Tải bản đầy đủ (.doc) (236 trang)

LỊCH SỬ ĐOÀN TNCS HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 236 trang )

Lịch sử Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
CHƯƠNG I
NGUYẾN ÁI QUỐC VÀ TỔ CHỨC VIỆT NAM THANH NIÊN CÁCH MẠNG ĐỒNG CHÍ HỘI VỚI
QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ THÀNH LẬP ĐOÀN
Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp ráo riết thực hiện chính sách bóc lột hết sức tàn
bạo nhằm vơ vét sức người, sức của ở Việt Nam. Trong thân phận người dân mất nước, cũng
như cha anh mình, tuổi trẻ Việt Nam hồi đầu thế kỷ phải sống dưới gông cùm nô lệ. Ở mọi lĩnh
vực kinh tế, xã hội, thanh niên là lực lượng lao động chủ yếu và là lớp người bị áp bức, bóc lột
nặng nề nhất. Báo cáo ngày 17-7-1928 của Đơ Lama gửi cho Phủ toàn quyền Đông Dương về
tình hình “cu li” ở đồn điền cao su Michelin (Nam Kỳ) có đoạn viết:
“Một đứa tên là Trần Văn Chung 20 tuổi mang trên vai 8 cái sẹo của đầu gậy bổ sâu vào thịt. Một
đứa khác tên là Vũ Viết Thu 21 tuổi mang trên vai 50 vết roi cá đuối”.
Các tầng lớp thanh niên khác, nhất là thanh niên nông dân đều cùng chung cảnh ngộ bị đọa đầy
dưới ách thực dân, phong kiến. Không thể cam chịu mãi cảnh sống cơ cực nước mất, nhà tan, các
phong trào yêu nước của nhân dân và thanh niên ta không ngừng phát triển ngày càng mạnh mẽ
làm cho kẻ thù lo sợ và điên cuồng đối phó.
Song, trước sau do thiếu một đường lối đúng đắn, một tổ chức chặt chẽ nên cuối cùng các phong
trào đấu tranh bị kẻ thù dìm trong biển máu. Tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo đòi hỏi phải được
giải quyết để đưa cách mạng nước ta tiến lên. Đúng vào thời điểm này, người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành, sau lấy tên là Nguyễn Ái Quốc đã mở đầu cuộc hành trình hết sức quả
cảm và gian lao tìm đường cứu nước, cứu dân...
Giữa năm 1911, ở tuổi 20, Nguyễn Ái Quốc xuống tàu Latusơ Tơrêvin tại cảng Nhà Rồng (Sài
Gòn) đi ra nước ngoài với ý thức tìm hiểu nước Pháp và các nước khác làm thế nào mà trở nên
độc lập, hùng cường rồi sẽ “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức, đoàn kết và
huấn luyện để đưa họ đấu tranh giành quyền tự do, độc lập”. Nguyễn Ái Quốc đã đến Pháp, đi qua
nhiều nước châu Phi, đến Mỹ, Anh,v.v... và trở lại Pháp vào cuối năm 1917 lúc chiến tranh thế giới
lần thứ nhất ở vào giai đoạn quyết liệt nhất.
Tại Paris, Người kết bạn với nhiều nhà hoạt động chính trị xã hội, văn hóa có uy tín lớn của nước
Pháp. Người viết nhiều bài báo tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở các thuộc địa, tranh thủ mọi
diễn đàn, những buổi hội họp, mít tinh, sinh hoạt câu lạc bộ để tuyên truyền cho cách mạng Việt
Nam, Lào, Campuchia và các nước thuộc địa khác.


Với nhiệt huyết của tuổi thanh niên, Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra “Nhóm những người Việt Nam
yêu nước” tại Pháp. Thành viên của nhóm hầu hết là thanh niên công nhân, binh lính (thực dân
Pháp đã bắt hơn 10 vạn thanh niên nông dân, công nhân sang phục vụ chiến tranh thế giới lần thứ
nhất tại Pháp) và sinh viên... Nhóm hoạt động mạnh mẽ làm cho giới cầm quyền Pháp rất lo ngại.
Do công tác tuyên truyền, tổ chức của nhóm được tiến hành tích cực nên cơ sở của nhóm phát
triển khá mạnh. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chân thành mời hai nhà yêu nước Phan Châu Trinh
và Phan Văn Trường tham gia hoạt động của “Nhóm những người Việt Nam yêu nước” song cơ
bản cả hai ông không tán thành: “Vì các ông cho nhóm thanh niên ấy là trẻ con”
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Hội nghị Vécxây (Versailles) họp tại Thủ đô Paris giữa các
nước thắng trận vào ngày 18-6-1919. Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước
ở Pháp đưa tới hội nghị bản yêu sách đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận quyền tự do, dân chủ,
quyền bình đẳng và tự quyết của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách này được gửi đến các đoàn đại
biểu Đồng minh và tất cả các nghị viện của Quốc hội Pháp. Báo “Nhân đạo” (L’Humanité) và nhiều
nhật báo khác ở Pháp đã đăng nguyên văn hoặc trích ngang bản yêu sách chính trị quan trọng
này. Nguyễn Ái Quốc cùng những đồng chí của Người đã cho in bản yêu sách thành truyền đơn
gửi về trong nước. Dư luận ở Paris cũng như ở Pháp coi việc làm của người thanh niên yêu nước
Nguyễn Ái Quốc như là quả bom chính trị nổ ngay giữa Paris.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc biết bao sung sướng, vui mừng được đọc bản "Sơ thảo lần thứ
nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin, khẳng định lập trường kiên
quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Từ
đó Người hoàn toàn tin theo Lênin, dứt khoát đứng về Quốc tế thứ ba.
Tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (Tours -12-1920) Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập Quốc tế III, và cùng những người chủ trương gia nhập Quốc tế III tuyên bố
thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản (Section Fransaise de I’Internationale communiste,
viết tắt là S.F.I.C). Sự kiện Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III, tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đánh dấu bước
ngoặt trong hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin và đi theo
con đường cách mạng vô sản. Sự kiện này cũng đánh dấu bước mở đường giải quyết cuộc khủng
hoảng về đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam.
Năm 1921, tại Paris, Nguyễn Ái Quốc cùng một số đồng chí của Người lại sáng lập ra “Hội Liên

hiệp các dân tộc thuộc địa” để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân,
thông qua tổ chức này đưa chủ nghĩa Mác-Lênin đến các dân tộc thuộc địa.
Thành viên trong tổ chức “Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa” cũng bao gồm tuyệt đại bộ phận là
thanh niên giống như “Nhóm những người Việt Nam yêu nước ở Pháp”. Điều này về sau được
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định khi nhắc lại quá trình hình thành của Hội: ... “Hơn 40 năm trước
đây, một nhóm thanh niên yêu nước, người các thuộc địa Pháp, trong đó có thanh niên Việt Nam
và thanh niên Ghinê, đã cùng nhau đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, để giành tự do,
độc lập cho đất nước mình...”
Đây chính là loại hình Quốc tế thanh niên thuộc địa theo quan điểm của Lênin mà Nguyễn Ái Quốc
bước đầu bắt tay thực hiện. Qua việc sáng lập các tổ chức mà đại bộ phận thành viên là những
người yêu nước trẻ tuổi Việt Nam và các thuộc địa Pháp đã giúp Nguyễn Ái Quốc sớm hình thành
những quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá các khả năng cách mạng của tuổi trẻ cũng như hình
thức, phương pháp đoàn kết, tập họp họ. Đây là một trong nhiều hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
trong phong trào thanh niên hồi đầu thế kỷ.
Thực tiễn phong phú này tạo điều kiện cho Người rút ra nhiều bài học kinh nghiệm về vận động
thanh niên các nước thuộc địa.
Báo “Người cùng khổ” (Le Paria) do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút đã cất lên tiếng
nói đầu tiên vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của
đế quốc Pháp ở Đông Dương, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, trước hết là thanh niên tiểu tư sản,
trí thức yêu nước hăng hái đứng lên đấu tranh để tự giải phóng.
Mùa hè năm 1923, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô, đất nước của Cách mạng Tháng Mười
và V.I.Lênin vĩ đại. Tại Mátxcơva, Người tham gia nhiều đại hội và hội nghị quốc tế; viết nhiều bài
đăng trên các báo “Sự thật” và “Thư tín quốc tế”.
Ngày 17-6-1924, Nguyễn Ái Quốc là đại biểu chính thức tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V
khai diễn tại Nhà hát lớn Mátxcơva.
Đoàn đại biểu Ban Chấp hành Quốc tế Thanh niên Cộng sản tại Đại hội đã liên hệ với Nguyễn Ái
Quốc và chính thức mời Người tham gia công việc chuẩn bị nội dung cho Đại hội Quốc tế Thanh
niên Cộng sản lần thứ IV sẽ họp vào thời gian sau đó. Từ khi còn hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái
Quốc đã có mối quan hệ với Quốc tế Thanh niên Cộng sản. Người đã đến Hội trường Thanh niên
Cộng hòa ở Paris để giới thiệu về phong trào thanh niên thế giới, phong trào thanh niên Đông

Dương và các chủ trương của Quốc tế Thanh niên Cộng sản được người nghe rất hoan nghênh.
Ngày 15-7-1924, Đại hội Quốc tế Thanh niên Cộng sản lần thứ IV đã khai mạc tại Hội trường Công
đoàn ở Mátxcơva. Đại hội được tiến hành khi Lênin qua đời vừa được sáu tháng.
Những phần tử cơ hội và phản động Quốc tế cấu kết với các giới đế quốc điên cuồng mở rộng
tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Lênin và học thuyết cách mạng của Người. Phong trào Thanh
niên cộng sản Quốc tế đứng trước nhiệm vụ cấp bách là đẩy lùi và đập tan những luận điệu lừa
bịp ấy nhằm tiếp tục tranh thủ trái tim và khối óc của hàng triệu thanh niên cộng sản trong đó có
phong trào thanh niên cộng sản ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Trong bối cảnh đó, Đại hội IV Quốc tế Thanh niên Cộng sản có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt
đối với việc thực hiện di huấn của V.I.Lênin vĩ đại: “Sự nghiệp to lớn và tất yếu của các đồng chí là
chuẩn bị cho tuổi trẻ sẵn sàng tham gia cuộc đấu tranh cách mạng và trong việc học tập”.
Là người đại diện ưu tú của các dân tộc bị áp bức, ngay trước khi tham dự Quốc tế Cộng sản lần
thứ V, Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị với Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản về việc thành lập
“Nhóm châu Á” tại Trường Đại học Phương Đông nhằm tạo điều kiện cho thanh niên, học viên có
cơ hội nghiên cứu tình hình, đặc điểm của các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Là thành viên trong đoàn Chủ tịch trực tiếp lãnh đạo Đại hội, bằng kinh nghiệm thực tiễn phong
phú đã trải qua, nhất là sự hiểu biết sâu rộng về tình cảnh thanh niên các nước thuộc địa, Nguyễn
Ái Quốc đã có những đóng góp quan trọng vào việc soạn thảo hàng loạt văn kiện của Đại hội.
Đặc biệt, Nguyễn Ái Quốc là người chủ trì và là tác giả chính trong nhóm tác giả soạn thảo “Luận
cương về thanh niên thuộc địa” nổi tiếng theo tư tưởng của Lênin Người đã trực tiếp trình bày văn
kiện hết sức quan trọng này tại Đại hội và được Đại hội nhất trí thông qua. Luận cương mở đầu
bằng việc đánh giá và khẳng định rằng từ năm 1919 đến năm 1924, phong trào thanh niên thuộc
địa đã có những chuyển biến mạnh mẽ dưới ngọn cờ của Quốc tế Cộng sản và được ảnh hưởng
của Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga. Năm 1919 là thời điểm V.I. Lênin sáng lập ra Quốc tế
Thanh niên cộng sản và Nguyễn Ái Quốc đã may mắn sớm có mối liên hệ với tổ chức này như
trên đã nêu. Luận cương nhận định rằng thanh niên các thuộc địa đã dần dần hướng phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc theo thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản. Họ đi theo ngọn cờ của
Lênin vì họ tìm thấy ánh sáng soi đường trong Luận cương về vấn đề dân tộc nổi tiếng của Người.
Tiếp đến, “Luận cương về thanh niên thuộc địa” nêu lên yêu cầu cấp bách phải tổ chức, tập họp
lực lượng thanh niên cách mạng và xây dựng cơ sở Đoàn Thanh niên Cộng sản ở các thuộc địa.

Đây là mâu thuẫn gay gắt nổi lên trong những năm đầu thế kỷ ở các thuộc địa giữa đòi hỏi của
nhiệm vụ cách mạng và những khả năng để giải quyết những nhiệm vụ đó. Vấn đề “Thiếu tổ chức
và thiếu người tổ chức” mà sau này vào năm 1925 trong “Thư gửi thanh niên An Nam” đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ là tình hình chung của nhiều nước thuộc địa khác trên thế giới chứ
không chỉ riêng ở Việt Nam. “Luận cương về thanh niên thuộc địa” đặt ra yêu cầu khẩn thiết về
việc hình thành các đoàn thể thanh niên cách mạng và tiến tới xây dựng các tổ chức thanh niên
cộng sản ở thuộc địa là nhằm giải quyết mâu thuẫn nêu trên.
Cuối cùng “Luận cương về thanh niên thuộc địa” nhấn mạnh việc tăng cường mối liên hệ giữa các
tổ chức thanh niên cách mạng, thanh niên cộng sản ở các thuộc địa với tổ chức thanh niên cộng
sản ở chính quốc.
Luận cương vạch ra những công việc cụ thể về giúp đỡ vật chất, tinh thần của các tổ chức TNCS
chính quốc với các tổ chức TNCS ở thuộc địa.
Nghiên cứu toàn bộ “Luận cương về thanh niên thuộc địa” do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì
soạn thảo Đại hội lần thứ IV Quốc tế TNCS (1924) chúng ta tìm thấy nhiều ý tưởng, quan điểm về
vấn đề thanh niên thuộc địa mà trước đó đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã nhiều lần đề cập đến trong
các bài viết của Người trên báo chí của Đảng Cộng sản Pháp hoặc trong các cuộc tranh luận nội
bộ về các vấn đề có liên hệ đến trách nhiệm của Đảng đối với phong trào thuộc địa cũng như các
bài viết của Nga đăng trên tạp chí “Thư tín quốc tế’ của Quốc tế Cộng sản” và báo “Sự thật” của
Đảng Cộng sản Liên Xô.
Luận cương về thanh niên thuộc địa đã đưa ra những quan điểm rất cơ bản và chỉ rõ nhiệm vụ cụ
thể về tổ chức, giáo dục và hướng dẫn cuộc đấu tranh vì những mục tiêu độc lập, tự do, giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc của thanh niên các nước thuộc địa.
Luận cương vừa có giá trị như một cương lĩnh chính trị vừa như một chương trình hành động phù
hợp với tình hình, nguyện vọng của hàng chục triệu thanh niên đang bị áp bức, đọa đày do chính
sách và những hành động tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc cấu kết phong kiến bản địa.
Giữa năm 1925, nghĩa là chỉ hơn một năm sau khi “Luận cương về thanh niên thuộc địa” được
nhất trí thông qua tại Đại hội Quốc tế Thanh niên Cộng sản lần thứ IV, tác giả của văn kiện nổi
tiếng này - đồng chí Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ của dân tộc và giai cấp công nhân Việt Nam đã triển
khai thắng lợi chủ trương xây dựng một tổ chức thanh niên cách mạng ở Việt Nam - một nước
thuộc địa của Pháp là “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội”, một tổ chức bao gồm phần

