻ lại, thấy tương lai của dân
tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang”.
Đánh giá cao vai trò xung kích cách mạng của tuổi trẻ và luôn đặt rõ vị trí của thanh
niên trong tiến trình cách mạng, đặc biệt vào lúc cả nước ở trong tình trạng trực tiếp chiến
đấu chống Mỹ, tại Lễ kỷ niệm Ngày truyền thống vẻ vang của Đoàn, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã tin tưởng trao cho thế hệ trẻ lá cờ mang dòng chữ: “Vì chủ nghĩa xã
hội, vì lý tưởng cộng sản, thanh niên anh dũng tiến lên!”.
Tuân theo lời dạy của Bác Hồ và chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhân
Ngày Kỷ niệm thành lập Đoàn, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn đã ra lời kêu gọi đoàn
viên và thanh niên phát huy khí thế “Ba sẵn sàng”, hăng hái tiến lên hàng đầu trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, quyết đem lá cờ trăm trận trăm
thắng của Đảng và Bác Hồ vĩ đại tới đích thắng lợi cuối cùng. Tại buổi lễ trang trọng này
đã vang lên lời thề “Ba sẵn sàng” chống Mỹ, cứu nước:
“Vì nghĩa vụ thiêng liêng chống Mỹ, cứu nước.
Vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc.
Chúng ta thề:
1. Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, dù phải đánh 5 năm, 10 năm, 20 năm
hoặc lâu hơn nữa, dù phải hy sinh gian khổ đến mức nào, chúng ta cũng quyết chiến đấu
đến thắng lợi hoàn toàn.
2. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối cách mạng của Đảng để thực hiện lời dạy của
Bác Hồ: “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

3. Kiên quyết thực hiện “Ba sẵn sàng”
- Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang.
- Sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn đẩy mạnh sản xuất, công tác và học tập trong bất
kỳ tình huống nào.
- Sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến”.
*
* *
ở miền Nam nước ta vào thời điểm này cục diện chiến trường có những chuyển biến
mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ ngày 17 đến ngày 26-3-1965 Đại hội Đoàn Thanh niên
Nhân dân cách mạng Việt Nam lần thứ nhất đã tiến hành tại vùng căn cứ kháng chiến Tây
Ninh. Đại hội đã kiểm điểm công tác xây dựng Đoàn và phong trào thanh niên từ sau ngày
ký kết Hiệp định Giơnevơ (1954) và đề ra phương hướng, nhiệm vụ công tác Đoàn và
phong trào thanh niên miền Nam giai đoạn tới.
Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng (khóa
III) đã trực tiếp tham dự và chỉ đạo Đại hội. Sau khi nghe báo cáo tổng kết của BCH Trung
ương Đoàn TNND cách mạng (lâm thời) và báo cáo bổ sung của các địa phương, đồng chí
Nguyễn Chí Thanh đã phát biểu với Đại hội. Đồng chí phân tích rõ tình hình và đề ra cho
thanh niên miền Nam 5 nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
Thấu suốt những vấn đề đang đặt ra cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên
miền Nam, Đại hội đã khẳng định nhiệm vụ trọng tâm của Đoàn TNNDCM trong giai
đoạn trước mắt: “Đánh giặc, sản xuất, xây dựng đời sống mới ở vùng giải phóng, đoàn kết
và tổ chức, tập hợp lực lượng thanh niên học tập, rèn luyện, phấn đấu trở thành lực lượng
hậu bị của Đảng” và quyết định phát động sâu rộng trong đoàn viên và thanh niên trên toàn
miền phong trào “Năm xung phong”.
1. Xung phong tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch.
2. Xung phong tòng quân và tham gia du kích chiến tranh.
3. Xung phong đi dân công và thanh niên xung phong phục vụ tiền tuyến.
4. Xung phong đấu tranh chính trị và chống bắt lính.
5. Xung phong sản xuất nông nghiệp trong nông hội.
Cũng vào thời gian này, ở Liên khu V, Đoàn TNNDCM cũng đã tiến hành Đại hội

Đoàn toàn Liên khu đánh dấu bước phát triển của phong trào thanh niên miền Trung trong
giai đoạn mới của cách mạng.
Tháng 6-1966, Ban Thường vụ Trung ương Đoàn TNNDCM ra nghị quyết đẩy mạnh
phong trào “Năm xung phong” lên một bước mới với khí thế “Phất cao cờ Năm xung
phong, thanh niên thành đồng thừa thắng xông lên đánh bại hoàn toàn Mỹ - ngụy”. Một
trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của tuổi trẻ miền Nam là cầm súng giết giặc
tham gia du kích địa phương và tòng quân. Nhiệm vụ ấy xác định cụ thể là “phải xung
phong tiêu hao, tiêu diệt nhiều hơn nữa sinh lực địch bao gồm quân Mỹ, ngụy, chư hầu và
mọi phương tiện chiến tranh của chúng. Đó là nhiệm vụ vinh quang trước nhất của thanh
niên trong các lực lượng vũ trang, đồng thời đó cũng là nhiệm vụ của người thanh niên bất
cứ ở đâu. Khi trên đất nước thân yêu còn một căn cứ địch, còn một bóng giặc xâm lăng thì
thanh niên ta còn phải phát huy sáng kiến tiêu hao, tiêu diệt chúng, từ những hình thức đơn
sơ thông thường nhất cho đến những hình thức cao là trực tiếp cầm vũ khí”.
“Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong” là những phong trào hành động cách mạng tiêu
biểu của thế hệ trách nhiệm “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy
tương lai”. Phong trào có sức cuốn hút đông đảo đoàn viên và thanh niên trên mọi miền đất
nước, ở mọi vị trí công tác, sản xuất, chiến đấu, học tập cũng như nghiên cứu… Khí thế
“Ba sẵn sàng”, tinh thần “Năm xung phong” được bộc lộ rõ trên mọi lĩnh vực hoạt động. ở
đâu có đoàn viên và thanh niên là ở đó có khí thế sôi nổi “Ba sẵn sàng” và “Năm xung
phong”.
Biểu hiện rõ nét nhất là tinh thần sẵn sàng tòng quân, đi thanh niên xung phong, sẵn
sàng tham gia chiến đấu, chiến đấu dũng cảm. Tòng quân, đi TNXP trở thành nguyện vọng
thiết tha của tuổi trẻ trên mọi miền đất nước. ở Quảng Ninh 5 anh em họ Trương, con một
gia đình công nhân ở mỏ than Hòn Gai đã đứng chung một lá đơn, thiết tha xin được nhập
ngũ. 4 anh em trong một gia đình họ Nguyễn ở Hà Nội đều là sinh viên đề đạt một nguyện
vọng chung xin ra tiền tuyến nhận bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng và quân đội giao phó. Cũng
ở Hà Nội, còn có 28 anh chị em ruột, anh chị em con bác, con chú, trong gia đình đồng chí
Nguyễn Thị Minh (ở quận Ba Đình) đã cùng đứng một lá đơn thiết tha xin được nhập ngũ
và tái ngũ. Có nhiều lá đơn gửi đến Hội đồng nghĩa vụ quân sự thiết tha xin được nhập ngũ
đã viết bằng máu.

Đứng trước tình hình đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta, vận
mệnh Tổ quốc đứng trước những thử thách quyết liệt, tháng 7 năm 1966, Hội đồng Quốc
phòng nước ta đã họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiếp đó căn cứ vào
quyết định của Hội đồng Quốc phòng tối cao và ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã công bố Lệnh động viên cục bộ, “động viên một bộ phận sĩ quan, binh sĩ dự
bị và một bộ phận công dân thuộc ngạch dự bị nhưng chưa phục vụ tại ngũ” để tăng cường
lực lượng quốc phòng, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Lệnh động viên cục bộ và Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí
Minh ngay sau đó (17-7-1966) nhân ngày đấu tranh thống nhất nước nhà, cổ vũ mạnh mẽ
tuổi trẻ “Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong” sục sôi ý chí cách mạng, giục giã mọi người
hăng hái gia nhập lực lượng vũ trang, đánh giặc cứu nước. Phong trào tòng quân, đi thanh
niên xung phong càng trở nên sôi động. Gia đình ông Nguyễn Văn Tuyên ở Bộ Lương thực
đã mở hội nghị gia đình thảo luận và nhất trí để 15 người con, cháu, dâu, rể gia nhập hoặc
trở lại quân đội. 5 anh em Bùi Đình Hồng, Việt kiều vừa về nước đã xung phong đi bộ đội
cùng một lúc. ở xã Hải Thịnh, một xã phần lớn đồng bào theo đạo Thiên chúa của huyện
Hải Hậu (Nam Định) chỉ trong một đợt tuyển quân đã có tới hơn 10 trường hợp phải dàn
xếp vì chưa đủ tiêu chuẩn nhập ngũ hoặc thuộc diện miễn hoãn. Trong đó có 2 người lấy
máu mình viết đơn xin nhập ngũ: Đỗ Nguyện và Trần Văn Thỏa. Đỗ Nguyện người bé nhỏ
đã hai lần lên đường đều phải quay về, Đến lần thứ ba, anh nhất định không chịu rời đơn
vị. Trần Văn Cảnh gặp một hoàn cảnh khác. Gia đình anh đã có 3 người đi bộ đội. Cảnh
phải nhờ tới người anh công tác tại ủy ban hành chính xã nói hộ, vẫn không kết quả. Anh
quyết định cứ hành quân theo đơn vị. Mãi 2 tháng sau anh mới đạt được nguyện vọng.
Nhiều em thiếu nhi chưa đến tuổi nhập ngũ, nhưng sợ sau này lớn lên không còn cơ hội
được đánh Mỹ, đã khai tăng tuổi để đi khám tuyển. Nhiều học sinh phổ thông, sinh viên
đại học phát huy truyền thống của cha anh đã “xếp bút nghiên” để được lên đường đánh
Mỹ.
Trong phong trào tòng quân, bên cạnh việc không ngừng tuyên truyền, giáo dục làm
cho đoàn viên và thanh niên nhận rõ âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt, tàn bạo của kẻ địch,
nâng cao lòng căm thù giặc, nâng cao ý chí chiến đấu, xây dựng tinh thần dám xả thân vì
nghĩa lớn… tổ chức Đoàn ở nhiều cơ sở còn có những hình thức động viên, cổ vũ tuổi trẻ.

Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ, Vĩnh Phúc) có phong trào “Trai đất tổ mở đội tòng quân”. Hải
Hưng (nay là Hải Dương, Hưng Yên), Thái Bình, Nam Hà (nay là Nam Định, Hà Nam) và
nhiều địa phương khác có “Ngày hội tuổi trẻ bàn việc nước”… qua đó tổ chức Đoàn nắm
được tâm tư, nguyện vọng của thanh niên, chủ động phối hợp cử những người có đủ tiêu
chuẩn tham gia các lực lượng vũ trang. Nhiều hình ảnh có sức cổ vũ mạnh mẽ tinh thần
thanh niên lên đường chiến đấu được phát huy, mang lại nhiều hiệu quả: viếng nghĩa trang
liệt sĩ, ghi sổ vàng truyền thống trồng cây lưu niệm… Các tổ chức Đoàn cơ sở còn phát
huy vai trò chủ động trong việc giáo dục, sắp xếp lực lượng thanh niên làm nghĩa vụ quân
sự. Cùng với việc động viên tinh thần tự nguyện đăng ký mỗi lần có đợt tuyển quân, Đoàn
còn lập danh sách những thanh niên sắp đến tuổi tòng quân, lập các đội dự nhiệm cho
những thanh niên đã được lựa chọn, sẵn sàng lên đường khi có lệnh. Nhiều tổ chức Đoàn
còn kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ quân sự đối với các gia đình, đảm bảo sự công bằng
trong việc thực hiện chính sách của Đảng.
Yêu cầu của công tác tuyển quân ngày càng cao cả về số lượng và chất lượng, về sức
khỏe, trình độ văn hóa và kỹ thuật chiến đấu. ở Hòa Xá (huyện ứng Hòa, Hà Tây) Đảng bộ
chính quyền xã đã tổ chức khám sức khỏe loại cho những người từ 18 đến 35 tuổi. Những
người sức khỏe loại một được sung vào đơn vị sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến, được
mệnh danh “bộ đội làng”, thường xuyên được bồi dưỡng nâng cao thể lực, tổ chức rèn
luyện hành quân xa, mang vác nặng, học tập kỹ thuật chiến đấu để khi cần lập tức lên
đường chiến đấu. Những người sức khỏe loại hai trở thành du kích, trực chiến trận địa.
Những người còn lại vào dân quân xã làm nhiệm vụ canh phòng.
Ngày “bộ đội làng” lên đường trở thành bộ đội chính quy thật sự là một ngày hội.
Gia đình, người thân chọn trong dãy tre đằng ngà bao quanh làng kháng chiến cũ những
đoạn thẳng nhất, làm thành những chiếc gạy gửi theo các chiến sĩ ra tiền tuyến gọi là “gậy
Trường Sơn”, Những người ở lại, vợ hoặc người yêu, được tặng chiếc nhẫn thủy chung, có
khắc con số “500”, là kỷ niệm chiếc máy bay thứ 500 bị bắn rơi trên miền Bắc, do dân
quân Hòa Xá bắn hạ ngày 17-7-1967.
Năm 1968, sau khi kiểm tra, Ban Bí thư Trung ương Đoàn TNLĐ Việt Nam ra quyết
định công nhận Hòa Xá là xã có phong trào tòng quân khá nhất và phát động các địa
phương làm như Hòa Xá.

Trong phong trào học tập và làm theo Hòa Xá, thanh niên các địa phương đã sáng tạo
nhiều hình thức phong phú, cổ vũ tinh thần sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng nhập ngũ, động
viên hàng triệu đoàn viên và thanh niên lên đường ra trận, với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để đánh thắng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
Chỉ riêng tỉnh Hà Tây, trong hơn 10 năm từ 1965 đến 1975, đã có trên 17 vạn lượt thanh
niên tòng quân chiến đấu trên khắp các chiến trường. Trong đó có 68 tiểu đoàn được tổ
chức hoàn chỉnh, tập luyện thành thạo kỹ, chiến thuật chiến đấu được giao thẳng cho mặt
trận. Đợt tuyển quân năm 1965 tỉnh đã huy động trên 25.000 thanh niên nhập ngũ, bằng
tổng số thanh niên đi bộ đội trong 10 năm, từ 1954 đến 1964. Năm 1975, khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn quyết định, chỉ một đợt giao quân trong quí I, tỉnh đã
đã vượt kế hoạch cả năm, với số quân gấp 2 lần năm trước, kịp thời chi viện cho chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử.
Nhiều thanh niên Hà Tây ra đi theo tiếng gọi “Ba sẵn sàng”, chiến đấu trên khắp các
chiến trường, đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Tiêu biểu là anh hùng LLVT Trịnh
Tố Tâm. Anh tòng quân khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong cao trào
“Ba sẵn sàng” và vào ngay chiến trường ác liệt nhất, Trị Thiên - Huế. Tại đây anh đã cùng
đơn vị chiến đấu mưu trí, dũng cảm, diệt hơn 1.500 tên Mỹ-Ngụy, phá hủy 61 xe quân sự,
đánh lật 19 đoàn xe của địch. Riêng Trịnh Tố Tâm đã diệt 272 tên địch, trong đó có 185
tên Mỹ, bắn rơi và phá hủy 3 máy bay lên thẳng, được tặng thưởng 20 huân chương các
loại và 53 lần được công nhận danh hiệu “Dũng sĩ”.
Làm tốt công tác động viên thanh niên tòng quân di thanh niên xung phong chống
Mỹ cứu nước, tổ chức Đoàn thanh niên ở các cơ sở đặc biệt coi trọng công tác hậu phương
quân đội. Nhiều hình thức hoạt động phong phú được phát huy như thường xuyên chăm
sóc, sửa sang nghĩa trang liệt sĩ, quan tâm giúp đỡ các gia đình có người đang tại ngũ.
Nhiều nơi còn có sáng kiến phân công từng gia đình thương binh, bộ đội cho từng nhóm
đoàn viên, thanh niên để tiện theo dõi chăm sóc giúp đỡ, nhất là đối với những gia đình
neo đơn, gặp nhiều khó khăn. Nhiều đoàn viên và thanh niên đã không quản khó khăn, vất
vả, hàng ngày dành thời gian đến giúp đỡ những gia đình có người đang đi chiến đấu.
Với phong trào “uống nước nhớ nguồn”, nhiều cơ sở Đoàn còn tổ chức xây dựng
những công trình “đền ơn đáp nghĩa”, những ao cá, những hàng cây, những giếng nước,

nhà tắm… tặng thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội, TNXP. Nhiều nữ thanh niên
đã tình nguyện đảm việc nhà, phụng dưỡng bố mẹ già, nuôi dạy con nhỏ để chồng yên tâm
lên đường đi chiến đấu. Từ trong phong trào đã xuất hiện không ít những “cô dâu” tương
lai sẵn sàng đến gánh nước, nấu cơm, đảm việc nhà, đỡ đần các bà “mẹ chồng”. Không ít
nữ thanh niên tuy mới chỉ hứa hẹn với nhau, nhưng trong lúc người yêu đang chiến đấu ở
chiến trường xa, không có tin tức vẫn một lòng chờ đợi, còn dành thời gian giúp đỡ gia
đình bạn trai như một cô dâu thảo hiền. ở một số cơ sở, nữ thanh niên còn có phong trào
tình nguyện lấy thương binh, coi đó là vinh dự, là niềm hạnh phúc đáng tự hào. Khởi đầu
từ năm 1966, trong thanh niên xã Mường Hung (Sông Mã, Sơn La) đã có 36 nữa thanh
niên đăng ký lấy chồng là thương binh. Lò Thị Đôi, Lò Thị Nhọt (Mộc Châu), Nguyễn Thị
Thành (công nhân vắt sữa Nông trường Sao Đỏ), và nhiều chị em khác, tuổi đời còn rất trẻ
vẫn đăng ký tình nguyện lấy chồng là thương binh từ hạng 3 trở lên.
Làm tốt công tác hậu phương, thanh niên yên tâm lên đường nhập ngũ, các gia đình
có con em đến tuổi làm nghĩa vụ quân sự cũng sẵn sàng động viên conem mình làm tròn
nghĩa vụ đối với Tổ quốc. ở huyện Sông Mã (Sơn La) chỉ trong một đợt tuyển quân đã có
990 gia đình làm đơn tình nguyện cho con em gia nhập lực lượng vũ trang. Bà Lừ Thị La
(Yên Châu - Sơn La) đã có 4 con đi bộ đội, vẫn tình nguyện đưa người con thứ 5 lên
đường đi đánh Mỹ.
Công tác Trần Quốc Toản của các em thiếu niên, nhi đồng cũng được đẩy mạnh. Các em
thường làm nhiệm vụ quét dọn nhà cửa, chăm sóc lợn gà, vườn tược cho các gia đình
thương binh, liệt sĩ, gia đình bộ đội, kết bạn học tập với các em thuộc diện gia đình chính
sách, giúp đỡ các em yếu kém vươn lên…
ở miền Nam, những năm đánh Mỹ, tuổi trẻ là đối tượng chủ yếu mà đế quốc Mỹ và
tay sai tìm đủ mọi cách đầu độc ru ngủ bằng các thủ đoạn thâm độc, trắng trợn, tàn bạo
nhằm làm nhụt chí khí đấu tranh, phá hoại về tinh thần và tư tưởng, làm suy kiệt cả thể
chất, đưa dần thanh niên vào con đường thoái hóa, hư hỏng đi đến phản dân hại nước, phục
vụ âm mưu đen tối, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Giành và giữ
thanh niên trở thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong mọi công tác của tổ chức
Đoàn. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đoàn TNNDCM, xuất phát từ tình
hình nhiệm vụ cụ thể của miền Nam đã đề ra công tác trọng tâm trước mắt của Đoàn là