lớn là thành viên trẻ tuổi theo xu hướng cộng sản, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong những năm tháng Nguyễn Ái Quốc sống và hoạt động ở Liên Xô (1923-1924) cũng là lúc
phong trào cách mạng ở Trung Quốc phát triển mạnh mẽ. Quảng Châu là trung tâm cách mạng
của đất nước Trung Hoa rộng lớn. Quảng Châu trở thành địa bàn quan trọng cho hoạt động của
nhiều nhà cách mạng Việt Nam và những nhà yêu nước Triều Tiên, Inđônêsia, Miến Điện. Nhiều
thanh niên yêu nước Việt Nam xuất dương vào đầu những năm 20 cũng đã đến đây và được tập
hợp lại trong tổ chức Tâm Tâm Xã. Đầu năm 1924 Phạm Hồng Thái sang Quảng Châu và gia
nhập Tâm Tâm Xã. Tháng 6-1924, Phạm Hồng Thái thực hiện nhiệm vụ ném tạc đạn nhằm mưu
sát tên toàn quyền Méclanh (Merlin) nhân dịp y đi công cán qua Quảng Châu.
Tiếng bom Sa Diện mưu sát toàn quyền Đông Dương Méc lanh của người thanh niên yêu nước
Phạm Hồng Thái tuy không thành công “nhưng nó báo hiệu bắt đầu thời đại đấu tranh dân tộc,
như chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân”, là hiệu kèn thúc giục nhiều thanh niên yêu nước Việt Nam
dấn thân trên con đường tranh đấu.
Năm 1925, cụ Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt và kết án tử hình. Hàng chục vạn thanh niên
thuộc đủ các tầng lớp trong cả nước đã sôi sục đấu tranh đòi bọn cầm quyền ở Đông Dương phải
thả cụ. Năm 1925, cụ Phan Chu Trinh mất, hơn 140 ngàn người trong đó có hàng vạn thanh niên,
học sinh đã tập hợp ở Sài Gòn để đưa đám tang cụ. Đây là một cuộc biểu dương lực lượng rất to
lớn có ảnh hưởng rất rộng trong cả nước, nhất là đối với phong trào thanh niên. Nguyễn Ái Quốc,
ngay thời gian đó đã nêu rõ: “Chưa bao giờ có một phong trào quần chúng rộng rãi như vậy”. Đây
là một dịp rất tốt cho Nguyễn Ái Quốc tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, cổ vũ đấu tranh cách
mạng.
Trong phong trào đấu tranh của quần chúng, hàng loạt tổ chức yêu nước do những người trẻ tuổi
sáng lập ra đời. Năm 1925, nhóm sinh viên cao đẳng Hà Nội gồm 17 người, trong đó có Tôn
Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Phạm Thiều... cùng với một số thầy giáo trẻ ở miền Trung nhóm họp
tại Vinh và quyết định thành lập “Hội Phục Việt” sau này là “Tân Việt”. Tháng 3 năm 1926, một số
thanh niên trí thức ở Nam Bộ trong đó có Trần Huy Liệu, lập ra “Đảng Thanh niên”. Giữa năm
1926, nhà yêu nước trẻ tuổi Nguyễn An Ninh tập hợp một số thanh niên viên chức, thầy giáo yêu
nước vào tổ chức “Thanh niên Cao Vọng”. Những tổ chức thanh niên yêu nước nói trên hoạt động
rất hăng hái, như “Hội Phục Việt” đã vận động hội viên tham gia cuộc đấu tranh đòi thả cụ Phan
Bội Châu với nhiều hình thức phong phú. Đảng thanh niên hô hào thanh niên biến cuộc đưa đám

cụ Phan Chu Trinh thành cuộc biểu dương lực lượng của quần chúng.
Vào thời gian có nhiều sự kiện đặc biệt đó, sau khi dự Đại hội Quốc tế Thanh niên Cộng sản lần
thứ IV, Nguyễn Ái Quốc đã từ Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc) với trách nhiệm nặng nề đối
với phong trào cách mạng ở Đông Dương và châu Á. Người đã khẩn trương tìm hiểu tình hình và
tìm cách bắt liên lạc với những thanh niên Việt Nam yêu nước tại đây qua sự giúp đỡ một phần
của phái đoàn cố vấn Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên.
Liên tiếp trong 2 ngày 18 và 19-12-1924, Nguyễn Ái Quốc gửi thư và báo cáo cho Đoàn Chủ tịch
Quốc tế Cộng sản, trong đó Người đánh giá cao tinh thần cách mạng của số thanh niên yêu nước
mà Người đã tiếp xúc.
Từ tháng 12 năm 1924 cho đến tháng 2 năm 1925 là thời gian Nguyễn Ái Quốc làm việc mật thiết
với nhóm thanh niên trong tổ chức Tâm Tâm Xã. Người đã thẳng thắn nêu lên những thiếu sót
trong nhận thức, hành động của nhóm này và tỏ rõ sự khâm phục tinh thần yêu nước của các
chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi như trường hợp Phạm Hồng Thái. Dưới hình thức những lớp bồi
dưỡng nhỏ, phân tán, Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu với anh em về Cách mạng Tháng Mười Nga,
về Quốc tế Cộng sản, về chủ nghĩa xã hội khoa học, về học thuyết Mác - Lênin. Tác dụng của các
lớp học đầu tiên này đối với số thanh niên đang khát khao lý tưởng thật là to lớn. Kết luận mà
Nguyễn Ái Quốc rút ra cho các học trò của Người là muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải dựa
vào quần chúng nhân dân, nhất là công nhân, nông dân, phải có một Đảng tiên phong theo chủ
nghĩa Mác - Lênin lãnh đạo.
Với lý luận sắc bén, kinh nghiệm phong phú, tác phong cởi mở, Nguyễn Ái Quốc đã tạo nên niềm
tin mạnh mẽ cho số thanh niên yêu nước và đưa dần họ đến với chân lý cách mạng.
Lúc này Nguyễn Ái Quốc chủ trương tổ chức một nhóm bí mật. Tuy về quy mô chỉ là nhóm đầu
tiên nhưng có đầy đủ Chương trình, Điều lệ...
Hoàn thành xong nhiệm vụ có ý nghĩa lịch sử này, ngày 19-2-1925, Nguyễn Ái Quốc đã gửi báo
cáo tới Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản. Trong mục “Công tác đã làm được”, Nguyễn Ái Quốc
viết:
“Chúng tôi đã lập một nhóm bí mật gồm 9 thành viên, trong đó có:
- 2 người đã được phái về nước.
- 3 người ở tiền tuyến (trong quân đội của Tôn Dật Tiên).
- 1 người đi công cán quân sự (cho Quốc dân đảng).

Trong số hội viên đó, có 5 người đã là đảng viên dự bị của Đảng Cộng sản.
Chúng tôi còn có 2 đoàn viên dự bị của “Đoàn thanh niên Cộng sản Lênin”.
Nhóm bí mật 9 người do Nguyễn Ái Quốc xây dựng là cái mầm non của một tổ chức cộng sản mà
Người đã ấp ủ trong kế hoạch tổ chức từ sau khi tham dự đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V và
Đại hội Quốc tế Thanh niên Cộng sản lần thứ IV.
Con đường truyền bá tư tưởng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lênin vào giai cấp công
nhân và nhân dân yêu nước Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện lúc đó là dựa vào thanh
niên, lớp người trẻ tuổi có lòng yêu nước, căm thù giặc, hăng hái cách mạng, nhạy cảm với cái
mới, có học thức, được học tập lý luận giải phóng dân tộc và phương pháp tổ chức nhân dân do
chính Người đào tạo.
Chính từ kết quả đầu tiên bằng tư duy rất sáng tạo và tài tổ chức của mình, Nguyễn Ái Quốc đã
yêu cầu Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản cho “gửi sinh viên Việt Nam sang học Trường Đại học
Cộng sản ở Mátxcơva” và nói rõ hơn cho tôi biết “là có thể gửi bao nhiêu sinh viên Việt Nam sang”.
Sự ra đời của nhóm cách mạng trẻ tuổi 9 người tuy còn quá nhỏ bé trên con đường dài dựng
Đảng, dựng Đoàn nhưng đó là thời điểm khai sinh ra một thế hệ thanh niên mới với xu hướng làm
cho thực dân Pháp và bọn cai trị run sợ. Toàn quyền Đông Dương Méclanh đầu năm 1925 gửi báo
cáo về Bộ thuộc địa Pháp nói: “Xuất hiện ở Quảng Châu một người cách mạng Việt Nam tên là Lý
Thụy hoạt động rất tích cực trong số những người Việt Nam tại đây và dùng những biện pháp
tuyên truyền kiểu mới có xu hướng cộng sản”
Việc ra đời nhóm đoàn viên thanh niên cộng sản Việt Nam đầu tiên này là sự kiện đặc biệt quan
trọng mở đầu cho quá trình hình thành và phát triển các tổ chức thanh niên cách mạng theo xu
hướng cộng sản chủ nghĩa cũng như sự ra đời của Đoàn Thanh niên Cộng sản ở nước ta sau
này.
Đối với phong trào thanh niên cộng sản quốc tế, sự xuất hiện nhóm đoàn viên thanh niên cộng sản
Việt Nam đầu tiên vào đầu năm 1925 đã góp phần minh chứng tính đúng đắn của Luận cương về
thanh niên thuộc địa do Nguyễn Ái Quốc chủ trì soạn thảo như trên đã nêu.
Từ nhóm bí mật 9 người, chỉ trong vòng hơn 4 tháng sau các chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi dưới sự
hướng dẫn của Nguyễn Ái Quốc vừa lo tổ chức, huấn luyện, bồi dưỡng cho những thanh niên ở
trong nước ra, vừa lo chuẩn bị chương trình điều lệ,v.v... để đến tháng 6-1925, Hội Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí chính thức tuyên bố thành lập và bắt đầu mở rộng các hoạt động

tạo ra bước ngoặt quan trọng trong phong trào yêu nước của nhân dân, đặc biệt là của thanh niên
ta.
Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí ngay từ khi mới thành lập đã lo đặt viên đá đầu tiên
để chuẩn bị cho tổ chức thanh niên sau này.
Do việc tích cực phát triển Đoàn nên từ đầu năm 1925 đến năm 1926, số đoàn viên, từ một nhóm
nhỏ vài ba đồng chí đã tăng lên 25 đồng chí.
Lớp đoàn viên thanh niên cộng sản đầu tiên này phần lớn trở về nước hoạt động như trường hợp
Vương Thúc Oánh, Nguyễn Ngọc Ba... một số khác được phân công học tiếp tại các lớp đào tạo
cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô và học quân sự ở Trường
Hoàng Phố (Quảng Châu).
Tuân theo di huấn của Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”,
Nguyễn Ái Quốc lần lượt mở các lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu. Mục đích học tập là “Học
làm cách mạng, học cách hoạt động bí mật. Học xong họ lại bí mật về nước truyền bá lý luận giải
phóng dân tộc và tổ chức nhân dân”.
Nguyễn Ái Quốc cùng với các cộng sự đắc lực của Người như các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Lê
Hồng Phong, Lê Hồng Sơn,v.v... đã mở liên tiếp các lớp huấn luyện thu hút khá đông thanh niên
yêu nước các miền Bắc, Trung, Nam sang Quảng Châu học tập.
Theo báo cáo của Nguyễn Ái Quốc gửi Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản, từ năm 1924 đến
năm 1927, Người đã mở được ba khóa huấn luyện cho 75 người, xuất bản được 3 tờ báo nhỏ.
Đây là vốn quý mà Người đã chuẩn bị cho cách mạng Việt Nam. Hy vọng tuyệt đại bộ phận được
trở về Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Nam Kỳ về Xiêm để hoạt động, tuyên truyền lý luận giải phóng dân tộc và
tổ chức nhân dân. Đồng chí Phạm Văn Đồng là một trong những học viên được cử phụ trách các
cơ sở Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở các tỉnh phía Nam nước ta.
Học viên tuy là những người có trình độ văn hóa (phần lớn là học sinh và giáo viên) nhưng còn hết
sức bỡ ngỡ với biết bao khái niệm chính trị, triết học... mà họ chưa hề biết đến... Tất cả những
điều mới mẻ trên có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với lớp thanh niên đang khát khao lý tưởng, khát khao
tìm đường cứu nước, cứu dân. Họ hấp thụ chân lý chủ nghĩa Mác - Lênin như hấp thụ ánh sáng
mặt trời.
Đối với công tác thanh niên, học viên được nghe giới thiệu về Quốc tế Thanh niên Cộng sản. Đây
là đường lối công tác thanh niên theo chủ nghĩa Mác - Lênin lần đầu tiên được truyền bá vào Việt