“tích cực bảo vệ, giành và giữ thanh niên. Kiên quyết đập tan kế hoạch bắt lính đôn quân
của địch”.
Cùng với những cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, chống tuyên truyền lừa
bịp và xuyên tạc, đòi quân Mỹ rút về nước, đánh đổ ngụy quyền tay sai bán nước… các
cuộc đấu tranh chống bắt lính, chống bắt tập quân sự nổ ra liên tiếp với nhiều hình thức
phong phú, linh hoạt, có những nơi cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, phong
trào tòng quân và tham gia du kích của thanh niên càng phát triển. Có những xã ở tỉnh Kiến
Phong, tỉnh Long An, trong khi địch đang tiến hành bình định lấn chiếm, dồn bắt thanh
niên đi lính, vào phòng vệ dân sự vẫn có hàng trăm thanh niên đi tòng quân và tham gia du
kích. Hai tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng trong điều kiện địch đánh phá ác liệt vẫn thường
xuyên xấp đủ tân binh bổ sung theo yêu cầu phát triển lực lượng địa phương và cung cấp
nhiều tân binh cho lực lượng chủ lực toàn miền. Hai tỉnh Bến Tre và Mỹ Tho hàng tháng
có từ 100-200 thanh niên tòng quân, góp phần xây dựng nên những đơn vị chủ lực lớn của
quân đội cách mạng, đáp ứng đòi hỏicủa chiến trường. Riêng Mỹ Tho (ngày nay là tỉnh
Tiền Giang) trong 2 năm 1967 - 1968 đã có 13.800 đoàn viên và thanh niên lên đường
nhập ngũ. ở các xã Cẩm Sơn, Mỹ Thiện… có đến 80% số thanh niên đến tuổi đã lên đường
đi chiến đấu.
Từ năm 1965 đến năm 1968, tuổi trẻ liên khu 5 đã có 2 khóa tòng quân tập trung.
Khóa Nguyễn Văn Trỗi, kéo dài trong 2 năm 1965-1966, có trên 28.000 cán bộ, đoàn viên
và thanh niên nhập ngũ, góp phần lập nên hai sư đoàn quân chủ lực, sư đoàn 3 (thành lập
tháng 9-1965) và sư đoàn 2 (thành lập tháng 11-1965). Chuẩn bị cho cuộc tấn công và nổi
dậy xuân Mậu Thân 1968, tổ chức Đoàn các tỉnh thuộc liên khu 5, lại phát động cao trào
tòng quân “xông lên giành chính quyền, thanh niên quyết thắng”, với 25.000 đoàn viên và
thanh niên nhập ngũ.
Có nhiều hình ảnh sinh động xuất hiện trong phong trào tòng quân, như vợ mới cưới tiễn
đưa chồng đi làm nhiệm vụ, cha dẫn con ra mặt trận,v.v… Có những gia đình lần lượt 5-7
anh chị em hy sinh, còn lại người con út chưa đủ tuổi, vẫn thiết tha được lên đường cầm
súng. ở Mộc Ninh, bà mẹ Lê có 2 người con trai đến tuổi quân dịch, bà đã tìm cách che
giấu cho con suốt 4 năm trời, đến ngày quê hương được giải phóng, bà đã vui vẻ dẫn cả 2
con đến giao cho cách mạng, còn lại một mình ở nhà sản xuất.

Thấy rõ việc đưa thanh niên đứng hẳn về phía cách mạng và hình thức triệt để nhất
để bảo vệ thanh niên, các tổ chức Đoàn cơ sở đã đặc biệt coi trọng việc vận động trách
nhiệm đấu trah chống bắt lính, chống đôn quân, đẩy mạnh công tác binh vận và dịch vận,
làm tan rã từng mảng lớn hàng ngũ địch, nhất là đấu tranh chống phá hình thức tổ chức
phòng vệ dân sự, vận động thanh niên trả súng, không canh gác, không tập quân sự. Nhiều
nơi tổ chức phòng vệ dân sự của địch tan rã từng mảng đến tan rã hoàn toàn, địch phải tốn
nhiều công sức lập đi lập lại vẫn không duy trì được.
Thấy rõ bộ mặt tàn bạo của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hầu hết thanh niên ta đều
không muốn đi lính làm bia đỡ đạn cho chúng. Nhưng cũng không ít thanh niên chưa mạnh
dạn đứng lên đấu tranh. Một số còn ngần ngại gian khổ không dám ra vùng giải phóng.
Phần đông số thanh niên này đã chống bắt lính bằng những hình thức như: lánh né, làm
giấy tờ giả, lo lót tiền bạc, thậm chí có người đã tự thương, chặt đứt cả ngón tay… Một số
thanh niên khác, tích cực hơn tổ chức thành những lõm trốn lĩnh, và cả lính trốn, làm hầm
bí mật có vách ngăn làm hai, tủ quần áo cũng được làm thành 2 ngăn, vừa đảm bảo chống
bắt lính, vừa che giấu cán bộ hoạt động bí mật khi cần thiết. ở nhiều nơi ngoài việc trốn
tránh để khỏi bị bắt lính, thanh niên còn tự trang bị vũ khí như lựu đạn, súng ngắn… để tự
bảo vệ khi địch lùng bắt.
Với hành động chống bắt lính tích cực, ngay cả trong thời kỳ địch bình định lấn
chiếm quyêt liệt nhất, thanh niên xã Mỹ Long (ngày nay thuộc tỉnh Tiền Giang) vẫn còn
được bảo vệ. Cả 240 thanh niên của xã không có một người nào bị bắt lính. Lúc đầu tổ
chức Đoàn thanh niên của địa phương hướng dẫn những thanh niên trong số bà con thân
thích của cán bộ Đoàn vào các lõm địa hình thành ăn ở, sinh hoạt. Dần dần số thanh niên
vào trụ bám trong địa hình ngày càng đông. Cả một số binh sĩ địch và phòng vệ dân sự đào
ngũ cũng vào sống trong lõm du kích. Họ tự lực xây dựng cụm ăn ở, gắn bó với nhau như
anh em ruột thịt. Từng bước, tổ chức Đoàn động viên, giáo dục các đối tượng thanh niên,
vận động họ cùng tham gia công tác cách mạng. Hầu hết thanh niên đều vào các đội du
kích, tham gia cài lựu đạn bảo vệ lõm địa hình, đánh địch khi chúng càn vào căn cứ, một
số khác tòng quân.
Thông qua phong trào “Năm xung phong”, nhiều cơ sở Đoàn đã kiên trì tổ chức,
tập hợp thanh niên theo những hình thức thích hợp: Hội những người đá banh, đội văn

nghệ thanh niên, tổ thanh niên xung phong chống bắt lính, tổ thanh niên tuyên truyền xung
phong, tổ thanh niên xung phong cung ứng chiến trường, đội TNXP cơ sở,v.v… Nhiều
thanh niên đã từng vào phòng vệ dân sự của địch, khi được giáo dục giác ngộ đã hăng hái
tham gia du kích, tham gia diệt ác phá kềm. Xã Vĩnh Tường (Long Mỹ) có cả một liên toán
phòng vệ dân sự khởi nghĩa, chuyển thành lực lượng du kích với 39 súng. ở Bắc Long An
có 6 thanh niên bị bắt vào phòng vệ dân sự đã tự đặt tên: Quyết - Tâm - Bảo - Vệ - Tổ -
Quốc, rồi diệt ác mang súng trở về với cách mạng tham gia du kích đánh địch. Không chỉ
thanh niên vùng giải phóng, vùng giáp ranh hăng hái tòng quân mà ngay ở các vùng bị địch
tạm chiếm sâu như ở Thới Bính thanh niên cùng tìm mọi cách để ra vùng giải phóng tham
gia công tác cách mạng. Có 3 thanh niên trong một ấp chiến lược đã phá rào ra đồng nằm
chờ 3 ngày 3 đêm để liên lạc với cách mạng, xin đi chiến đấu.
*
* *
Trong giai đoạn cả nước có chiến tranh (1965-1975) tòng quân, đi thanh niên xung
phong là trách nhiệm đồng thời cũng là vinh dự, là niềm tự hào của thanh niên trên cả 2
miền đất nước.
Được Trung ương Đảng, Bác Hồ và Chính phủ giao nhiệm vụ, tháng 3-1965 Ban Bí
thư Trung ương Đoàn TNLĐ Việt Nam phát động trong đoàn viên, thanh niên phong trào
tình nguyện gia nhập Đội TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung). Chỉ một tháng sau, đã có
hơn 10 vạn đoàn viên và thanh niên đăng ký sẵn sàng lên đường. Ngày 25-4-1965, đội
TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung) đầu tiên được thành lập, gồm 1.200 đội viên nam
(vì điều kiện công tác đặc biệt chưa nhận nữ) của tỉnh Thanh Hóa, tổ chức thành 9 đại đội
cấp tốc lên đường vào miền Tây Quảng Bình làm nhiệm vụ.
Hội nghị lần thứ IX Ban Chấp hành Trung ương Đoàn (khóa III) họp tháng 5-1965
đã quyết định “tổ chức các đội TNXP chống Mỹ, cứu nước phục vụ sản xuất và chiến
đấu”. Nghị quyết nhấn mạnh: “Phát huy truyền thống của những đội TNXP trong kháng
chiến, mỗi đội TNXP hiện nay phải là một đơn vị sản xuất có năng suất cao, một đơn vị
chiến đấu khi cần thiết và đồng thời là một trường học giáo dục và rèn luyện thanh niên”.
Ngày 21-6-1965, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 71-TTg cho phép chính thức thành lập
đội TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung).

Ngày 21 tháng 6 (tức ngày Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 71-TTg) được lấy làm
số hiệu cho đội TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung) thành lập đầu tiên, đó là Đội 21 và
đại hội được thành lập đầu tiên của Đội 21 có số hiệu 216.
Đầu tháng 6-1965, hai đội TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung) mang số hiệu 23 và 25
của Hà Tĩnh cũng được thành lập và lên đường nhận nhiệm vụ làm đường và vận chuyển
hàng hóa bằng xe đạp thồ ở Nam Lào và Bắc Quảng Bình do đoàn 559 quản lý.
Cũng trong tháng 6-1965, các tỉnh đã lần lượt tổ chức các đội TNXP chống Mỹ cứu
nước với tổng số quân 8.856 đội viên vào phục vụ đoàn 559 (Bộ Quốc phòng). Do yêu cầu
cấp bách của chiến trường, việc tổ chức lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung)
được triển khai rất khẩn trương. Chưa kịp ổn định tổ chức, các đơn vị đã phải cấp tốc hành
quân trên những chặng đường dài 300-400, thậm chí hàng ngàn kilômét dưới bom đạn
địch. Đến hiện trường hầu hết các đơn vị phải làm lấy lán trại để ở, tự làm công cụ để sản
xuất.
Đến tháng 7-1965, phong trào tình nguyện gia nhập lực lượng TNXP chống Mỹ,
cứu nước (tập trung) càng được đẩy mạnh. ở hầu khắp các cơ sở, số lượng thanh niên tình
nguyện gia nhập TNXP hơn yêu cầu tiếp nhận nhiều lần. ở khu phố Hoàn Kiếm (nay là
quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) yêu cầu tuyển 200 đội viên TNXP đã có trên 1000 đoàn viên,
thanh niên đăng ký. ở huyện Can Lộc (Hà Tĩnh) tỉ lệ đó là 3.193/400. Trong số người tình
nguyện, tỉ lệ nữ thường chiếm tới 60-70%. Có chị đã nói: “Nam thanh niên được tham gia
bộ đội, tham gia các ngành nhiều rồi nay phải nhường phần cho nữ thanh niên”. Có những
gia đình có 2-3 chị em ruột cùng tuổi thanh niên đã giành nhau để được đi thanh niên xung
phong. Ai cũng hiểu rõ đi thanh niên xung phong là phải chấp nhận gian khổ, hy sinh,
nhưng vốn khát khao được cống hiến, tuổi trẻ sẵn sàng chấp nhận thử thách. Trong đó có
không ít thanh niên xuất thân từ các thành phần không cơ bản có nhiều mặc cảm với xã
hội, được Đoàn động viên, đã hăng hái gia nhập TNXP. Có trường hợp phải kiên trì mới
thực hiện được nguyện vọng. Như Nguyễn Thị Liệu, sau ngày trở thành một chiến sĩ
TNXP nổi tiếng trên tuyến đường “Quyết thắng” đã từng suýt bị để lại vì lý do lý lịch.
Thoạt đầu Liệu trốn theo đơn vị, mãi hai tháng sau mới được tiếp nhận do chính những
thành tích xuất sắc của mình.
Lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước thật là nơi tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp

thanh niên trong xã hội vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, thanh niên Việt kiều về nước,
thanh niên các dân tộc thiểu số, thanh niên các tôn giáo… không một tầng lớp thanh niên
nào không có mặt trong đội hình TNXP chống Mỹ, cứu nước. Nói như một thanh niên Việt
kiều mới trở về Tổ quốc, quê ở Hà Tĩnh: “Kháng chiến lần thứ nhất chống thực dân Pháp
xâm lược, chúng tôi chưa được vinh dự đóng góp, nay xin cho chúng tôi đi TNXP để góp
phần với sự nghiệp của dân của nước”.
Gia nhập lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước trở thành tình cảm, thành nỗi khát
vọng của nhiều đoàn viên, thanh niên. Thanh niên các dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn, Lào
Cai, Bắc Thái (nay là Bắc Cạn, Thái Nguyên), Thanh Hóa… trước đây ít khi đi xa gia đình,
giờ nhận thức được trách nhiệm của tuổi trẻ cũng hăng hái lên đường làm nhiệm vụ. Thanh
niên theo đạo Thiên chúa ở Nam Định, Ninh Bình cũng tình nguyện gia nhập lực lượng
TNXP chống Mỹ, cứu nước.
Theo thống kê chưa đầy đủ, đợt đầu tuyển TNXP đã có trên 1000 thanh niên các dân tộc
thiểu số, 1360 thanh niên theo đạo Thiên Chúa tham gia. Cả những nhà sư cũng không thể
tĩnh tâm tụng kinh gõ mõ. Như sư nữ Đàm Thị Dần, trước đây khi cắt tóc đi tu, Dần chỉ
muốn được tĩnh tâm. Nhưng trước cảnh nhà tan cửa nát do giặc Mỹ gây ra, Dần muốn
được phá giới. Đàm Thị Dần mạnh dạn viết đơn gửi Đoàn thanh niên xã và gặp sư bà xin
cho mình đi TNXP. Sư bà tỏ ra thông cảm nhưng vì Dần ăn chay niệm Phật đã được 6
năm, sắp được lên sư bác, nên bà có ý ngần ngại. Dần không nản làm tiếp đơn thứ hai, gửi
thẳng cho Huyện Đoàn đề nghị giúp đỡ. Ngày lên đường của Đàm Thị Dần thật sự là một
ngày hạnh phúc. Cô hăng hái đi bộ 400 kilômét từ Hà Nội vào tận phía Tây Nam Hà Tĩnh
làm nhiệm vụ.
Bên cạnh lớp thanh niên tuổi mười bảy, đôi mươi, nhiều anh chị em thuộc lớp nhiều
tuổi hơn cũng hăng hái gia nhập lực lượng TNXP, với tất cả nhiệt tình cách mạng của tuổi
trẻ. Có đồng chí trước đây đã tham gia Đoàn TNXP trong kháng chiến chống Pháp, nay lại
thiết tha xin được trở lại đội ngũ. Nhiều thanh niên vừa hoàn thành nghĩa vụ quân sự lại
tình nguyện tham gia lực lượng TNXP. Nhiều cán bộ Đoàn gia đình gặp khó khăn, được cử
phụ trách các đội TNXP đã tự thu xếp để có thể lên đường. Hàng ngàn cán bộ y tế, giáo
viên văn hóa đã tình nguyện vào phục vụ trong các đội TNXP. Nhiều đồng chí tình nguyện
không hưởng lương, chỉ hưởng chế độ cung cấp như các đội viên TNXP.

Các bậc cha mẹ ý thức được “nước mất thì nhà tan” đã cổ vũ, động viên con em
mình lên đường làm tròn nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Nhiều gia đình chỉ có một con trai, vẫn
thu xếp việc nhà để con yên tâm lên đường. Một bà mẹ ở xã Thủy Triều (huyện Ân Thi,
Hưng Yên) đã nói: “Lúc còn bé, nó là con cha con mẹ, nay cháu đã lớn khôn là con dân
con nước, chúng tôi xin giao cháu cho Đảng, cho Đoàn, làm sao dạy dỗ các cháu làm tròn
nhiệm vụ với dân với nước là chúng tôi vui lòng”.
Trong những năm tháng cả nước cùng ra trận, biết bao bà mẹ Việt Nam đã rất tự
hào khi nhắc tới những đứa con đang tham gia lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước. Họ
nói về con em mình với giọng thật thiêng liêng: “Cháu nó đi Ba sẵn sàng”.
Nhiều tỉnh có số lượng tuyển TNXP trong một đợt rất lớn vẫn hoàn thành nhanh
gọn, đảm bảo chất lượng. Riêng tỉnh Nam Hà (nay là Nam Định và Hà Nam) chỉ trong
tháng 7-1965 đã thành lập được 2 đội TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung): đội 35 và
37, nhanh chóng lên đường vào các tỉnh khu IV cũ làm nhiệm vụ trên tuyến đường 15B, từ
Cầu Giát qua Thái Hòa, Tân ấp, Vinh… nằm trên địa bàn 3 tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, ở phân tán cách nhau hàng trăm kilômét.
Trong vòng 3 tháng, từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1965, gần 5 vạn đội viên thanh
niên xung phong đã được tập hợp trong 32 đội, gồm 7 đội do đoàn 559 (Bộ Quốc phòng)
quản lý làm nhiệm vụ mở đường mới và vận chuyển trên tuyến hành lang ở Quảng Bình và
trên chiến trường miền Nam, chiến trường Lào: 7 đội do Tổng cục đường sắt quản lý, hoạt
động dọc theo tuyến đường sắt từ Ninh Bình đến Nghệ An; số còn lại làm nhiệm vụ bảo
đảm giao thông và mở đường mới do ngành giao thông vận tải quản lý, chủ yếu hoạt động
trên các tuyến đường 1A, 15, 21, 22, 22B, 20 (còn có tên là đường Quyết Thắng),v.v…
chốt giữ ở hầu hết các trọng điểm xung yếu: Đò Lèn, Hàm Rồng, Cầu Cấm, Hoàng Mai
(trên đường số 1), Bãi Dinh, Mụ Giạ (đường 12A), đèo Ba Trại, ngầm Hạ Trạch (đường số
2, Quảng Bình), phà Địa Lợi, ngã ba Đồng Lộc, khe Tang, khe Rinh, đèo Đá Đẽo, phà
Xuân Sơn, phà Long Đại (đường 15); cua chữ A, K59, dốc Đồng Tiền (đường Quyết
Thắng)…
Tháng 9-1965, cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam phát
triển mau lẹ, cần một lực lượng trẻ, khỏe làm nhiệm vụ trên tuyến đường dây liên tỉnh Trị -
Thiên. Được Đảng giao nhiệm vụ, Trung ương Đoàn đã trực tiếp chỉ đạo 3 tỉnh Nam Hà,

Ninh Bình, Hà Tây, tuyển mỗi tỉnh 110 đoàn viên thanh niên nam tuổi từ 18 đến 25 thành
lập đại hội TNXP đặc biệt phục vụ chiến trường miền Nam, mang phiên hiệu Đoàn K53.
Cũng tháng 9-1965, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị cho phép Tổng cục Lâm nghiệp
được tuyển dụng 1000 thanh niên để tổ chức thí điểm “Đội TNXP chống Mỹ, cứu nước”
phục vụ ngành lâm nghiệp. Về sau, ngành lâm nghiệp đã tổ chức được 7 đội TNXP, phần
lớn làm đường vận chuyển, chỉ có một đội làm nhiệm vụ trồng rừng.
Yêu cầu mở đường mới và đảm bảo giao thông trong thời chiến rất lớn. Ngoài lực
lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước do Trung ương quản lý, từ tháng 5-1965, tỉnh Thanh
Hóa đã thành lập Đội TNXP chống Mỹ, cứu nước của địa phương, mang phiên hiệu 263
trên cơ sở sáp nhập các đơn vị ở 2 công trường Núi Thành và Đồng Xoài.
Cũng thời gian này, Nghệ An thành lập đội TNXP chống Mỹ, cứu nước đầu tiên của
tỉnh, mang tên đội Cù Chính Lan. Đến năm 1966, đội được chuyển vào phục vụ trong
ngành giao thông vận tải Quảng Bình tỉnh lại quyết định thành lập Tổng đội TNXP Cù
Chính Lan trực thuộc ủy ban tỉnh nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, tự đảm nhận các
công trình xây dựng và đảm bảo giao thông của TNXP. Qua 3 nhiệm kỳ, 18.000 lượt cán
bộ, đoàn viên thanh niên đã trực tiếp phục vụ trong Tổng đội TNXP Cù Chính Lan góp
phần mở thêm hàng trăm kilômét đường mới, sửa chữa hàng trăm cầu, phà, đảm bảo giao
thông suốt trên nhiều tuyến đường, ở hầu hết các vị trí xung yếu như Cầu Cấm, Truông
Bồn, Phương Tích, Bến Thủy, Hoàng Mai, Cầu Giát, Thái Hòa, rú Nguộc, núi Trét, Bàu
Bàng…
Ngoài nhiệm vụ đảm bảo giao thông trên những tuyến đường huyết mạch trong
tỉnh, Tổng đội còn cử 1.500 cán bộ, đội viên chi viện cho tỉnh Quảng Bình bốc xếp, chuyển
tải hàng hóa tại nam-bắc sông Gianh từ năm 1967-1968. Năm 1969-1970 đi làm nhiệm vụ
vận tải hàng hóa vào Tây Quảng Trị - Thừa Thiên. Năm 1970-1971 tham gia chiến dịch
Nam Lào - đường 9. 4.000 cán bộ, đội viên làm nhiệm vụ đảm bảo tuyến đường sắt phía
Nam từ Hàm Rồng đến Vinh-Bến Thủy.
Trong những tháng cuối năm 1965, đầu năm 1966, các tỉnh, thành phố đều lần lượt
thành lập đội TNXP chống Mỹ, cứu nước do địa phương quản lý. Hà Nội có đội 51, Hải
Phòng có đội 77, Ninh Bình có đội 3, Thanh Hóa sau khi thành lập đội 263 đến tháng 12-
1965 lại thành lập thêm đội 696, Bắc Thái có đội XP91-TC,v.v…