Nam.
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện thanh niên yêu nước ở Quảng Châu đã
được tập hợp và in thành sách với tên chung là “Đường kách mệnh”. “Đường kách mệnh” trở
thành vũ khí chiến đấu của những người cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ nhằm chống lại mọi trào
lưu tư tưởng phi vô sản và cơ hội chủ nghĩa trong và ngoài nước. Với yêu cầu đào tạo lúc bấy giờ.
“Đường kách mệnh” không chỉ nêu lên những vấn đề thuộc chủ nghĩa, đường lối, sách lược mà
còn hướng dẫn công việc tổ chức, tuyên truyền rất cụ thể để mỗi học viên sau khi học xong có thể
bắt tay thực hành.
Bài học đầu tiên mà học viên được nghe giảng là tư cách một người cách mạng trong đó nêu lên 3
mối quan hệ của người cách mạng: “Đối với bản thân, đối với mọi người và đối với công việc”.
Trong cuộc chiến đấu quyết liệt mất còn với kẻ thù vấn đề đặt ra đối với những người cách mạng,
đặc biệt là đối với lớp thanh niên chưa trải qua nhiều thử thách thì bên cạnh việc bồi dưỡng về trí
thức cách mạng cần đặt lên hàng đầu việc bồi dưỡng về đạo đức và phẩm chất cách mạng ấy
chính là ý nghĩa của bài học đầu tiên này.
Cùng với việc mở Trường đào tạo cán bộ thanh niên tại Quảng Châu, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
đã liên hệ với Quốc tế Cộng sản và Quốc tế Thanh niên Cộng sản để gửi một số thanh niên Việt
Nam đến học ở khoa đào tạo cán bộ Đoàn của trường Đảng Liên Xô.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng đã trực tiếp gửi thư cho Ủy ban Trung ương Đội Thiếu niên Tiền
phong trực thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Lênin đề nghị đào tạo theo chương trình
lâu dài một số thiếu niên Việt Nam thành cán bộ Đoàn sau này. Bức thư đề ngày 22-7-1926 có
đoạn viết: “Chúng tôi có tại đây (Quảng Châu-Trung Quốc) một nhóm thiếu nhi An Nam. Các em
đều từ 12 đến 15 tuổi. Đó là những thiếu nhi cộng sản đầu tiên của nước An Nam bị chủ nghĩa đế
quốc áp bức và ở đó mọi việc giáo dục đều bị cấm... chúng tôi hy vọng rằng các bạn sẽ không từ
chối tiếp nhận 3 hay 4 bạn nhỏ An Nam”. Đề nghị trên đã được Trung ương Đoàn Thanh niên
Cộng Sản Lênin đáp ứng một cách nồng nhiệt, tuy nhiên do tình hình chính trị ở Quảng Châu diễn
biến xấu nên chủ trương gửi các cháu thiếu niên nói trên đi đào tạo ở Mátxcơva không thực hiện
được.
Cùng với sự ra đời của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội một tờ báo lấy tên là “Thanh
Niên”, phục vụ cho đối tượng chính là thanh niên, với tư cách là cơ quan ngôn luận của Hội phát
hành số đầu tiên vào ngày 21-6-1925. Người phụ trách trực tiếp và cũng là người viết nhiều bài

cho báo là Nguyễn Ái Quốc. Đây là tờ báo tiếp nối sự nghiệp của báo Le Paria (Người cùng Khổ)
trong điều kiện mới với đối tượng mới. Báo “Thanh Niên” in khổ nhỏ (13x19) mỗi kỳ ra 100 bản,
mỗi bản 2 trang đặc biệt có số 4 trang, báo viết bằng tiếng Việt.
Về nội dung, báo “Thanh Niên” có các loại bài xã luận, bình luận, truyện lịch sử thế giới, truyện lịch
sử dân tộc và tin tức, đặc biệt có thêm việc hướng dẫn tổ chức các đoàn thể, kinh nghiệm các
cuộc cách mạng trên thế giới và giới thiệu về những thành tựu của Liên Xô.
Nhìn lại các bài viết trên báo “Thanh Niên”, chúng ta thấy rõ mục đích của báo là:
- Phát động lòng yêu nước, căm thù giặc đặc biệt là đối với thanh niên, bồi dưỡng quyết tâm đánh
đuổi quân xâm lược để giành lại độc lập, tự do cho đất nước.
- Giới thiệu kinh nghiệm lịch sử, nhất là kinh nghiệm các cuộc vận động cách mạng ở nhiều nước
để vận dụng vào cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, giới thiệu về chủ nghĩa cộng sản và
những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như những vấn đề chủ yếu về chiến lược,
sách lược của cách mạng Việt Nam.
- Từng bước lý giải về sự cần thiết phải thành lập một Đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác -
Lênin; giáo dục về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và tuổi trẻ trước yêu cầu của sự
nghiệp giải phóng dân tộc và giai cấp.
Với lối viết giản dị nhưng chứa đựng tinh thần tố cáo và cổ vũ sâu sắc, báo “Thanh Niên” kêu gọi
nhân dân và tuổi trẻ đứng lên đấu tranh.
Về mức độ phổ biến của báo “Thanh Niên” tuy gặp nhiều khó khăn nhưng những cơ sở của Việt
Nam cách mạng đồng chí Hội đã cố gắng giới thiệu báo “Thanh Niên” cho hội viên và những người
cảm tình với Hội đọc. Các đầu mối tiếp nhận báo ở trong nước lúc đó là Cảng Hải Phòng, Hà Nội,
Nam Định,v.v... và một số cơ sở ở Sài Gòn (nhật báo “Thanh Niên” qua đường từ Băng Cốc đưa
về).
Tên mật thám cáo già Lui Mácti đã nhận xét khái quát qua 88 số báo “Thanh Niên” mà y có như
sau: “Trong số báo đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh trước hết sức mạnh và sự đoàn kết đã
đem lại cho một tập thể, nhấn mạnh đến lợi ích mà những cá nhân trong tập thể ấy thu được.
Nguyễn Ái Quốc đã thức tỉnh tinh thần độc lập và tình cảm dân tộc, đặc trưng cho tính khí người
An Nam. Tiếp đó, dần dà ông cung cấp cho độc giả của mình những hiểu biết về lịch sử An Nam
và các trào lưu tư tưởng nước ngoài, và lịch sử các cường quốc thế giới,v.v... Rồi lần lượt ông
đưa ra từng thuật ngữ Hán-Việt tương ứng với một cuốn từ vựng mới về chủ nghĩa cộng sản và

nêu ra một định nghĩa rõ ràng, chính xác về mặt thuật ngữ ấy. Từng bước lúc đầu còn ít và về sau
thường xuyên hơn, ông công bố một câu hoặc một bài báo ngắn, thông báo cho độc giả biết sự
tồn tại của Liên Xô và hạnh phúc mà nhân dân Xô Viết đã được hưởng. Nguyễn Ái Quốc cũng
không ngần ngại dành đến 60 số báo của mình để chuẩn bị tinh thần cho độc giả, ít khi ông nói rõ
ý đồ của mình khi ông viết: “Chỉ có Đảng cộng sản mới có thể đảm bảo hạnh phúc cho An Nam”.
Và chính Lui Mácti cũng thấy rõ rằng báo “Thanh Niên” có sức hấp dẫn thanh niên, chẳng những
họ đọc mà còn chép lại để chuyển cho người khác đọc.
Báo “Thanh Niên” thực sự đã góp phần đắc lực vào việc chuẩn bị về tư tưởng, lý luận và tổ chức
cho việc thành lập Đoàn, thành lập Đảng.
*
* *
Từ năm 1926 đến năm 1929, phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là phong trào
đấu tranh của quần chúng công nông và thanh niên, học sinh đã phát triển lên một bước mới dưới
sự lãnh đạo của Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí. Chính từ phong trào đấu tranh đó
mà Hội đã có bước phát triển mới về tổ chức, cả về số lượng và chất lượng. Hệ thống tổ chức 5
cấp từ Trung ương Hội đến cơ sở đã xây dựng hoàn chỉnh. Hội có 1.700 hội viên và hàng nghìn
người có cảm tình với Hội.
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương đã chỉ rõ: “Những cuộc bãi công trong năm
1928-1929... đã chứng tỏ rằng sự tranh đấu của giai cấp ở Đông Dương ngày càng rộng khắp.
Điều đặc biệt và quan trọng của phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự tranh đấu của quần
chúng công nông có tính chất độc lập rất rõ rệt, chứ không phải là chịu ảnh hưởng quốc gia chủ
nghĩa như lúc trước nữa”.
Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí đã ý thức được rằng cách mạng không phải chỉ
dừng lại ở chỗ tuyên truyền đường lối mà phải vận động quần chúng thực hiện đường lối và lấy
công nông làm gốc cách mạng. Hội đã cố gắng đưa hội viên của mình đi vào công nông bằng cuộc
vận động “Vô sản hóa”.
Từ giữa năm 1929 trở đi, có thể nói làn sóng đấu tranh của công nhân trong cả nước ta ngày một
dâng cao, là lực lượng xung kích đi đầu đấu tranh chống địch bất chấp mọi hành động khủng bố
tàn bạo của đế quốc và phong kiến.
Cùng với phong trào đấu tranh của thanh niên công nhân, các phong trào đấu tranh của thanh niên

nông dân, thanh niên học sinh cũng được Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí quan tâm
lãnh đạo. Ở nông thôn, Hội vận động thanh niên bài trừ hủ tục, chống phù thu lạm bổ, vạch mặt
bọn quan lại địa phương. Đặc biệt Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí đã đấu tranh
mạnh mẽ chống chính sách mộ phu của bọn tư bản, thực dân.
Cuối năm 1928, trong khi đang có sự tranh luận về vấn đề thành lập Đảng Cộng sản thì các đồng
chí trong Kỳ bộ Thanh niên cách mạng đồng chí Hội Bắc Kỳ rất vui mừng nhận được bản “Đề
cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa” của Đại hội lần thứ VI
Quốc tế Cộng sản. Văn kiện quan trọng này chỉ rõ nhiệm vụ, tính chất, lực lượng cách mạng và vai
trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa làm sáng
tỏ những vấn đề đang được thảo luận, nhất là vấn đề đánh giá vai trò của giai cấp công nhân ở
các nước thuộc địa từ sau Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V. Văn kiện này cũng đã đề cập
mạnh mẽ vấn đề thanh niên thuộc địa từ sau Đại hội Quốc tế Thanh niên Cộng sản lần thứ IV như
sau:
“Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản yêu cầu các Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa phải chú
trọng vấn đề xây dựng và phát triển phong trào thanh niên cộng sản và đấu tranh chống lại những
quan điểm lạc hậu trong giai cấp công nhân cũng như trong các tổ chức công hội thường thiếu
quan tâm đến những quyền lợi của thanh niên công nhân và không chú trọng lãnh đạo cuộc đấu
tranh nhằm làm cho tình cảnh của những thanh niên bị bóc lột được khá hơn".
Trước yêu cầu cấp bách của phong trào và sau một quá trình đấu tranh, chi bộ Đảng Cộng sản
đầu tiên ở Việt Nam ra đời vào tháng 3-1929 tại số nhà 5D phố Hàm Long (Hà Nội) đến tháng 6-
1929 thì Đông Dương cộng sản Đảng ra đời. Tiếp sau đó là An Nam Cộng sản Đảng ra đời ở Nam
Kỳ và Đông Dương Cộng sản liên đoàn ra đời ở Trung Kỳ. Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc thay mặt
Quốc tế cộng sản chủ trì cuộc họp thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Trước năm 1929 đã có một số đoàn viên thanh niên cộng sản do các cán bộ của “Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí Hội” vốn là đoàn viên thanh niên cộng sản được kết nạp ở Quảng Châu
về nước trực tiếp tuyên truyền và tổ chức, nhưng các đồng chí đoàn viên này chưa được tổ chức
vào các tổ chức cơ sở của Đoàn mà hoạt động trong mối quan hệ trực tiếp với các cán bộ Việt
Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Chỉ từ sau khi các tổ chức Đảng ở nước ta hình thành,
nhất là từ sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ ra đời thì các tổ chức Đoàn cơ sở mới

được thành lập.
Tháng 6-1929, hai chi bộ Đoàn thanh niên cộng sản được thành lập ở Hải Phòng trong phong trào
đấu tranh rộng lớn của các quần chúng.
Chi bộ Đoàn thứ nhất ra đời ở Nhà máy Xi măng Hải Phòng. Chi bộ Đoàn Nhà máy Xi măng Hải
Phòng được xây dựng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, một học viên
của Trường Chính trị Quảng Châu do đồng chí Nguyễn Ái Quốc đào tạo. Đồng chí Nguyễn Đức
Cảnh thường cùng lao động với thanh niên công nhân của nhà máy, đi sâu tìm hiểu hoàn cảnh
của họ, tuyên truyền giác ngộ họ rồi chọn lọc một số thanh niên ưu tú kết nạp vào Đoàn. Chi bộ
Đoàn ra tờ báo lấy tên “Tia lửa”, bí mật phân phát trong nhà máy để giáo dục và tập hợp thanh
niên. Chi bộ Đoàn đã có sáng kiến lập một số đội bóng đá và thường đứng ra tổ chức các trận đấu
giao hữu ở bãi xi măng đen. Một số nhóm đọc sách do chi bộ Đoàn đứng ra thành lập thu hút khá
đông thanh niên tham gia. Ngày 7-11-1929, để kỷ niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
Nga vĩ đại, chi bộ Đoàn đã tổ chức rải truyền đơn và treo cờ đỏ búa liềm trong nhà máy, ngoài ra
còn tổ chức kể chuyện về Liên Xô qua những tài liệu thu thập trong sách báo cho đoàn viên và
những thanh niên cảm tình với Đoàn nghe. Cuối năm 1929, chi bộ Đoàn đã tích cực tham gia và
trở thành lực lượng xung kích thực hiện chỉ thị của nhà máy đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ
làm, chống khủng bố của đế quốc.
Chi bộ Đoàn thứ hai ra đời ở Trường Bônan (nay là trường Ngô Quyền) là nơi có phong trào đấu
tranh mạnh mẽ của học sinh trong những năm 1925, 1926 và các năm sau. Chi bộ Đoàn có 11
đoàn viên, chia thành các tiểu tổ trong đó có một số học sinh ở trường khác. Chi bộ Đoàn Trường
Bônan do Bùi Đức Thanh làm bí thư. Chi bộ Đoàn có tờ báo in thạch lấy tên là “Thanh niên cộng
sản” để giáo dục và tập hợp thanh niên học sinh. Các đoàn viên thanh niên cộng sản ở Trường
Bônan hoạt động rất tích cực, nhất là trong công tác tuyên truyền cách mạng, vận động thanh niên
đấu tranh. Có tháng, chi bộ Đoàn đã cho ra ba số “Thanh niên cộng sản” nhằm đáp ứng nguyện
vọng muốn hiểu biết của thanh niên. Chi bộ Đoàn thanh niên cộng sản Trường Bônan đã giúp anh
chị em học sinh tổ chức ra “Học sinh đoàn” để thu hút những học sinh có tinh thần yêu nước, hăng
hái hoạt động cách mạng. Lớp học sinh đoàn đầu tiên gồm có Lê Viêm, Vũ Thiện Tấn, Nguyễn
Văn Cúc (tức đồng chí Nguyễn Văn Linh - Tổng Bí thư Trung ương Đảng khóa VI). Đồng chí
Nguyễn Văn Linh là một học sinh yêu nước, hoạt động rất hăng hái đã bị đế quốc Pháp đày ra Côn
Đảo. Nhưng chính tại đây trong chế độ lao tù vô cùng khắc nghiệt, đồng chí đã cùng với nhiều

đảng viên cộng sản Việt Nam khác anh dũng biến nhà tù thành trường học, rèn luyện ý chí cách
mạng. Đồng chí đã trở thành người đảng viên đấu tranh kiên cường vì lý tưởng của Đảng.
Khoảng tháng 10-1929, tại Hà Nội một nhóm đoàn viên thanh niên cộng sản đã được hình thành
tại ga Hàng Cỏ trong đó có đoàn viên Long 21 tuổi là thợ cơ khí. Nhóm này do Lê Văn Nhuận (tức
đồng chí Lê Duẩn) lúc ấy hoạt động trong Sở Hỏa xa Bắc Đông Dương giác ngộ và kết nạp.
Nhiệm vụ của nhóm đoàn viên này dưới sự hướng dẫn của đồng chí Lê Duẩn là tuyên truyền cách
mạng trong thanh niên giúp việc liên lạc cho Đảng, phát hành báo “Búa liềm” đi các tỉnh. Nhân kỷ
niệm Cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm đó (7-11-1929) nhóm đoàn viên thanh
niên cộng sản ga Hàng Cỏ đã chuyển nhiều truyền đơn của Thành ủy lâm thời Hà Nội về các tỉnh.
Cùng thời gian trên, nhiều cơ sở “sinh hội” bí mật xuất hiện trong một số trường hợp ở Hà Nội như
các trường Sinh Từ, Đỗ Hữu Vị, Trần Nhật Duật, Mạc Đĩnh Chi... Tháng 9 - 1929, Tổng Hội sinh
viên ra đời ở Hà Nội và xuất bản báo “Người sinh viên” do Đặng Xuân Khu (tức đồng chí Trường
Chinh) phụ trách. Nhiều bài báo hay có tác dụng cổ vũ sinh viên đứng lên cùng nhân dân đánh
đuổi đế quốc của Trường Chinh đã có tiếng vang lớn không những trong hàng ngũ sinh viên và
còn thức tỉnh các lớp thanh niên trí thức, tiểu tư sản, tham gia vào hàng ngũ cách mạng.
Ở Nghệ An, trong những năm 1928-1929 đã có một số thanh niên ưu tú được tổ chức vào thanh
niên cộng sản Đoàn do Vương Thúc Oánh, Nguyễn Ngọc Ba... là những đoàn viên thanh niên
cộng sản được dự lớp chính trị ở Quảng Châu trở về nước xây dựng cơ sở.
Năm 1929, sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ cử Nguyễn Phong Sắc, Trần Văn Cung
vào Nghệ Tĩnh xây dựng cơ sở Đảng ở Trung kỳ thì một số nhóm đoàn viên thanh niên cộng sản
ở các địa phương nói trên cũng được hình thành.
Cũng trong năm này, các đảng viên cộng sản hoạt động ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ đã tuyên
truyền, giác ngộ và tổ chức được nhiều thanh niên vào Đoàn. Riêng ở Sài Gòn, tại một số cơ sở
quan trọng đã có những nhóm đoàn viên hoạt động dưới sự chỉ đạo của các đảng viên. Đến năm
1930, những nhóm đoàn viên này đã nhanh chóng chuyển thành các chi bộ Đoàn.
Vào thời gian nêu trên, trước yêu cầu của phong trào học sinh càng lên cao, Nguyễn Phong Sắc,
Bí thư Kỳ bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Trung Kỳ đã chủ trương thành lập Ban Chấp hành
Tổng sinh hội Nghệ An do Nguyễn Tiềm học sinh Trường Quốc học Vinh làm Bí thư, Tổng sinh hội
phát hành tờ báo “Xích sinh” (Học sinh đỏ) kịch liệt tố cáo chính sách giáo dục nô dịch của thực
dân Pháp, tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản...

Như vậy, cùng với sự ra đời của các tổ chức Đảng Cộng sản từ cuối năm 1929, trên đất
nước ta đã hình thành những cơ sở đầu tiên của Đoàn thanh niên cộng sản, đó là các chi
bộ Đoàn và các nhóm đoàn viên hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng do các đảng viên
trực tiếp phụ trách. Đây là mốc quan trọng trong quá trình tiến tới thành lập Đoàn.
Ngay trong hội nghị hợp nhất thành lập Đảng tháng 2-1930, công tác vận động thanh niên đã được
Nguyễn Ái Quốc và các đại biểu đặc biệt quan tâm. Với việc thông qua chính cương, sách lược,
điều lệ vắn tắt của Đảng, Hội nghị đã thông qua điều lệ của Đoàn thanh niên cộng sản. Và trong
điều lệ vắn tắt của Đảng đã ghi rõ một điều kiện quan trọng: “Người dưới 21 tuổi phải vào Thanh
niên cộng sản Đoàn”. Hội nghị cũng nói rõ Ban Chấp hành Trung ương của Đảng, ngoài công tác
hàng ngày cần phải tổ chức ngay “Đoàn thanh niên cộng sản”. Như vậy, vấn đề Đoàn thanh niên
cộng sản đã được khẳng định trong hai văn bản trọng yếu của Hội nghị thành lập Đảng.
Tháng 10 năm 1930 diễn ra một sự kiện hết sức quan trọng đối với phong trào cách mạng
nước ta nói chung và đối với tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên nước ta nói riêng. Đó
là Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất thảo luận và thông qua nhiều văn
kiện lớn có ý nghĩa lịch sử trong đó có:
1- án nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng.
2- án nghị quyết về cộng sản thanh niên vận động.
Ở văn kiện án nghị quyết chung về tình hình và nhiệm vụ có phần chỉ rõ về công tác thanh
niên trong đó nêu bật: “... Đảng phải thi hành ngay án nghị quyết của Quốc tế Thanh niên cộng
sản Đoàn và giúp cho Đoàn có tính chất độc lập...”
Văn kiện Quốc tế mà Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất nhắc đến là Nghị quyết cụ thể về
công tác thanh niên thuộc địa (trên cơ sở quán triệt Luận cương về thanh niên thuộc địa năm
1924) được Đại hội Quốc tế Thanh niên cộng sản lần thứ V thông qua vào năm 1928. Sau Đại hội
lần thứ V này, với mối quan tâm đặc biệt đến phong trào cách mạng của thanh niên Đông Dương,
ngoài việc truyền đạt nghị quyết cụ thể về công tác thanh niên thuộc địa, tháng 4 năm 1930 Ban
Chấp hành Quốc tế Thanh niên cộng sản lại gửi tiếp cho những người cộng sản ở Đông Dương
một bức thư rất quan trọng với nội dung vừa tổng kết kinh nghiệm chung của phong trào thanh
niên cộng sản trên thế giới, vừa gợi ra những công việc phải làm đối với tổ chức Đoàn và phong
trào thanh niên cách mạng ở Đông Dương. Bức thư này đã được Hội nghị Trung ương Đảng
tháng 10-1930 coi như là một văn kiện quan trọng mà những đảng viên cộng sản ở Đông Dương

có trách nhiệm nghiên cứu vận dụng. Vì lẽ đó, trong án nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần
kíp của Đảng, Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 đặc biệt lưu ý việc phải thi hành ngay Nghị
quyết về thanh niên thuộc địa của Quốc tế Thanh niên Cộng sản.
Đối với án nghị quyết về công tác thanh niên (sau này thường gọi tắt là Nghị quyết tháng 10),
đây là văn kiện đầu tiên của Đảng ta đặt nền móng vững chắc về quan điểm, tư tưởng cho công
tác vận động thanh niên ở Đông Dương trong phạm trù của cuộc cách mạng vô sản. “Án nghị
quyết” được trình bày theo ba phần.
Phần thứ nhất nói về: “Địa vị thanh niên lao động và sự quan trọng của thanh niên cộng sản
Đoàn”. Mở đầu phần này Nghị quyết đã đánh giá khái quát tình cảnh các tầng lớp thanh niên và
khả năng cách mạng to lớn của họ: ... “ở Đông Dương, số thanh niên lao động (thanh niên công
nhân và cu li ở các kỹ nghệ, đồn điền; thanh niên công nhân và thanh niên dân cày nghèo, thanh
niên thủ công, thanh niên ở mướn, thanh niên làm việc trong các nhà buôn...” chiếm một phần khá
đông. Đó là một hạng lao động bị bóc lột, đè nén hơn hết; thanh niên và trẻ con đi làm, tuy làm một
công việc như người lớn nhưng ăn ít tiền công hơn, vả lại còn bị đánh đập ngược đãi hơn nhiều
nữa”... Sự phân tích này có ý nghĩa rất quan trọng đã làm sáng tỏ tình trạng bị áp bức, bóc lột
nặng nề của các tầng lớp thanh niên lao động ở Đông Dương về cả 3 mặt dân tộc, giai cấp, lứa
tuổi.
Từ sự phân tích này, Nghị quyết khẳng định: “Thanh niên lại là một hạng người ít bị những cái ảnh
hưởng quốc gia, phong kiến, đế quốc chủ nghĩa trói buộc họ hơn người lớn, cho nên từ khi phong
trào cách mạng nổi khắp trong xứ, chúng ta thấy quần chúng thanh niên tham gia rất hăng hái.
Những cuộc công nhân bãi công và nông dân biểu tình trong năm nay tỏ rõ rằng thanh niên lao
động đã thành một lực lượng cách mạng rất quan trọng không thể không kể tới được...”
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10-1930 ra đời trong hoàn cảnh phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân ta đang tiến tới cao trào: Hàng trăm cuộc bãi công của
công nhân, biểu tình của nông dân đi đầu là thanh niên đã nổ ra trên khắp mọi miền đất nước. Tác
dụng tích cực và có ý nghĩa quyết định của thanh niên với tư cách là đội quân xung kích đã được
Nghị quyết khẳng định: “Thanh niên lao động đã thành một lực lượng cách mạng rất quan trọng”.
Như vậy đến lúc này, ảnh hưởng mạnh mẽ của Đảng trong thanh niên và tác động cụ thể của các
tổ chức Đoàn trong việc tập hợp và hướng dẫn thanh niên đã dấy lên được một phong trào yêu
nước trong tuổi trẻ.

Phong trào ấy như Nghị quyết của Đảng đã nhận định là “làm cho nhiều thanh niên trong hạng tiểu
tư sản, nhất là học sinh, tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị ở Đông Dương”.
Chính vì nhận thức được vai trò to lớn và lực lượng quan trọng của thanh niên nên các đảng phái
chính trị đã tìm cách tranh thủ, lôi kéo thanh niên như Nghị quyết đã nêu rõ:... “Hết thảy những
đảng phái ấy đều hiểu cái địa vị trọng yếu của thanh niên lao động...” Và kết luận được rút ra trong
Nghị quyết là: “Đảng Cộng sản phải cần kíp công tác trong quần chúng thanh niên, phải lãnh đạo
quần chúng thanh niên lao động thành phố, nhà quê tranh đấu hàng ngày và phải kéo họ ra khỏi
ảnh hưởng quốc gia, phong kiến, đế quốc. Muốn được như vậy thì chỉ có tổ chức ra một đoàn thể
của thanh niên mới được...”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10-1930, đã dành một đoạn tiếp theo để nhắc lại
rằng: ...“trong chương trình của Quốc tế Cộng sản thanh niên có chỗ nói rõ rằng Đảng Cộng sản,
tức là đội lãnh đạo cho giai cấp công nhân, rất cần phải có một đám dự bị để lấy sức lực mới mẻ
đem vào đội ngũ của mình; Đảng Cộng sản cần có một cái trường học dự bị, đào tạo những bọn
con em của lao động cho Đảng Cộng sản và sau hết là phải cần có một tổ chức để chuyên trách
lãnh đạo cho quần chúng thanh niên lao động tranh đấu để thực hiện chủ nghĩa cộng sản...”
Phần đánh giá tình hình này đã được kết thúc bằng một đoạn văn nói lên nhiệm vụ cần kíp của tất
cả những đảng viên cộng sản ở Đông Dương lúc này là: “... Phải làm cho hết thảy đảng viên
hiểu rằng công việc thanh niên cộng sản Đoàn là một việc cần kíp, quan trọng như là việc
Đảng vậy...”.
Phần thứ hai của “án nghị quyết về cộng sản thanh niên vận động” nói về: “Những điều căn bản
của thanh niên cộng sản Đoàn”, nghĩa là đề cập đến tính chất, chức năng, nhiệm vụ và những vấn
đề về nguyên tắc tổ chức của Đoàn thanh niên cộng sản.
Mở đầu phần này, Nghị quyết viết: “Cộng sản thanh niên Đoàn là đại biểu độc nhất của đám thanh
niên công nông, của tất cả đám thanh niên thành phố và nhà quê, đoàn đại biểu quyền lợi cho
thanh niên lao động và tranh đấu để bênh vực những quyền lợi ấy.
Quyền chính của thanh niên lao động cũng giống như quyền lợi của lao động người lớn, nhưng
thanh niên lại có những điều kiện cần và quyền lợi riêng của họ, riêng mà vẫn không trái gì với
quyền lợi người lớn...”
Sự ra đời của Đảng Cộng sản đã xác lập vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách
mạng nước ta.

Đoàn thanh niên cộng sản là tổ chức thanh niên kiểu mới của Đảng, do Đảng tổ chức và lãnh đạo
Đoàn là người đại diện cho quyền lợi của các tầng lớp thanh niên, trước hết là thanh niên công
nông. Trong điều kiện của cuộc cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến đi tới
xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo thì Đoàn là
người “Đại diện độc nhất” và Đoàn là “đội tiên phong, là đội lãnh tụ cho thanh niên lao động” (theo
án nghị quyết).
Tuy nhiên Nghị quyết cũng chỉ rõ: ...“Cộng sản thanh niên Đoàn không phải là một Đảng cộng sản
thứ hai cho thanh niên đâu. Nó là một cái tổ chức của thanh niên cộng sản thừa nhận và thi hành
chương trình, điều lệ của Đảng Cộng sản...” nhưng đó lại là “...một đoàn thể độc lập, có cơ quan
chỉ huy riêng...” Điều này ở thời kỳ đầu việc thực hiện đã gặp một số khó khăn do tình hình cán bộ.
Chức năng chủ yếu của Đoàn là một “đoàn thể chính trị tranh đấu” và nhiệm vụ của Đoàn là “huấn
luyện quần chúng thanh niên theo chủ nghĩa Lênin và xây dựng nên một cái đoàn thể để huấn
luyện họ” (theo Nghị quyết).
Nhưng Đoàn chỉ có thể thực hiện được chức năng và nhiệm vụ trên trong khi kết hợp chặt chẽ
công tác giáo dục và động viên thanh niên tham gia vào phong trào đấu tranh rộng lớn của quần
chúng: “... việc huấn luyện có thực hành được là chỉ trong vòng giai cấp đấu tranh mà thôi. Cộng
sản thanh niên Đoàn chỉ huy công việc cộng sản huấn luyện thanh niên và tham gia vào mỗi cuộc
tranh đấu (bãi công, biểu tình,v.v...) để huấn luyện thanh niên và đánh đổ sự bóc lột họ...”
Về nguyên tắc tổ chức, Nghị quyết viết... “Theo điều kiện bí mật ở Đông Dương thì cố nhiên Cộng
sản thanh niên Đoàn cũng phải bí mật tổ chức và không thể bao quát được thanh niên. Song điều
cốt yếu là phải như vậy; mỗi một công nhân, dân cày, mỗi một học sinh vô sản, từ 14 đến 23 tuổi
có thể thành đoàn viên miễn là họ thừa nhận chương trình, điều lệ Đoàn tình nguyện vào cuộc vận
động mà đấu tranh...”.
Tuy nhiên, vấn đề là phải tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên vào các tổ chức để giáo dục và
đưa vào cuộc tranh đấu. Do đó “Cộng sản thanh niên Đoàn không những chỉ lo một việc chính là
tổ chức những chi bộ ở các sản nghiệp và các nơi khác mà còn phải tổ chức ra những đoàn thể
phụ thuộc như là những bộ phận thanh niên trong các công, nông hội, thanh niên vệ đội. Đồng Tử
quân, Thiếu niên cách mạng, Ban thanh niên trong Hội phản đế, Hội thể dục,v.v... những đoàn thể
này phải ở dưới quyền chỉ huy và kiểm duyệt của Cộng sản thanh niên Đoàn mới được.
Kết thúc phần này, Nghị quyết nhấn mạnh: ...“Đó là những điều chính mà đảng viên cộng sản cần