Do tính chất nhiệm vụ của địa phương, khu vực Vĩnh Linh (nay thuộc tỉnh Quảng
Trị), ngoài các đơn vị TNXP chống Mỹ, cứu nước của Trung ương hoạt động trên địa bàn
địa phương. ủy ban hành chính khu vực Vĩnh Linh cũng quyết định thành lập 2 đội TNXP
chống Mỹ, cứu nước phục vụ trong ngành giao thông vận tải và trong ngành thủy lợi.
Các tỉnh thuộc khu IV cũ đều thành lập từ 2 đội TNXP chống Mỹ, cứu nước trở lên, ngoài
các đội do Trung ương quản lý. Riêng tỉnh Nghệ An thành lập tới 6 đội.
Một số đội TNXP chống Mỹ, cứu nước cũng được thành lập để phục vụ trong một
số ngành biệt lập của giao thông vận tải: Đội 27 phục vụ công ty đường Goòng, do Tỉnh
Đoàn Hà Tĩnh quản lý: đội TNXP đường sông, trực thuộc Cục vận tải đường sông, đảm
nhận việc chuyển tải, xếp dỡ và bảo vệ hàng hóa theo kế hoạch.
Để phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước và để
thống nhất sự chỉ đạo, ngày 29-8-1968, Ban Bí thư Trung ương Đoàn TNLĐ Việt Nam đã
quyết định thành lập Tổng đội TNXP chống Mỹ, cứu nước 768, bao gồm các đội 39, 31,
45, 35 đang làm nhiệm vụ trên các tuyến đường 22 và 22B. Tổng đội đảm nhận toàn bộ
công trình kiến thiết cơ bản và đảm bảo giao thông trên 2 tuyến đường này. Đồng chí Bùi
Nguyên Tích, ủy viên Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên GTVT Trung ương, nguyên Đội
trưởng đội 39 được chỉ định làm Tổng đội trưởng.
Cùng thời gian, ở các tỉnh trên chiến trường miền Nam, trước yêu cầu bức thiết
phải huy động sức người sức của ngày càng cao, khi tình hình cách mạng chuyển sang giai
đoạn mới - giai đoạn đánh thắng chiến tranh đặc biệt và sau đó khi đế quốc Mỹ buộc phải
ồ ạt đưa quân vào tham chiến, tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ hết sức tàn bạo, thực hiện
nghị quyết của Trung ương Đảng, triển khai nghị quyết của Đại hội Đoàn TNND Cách
mạng lần thứ nhất về tổ chức ra Đội thanh niên xung phong công tác phục vụ chiến trường,
ngày 20-4-1965, Trung ương Đoàn TNND cách mạng, phát động thanh niên các cơ quan
chung quanh Trung ương cục miền Nam thành lập đội Thanh niên xung phong mang ký
hiệu C.100, có 108 đội viên, trong đó có 14 đảng viên và 40 đoàn viên. Tháng 8-1965, đáp
ứng yêu cầu của chiến trường trọng điểm miền Đông, Thường vụ Trung ương Đoàn
TNND cách mạng quyết định thành lập Tổng đội TNXP giải phóng miền Nam vừa làm
nhiệm vụ chỉ đạo theo hệ thống ở các tỉnh Nam Bộ (cũ), vừa chỉ huy các liên đội của miền.
C.100 được lấy làm khung cho tổ chức Tổng đội. Một nửa làm nòng cốt để xây

dựng đội 198 mang tên Thành Đồng, nửa còn lại biên chế các bộ phận thuộc văn phòng
Tổng đội. Đồng chí Nguyễn Đức Toàn, ủy viên Thường vụ Trung ương Đoàn được cử làm
Tổng đội trưởng.
Căn cứ nghị quyết Đại hội Đoàn TNND cách mạng lần thứ nhất, TNXP giải phóng miền
Nam được thành lập theo 3 hình thức: TNXP giải phóng miền Nam tập trung dài hạn, làm
nhiệm vụ phục vụ chiến trường, ngày đêm sát cánh với các đơn vị quân giải phóng miền
Nam, tải thương, vận chuyển hàng chiến lược, vũ khí, làm cầu đường. Các đội thường hoạt
động phân tán theo từng trung đoàn quân giải phóng hoặc ở một hướng chiến trường nhất
định.
Hình thức thứ hai, TNXP giải phóng miền Nam tập trung có thời hạn, do các tỉnh
hoặc các khu Đoàn tổ chức và chỉ đạo. Riêng khu V đã có 5.506 thanh niên xung phong tập
trung của tỉnh và khu, với các liên đội Võ Như Hưng, Võ Thị Sáu. Khu VI có 19 đại đội
với 2.500 đội viên. Các tỉnh thuộc Nam Bộ cũ ít nhất cũng thành lập được một đội TNXP
giải phóng tập trung. Thủ Dầu Một có đội 112 mang tên “Phú Lợi căm thù”, Tây Ninh có
đội 2311 Hoàng Lệ Kha. Long An có đội 29 mang tên “Hiệp Hòa anh dũng”, Mỹ Tho có
đội ấp Bắc I và ấp Bắc II, Bến Tre có đội 2012 Nguyễn Văn Tư. Cần Thơ có đội Tây Đô
quyết thắng, Cà Mau có đội Nguyễn Việt Khái, Rạch Giá có đội Hòn Đất I…
Hình thức thứ ba, TNXP giải phóng miền Nam ở cơ sở (xã, ấp), được tổ chức rộng
rãi ở hầu khắp các tỉnh, với hàng chục ngàn đoàn viên, thanh niên tham gia. Riêng tỉnh Bến
Tre, trong chưa đầy 2 năm (1965-1966) đã có 10.215 đội viên. Một số xã, đội viên TNXP
chiếm trên 60% tổng số đoàn viên, thanh niên ở địa phương.
Đội viên TNXP ở cơ sở và TNXP tập trung có thời hạn là nguồn bổ sung dồi dào
cho bộ đội và TNXP tập trung dài hạn. Khi thành lập Tổng đội TNXP giải phóng miền
Nam, Thường vụ Trung ương Đoàn đã quyết định rút lực lượng TNXP các tỉnh về bổ sung
lực lượng xây dựng Tổng đội.
Năm 1967, trước yêu cầu của chiến trường, các đơn vị trong Tổng đội được biên chế
thành 3 liên đội (tiểu đoàn). Mỗi liên đội phối thuộc, gắn bó với một sư đoàn chủ lực miền
và mang phiên hiệu của sư đoàn đó, gồm liên đội 9, liên đội 5 và liên đội 7. ở chiến trường
khu V và khu VI, TNXP được chuyển sang trực thuộc hậu cần quân khu làm nhiệm vụ
phục vụ theo các đường hành lang.

Tòng quân, đi TNXP là những biểu hiện sinh động khí thế “Ba sẵn sàng” và tinh
thần “Năm xung phong”. Đã có trên 5 triệu lượt đoàn viên thanh niên gia nhập lực lượng
vũ trang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Riêng ở làng Hòa Xá, lá cờ đầu trong phong
trào tòng quân đã có 6 gia đình có 4 con đi bộ đội, 11 gia đình có 3 con, 61 gia đình có 2
con, 388 gia đình có 1 con… Tính ra đã có 568 thanh niên của làng đi bộ đội chống Mỹ,
chiếm tỉ lệ 16,9% dân số. Bên cạnh đó trên 133 ngàn đoàn viên và thanh niên, trong đó có
trên 69 ngàn nữ, tham gia lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước (tập
trung); hàng vạn đoàn viên, thanh niên tham gia lực lượng thanh niên xung phong giải
phóng miền Nam… là những con số mang nhiều ý nghĩa, không chỉ đáp ứng yêu cầu cấp
bách về sức người sức của cho chiến trường. Sâu xa hơn, tinh thần ấy càng nuôi lớn dậy ý
chí dám xả thân vì nghĩa lớn của một thế hệ dám đương đầu với thử thách và làm nên
thắng trận.
*
* *
Từ trận đầu máy bay Mỹ đánh phá một số điểm ở Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ
An, Quảng Bình… ngày 5-8-1964, với tinh thần “có lệnh là đi, giặc đến là đánh, đã đánh là
phải thắng” thanh niên trong các đơn vị pháo cao xạ và dân quân tự vệ ở các địa phương đã
thể hiện rõ ý chí và khả năng chiến đấu, đã chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, hạ máy bay,
bắt sống giặc lái. Hải quân nhân dân Việt Nam, lần đầu xuất kích với 3 tàu phóng lôi đã
đánh đuổi tàu Ma-đốc của Mỹ xâm phạm vùng biển nước ta. Hôm sau (ngày 5-8-1964) Hải
quân nhân dân Việt Nam lại cùng các đơn vị phòng không và nhân dân các địa phương khu
vực sông Gianh, Cửa Hội, Lạch Trường, Hòn Gai… đánh thắng không quân Mỹ một trận
oanh liệt mở đầu trang sử vẻ vang của binh chủng.
Nhiều chiến sĩ trẻ lần đầu đối mặt với máy bay Mỹ đã tỏ ra ngoan cường dũng cảm,
kiên cường bám trận địa, boong tàu, bị thương cũng không chịu rời trận địa. Ngày 18-11-
1964, tại miền Tây Quảng Bình, người chính trị viên trẻ tuổi Nguyễn Viết Xuân sau khi chỉ
huy đại đội pháo cao xạ của mình phối hợp chiến đấu trong đội hình của tiểu đoàn bắn hạ
một máy bay của Mỹ, đã bị thương nặng, chân giập nát. Không do dự, anh đề nghị cứu
thương chặt đứt chân cho khỏi vướng và yêu cầu không để các chiến sĩ biết. Anh đứng tựa
vào thành công sự tiếp tục chỉ huy bộ đội chiến đấu. Thấy máy bay Mỹ vẫn liều lĩnh lao

xuống cắt bom, Nguyễn Viết Xuân cố nén đau, dồn sức hô to:
- Các đồng chí! Máy bay Mỹ không có gì đáng sợ, học tập Nguyễn Văn Trỗi, các
đồng chí hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn!
“Nhằm thẳng quân thù, bắn” đã trở thành khẩu hiệu chiến đấu của toàn quân, toàn dân
và thanh niên Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trên các trận
địa bắn máy bay Mỹ, trong các chiến hào đối mặt kẻ thù, ở đâu cũng vang lên tiếng hô đầy
dũng khí: “Nhằm thẳng quân thù, bắn!”.
Càng trong gian khổ, ác liệt, phẩm chất anh hùng của tuổi trẻ “Ba sẵn sàng” càng
bộc lộ rõ nét. Cầu Hàm Rồng là một trong những biểu tượng của tinh thần quyết thắng của
quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. “Cầu Hàm Rồng không những tượng
trưng cho cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược mà còn tượng trưng
cho thắng lợi. Đó là “Đài chiến thắng” xây dựng ngay trong lúc còn chiến đấu và do chiến
đấu” (lời ông Chủ tịch Ban liên lạc quốc tế Hội nghị Xtốckhôm về Việt Nam
Béctanhxvantrân).
Từ ngày 3 và 4 tháng 4 năm 1965 cho đến suốt hai đợt gây chiến tranh phá hoại của
không quân Mỹ đối với miền Bắc, cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa), luôn là mục tiêu đánh phá
của chúng. Trong các ngày 3 và 4-4-1965 đã diễn ra những trận chiến đấu hiệp đồng tuyệt
vời giữa các quân, binh chủng, các lực lượng, không quân, hải quân, bộ đội pháo cao xạ,
dân quân tự vệ… không quân nhân dân trẻ tuổi lần đầu tiên xuất kích đã lập công vẻ vang.
Ngày 3-4 biên đội máy bay Phạm Ngọc Lan bắn rơi chiếc F8. Ngày 4-4 biên đội máy bay
Trần Hanh bắn rơi 2 chiếc F105. Các tàu hải quân cơ động, linh hoạt chăng lưới dày đặc,
góp phần hạ máy bay địch.
Các lực lượng pháo cao xạ và dân quân tự vệ ngoan cường, dũng cảm giữ vững vị trí
chiến đấu. Đại đội 4 pháo cao xạ Hàm Rồng, trận địa đóng trên đồi “3 cây thông” bất chấp
những trận bom địch xối xả xuống trận địa, kiên cường bắn trả máy bay Mỹ. Nhiều chiến
sĩ trẻ, như Vũ Minh Dương, 2 lần bị thương vẫn không chịu rời trận địa; Lê Như Đắc bị
ngất, nhưng khi tỉnh lại câu hỏi đầu tiên của anh là: “Cầu có việc gì không? Anh em có ai
việc gì không?”. Các chiến sĩ trẻ đơn vị phòng không 19-5, hiệp đồng chặt chẽ, đánh địch
đúng tầm, đúng hướng, thực hiện “đã ra quân là chiến thắng”.
Lực lượng dân quân tự vệ Hàm Rồng - Nam Ngạn luôn tỏ ra ngoan cường, xông xáo

hết vị trí này đến vị trí khác, phục vụ chiến đấu và chiến đấu dũng cảm. Hàn Thị Tĩnh,
Trương Thị Thạch… những tay súng bắn máy bay Mỹ tầm thấp quyết liệt, khi có pháo thủ
bị thương đã nhanh chóng thay thế vị trí, đảm bảo các khẩu đội pháo cao xạ có thể chiến
đấu liên tục. Ngô Thị Sáu, Ngô Thị Dung và nhiều nam nữ thanh niên Nam Ngạn dũng
cảm bơi ra giữa dòng sông Mã, dưới làn mưa bom của địch, cứu thuyền chở lương thực,
tiếp đạn, mang lá ngụy trang cho tàu hải quân. Nguyễn Thị Hằng cùng đồng đội đã nêu cao
tinh thần chiến đấu và phục vụ chiến đấu gan dạ trong nhiều đợt đánh trả máy bay Mỹ.
Ngô Thị Tuyển, trong lúc khẩn trương một mình đã vác một lúc cả 2 hòm đạn nặng 98 kg,
gấp 2 lần trọng lượng cơ thể mình, kịp thời tiếp đạn cho bộ đội đánh trả máy bay địch.
Trong những ngày chến đấu căng thẳng với máy bay Mỹ, lúc nào Ngô Thị Tuyển cũng
xông xáo, lúc tiếp đạn, lúc mang cơm và nước uống cho bộ đội. Sau này Ngô Thị Tuyển đã
được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Chiến tranh luôn là một thử thách khắc nghiệt, trước hết đối với thế hệ trẻ, làm bộc
lộ phẩm chất và năng lực hành động của những con người trẻ tuổi trước vận mệnh sống
còn của Tổ quốc, của nhân dân. Với một tiềm lực quân sự khổng lồ, đế quốc Mỹ đã sử
dụng đủ mọi loại máy bay, từ Thần sấm, Con ma đến siêu pháo đài bay B52, F111 cánh
cụp cánh xòe.. áp dụng đủ các thứ chiến thuật đánh phá của không quân, hải quân, đánh
phá ác liệt các mục tiêu trong đất liền, đánh phá cả những hòn đảo ở ngoài biển xa. Nhiều
hòn đảo trở thành những túi đựng bom, đạn của không quân và hải quân Mỹ, Cồn Cỏ,
Bạch Long Vĩ cũng như Hòn Ngư, Hòn Mắt… là những hòn đảo xa phải hứng chịu nhiều
trận đánh phá ác liệt của chúng. Nhưng cũng chính trong những điều kiện ác liệt đó các
chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang càng bộc lộ rõ phẩm chất sẵn sàng của mình,
giữa mưa bom bão đạn vẫn “rắn như thép, vững như đồng”.
Cồn Cỏ là một hòn đảo ở ngoài khơi Cửa Tùng (huyện Vĩnh Linh - Quảng Trị). Kẻ
địch dùng không quân, hải quân đánh phá Cồn Cỏ ngày đêm. Mỗi mét vuông đất đai trên
đảo Cồn Cỏ phải chịu hàng tấn bom đạn. Các chiến sĩ làm nhiệm vụ trên đảo, từ đồng chí
nuôi quân đến các chiến sĩ thông tin, quân y, pháo thủ… đã trở thành một khối thép vững
chắc, từng giờ từng phút đối mặt với máy bay, tàu chiến Mỹ, không một giây chùn bước,
nêu tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam. Có những
chiến sĩ đã trở thành biểu tượng sinh động cho ý chí kiên cường không có gì có thể khuất

phục. Thái Văn A, chiến sĩ quan trắc của đảo, ngày đêm bám vị trí chiến đấu, kể cả lúc
bom đạn địch trút xuống quanh mình dày đặc, anh vẫn bình tĩnh quan sát, thông báo kịp
thời từng diễn biến để đơn vị tổ chức đánh địch có hiệu quả.
Anh trở thành “Cây ra đa sống” của đảo. Bùi Thanh Phong, một pháo thủ gan góc,
mấy lần bị bom Mỹ vùi xuống đất, cả mấy lần anh đều đội đất đứng lên tiếp tục chiến đấu.
Cùng với tập thể đảo Cồn Cỏ, Thái Văn A và Bùi Thanh Phong đã được Nhà nước phong
tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Cồn Cỏ trở thành biểu tượng của sức mạnh chiến thắng của quân và dân ta trong
những năm kháng chiến chống Mỹ. Những nơi máy bay địch thường xuyên đánh phá ác
liệt đều được mệnh danh là Cồn Cỏ. Và những đoàn viên và thanh niên được phân công
làm nhiệm vụ ở những vị trí trọng yếu đó đều thấy vinh dự, tự hào và đều nêu cao tinh thần
bám trụ đến cùng, như các chiến sĩ Cồn Cỏ kiên cường bám đảo.
Vào thời điểm quyết liệt của cuộc chiến đấu, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân
Việt Nam phát động phong trào giành danh hiệu “Đơn vị quyết thắng” và “Chiến sĩ quyết
thắng”. Cũng thời gian này, Trung ương Đoàn TNLĐ Việt Nam quyết định đặt cờ thưởng
mang chân dung Nguyễn Văn Trỗi tặng những tập thể lập công xuất sắc trong chiến đấu,
sản xuất, học tập và rèn luyện. Về sau Trung ương Đoàn còn đặt phần thưởng huy hiệu
mang chân dung Nguyễn Văn Trỗi tặng những cá nhân có thành tích xuất sắc. Khí thế thi
đua lập công trong tuổi trẻ các lực lượng vũ trang và trong mọi đối tượng thanh niên ngày
càng sôi nổi. Những gương sáng về hạ máy bay địch tại chỗ, hạ ngay từ loạt đạn đầu xuất
hiện ngày một nhiều. Đó là các tập thể tiểu đoàn pháo cao xạ Nguyễn Viết Xuân, các lực
lượng pháo phòng không bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và các địa phương khác… cảnh giác
cao, cơ động linh hoạt, đón đánh địch trong mọi tình huống, đã đánh là thắng. Là những
chiến sĩ trẻ kiên cường, dũng cảm, có quyết tâm tiêu diệt địch cao, Nguyễn Văn Mật, 26
tuổi, tiểu đội trưởng súng máy trực tiếp chiến đấu hơn 200 trận với máy bay, tàu chiến Mỹ,
trận nào cũng lập công. Binh nhất pháo cao xạ Nguyễn Hữu Ngạn, 21 tuổi, trong một năm
liên tục chiến đấu 60 trận, có trận 3 lần bị thương vẫn không rời vị trí. Đó còn là các chiến
sĩ trẻ trong các lực lượng tên lửa, ra đa, thông tin, hậu cần, công binh v.v… ngày đêm
chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu giữ vững bầu trời và mặt biển của Tổ quốc.
Vai trò và vị trí của tổ chức Đoàn trong các lực lượng vũ trang ngày càng được củng