phải nhớ trong lúc đi tổ chức cộng sản thanh niên Đoàn”...
Phần ba Nghị quyết nói về: “Cách tổ chức Đảng Đoàn cộng sản thanh niên Đoàn”. Nghị quyết viết:
...“Trung ương, các Xứ ủy, các tỉnh, thành, Đặc ủy phải phái ra một đồng chí trẻ tuổi hơn hết trong
ủy viên hội của mình, những người này cùng với vài đồng chí thanh niên nữa lập thành những Ủy
hội tổ chức cộng sản thanh niên Đoàn ở Trung ương, các xứ, tỉnh thành, đặc biệt bộ...” và ở cơ sở
thì “hễ kiếm được ba người thanh niên cách mạng như vậy thì tổ chức ngay một chi bộ của Đoàn”,
Nghị quyết còn quy định cụ thể: “Mỗi chi bộ của Đảng phụ trách tổ chức ra chi bộ của Đoàn”.
Đặc biệt về mối quan hệ giữa Đoàn với Đảng, Nghị quyết viết: ...“Các đoàn thể của cộng sản
thanh niên Đoàn sẽ theo chương trình, điều lệ của Đảng Cộng sản mà làm việc và phải tham gia
hết thảy những cuộc tranh đấu, phải hết sức giúp cho Đảng...” Như vậy là ngay từ trong Nghị
quyết đầu tiên này, Đảng đã xác định rõ chức năng của Đoàn là người giúp sức cho Đảng, là đội
dự bị của Đảng và hoạt động theo đường lối, chủ trương của Đảng. Đây là vấn đề thuộc tính
nguyên tắc về sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với Đoàn, việc sớm xác lập những
vấn đề mang tính chất nguyên tắc như thế đã tạo ra những thuận lợi rất cơ bản cho mọi hoạt động
xây dựng tổ chức và đấu tranh của Đoàn. Nghị quyết còn chỉ rõ: ...“Báo chương của Đảng phải để
một phần mà công bố, truyền bá những tài liệu của cộng sản thanh niên Đoàn, chương trình điều
lệ, thư, chỉ thị của Quốc tế Cộng sản thanh niên ngày 16 tháng 4 năm 1930. Nghị quyết đã đặt vấn
đề chuẩn bị để sớm tổ chức Đại hội Đoàn toàn quốc nhằm “quyết định những vấn đề quan trọng
của Đoàn và cử ra Ban Trung ương ủy viên của Đoàn” (tức Ban Chấp hành Trung ương Đoàn).
“Án nghị quyết về cộng sản thanh niên vận động” ra đời trong tháng 10 năm 1930 là một sự
kiện hết sức quan trọng trong phong trào thanh niên nước ta. Án nghị quyết đã được xây dựng
trên cơ sở tổng kết thực tiễn cách mạng phong phú ở Đông Dương trong những năm 20 kết hợp
với sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng
kiểu mới và tổ chức thanh niên của Đảng cũng như những lời chỉ dẫn xác đáng của Quốc tế
Thanh niên cộng sản. Án nghị quyết là văn kiện nền tảng về lý luận vận động thanh niên đầu tiên
của Đảng ta. Mặc dầu án nghị quyết ra đời cách đây hơn nửa thế kỷ nhưng nhiều vấn đề cơ bản
được đề ra trong Nghị quyết vẫn còn giữ nguyên giá trị chỉ đạo cho đến ngày nay.
Án nghị quyết ra đời đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của phong trào yêu nước trong thanh niên ta
đang phát triển mạnh và đã thực sự gây nên những chuyển biến đối với sự nghiệp xây dựng
Đoàn. Trước hết trong đội ngũ cán bộ của Đảng, vấn đề nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng

đặc biệt của công tác thanh niên cũng như trách nhiệm của người cộng sản đối với công tác này
đã được nâng cao, mặt khác nghị quyết cũng đã trang bị những hiểu biết cần thiết cho cán bộ,
đảng viên nhằm triển khai công tác vận động thanh niên, các cấp ủy Đảng địa phương đã gửi
thông báo đến cơ sở yêu cầu “phải tổ chức thật nhanh chóng Đoàn thanh niên cộng sản từ chi bộ
đến tỉnh bộ”. Chúng ta thấy rõ tác dụng tích cực của án nghị quyết tháng 10 năm 1930 trên hai mặt
sau đây: Một là sự phát triển mạnh mẽ của các cơ sở Đoàn trên phạm vi cả nước; hai là vai trò
của đoàn viên, thanh niên trong cao trào cách mạng mới của quần chúng lao động.
Về mặt phát triển tổ chức, chúng ta thấy như sau: ở Nghệ An, Hà Tĩnh, trước tháng 10 năm
1930, số cơ sở Đoàn chỉ có từ 3 đến 4 chục đoàn viên hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
đảng viên, chưa có sinh hoạt riêng. Nhưng đến tháng 12 năm 1930, tức là sau khi án nghị quyết
được triển khai đến một số huyện thì số cơ sở Đoàn đã lên đến chừng một trăm đoàn viên lập
thành các tiểu tổ chi bộ Đoàn riêng. Vào cuối năm 1930, thi hành thông báo của Xứ ủy Trung Kỳ,
các chi bộ Đảng, các cấp huyện, thị đã tích cực phát triển Đoàn nên số đoàn viên ở hai tỉnh nói
trên tăng lên đến gần 500 đồng chí, và cho đến năm 1931, số đoàn viên ở hai tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh đã tăng lên trên 2000 đồng chí (theo thống kê của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Nghệ An và
Hà Tĩnh).
Theo báo cáo của Xứ ủy Trung Kỳ thì đến tháng 12 năm 1930 trong 5 tỉnh ở Trung Kỳ gồm Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Bình Định, Quảng Ngãi, số đoàn viên thanh niên cộng sản là 921 đồng
chí, số sinh hội đỏ là 42 hội viên.
Theo thư của đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 20-4-1931
trong đó thống kê một số cơ sở Đoàn thì đến khoảng cuối năm 1930 đầu năm 1931, số lượng
đoàn viên trong một số tỉnh ở nước ta là 942 đồng chí.
Theo văn bản nhan đề “Những thủ đoạn của đế quốc Pháp” được viết vào khoảng cuối năm 1930
đã thống kê một số cơ sở Đoàn và số lượng đoàn viên như sau: Hải Phòng 8 đoàn viên thanh niên
cộng sản; Hòn Gai (mỏ) 10 đoàn viên thanh niên cộng sản; Nam Định 31 đoàn viên thanh niên
cộng sản; Phủ Lý 13 đoàn viên thanh niên cộng sản; Thái Bình 11 đoàn viên thanh niên cộng sản
tập hợp trong 3 chi bộ Đoàn và,v.v...
Bằng một số lượng cán bộ, đoàn viên được phát triển khá mạnh cộng với hàng nghìn thanh niên
cảm tình với Đoàn được tập hợp trong các tổ chức như Sinh hội, Hội cứu tế, Hội thể dục thể
thao... tạo thành đội ngũ nòng cốt đảm đương vai trò là lực lượng xung kích đi đầu trong cao trào

cách mạng những năm 1930-1931.
Như phần trên đã trình bày chính từ trong phong trào đấu tranh mạnh mẽ, rộng lớn của
thanh niên vào những năm 1928, 1929, 1930 kết hợp với những hoạt động tuyên truyền,
giáo dục về lý tưởng cộng sản, về chủ nghĩa Mác-Lênin của những người Mácxít ở Đông
Dương, sau này là những người cộng sản mà tổ chức cơ sở đầu tiên của Đoàn đã được
hình thành. Khi phong trào đấu tranh càng lên cao thì sự đòi hỏi cấp bách lúc này là phải có
đội tiên phong chiến đấu của thanh niên (tức Đoàn thanh niên cộng sản) để làm hạt nhân
đoàn kết mọi lực lượng tuổi trẻ, làm người đại diện cho lợi ích chân chính của thanh niên,
làm lực lượng xung kích và đội dự trữ của Đảng, làm chiếc cầu nối liền giữa thế hệ trẻ với
Đảng của giai cấp công nhân, hướng dẫn quần chúng thanh niên đấu tranh dưới ngọn cờ
của Đảng.
Nhận thức được quy luật này, chỉ hơn 6 tháng sau ngày thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã đề ra được một nghị quyết toàn diện về công tác thanh niên, trực tiếp bắt tay xây dựng
Đoàn với một ý thức đầy đủ “coi việc Đoàn như việc Đảng” và “mọi đảng viên đều có trách
nhiệm xây dựng Đoàn”.
Khi đội ngũ cán bộ, đoàn viên được phát triển, được thử thách, rèn luyện qua thực tiễn tạo thành
sức mạnh trở lại tác động đến phong trào, thúc đẩy phong trào tiến lên những bước mới.
Sau khi Đảng ra đời và các tổ chức cơ sở của Đoàn được phát triển mạnh ở các trung tâm kinh tế,
chính trị của đất nước, phong trào đấu tranh của nhân dân ta, trước hết là của công nhân, nông
dân, thanh niên, học sinh, tiểu tư sản trí thức,v.v... dưới dự lãnh đạo của Đảng có sự phát triển
vượt bậc. Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1930, trong cả nước đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh. Đây là
một tình hình đặc biệt, chính trên cơ sở này, Đảng ta đã chủ trương phát động một cao trào cách
mạng rộng lớn nhằm giành những quyền lợi thiết thân và để tập hợp giáo dục quần chúng.
Với lòng yêu nước, căm thù giặc cao độ, phong trào đấu tranh của quần chúng đi đầu là thanh
niên đã bùng lên mạnh mẽ, lan đi nhanh chóng mà đỉnh cao là sự xuất hiện các Xô viết làm chức
năng chính quyền cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo ở nhiều vùng rộng lớn trong hai tỉnh
Nghệ An, Hà Tĩnh.
Bài ca “Thanh niên cận vệ” hùng tráng đã cổ vũ các chiến sĩ Xô viết Nghệ Tĩnh trẻ tuổi vùng lên:
... "Chúng ta là thanh niên cận vệ!
Chúng ta là đội cận vệ của ngày mai

Sinh trưởng trong nơi đớn đau, khốn cùng
Một là toàn thắng, hai là hy sinh
Vì công lý ta ra tranh đấu..."
Chỉ trong tháng 9 và tháng 10 năm 1930, cả nước có 362 cuộc đấu tranh: 29 cuộc ở miền Bắc,
316 cuộc ở miền Trung, 17 cuộc ở miền Nam.
Phong trào cách mạng của quần chúng công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã được
đồng chí Nguyễn Ái Quốc theo dõi chặt chẽ và báo cáo thường xuyên cho Quốc tế Cộng sản.
Ngày 29 tháng 9 năm 1930, Người gửi thư cho Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản phản ánh về
tình hình đấu tranh ở Nghệ Tĩnh và yêu cầu Quốc tế Cộng sản cho ý kiến chỉ đạo.
Ngày 5 tháng 11 năm 1930, Người gửi thư cho Quốc tế nông dân phản ánh về phong trào nông
dân trong nước, đặc biệt là phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh.
Ngày 19-2-1931, Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo lên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản về cuộc đấu
tranh ở Nghệ Tĩnh trong đó khẳng định: “Bom đạn, súng máy, đốt nhà, đồn binh... đều bất lực
không dập tắt nổi phong trào cách mạng của Nghệ Tĩnh”.
Xô viết Nghệ Tĩnh là kết quả phát triển của cao trào đấu tranh cách mạng của quần chúng. Điều
kiện cơ bản để tạo nên cao trào đó là do Nghệ Tĩnh sớm có một Đảng bộ mạnh, sớm hình thành
được khối liên mình công nông, sớm xây dựng nên đội xung kích cách mạng của Đảng là Đoàn
thanh niên cộng sản.
Vai trò của đoàn viên và thanh niên trong Xô viết Nghệ Tĩnh được nhân dân và thanh niên cả nước
ta đánh giá rất cao. Đó là những chiến sĩ quả cảm, chiến dấu quên mình vì lý tưởng của Đảng.
Nhìn lại lực lượng đoàn viên và thanh niên có tổ chức trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh chúng ta
có thể nêu lên những số liệu tiêu biểu sau đây:
- 2356 đoàn viên thanh niên cộng sản được tập hợp trong hàng trăm chi bộ Đoàn.
- 9158 đội viên tự vệ đỏ (tuyệt đại bộ phận là thanh niên) được tập hợp trong 411 đơn vị do đảng
viên hoặc cán bộ, đoàn viên thanh niên cộng sản chỉ huy.
- Khoảng 600 thanh niên hăng hái cách mạng là cảm tình của Đoàn do các đoàn viên thanh niên
cộng sản hướng dẫn hoạt động.
- 513 đội viên thiếu niên do các chi bộ Đoàn hoặc các đội tự vệ hướng dẫn hoạt động.
Chính trong cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã xuất hiện biết bao tấm gương anh hùng mở đầu cho
truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đoàn. Một trong những tấm gương chói lọi đó là