cố và phát huy. Trong tất cả các đại đội, phân đội đều có tổ chức chi đoàn, Đoàn cơ sở và
hầu hết đều do đồng chí chính trị viên phó trực tiếp làm bí thư. Từ cấp trung đoàn và các
đơn vị tương đương trở lên có trợ lý phụ trách công tác thanh niên nằm trong cơ quan
chính trị. Các tổ chức Đoàn thanh niên ở các đơn vị đã không ngừng giáo dục đoàn viên và
thanh niên tinh thần ngoan cường dũng cảm, dám xả thân vì Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội,
sẵn sàng hoàn thành mọi mệnh lệnh của các cấp chỉ huy trong bất kỳ tình huống nào.
Trong số đoàn viên thanh niên gia nhập quân đội trong những năm đầu chống chiến
tranh phá hoại của Mỹ, nhiều người đã tốt nghiệp hoặc đang theo học tại các trường đại
học và trung học chuyên nghiệp.Trong số này một phần vào quân đội theo lệnh điều động
vào phục vụ trong các đơn vị chuyên môn kỹ thuật, còn lại phần lớn đều đi theo tiếng gọi
“Ba sẵn sàng”, bổ sung cho các đơn vị trực tiếp chiến đấu. Đông đảo hơn cả vẫn là lực
lượng đoàn viên thanh niên đã tốt nghiệp cấp II, cấp III phổ thông, đã được huấn luyện cơ
bản về quân sự, đang sôi nổi khí thế “Ba sẵn sàng”.
Chất lượng tổ chức Đoàn trong các lực lượng vũ trang nhờ đó được tăng lên đáng
kể, góp phần không nhỏ tạo thêm sức mạnh chính trị trong quân đội, và nhất là nhanh
chóng vươn lên nắm vững khoa học, kỹ thuật quân sự hiện đại trước đòi hỏi cấp bách của
cuộc chiến đấu. Nhiều cơ sở Đoàn coi việc vươn lên nắm vững khoa học, kỹ thuật hiện đại
là thước đo trình độ giác ngộ của người chiến sĩ trẻ. Đoàn đã chủ động đề nghị tổ chức học
tập, rèn luyện kỹ năng chiến đấu ngay trong các chiến hào. Vừa chiến đấu vừa học tập.
Học giữa hai đợt máy bay địch đánh phá. Học cả ban ngày lẫn ban đêm. Các chiến sĩ trẻ
pháo cao xạ không những học sử dụng thành thạo các binh khí kỹ thuật hiện đại mà còn
học để đứng được tất cả các số trong một kíp chiến đấu. Tập thể đoàn viên và thanh niên
đoàn tên lửa 61, đơn vị anh hùng, bất kể trong hoàn cảnh nào cũng ra sức học tập chính trị
để nâng cao trình độ chính trị và không ngừng khổ luyện để nắm vững và nâng cao trình
độ kỹ thuật, chiến thuật, liên tiếp bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, kể cả siêu pháo đài bay B52.
Cùng với đoàn 61, binh chủng tên lửa phòng không trẻ tuổi, với lực lượng chủ yếu
là thanh niên, ngay từ trận đầu ra quân đã bất ngờ diệt máy bay địch trên vùng trời Bất Bạt
(Hà Tây). Từ đó (ngày 24-7-1965) bộ đội tên lửa phòng không với cách đánh mưu trí, sáng
tạo, dũng cảm, kiên quyết, liên tiếp lập nhiều chiến công vẻ vang. Trong 2 cuộc chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại của Mỹ lực lượng tên lửa phòng không đã bắn rơi hơn 800 máy

bay Mỹ, trong đó có 57 máy bay B52. Có trận chỉ bằng 1 quả tên lửa đã diệt 2 máy bay.
Đặc biệt trong 12 ngày đêm chiến đấu quyết liệt cuối năm 1972, lực lượng tên lửa đã chiến
đấu dũng cảm và sáng tạo, bắn rơi 37 máy bay Mỹ, trong đó có 32 chiếc B52. Chiến sĩ
điều khiển tên lửa, Trung úy Nguyễn Tuyên là một trong những thanh niên tiêu biểu không
ngừng vươn lên nắm vững khoa học kỹ thuật quân sự hiện đại, góp phần đánh thắng nhiều
loại máy bay Mỹ, được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang ngay trong
những năm đầu của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.
Tuổi trẻ phân đội 7, hải quân, Đoàn Không quân Sao Đỏ… vừa chiến đấu, vừa xây
dựng đã trưởng thành nhanh chóng, đọ sức hàng trăm trận với máy bay tàu chiến Mỹ, hạ
hàng chục máy bay, đánh đắm hàng trăm tàu thuyền của chúng. Tính đến năm 1975, nhân
dân đã chiến đấu hàng ngàn trận với hải quân, không quân và cả bộ binh Mỹ-Ngụy đánh
chìm 353 tàu, xuồng chiến đấu, vận tải quân sự của địch, diệt 2.000 tên, phá hủy hàng chục
vạn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch; đánh bị thương nặng 45 tàu các loại,
trong đó có nhiều tàu lớn như tàu tuần dương Niupo Niu, tàu khu trục Oasinhtơn… bắn rơi
118 máy bay, diệt 35 xe tăng, tháo gỡ và phá nổ hàng nghìn quả thủy lôi và bom các loại
của địch.
Trong mười năm đọ sức với không quân và hải quân Mỹ, không quân nhân dân Việt
Nam, một binh chủng mới được xây dựng mà hầu hết sĩ quan, chiến sĩ, đang độ tuổi thanh
xuân, đã xây dựng nên truyền thống “trung thành vô hạn, tiến công kiên quyết, đoàn kết
hiệp đồng lập công tập thể”, chiến đấu hơn 300 trận, bắn rơi 320 máy bay Mỹ, gồm 19
loại, trong đó có 2 máy bay B52, phá hủy 24 chiếc, đánh chìm và bắn cháy 6 tàu chiến và
tàu biệt kích, đánh thiệt hại nặng 3 căn cứ quân sự địch. Có trung đoàn bắn rơi 100 máy
bay, có đại đội bắn rơi trên 60 chiếc. Nhiều chiến sĩ lái đã lập công xuất sắc. Tiêu biểu là
các Anh hùng không quân trẻ tuổi Nguyễn Văn Bảy, Lê Thanh Đạo, Nguyễn Văn Cốc,
Phạm Tuân…
Với khẩu hiệu “Toàn dân vũ trang, toàn dân đánh giặc”, thanh niên luôn giữ vai trò
nòng cốt trong các lực lượng dân quân tự vệ, đã nêu cao tinh thần chiến đấu và phục vụ
chiến đấu, sản xuất và bảo vệ sản xuất trong mọi tình huống. Hàng trăm đơn vị đã bắn rơi
hoặc cùng bộ đội bắn rơi máy bay Mỹ. Tiêu biểu là thanh niên dân quân Yên Vực - Nam
Ngạn (Thanh Hóa), Quỳnh Lưu (Nghệ An), Cảnh Dương (Quảng Bình), Vĩnh Thái (Vĩnh

Linh), Hải Thịnh (Nam Hà),v.v… với những đoàn viên, thanh niên như Ngô Thị Tuyển,
Trần Thị Lý, Trương Thị Khuê… đã chiến đấu vô cùng thông minh, dũng cảm với đủ loại
phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ. Trần Thị Lý, ở tuổi 19, phơi phới sức thanh
xuân, trong một trận chiến đấu 6 lần bị bom vùi lấp, cả 6 lần đồng chí tự bới đất đứng lên
tiếp tục cuộc chiến đấu. Tại Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước lần
thứ nhất Trần Thị Lý là người trẻ nhất được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng
vũ trang.
Phong trào bắn máy bay Mỹ bằng súng bộ binh phát triển rộng khắp. Cùng với
thanh niên dân quân Nam Ngạn, Hàm Rồng, thanh niên tự vệ nhà máy điện Hà Nội, thanh
niên đội cầu 19-5 dũng cảm đánh trả địch, bảo vệ nhà máy, xí nghiệp, thanh niên dân quân
xã Minh Khôi (Nông Cống, Thanh Hóa) đã bắn rơi máy bay A4D của Mỹ bằng súng bộ
binh. Tiếp đó, thanh niên dân quân xã Hoằng Hải (Hoằng Hóa) Phú Lễ (Quan Hóa) nay
thuộc tỉnh Thanh Hóa cũng bắn rơi máy bay Mỹ. Trung đội dân quân gái xã Hoa Lộc (Hậu
Lộc, Thanh Hóa), phần lớn chỉ tuổi mười tám, đôi mươi, chỉ sau một tháng thành lập, ngày
16-6-1967, đã bắn rơi máy bay A4 của Mỹ, mở đầu phong trào dân quân gái toàn miền Bắc
thi đua bắn rơi máy bay Mỹ bằng súng bộ binh. Và ngày 16-11-1967, đơn vị dân quân gái
xã Hoằng Trường (Thanh Hóa) bắn rơi 2 máy bay AD6 của Mỹ, dân quân gái xã An Hồng
(Hải Phòng), bắn rơi một máy bay, 13 nữ dân quân Quảng Ninh (Quảng Bình) và nhiều
đơn vị dân quân gái khác đều bắn rơi máy bay Mỹ.
Phong trào bắn rơi máy bay Mỹ ở tầm thấp diễn ra ở mọi nơi, trong bất cứ hoàn cảnh
nào. Ba đoàn viên thanh niên ở Diễn Châu (Nghệ An) với 3 khẩu súng trường, khi máy bay
Mỹ đến đánh phá quê hương đã cùng chiến đấu, hạ 1 máy bay Mỹ. Tỉnh miền núi Sơn La
trong những điều kiện hết sức khó khăn, đoàn viên và thanh niên vẫn hăng hái thực hiện
“Ba sẵn sàng”. Trong những năm chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
thanh niên Sơn La chiếm tới 90% lực lượng của các đơn vị vũ trang trong tỉnh. Hầu hết
thanh niên chưa có điều kiện nhập ngũ đều tham gia các đơn vị trực chiến của dân quân tự
vệ, chiến đấu và phục vụ chiến đấu dũng cảm, lập công xuất sắc. Trong đó tổ dân quân của
đoàn viên thanh niên Lò Văn Sáng (Mường La) đã dùng súng bộ binh bắn rơi một máy bay
F105 của Mỹ ngay năm đầu chúng đến đánh phá Sơn La, mở đầu phong trào bắn máy bay
Mỹ tầm thấp trong toàn tỉnh. Tiếp đó, thanh niên các dân tộc Sơn La đã chiến đấu dũng

cảm, đánh địch trong mọi tình huống. 2 thanh niên người H’Mông xã Kim Bon (Phù Yên)
bắn rơi tại chỗ 1 máy bay F105, là xã vùng cao đầu tiên của miền Bắc bắn rơi máy bay Mỹ.
Đoàn viên Mùa Lao Chu, người dân tộc H’Mông, đang làm ruộng, đã lợi dụng thân trâu
làm giá súng bắn bị thương máy bay Mỹ. Đoàn viên Giàng A Dênh dùng súng trường bắn
rơi máy bay trực thăng Mỹ khi chúng đến cứu đồng bọn, giết chết tên giặc lái đang leo
thang máy bay.
*
* *
Trên chiến trường miền Nam, ngay khi quân Mỹ vừa ồ ạt kéo vào miền Nam, tuổi
trẻ “Năm xung phong” đã đương đầu một cách oanh liệt. Từ trận Vạn Tường mở đầu, tuổi
trẻ cùng đồng bào và chiến sĩ miền Nam đã khẳng định là có thể đánh và nhất định đánh
thắng Mỹ. Vừa chiến đấu vừa tìm hiểu những chỗ yếu của quân đội Mỹ, thanh niên miền
Nam Việt Nam đã cùng quân và dân khắp các địa phương sáng tạo nhiều cách đánh phong
phú, táo bạo. Quân Mỹ đi đến đâu, gieo tai họa ở chỗ nào là ở đó chúng phải trả nợ máu.
Chúng bị vây, bị chặn đánh ở mọi nơi, mọi lúc. Những mũi chông sắc nhọn, những phát
súng bắn tỉa bất thần của các chiến sĩ trẻ tuổi đã diệt hàng ngàn tên xâm lược. Củ Chi trở
thành đất thép, với những địa đạo ngang dọc, vây hãm quân thù vào trong trận đồ bát quái,
chúng đã vào là khó có đường ra. Những bài học sinh động của Củ Chi mở ra hướng đi có
hiệu quả trong chiến đấu. Chiến khu Đ lần đầu tiên Mỹ đưa lực lượng lớn, kể cả bọn chư
hầu đến càn quét đã bị du kích, phần lớn là đoàn viên, thanh niên đánh tiêu diệt. Du kích
Thái Hòa (Phước Thành) chỉ một tiểu đội đã đương đầu với cả 2 tiểu đoàn Mỹ có máy bay,
pháo binh và cơ giới yểm trợ, suốt một ngày trời, vừa sửa công sự vừa đánh địch, cuối
cùng buộc chúng phải rút lui. Vành đai Rạch Kiến (Long An) vừa kết hợp đấu tranh vũ
trang với đấu tranh chính trị chỉ trong 6 tháng đã diệt hơn 200 tên Mỹ.
ở Mỹ Tho, ngay từ ngày đầu Mỹ tiến hành xây dựng căn cứ Đồng Tâm làm bàn
đạp khống chế cả vùng đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn, tuổi trẻ đã cùng quân và dân
trong tỉnh hình thành thế bao vây tiến cống địch bằng “2 chân và 3 mũi giáp công”. Cả
những thanh niên mới lớn cũng tham gia đánh Mỹ bằng nhiều cách có hiệu quả. Hồ Văn
Nhánh, 16 tuổi, nhà ở gần căn cứ Đồng Tâm. Hàng ngày đi coi trâu gần căn cứ, Nhánh chú
ý quan sát và phát hiện trên hàng rào địch gài nhiều mìn và lựu đạn. Anh nảy ra ý định gỡ

trái về cho du kích, nhưng không biết làm cách nào để gỡ, phải đào nguyên cả bệ đất đựng
vào mo cau mang về. Dần dần được hướng dẫn, Nhánh đã tự gỡ và còn hướng dẫn lại cho
em Dũng ở gần nhà cùng gỡ. Kết quả gỡ được hàng ngàn quả mìn, lựu đạn các loại, phục
vụ cho du kích và bộ đội đánh địch trên 300 trận, diệt 130 tên Mỹ và nhiều tên ngụy.
Nhánh đã cùng với Dũng vào căn cứ gỡ trái tới 131 lần. Lần cuối cùng không may, mìn nổ
cả 2 đã hy sinh. Về sau Hồ Văn Nhánh được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang
giải phóng. Đáng chú ý là trận đánh của 4 chiến sĩ đặc công do Bảy Chịu chỉ huy. Cả 4
chiến sĩ đều là đoàn viên thanh niên, đêm 8 rạng sáng ngày 9 tháng 1 năm 1967 họ đã mưu
trí vượt qua hàng rào bảo vệ dày đặc tiếp cận cho n
ổ gói thuốc TNT nặng 200 kg, đánh chìm tàu cuốc Giamaicabay, phá hỏng 12 tiểu pháo
hạm, diệt trên 200 nhân viên kỹ thuật Mỹ.
Đi đôi với những vành đai diệt Mỹ, phong trào thi đua giành danh hiệu “Dũng sĩ
diệt Mỹ”, “Dũng sĩ quyết thắng”, “Dũng sĩ diệt xe cơ giới, hạ máy bay” đã thu hút đông
đảo đoàn viên, thanh niên ở các địa bàn khác nhau tham gia, thực hiện lời dạy của Bác Hồ
“31 triệu đồng bào là 31 triệu dũng sĩ”. Phan Hành Sơn, 21 tuổi đời diệt một số địch gấp
21 lần số tuổi của mình. Hồ Văn Mên, 13 tuổi đã mưu trí đánh địch giữa thị xã, diệt một
lúc 59 tên, phần lớn là sĩ quan. Nguyễn Văn Lên, chiến sĩ đặc công quận Tân Uyên, 2 ngày
liền chống chọi với một trung đoàn địch, diệt cả trăm tên Mỹ. Bùi Văn Hòa, chiến sĩ đánh
hậu cứ ngoan cường đã dẫn đồng đội vượt mọi lưới bố phòng như mạng nhện của địch tấn
công vào kho Long Bình lần thứ tư, phá hủy 889 ngàn đạn pháo, 23 xe cơ giới, 3 máy đèn,
diệt 107 tên Mỹ, làm bị thương 243 tên khác.
Một sự kiện đáng chú ý là sự ra đời những tập thể thanh niên chiến đấu: “Đội thanh niên
quyết tử”; “Đội thanh niên quyết thắng”; “Đội thanh niên khởi nghĩa”… Thanh niên vùng
ven thành phố Đà Nẵng đã mở đầu sáng kiến này. Lúc đầu là một nhóm nhỏ thanh niên, có
một số em thiếu nhi phối hợp, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, đã tổ chức đánh thử để
rút kinh nghiệm. Ngày 10-3-1965, khi đợt đầu tiên của đội quân viễn chinh Mỹ đổ vào Đà
Nẵng, một tên Mỹ đã ngã gục trước mũi súng bắn tỉa của “Đội thanh niên quyết tử” do
Tỉnh Đoàn Quảng Đà (ngày nay là thành phố Đà Nẵng) tổ chức. Sau đó, khu Đoàn liên khu
V quyết định phát triển các đội “thanh niên quyết tử” ở tất cả 9 tỉnh, từ vùng núi Tây
Nguyên đến các thành phố Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang. Đội “Thanh niên quyết tử”

mang tên Anh hùng Võ Như Hưng do Huyện Đoàn Điện Bàn tổ chức, nhanh chóng nổi lên
với nhiều cách đánh mưu trí, táo bạo. Đội ra mắt tại Gò Nổi, phía Nam sông Thu Bồn, với
lực lượng ban đầu 31 tay súng. Trong một trận đánh không cân sức, đội đã chiến đấu kiên
cường, đánh lui một lực lượng liên hợp gồm 3 tiểu đoàn quân Mỹ và ngụy, diệt 125 tên,
bắn cháy 5 xe tăng và xe bọc thép, rồi thừa thắng, truy kích địch vào tận thị xã Vĩnh Diện.
Tại đây, một lực nhỏ của đội trụ lại, thoắt ẩn, thoắt hiện bám đánh địch liên tiếp trong
nhiều ngày. Đội “thiếu niên quyết tử Nguyễn Văn Trỗi” ở Điện Hòa chỉ có 6 em cũng đã
lập công xuất sắc: Trong 3 tháng diệt 135 tên Mỹ và thu được 15 súng. Tại thành phố Sài
Gòn và các thành phố, thị xã khác đã xuất hiện những “đội quân ngầm” hoạt động táo bạo,
đánh sập nhiều bin đinh, cư xá Mỹ, diệt hàng trăm tên giặc xâm lược, trong đó có nhiều tên
giặc lái nhà nghề và nhiều sĩ quan cao cấp Mỹ.
Tổ chức Đoàn ở nhiều nơi còn góp phần tổ chức những đơn vị chiến đấu gồm toàn
nữ thanh niên. 6 nữ thanh niên du kích ở Quế Sơn (Quảng Nam) 7 ngày đêm liền chống trả
một trung đoàn địch đến càn quét, diệt 59 tên Mỹ-Ngụy, hạ một máy bay. Chị em vừa cầm
súng chiến đấu quyết liệt, khi lực lượng địch mạnh, tràn được vào trong thôn xóm, chị em
lại giấu súng, trở thành những cô gái dịu dàng trò chuyện thuyết phục từng tên địch. Địch
rút ra ngoài, chị em lại cầm súng, đón đánh đợt tấn công tiếp của chúng. Trong nhiều
huyện của miền Tây và miền Đông Nam Bộ còn xuất hiện những đơn vị nữ pháo binh ở
Rạch Giá, Long An, nhất là đội nữ pháo binh quận Lái Thiêu (Thủ Dầu Một) chỉ sau 10
ngày huấn luyện đã sử dụng thành thạo các trang bị kỹ thuật, bắn chính xác, diệt 37 tên
địch, trong đó có một đại úy ngụy.
Trong gian khổ ác liệt, phong trào “Xung phong tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch”
của thanh niên trong tất cả các thứ quân trên chiến trường miền Nam ngày càng phát triển,
làm nảy nở nhiều tấm gương tiêu biểu. Dương Văn Tân, kiện tướng diệt Mỹ trẻ tuổi của
Tây Ninh, cùng tổ chiến đấu của mình trong 16 ngày đêm đánh tan xác và đánh hỏng 16 xe
tăng, xe bọc thép, diệt 87 tên Mỹ. Từ Văn Phước, 26 tuổi, dũng sĩ diệt Mỹ Thủ Dầu Một,
trong 13 tháng chiến đấu ở vùng sát địch quận Lái Thiêu đã diệt 71 tên Mỹ, 17 lính Nam
Triều Tiên, 45 lính ngụy… Chỉ riêng năm 1966 tất cả đoàn viên và thanh niên ở miền
Đông Nam Bộ đều vượt chỉ tiêu diệt Mỹ. Qua hiệp đầu đánh bại cuộc phản công mùa khô

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×