Cao Xuân Quế, 17 tuổi, quê ở xã Lĩnh Sơn, huyện Anh Sơn (tỉnh Nghệ An), anh là một thanh niên
rất hăng hái cách mạng. Anh được kết nạp vào Đoàn trong những ngày đấu tranh quyết liệt và sau
đó tham gia thanh niên xích vệ. Trong mọi cuộc đấu tranh, Cao Xuân Quế luôn hăng hái đi đầu,
bất chấp hiểm nguy và không bao giờ từ nan một nhiệm vụ nào dù gian khổ, khó khăn đến đâu.
Khi phong trào bị địch khủng bố mạnh, cơ quan của Đảng và đơn vị xích vệ phải tạm lánh vào
rừng. Cao Xuân Quế vẫn sống lạc quan, tin tưởng. Một lần, trong khi đang làm nhiệm vụ, anh bị
địch bắt. Biết anh là thanh niên cộng sản, địch dùng mọi cực hình tra tấn nhưng anh không hề hé
môi khai với chúng nửa lời. Trong nhà giam, anh động viên những đoàn viên và thanh niên cùng bị
bắt cất cao tiếng hát quen thuộc: “Chúng ta là thanh niên cận vệ”. Quế hy sinh giữa tuổi 17 trong
sự tiếc thương vô hạn của đồng chí, đồng bào.
Bên cạnh Cao Xuân Quế, chúng ta còn thấy nhiều tấm gương anh hùng, bất khuất khác. Đó là Lê
Cảnh Nhượng, bí thư chi bộ Đoàn thanh niên cộng sản xã Phong Nẳm, huyện Thanh Chương
(tỉnh Nghệ An). Anh còn là người chỉ huy gan dạ của đội tự vệ xã. Sau khi bị bắt, địch đưa anh ra
trước tòa án của đế quốc, phong kiến để xử. Lúc nghe bọn quan tòa thóa mạ Đảng ta, anh đứng
phắt dậy, chỉ vào mặt chúng: ... “Các người không được nói láo, Đảng Cộng sản chúng tôi không
hề cướp của, giết người, Đảng chúng tôi làm cách mạng để đánh đổ đế quốc, phong kiến, chính
các người mới là bọn cướp của, giết người...”. Để khủng bố tinh thần nhân dân, địch đưa đồng chí
Lê Cảnh Nhượng về chính quê anh để xử bắn. Một lần nữa Nhượng lại vạch mặt quân thù trước
khi ngã xuống...
Xô viết Nghệ Tĩnh là trận thử lửa đầu tiên đối với lớp đoàn viên thanh niên cộng sản thuộc thế hệ
1925-1935 quyết một lòng theo Đảng và đã tỏ rõ khí phách anh hùng xứng đáng với lòng tin yêu
của Đảng và nhân dân.
Phối hợp với tuổi trẻ Nghệ Tĩnh, tuổi trẻ cả nước ta trong thời gian này đã đẩy mạnh mọi mặt đấu
tranh chống quân thù. Biết bao đoàn viên thanh niên cộng sản đã hy sinh anh dũng với tư thế hiên
ngang trước họng súng của quân thù. Trong số đó, tên tuổi của Lý Tự Trọng, người đoàn viên
thanh niên cộng sản được Nguyễn Ái Quốc ân cần chăm sóc, đào tạo, giáo dục từ lúc còn tuổi
thiếu niên đã được tuổi trẻ Việt Nam cũng như tuổi trẻ nhiều nước trên thế giới biết đến như một
biểu tượng rực rỡ của tinh thần bất khuất và lạc quan cách mạng tuyệt vời. Anh về nước công tác
theo sự phân công của tổ chức nhằm góp phần xây dựng cơ sở Đoàn ở miền Nam nước ta trong
cao trào đấu tranh 1930-1931, ngoài ra anh còn làm nhiệm vụ giao liên cho Trung ương và Xứ ủy

Đảng. Lý Tự Trọng đã tỏ rõ tinh thần gan dạ vô song đối với mọi công việc mà anh đảm nhận. Để
cứu nguy cho đồng chí mình, Lý Tự Trọng đã rút súng bắn chết tên mật thám cáo già Lơgơrăng
ngay trên đường phố Sài Gòn (chiều chủ nhật ngày 8-2-1931). Sa vào tay giặc và bị chúng dùng
mọi cực hình dã man để tra tấn song chính khí tiết của anh đã làm cho kẻ thù phải kính nể. Chúng
gọi anh là “Ông nhỏ” và kinh ngạc mỗi lúc nghe anh ngâm Kiều trong xà lim tử hình. Tra tấn không
khuất phục được anh, kẻ địch lại dùng thủ đoạn mua chuộc hèn hạ nhưng chúng cũng lại bị thất
bại nhục nhã.
Trước tòa án của kẻ thù, Lý Tự Trọng đã dõng dạc tuyên bố: “Tôi hoạt động có suy nghĩ, tôi
hiểu việc tôi làm. Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể có
con đường nào khác”. Lời nói đanh thép mang nội dung chân lý sâu sắc đó được các thế hệ tuổi
trẻ Việt Nam coi như bản tuyên ngôn bất diệt của thế hệ thanh niên mở đường cách mạng ở nước
ta, có sức cổ vũ vô cùng to lớn đối với những người tiếp bước theo anh.
Theo dõi chặt chẽ hành động anh hùng của Lý Tự Trọng, ngày 21-12-1931, Nguyễn Ái Quốc đã
gửi thư cho Bộ Phương Đông Quốc tế Cộng sản báo tin này và đề nghị Bộ Phương Đông yêu cầu
Đảng Cộng sản Pháp tổ chức biểu tình đòi trả tự do cho Lý Tự Trọng.
*
* *
Vào đầu năm 1931, thực hiện án nghị quyết tháng 10-1930 về công tác thanh niên của Hội nghị
Trung ương Đảng, các cơ sở Đoàn đã được xây dựng trên hầu khắp nước ta từ Bắc vào Nam.
Tuy nhiên, hệ thống tổ chức của Đoàn vẫn chưa được thống nhất và Đoàn chưa có sinh hoạt
riêng.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Phú,
Tổng Bí thư của Đảng đã diễn ra tại Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 3-1931, Hội nghị đã dành
nhiều thời gian để bàn về công tác xây dựng Đảng và xây dựng Đoàn. Hội nghị đã nghiên cứu bức
thư của Ban Chấp hành Quốc tế thanh niên cộng sản gửi cho Đảng ta, kiểm điểm việc thực hiện
“án nghị quyết về cộng sản thanh niên vận động của Hội nghị Trung ương lần thứ nhất” tháng 10
năm 1930 và đề ra nhiệm vụ: “Cần kíp tổ chức ra thanh niên cộng sản Đoàn”. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương lần thứ hai phần về công tác thanh niên đã vạch rõ: “...Lập tức các Đảng bộ địa
phương phải mau mau tổ chức ra Đoàn, đốc xuất chi bộ tổ chức cơ quan báo chương về việc vận
động của Đoàn và phải chỉ đạo cho các chi bộ mới thành lập của Đoàn bắt đầu khẩu hiệu của

thanh niên và hiệu triệu quần chúng...”. Trước Hội nghị Trung ương lần thứ 2, tháng 3-1931
khoảng một tháng (tức là vào tháng 2 năm 1931, Thường vụ Trung ương Đảng đã cử một đồng
chí trong Thường vụ phụ trách công tác thanh niên ở các cấp Trung ương. Tuy Hội nghị Trung
ương lần thứ hai không ra nghị quyết mới về công tác thanh niên nhưng dã có nhiều hoạt động hết
sức quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của phong trào thanh niên, đặc biệt là đối
với sự nghiệp xây dựng, củng cố Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương trong tình hình mới.
Theo dõi sát sao tình hình xây dựng Đảng, xây dựng Đoàn và các tổ chức quần chúng khác trong
nước ngày 20-4-1931 đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã gửi một bức thư hết sức quan trọng cho Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, nhận xét về những ưu và khuyết điểm trong công tác của Đảng,
vạch ra hướng phát triển.
Trong bức thư này, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã làm một bản thống kê các cơ sở Đảng, cơ sở
Đoàn ở nhiều địa phương trong nước và nêu lên những ý kiến so sánh. Cuối thư, Người chỉ thị:
“Tôi đề nghị cần kíp nhất là thống nhất thanh niên cộng sản Đoàn và công hội, làm cho họ có sinh
hoạt độc lập”. Chỉ thị của Người đã nhấn mạnh và làm sâu sắc thêm tinh thần nghị quyết hội nghị
Trung ương lần thứ nhất và lần thứ hai về công tác thanh niên trong tình hình mới mà Người đã
thường xuyên quan tâm.
Như vậy là đến tháng 3 năm 1931, sau một quá tình chuẩn bị lâu dài, gian khổ từ năm 1925 đến
1930 được sự tổ chức lãnh đạo của hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí và của Đảng
Cộng sản Đông Dương; từ trong các phong trào đấu tranh yêu nước rộng lớn của thanh niên và
nhân dân theo con đường của cách mạng vô sản; được sự trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng và tổ
chức, lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tổ chức thanh niên cơ sở ở nước ta “từ bước đầu
hiếm hoi” với một nhóm nhỏ đoàn viên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chăm sóc, dìu dắt, chỉ sau một
thời gian ngắn 5 năm đã phát triển nhanh chóng và lớn mạnh vượt bậc.
Vào mùa xuân năm 1931 ở thời điểm từ ngày 20 đến 26-3-1931, khi tiến hành Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai, trong đó Trung ương dành một phần quan trọng
trong chương trình làm việc để bàn về công tác thanh niên đã đi đến những quyết định có ý
nghĩa đặc biệt như các cấp Đảng từ Trung ương đến địa phương phải cử ngay các cấp ủy
viên của Đảng phụ trách công tác Đoàn. Trước sự phát triển và lớn mạnh của phong trào
thanh niên cũng như sự phát triển và lớn mạnh của Đoàn, trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam,
ở nước ta xuất hiện nhiều tổ chức Đoàn cơ sở với khoảng hơn 1.500 đoàn viên và một số

địa phương đã hình thành hệ thống tổ chức Đoàn xã, huyện lên đến tỉnh. Đến cuối năm
1931 số lượng đoàn viên trong cả nước lên đến khoảng hơn 2500 đồng chí, chứng tỏ tác
động tích cực của những quyết định quan trọng của Hội nghị Trung ương lần thứ hai
(tháng 3 - 1931). Biết bao đoàn viên và thanh niên đã chiến đấu, hy sinh cho lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa của Đoàn.
Qua những đóng góp to lớn của đoàn viên, thanh niên và sự nghiệp lớn mạnh của Đoàn
trong cao trào đấu tranh cách mạng thời kỳ năm 1930 - 1931, Đoàn Thanh niên Cộng sản
Đông Dương được Ban Chấp hành Quốc tế thanh niên cộng sản công nhận là một bộ phận
của Quốc tế thanh niên cộng sản.
Sự ra đời của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương đáp ứng kịp thời đòi hỏi cấp bách
của phong trào thanh niên nước ta lúc bấy giờ. Đây là sự vận động khách quan phù hợp
với quy luật phát triển của cách mạng nước ta đồng thời phản ánh công lao trời biển của
Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng kính yêu, Người đã sáng lập và rèn luyện Đoàn từ
những ngày đầu trứng nước.
Được Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Bác Hồ cho phép theo đề nghị của Ban Thường vụ
Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ ba họp từ
ngày 22 đến 25-3-1961 đã quyết định lấy ngày 26-3-1931 (một ngày trong thời gian cuối của
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ hai đã dành để bàn bạc và quyết định những vấn đề rất
quan trọng đối với công tác vận động thanh niên) làm ngày thành lập Đoàn hàng năm.
Ngày 26-3 trở thành ngày vẻ vang của tuổi trẻ Việt Nam.
CHƯƠNG II:
ĐẤU TRANH CHỐNG KHỦNG BỐ, KHÔI PHỤC LẠI PHONG TRÀO, CHỐNG BỌN PHẢN
ĐỘNG THUỘC ĐỊA ĐÒI CƠM ÁO, HÒA BÌNH, TỰ DO, DÂN CHỦ
Sau cao trào Xô viết - Nghệ Tĩnh, cách mạng nước ta bị đế quốc, phong kiến đàn áp, khủng bố hết
sức khốc liệt. Hàng vạn cán bộ, đảng viên, đoàn viên và quần chúng yêu nước bị chém giết, tù
đày. Nhiều cơ sở Đảng, cơ sở Đoàn tan vỡ. Tuy nhiên, những chiến sĩ cách mạng còn lại vẫn kiên
cường hoạt động bất chấp gươm súng của kẻ thù. Trong tình hình đó Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời của Đảng đã công bố Chương trình hành động của Đảng và các Chương trình
hành động của các tổ chức quần chúng của Đảng, trong đó có Chương trình hành động của Đoàn
Thanh niên Cộng Sản. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong việc củng cố Đoàn cả về mặt nhận

thức và thực tiễn. Nhờ vậy đến những năm 1933-1934, các cơ sở Đảng, cơ sở Đoàn dần dần
được khôi phục.
Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935) là một sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu hệ thống tổ
chức Đảng và phong trào cách mạng của quần chúng đã được phục hồi.
Đối với Đoàn Thanh niên Cộng sản, Đại hội đã nhận định: Cơ sở của Đoàn ở Nam Kỳ đã được
khôi phục, ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ đội ngũ của Đoàn đang được chỉnh đốn, nhiều cơ sở mới của
Đoàn được tổ chức lại. Tại các tỉnh miền núi ở Bắc Kỳ và Lào - Đoàn đã thu hút thêm nhiều đoàn
viên thuộc các dân tộc ít người và cả người Hoa. Đại hội đã nêu rõ: Nhiệm vụ chính của Đoàn là
phải củng cố và mở rộng tổ chức, đặc biệt là ở những vùng quan trọng như các nhà máy, hầm
mỏ, đồn điền,v.v... Phải dùng các hình thức công khai và bán công khai, bí mật lập ra các tổ chức
có tính phổ thông như Hội thể thao, Câu lạc bộ, Hội đọc sách báo, Hội cứu tế vv... để tập hợp
thanh niên.
Sự phục hồi tổ chức Đảng, các đoàn thể quần chúng trong đó có Đoàn Thanh niên Cộng sản đã
tạo điều kiện cho Đảng và Đoàn bước vào một thời kỳ đấu tranh mới.
Tháng 7 năm 1935, Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản họp ở Mátxcơva từ ngày 25 tháng 7 đến
ngày 20 tháng 8 năm 1935.
Xuất phát từ sự phân tích bản chất, âm mưu, thủ đoạn và nguy cơ của chủ nghĩa phát xít đối với
cách mạng thế giới. Đại hội đã vạch rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân thế giới lúc này không
phải là chủ nghĩa tư bản hoặc chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít. Nhiệm vụ
trước mắt của giai cấp công nhân quốc tế chưa phải là đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa tư bản, xây
dựng chủ nghĩa xã hội mà là đấu tranh giành dân chủ và hòa bình, bảo vệ Liên Xô.
Tháng 5-1935 Mặt trận nhân dân Pháp được thành lập bao gồm Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội,
Đảng cấp tiến, Tổng Liên đoàn Lao động thống nhất và các đoàn thể quần chúng khác. Trong
cuộc bầu cử Quốc hội tháng 5 năm 1936, Mặt trận nhân dân giành được đa số phiếu và tháng 6
năm 1936, Chính phủ phái tả lên cầm quyền ở Pháp.
Chính phủ này thực chất vẫn là cơ quan chấp hành ý chí của giai cấp tư sản Pháp, nhưng trước
sức mạnh đấu tranh của quần chúng đoàn kết trong Mặt trận nhân dân, một số yêu sách về xã hội
- kinh tế trong cương lĩnh của Mặt trận đã được thực hiện.
Căn cứ vào những diễn biến của tình hình thế giới và trong nước, quán triệt và vận dụng nghị
quyết của Quốc tế Cộng sản vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở Việt Nam và để thực sự phối hợp

giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, nhất là cách mạng Pháp, tháng 7 năm 1936 Hội
nghị Trung ương Đảng đã định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh cách mạng trong
thời kỳ mới.
Nhiệm vụ trước mắt của Đảng và nhân dân ta lúc này là tập trung mũi nhọn đấu tranh chống bọn
phản động thuộc địa và tay sai của chúng ở Đông Dương, đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện
đời sống, chống chiến tranh phát xít, bảo vệ hòa bình. Vì vậy, Đảng chủ trương lập Mặt trận nhân
dân phản đế rộng rãi (về sau đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ) bao gồm tất cả các giai cấp,
đảng phái, đoàn thể chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau để cùng đấu tranh đòi những điều
kiện dân chủ tối thiểu cho nhân dân các nước trên bán đảo Đông Dương.
Để phù hợp với sự chuyển hướng về nhiệm vụ, hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí
mật không hợp pháp sang hình thức tổ chức công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp.
Tiếp sau đó, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 7 năm 1936 đã ra
những quyết định quan trọng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
thanh niên. Các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương trong các kỳ họp tháng 3-1937, tháng 9-
1937, và tháng 3-1938 đều có những quyết nghị về công tác vận động thanh niên, chỉ ra phương
hướng nhiệm vụ công tác tư tưởng và tổ chức của Đoàn trong thời kỳ này.
Tháng 3-1937, Đảng quyết định tổ chức ra “Đông Dương phản đế Đoàn” để thay cho “Đông
Dương cộng sản Đoàn”. Tháng 9-1937 Đảng nhấn mạnh phải ra sức tổ chức các hội quần chúng
phổ thông của thanh niên (Thanh niên dân chủ, tân tiến, thể thao, khuyến học,v.v...) để thu phục
quảng đại quần chúng thành một Mặt trận thống nhất thanh niên. Đến tháng 3-1938 Đảng quyết
định tổ chức “Thanh niên tân tiến Hội” để giúp Đảng vận động các tầng lớp thanh niên phù hợp với
hoàn cảnh, trình độ, tâm lý của họ để có khẩu hiệu và hình thức tổ chức thích hợp (phổ thông và
công khai hoặc bán công khai, như hội đá bóng, đọc báo, âm nhạc,v.v...). Trong thời kỳ 1936-
1939, Đoàn thanh niên có nhiều tên gọi khác nhau song đều nhằm mục đích đấu tranh đòi các
quyền dân sinh dân chủ, vì vậy chúng ta thường gọi tên chung là Đoàn Thanh niên dân chủ.
Một số không ít cán bộ, đoàn viên thanh niên cộng sản thoát khỏi nhà tù đế quốc nay tiếp tục hoạt
động với trách nhiệm mới trong Đoàn Thanh niên dân chủ. Được Đảng giáo dục, bồi dưỡng, Đoàn
Thanh niên dân chủ đã tiếp nối xứng đáng truyền thống anh dũng của mọi trận tuyến đấu tranh
chống quân thù dưới ngọn cờ của Đảng. Mở đầu là phong trào đấu tranh đòi triệu tập “Đại hội
Đông Dương”.

Lúc này trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp,
Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp phải quyết định thả tù chính trị, thi hành một số cải cách xã hội
ở các thuộc địa Pháp và thành lập một ủy ban điều tra tình hình Đông Dương.
Nắm được cơ hội hiếm có này, Đảng ta liền chủ trương phát động phong trào đấu tranh công khai,
bằng hình thức vận động lập “ủy Ban trù bị Đông Dương Đại hội” nhằm thu thập nguyện vọng cả
các tầng lớp nhân dân, tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương để thông qua bản
“Dân nguyện” gửi cho phái bộ điều tra Pháp sắp sang ta.
Thanh niên là lực lượng hăng hái, tích tực nhất trong các ủy ban hành động, trong việc đi thu thập
nguyện vọng của nhân dân. Những yêu cầu về quyền dân sinh, dân chủ này cũng là nguyện vọng
bức bách của đông đảo thanh niên và quần chúng lao động vì rằng: “Trừ một số ít thanh niên con
nhà tư sản, thì hầu hết thanh niên lao động cho đến thanh niên tiểu tư sản đều phải sống cuộc đời
khốn quẫn về vật chất lẫn tinh thần”(1).
Phong trào Đông Dương Đại hội phát triển nhanh chóng chỉ trong một thời gian ngắn, ở Nam Bộ
đã có 600 ủy ban hành động phần lớn là thanh niên tham gia, Một số ủy ban hành động như ở
thành phố Sài Gòn bao gồm gần 100% là thanh niên có cảm tình với cách mạng. Các ủy ban hành
động tổ chức nhiều cuộc hội nghị, mít tinh để giải thích, thảo luận về tình hình thời cuộc, về tình
cảnh đời sống, về mặt trận nhân dân và những yêu cầu về quyền dân chủ, cải thiện đời sống về
luật lao động. Qua các cuộc sinh hoạt chính trị này thanh nhiên càng thấy rõ, muốn có được
những quyền lợi tối thiểu thì phải đoàn kết lại và tổ chức đấu tranh.
Hoảng sợ trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng, Chính phủ Pháp ra lệnh cấm Đông Dương
Đại hội, nhưng chúng không ngăn cấm được làn sóng đòi quyền dân chủ, cải thiện đời sống của
nhân dân ta.
Cùng với phong trào đấu tranh của công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, phong trào
đấu tranh của thanh niên ngày một lan rộng khắp các thành phố và địa phương trong cả nước.
Thanh niên công nhân đấu tranh đòi tự do lập nghiệp đoàn, tăng lương, giảm giờ làm: phản đối
đánh đập, cúp phạt, chống đuổi thợ... Thanh niên nông dân đòi cứu tế nạn đói, nạn lụt, đòi chia lại
ruộng công, chống sưu cao thuế nặng, cướp ruộng đất, nữ thanh niên đòi quyền lợi ngang nam
giới; việc làm như nhau, tiền lương ngang nhau, cấm bắt bớ, bỏ tù phụ nữ khi đến kỳ sinh đẻ...
Thanh niên học sinh đòi mở thêm trường,v.v...
Chỉ tính 6 tháng cuối năm 1936 đã có 361 cuộc đấu tranh trong đó có 236 cuộc của công nhân. Có

những cuộc bãi công thu hút hàng nghìn thanh niên công nhân tham gia như cuộc bãi công của
5.000 công nhân mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng), tiêu biểu là cuộc bãi công lớn của hơn 30.000
công nhân mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả.
Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân lao động Đông Dương, trước sức ép của Mặt
trận nhân dân Pháp và áp lực đấu tranh của Đảng Cộng sản Pháp, theo lệnh Chính phủ Pháp,
ngày 11-10-1936, toàn quyền Đông Dương ra nghị định về một số quyền lợi của công nhân và lao
động làm thuê như thời gian lao động trong một ngày không quá 10 giờ kể từ 1-11-1936, không
quá 9 giờ kể từ ngày 1-11-1938; được nghỉ chủ nhật, nghỉ phép hàng ngày (5 ngày từ năm 1937
và 10 ngày từ năm 1938), được hưởng lương, cấm bắt đàn bà, trẻ em làm việc ban đêm,v.v...
Ngày 30 tháng 12 năm 1936, Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp ra nghị định quy định thêm một số chế
độ lao động như chế độ học nghề, tiền lương tối thiểu, cấm cúp phạt bằng tiền, chế độ nghỉ đẻ,
nghỉ cho con bú trong thời gian làm việc...
Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp đã ra sắc lệnh “ân xá” tù chính trị ở Đông Dương, vào các năm
1936 và 1937. Trên 2500 tù chính trị, phần lớn là các chiến sĩ cộng sản được thoát ra khỏi các nhà
tù của bọn đế quốc.
Những thắng lợi trên đây tuy mới là bước đầu nhưng hết sức quan trọng đã nâng cao uy tín của
Đảng trong nhân dân ta.
Mặc dù bọn phản động thuộc địa ngoan cố ngăn cấm và đàn áp, nhưng phong trào đấu tranh của
quần chúng vẫn không ngừng phát triển. Trong năm 1937 có gần 400 cuộc đấu tranh của công
nhân, có những cuộc bãi công lớn có tổ chức và kéo dài như cuộc bãi công của 300 công nhân
Nhà máy Tơ Hải Phòng (tháng 1-1937) của 7.000 công nhân dệt Nam Định (tháng 2-1937), của
4.000 công nhân Ba Son (tháng 4-1937) của 20.000 công nhân mỏ Uông Bí (tháng 7-1937), tiêu
biểu nhất là cuộc bãi công của 3.000 công nhân xe lửa Trường Thi (Vinh) và miền Nam Đông
Dương (tháng 7 năm 1937).
Ở nông thôn, nhiều cuộc biểu tình, đấu tranh thu hút hàng chục vạn nông dân tham gia đòi giảm
sưu, giảm thuế, chống cướp ruộng đất, đòi chia lại ruộng công, xóa bỏ hủ tục hương thôn, chống
bọn cường hào, lý hương tham nhũng... Tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh của nông dân và thanh
niên Cà Mau (tỉnh Bạc Liêu cũ) chống bọn địa chủ cướp đất và ức hiếp dân nghèo (cuối năm
1938). Cuộc đấu tranh này có tiếng vang lớn trong cả vùng đồng bằng Nam Bộ. Thanh niên các
tỉnh Mỹ Tho, Gia Định - Sài Gòn, Vĩnh Long, Bạc Liêu,v.v... đã tích cực hưởng ứng cuộc đấu tranh

của nông dân và thanh niên Cà Mau.
Dưới ngọn cờ của Đảng, phong trào đấu tranh ngày càng phát triển mạnh mẽ và thanh niên đã thể
hiện là một lực lượng xã hội to lớn luôn giữ vai trò đi đầu trên các trận tuyến chống quân thù. Đoàn
Thanh niên dân chủ từng bước được củng cố và phát triển tổ chức. Thông qua đấu tranh, ý thức
giác ngộ của quần chúng thanh niên được nâng cao và ảnh hưởng của Đảng trong thanh niên
ngày càng thêm sâu rộng.
Trong thời kỳ này, Đảng ta triệt để sử dụng báo chí công khai làm vũ khí đấu tranh cách mạng.
Nhờ khôn khéo lợi dụng mọi khả năng hợp pháp, từ năm 1937, báo chí công khai do Đảng lãnh
đạo phát triển nhanh chóng. Hàng chục tờ báo của Đảng, của Mặt trận dân chủ, Đoàn Thanh niên
dân chủ ra đời.
Tại Hà Nội, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Văn Cừ và đồng chí Lương Khánh
Thiện, đầu năm 1937 báo “Bạn dân” tờ báo của thanh niên ra đời. Báo “Bạn dân” nhanh chóng
chiếm được tình cảm của đông đảo bạn đọc trẻ tuổi trong cả nước, trở thành người tuyên truyền,
người giáo dục tích cực trong quần chúng thanh niên. Sau khi báo “Bạn dân” bị đình bản, Đoàn
Thanh niên dân chủ lại cho xuất bản báo “Thế giới” ở Hà Nội và Đoàn Thanh niên dân chủ Sài
Gòn-Gia Định xuất bản báo “Mới” ở Sài Gòn.
Mục tiêu đấu tranh của báo “Thế Giới” và báo “Mới” trong thời gian này là vạch trần chế độ thuộc
địa và phong kiến thối nát, phản động, phản ánh tình trạng bị áp bức, bóc lột và những nguyện
vọng của mọi tầng lớp thanh niên, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin; hướng dẫn, động viên quần
chúng thanh niên đoàn kết đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ,
cải thiện đời sống.
Đi đôi với việc xuất bản các tờ báo công khai của Đoàn, các Hội đọc sách báo của thanh niên, các
đội văn nghệ, các nhóm thanh niên nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin được thành lập ở nhiều nơi
thu hút đông đảo thanh niên tham gia. Nhiều tác phẩm chính trị và văn học của Mác, Ăgghen,
Lênin, Goócki,v.v... được thanh niên chuyền tay nhau đọc như: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Tư
bản, Chống Duyrinh, Nhà nước là gì? Người mẹ,v.v... Thanh niên còn tham gia học tập và nghiên
cứu những cuốn sách do các chiến sĩ cộng sản Việt Nam viết như cuốn “Mác xít phổ thông” của
Hải Triều, “Vấn đề dân cày” của Qua Ninh và Vân Đình, v.v.v...
Sách báo mác xít của Đảng, của Đoàn thanh niên dân chủ đã góp phần quan trọng giáo dục chủ
nghĩa yêu nước, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối, chủ trương của Đảng

trong thanh niên. Lần đầu tiên, kể từ ngày Đoàn thành lập, tuổi trẻ được học tập và nghiên cứu
một cách sâu rộng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cao đẹp.
Tổ chức Đoàn ở Hà Nội đã vận động hàng nghìn đoàn viên, thanh niên tham gia lễ truy điệu và
đưa tang các chiến sĩ cộng sản có uy tín như Nguyễn Thế Rục, Phan Thanh... biến cuộc đưa tang
thành cuộc diễu hành biểu dương lực lượng với khẩu hiệu chính trị đòi thực hiện các quyền dân
chủ mà các chiến sĩ cộng sản đã kiên trì nêu gương.
Đoàn Thanh niên dân chủ đã huy động đông đảo thanh niên tham gia các cuộc đấu tranh của quần
chúng trong Mặt trận dân chủ như phong trào đấu tranh đòi tự do lập hội, tự do báo chí, tự do đi lại
và cư trú, đặc biệt là phong trào truyền bá quốc ngữ.
Cuối năm 1937, đầu năm 1938, Đảng ta chủ trương thành lập Hội truyền bá quốc ngữ để nâng
cao trình độ hiểu biết cho nhân dân lao động. Thanh niên học sinh, sinh viên là lực lượng nòng cốt
của phong trào này. Đảng còn cử nhiều đảng viên và đoàn viên thanh niên dân chủ tham gia công
tác ở cơ quan thường trực của Hội và cả các ban chuyên môn, nhất là các ban dạy học và cổ
động. Thanh niên công nhân, nông dân hăng hái đi học. Do những cố gắng của Đoàn Thanh niên
Dân chủ, trong 2 năm 1938-1939, riêng ở Hà Nội đã thanh toán nạn mù chữ cho hàng nghìn
người.
Một thắng lợi lớn của phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương là tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế
lao động 1-5-1938 một cách công khai, biểu dương được sức mạnh của giai cấp công nhân, của
các tầng lớp thanh niên và nhân dân ta tại nhà Đấu xảo Hà Nội.
Đoàn Thanh niên dân chủ Hà Nội là thanh niên tích cực trong ban tổ chức, đã huy động đông đảo
thanh niên tham gia cuộc mít tinh lớn gồm hàng vạn người này.
Nhiều đại biểu thanh niên công nhân, nông dân, trí thức... đã lên diễn đàn kêu gọi tuổi trẻ siết chặt
hàng ngũ chung quanh mặt trận dân chủ đẩy mạnh cuộc đấu tranh vì hòa bình, cải thiện dân sinh,
chống phản động thuộc địa, quan lại phong kiến thối nát. Sau đó, đại biểu thanh niên cùng các giới
đồng bào tham gia mít tinh đã tổ chức diễu hành qua nhiều đường phố Hà Nội. Hoạt động rầm rộ
trong ngày 1-5-1938 đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của tuổi trẻ Hà Nội và nhiều địa
phương lân cận.
Ngày Quốc tế lao động 1-5-1938 còn được tổ chức rầm rộ ở các địa phương trong cả nước, đặc
biệt là các thành phố lớn, các tỉnh Nam Bộ... như một ngày hội của quần chúng lao động và tuổi
trẻ.

Sau cuộc mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5 ở Hà Nội, báo Tin tức, cơ quan công khai
của Đảng Cộng sản Đông Dương viết: “Ngày 1-5 vừa qua đã cho ta thấy thanh niên là một tầng
lớp trọng yếu trong xã hội”.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư của Đảng, các đại biểu Thanh
niên dân chủ Bắc Kỳ đã triệu tập hội nghị đại biểu vào ngày 5-5-1938 tại nhà số 28 phố Rô Lăng,
Hà Nội. Đoàn Thanh niên dân chủ Hà Nội lại được trao nhiệm vụ tổ chức hội nghị quan trọng này.
Hội nghị đã thảo luận thông qua chương trình hoạt động và bầu ra Ban Chấp hành Xứ ủy Đoàn
Thanh niên dân chủ Bắc Kỳ gồm Đào Duy Kỳ, Trần Hải Kế, Nguyễn Văn Trạch, Nguyễn Thị Nghĩa,
Trần Đình Tri,v.v... Hội nghị thanh niên dân chủ Bắc Kỳ đánh dấu bước phát triển quan trọng
của tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên.
Dưới ngọn cờ của Đảng, Đoàn Thanh niên dân chủ đã lớn mạnh nhanh chóng và phát triển rộng
rãi trong cả nước. Đoàn đã đóng vai trò là lực lượng xung kích cách mạng, là hạt nhân đoàn kết,
tập hợp thanh niên bằng nhiều hình thức phong phú, linh hoạt. Đoàn đã có những cống hiến xứng
đáng trong phong trào chung của thời kỳ 1936-1939, tạo ra lực lượng mới cho cao trào cứu nước
rộng lớn trong những năm sau.
Hòa mình trong thực tiễn đấu tranh sôi động của cao trào vận động dân chủ do Đảng ta lãnh đạo,
hàng vạn thanh niên tích cực và giác ngộ lý tưởng cộng sản đã được kết nạp vào Đoàn, vào
Đảng. Đây là lực lượng hùng hậu được khôi phục và phát triển sau thời kỳ bị thực dân, phong kiến
thực hiện chính sách khủng bố trắng. Ở Hà Nội, từ năm 1937 đến năm 1939, tổ chức Đoàn đưa
vào hàng ngũ mình 300 đoàn viên và hàng nghìn thanh niên tham gia vào các tổ chức phổ thông,
biến tướng do Đoàn chỉ đạo. Ở Huế, Quảng Trị, Quảng Nam... nhiều đoàn viên được kết nạp vào
Đảng, phong trào thanh niên từ các thành phố, thị xã ảnh hưởng về nông thôn ngày càng mạnh
mẽ. Ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ, hàng trăm cán bộ thanh niên dân chủ được các Đảng bộ giao
trách nhiệm chủ trì các cuộc vận động truyền bá quốc ngữ, hoạt động xã hội, từ thiện như mở chợ
phiên, thi thể dục, thể thao lấy tiền giúp đồng bào gặp khó khăn... cũng như các phong trào đấu
tranh chống thực dân, phong kiến cướp đoạt ruộng đất, sa thải công nhân,v.v...
Tiêu biểu cho lớp thanh niên trong giai đoạn cách mạng này là Trần Hải Kế, Nguyễn Văn
Trạch...
Trần Hải Kế sinh năm 1937 trong một gia đình công nhân hỏa xa ở ngõ chợ Khâm Thiên. Anh
giác ngộ cách mạng và tham gia phong trào học sinh ở trường Thăng Long. Giữa năm 1936 anh

được kết nạp vào Đoàn. Trần Hải Kế đi vào con đường cách mạng với tất cả nhiệt huyết của tuổi
trẻ. Anh là một thanh niên khỏe mạnh lại giỏi võ thuật nên thường được phân công bảo vệ các cán
bộ lãnh đạo trong các cuộc mít tinh, diễu hành cũng như nhiều hoạt động lớn của Đoàn. Tại Hội
nghị cán bộ Đoàn TNDC tháng 5-1938 Trần Hải Kế được bầu vào Ban Chấp hành Xứ đoàn Bắc
Kỳ, đến năm 1939, anh được kết nạp vào Đảng lúc anh vừa tròn 22 tuổi. Sau cao trào dân chủ,
Trần Hải Kế được điều động vào Nghệ An công tác. Tại đây anh bị địch bắt và tra tấn dã man
song anh không hé răng khai với chúng nửa lời. Địch đẩy anh đến trại Đắc Tô (Tây Nguyên).
Trong mọi hoàn cảnh, Trần Hải Kế luôn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Trần
Hải Kế đã hy sinh anh dũng trong nhà tù đế quốc.
Nguyễn Văn Trạch sinh ra và lớn lên trong một gia đình viên chức nhỏ ở Thái Bình. Anh thi đỗ
vào trường Đại học Luật Hà Nội và hoạt động trong phong trào sinh viên yêu nước. Trong một lần
đứng lên phản đối gay gắt luận điệu thóa mạ dân tộc ta của thầy giáo người Pháp Kêrian, anh bị
đuổi học. Nguyễn Văn Trạch thoát ly gia đình và trở thành cán bộ Đoàn TNDC hoạt động ở Hà Nội
và các tỉnh miền Bắc. Tổ chức giao cho Nguyễn Văn Trạch (lúc này anh lấy bí danh là Hồng
Quang) phụ trách hiệu sách Đồng Xuân, một đầu mối phổ biến sách báo tiến bộ công khai của
Đảng, đồng thời là cơ sở liên lạc của Xứ ủy Bắc Kỳ. Anh bị địch bắt lần thứ nhất, bị tra tấn tàn
nhẫn, song không đủ bằng chứng để kết án, địch buộc phải trả tự do cho anh. Ra tù, anh được
Đảng cử lên Phú Thọ phụ trách một cơ sở ấn loát bí mật. Tại đây anh được kết nạp vào Đảng.
Trong lần về Hưng Yên công tác, Nguyễn Văn Trạch bị địch bắt. Ngoài việc tra tấn dã man, địch
đưa gia đình vào nhà tù buộc phải dụ dỗ anh khai báo nhưng anh đã lựa lời an ủi gia đình và kiên
quyết phỉ nhổ vào mặt kẻ thù. Trước lúc hy sinh, Nguyễn Văn Trạch cắn tay lấy máu viết lên tường
nhà giam: “Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm!”; “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn
năm!” Hồng Quang đã để lại nhiều bài thơ hay gửi cho gia đình, bè bạn nhất là đối với người vợ
thân yêu nói lên tình cảm nồng thắm của mình nhưng đầy khí phách hiên ngang của người trí thức
cách mạng trẻ tuổi.
CHƯƠNG III
ĐOÀN KẾT ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP, PHÁT XÍT NHẬT, GIÀNH LẠI QUYỀN
ĐỘC LẬP, TỰ DO CHO DÂN TỘC
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, phát xít Đức tiến công Ba Lan. Ngày 3 tháng 9 năm 1939, Anh, Pháp
tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình

mọi mặt ở Đông Dương và Việt Nam.
Để phục vụ cho chiến tranh, thực dân Pháp ở Đông Dương ban bố lệnh Tổng động viên ra sức
cướp của, tăng giờ làm việc, giảm tiền lương của công nhân và bắt thanh niên đi lính. Chúng
thẳng tay đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng. Các quyền tự do, dân chủ mà thanh niên và
nhân dân ta giành được trong trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ đều bị xóa bỏ. Các tổ chức của công
nhân và thanh niên đều bị chúng giải tán. Chúng ra sức bắt bớ, truy lùng những chiến sĩ cộng sản.
Ngày 29 tháng 9 năm 1939, Trung ương Đảng ta ra “thông cáo cho các đồng chí các cấp bộ” giải
thích tình hình thế giới và tình hình trong nước, đồng thời đề ra một số chủ trương ứng phó trước
mắt.
Tháng 11 - 1939, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) có
Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần,v.v... tham dự. Nghị quyết hội nghị nhấn
mạnh giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương “Bước đường sinh
tồn của dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc
Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng”. Hội nghị chủ trương lập Mặt trận
thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các giai
cấp và dân tộc ở Đông Dương để đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Theo chủ trương của Đảng, Đoàn Thanh niên phản đế tiếp nối sự nghiệp vẻ vang dân chủ trước
đây. Đoàn đã xây dựng được cơ sở ở nông thôn, trong nhà máy và các trường học. Trong tình
hình mới, tổ chức Đoàn hoạt động bí mật và được tổ chức chặt chẽ. Những đoàn viên thanh niên
dân chủ chuyển thành đoàn viên thanh niên phản đế, các hội viên thanh niên trong các tổ chức
thanh niên phổ thông được giao những công tác thích hợp để thử thách, bồi dưỡng. Người nào có
tinh thần hăng hái đấu tranh, tích cực hoạt động được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Phản đế. Để
nhanh chóng hình thành đội quân xung kích và đội hậu bị của Đảng, các đồng chí lãnh đạo Đảng
ta đã trực tiếp giúp đỡ Đoàn xây dựng tổ chức. Nhiều cơ sở Đoàn đã được phát triển ở Cao Bằng,
Bắc Cạn, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Sơn Tây, Quảng Trị và nhiều tỉnh ở Nam Bộ. Ở các
thành phố, Đoàn chú trọng công tác vận động thanh niên công nhân và học sinh.
Để mở rộng các hình thức tập hợp thanh niên sau khi phong trào dân chủ bị địch đàn áp, tại Sài
Gòn, những Câu lạc bộ học sinh được hình thành, đầu tiên là ở trường Trung học Trương Vĩnh Ký
do anh Huỳnh Văn Tiểng đứng đầu. Tiếp đến là sự ra đời của tổ chức tham quan và du lịch do
các anh Trịnh Kim Anh, Nguyễn Văn Ảnh, Võ Thế Quang... phụ trách. Hoạt động tham quan, du

lịch thu hút nhiều bạn trẻ tham gia. Qua hoạt động này anh chị em được tuyên truyền, giác ngộ
cách mạng và nhiều người đã đứng vào các tổ chức bí mật do Đảng ta lãnh đạo, hăng hái đấu
tranh chống địch. Ở Hà Nội, mặc dù bị địch ra sức khủng bố, cơ sở Đoàn Thanh niên Phản đế vẫn
phát triển khá nhanh. Đoàn xuất bản tờ báo “Tiền phong” không những chỉ lưu hành ở Hà Nội mà
còn lưu hành trong nhiều tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Hoạt động của thanh niên phản đế Hà Nội khá
phong phú. Nhiều đoàn viên và thanh niên đã tham gia rải truyền đơn kêu gọi chống chiến tranh đế
quốc, bảo vệ Liên Xô, chống đàn áp khủng bố nhân dân...
Anh Nguyễn Lam là một trong những cán bộ thanh niên phản đế hoạt động rất tích cực. Bị địch
bắt giam tại Hỏa Lò, anh cùng hai đồng chí đoàn viên khác đã bí mật, kiên trì đào được một
đường hầm từ nơi bị giam nối liền với cống thoát nước. Trong một đêm mưa bão, anh đã cùng
các đồng chí vượt ngục thành công trở về hoạt động trong đội ngũ của Đoàn.
Tháng 6-1940, nước Pháp bị quân đội phát xít Hítle chiếm đóng. Nhân cơ hội này, tháng 9 - 1940,
phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng quân Nhật. Từ đây
nhân dân Việt Nam bị hai kẻ thù cùng thống trị là phát xít Nhật và thực dân Pháp. Nhưng nhân dân
Việt Nam bất khuất và nổi đậy chống cả Nhật lẫn Pháp. Tháng 9 - 1940, nhân dân châu Bắc Sơn
vùng lên khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ, nhân dân ở nhiều tỉnh Nam Bộ cũng đã
vùng lên đấu tranh quyết liệt chống quân thù. Tháng 1 - 1941, nổ ra cuộc nổi dậy của anh em binh
lính ở đồn Chợ Rạng và đồn Đô Lương (Nghệ An). Các cuộc khởi nghĩa này là bước đầu đấu
tranh vũ trang của cả dân tộc Việt Nam, báo hiệu một thời kỳ mới, thời kỳ chuẩn bị tiến tới khởi
nghĩa vũ trang để giành chính quyền trong toàn quốc.
Theo chủ trương của Đảng, lực lượng vũ trang khởi nghĩa Bắc Sơn được chuyển vào rừng hoạt
động du kích. Mùa xuân năm 1941, tại khu rừng Khuôi Nọi (xã Vũ Lê, Châu Bắc Sơn), đội du kích
Bắc Sơn được thành lập. Đội gồm hơn 30 chiến sĩ mà hầu hết là đảng viên trẻ và đoàn viên, tất cả
đều đã tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn và chiến đấu chống sự đàn áp khủng bố của quân thù ngay
từ đầu. Trong buổi lễ thành lập, trước đông đảo đồng bào địa phương đến tham dự, đồng chí
Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương Đảng giao nhiệm vụ giết giặc cứu nước cho đơn vị.
Ít lâu sau đội du kích đổi tên là Cứu quốc quân do Phùng Chí Kiên, ủy viên Trung ương Đảng làm
Chỉ huy trưởng Cứu quốc quân, tuy lực lượng còn nhỏ bé, súng đạn và lương thực thiếu thốn
nhưng luôn giữ vững chí khí chiến đấu ngoan cường. Có thời gian đơn vị anh dũng đương đầu với
hàng nghìn quân địch trong một chiến dịch càn quét dài ngày, nhưng đơn vị đã đánh tiêu hao

nhiều giặc và bảo toàn được lực lượng. Một trong những tấm gương kiên cường của Cứu
quốc quân Bắc Sơn là đoàn viên Hà Văn Mạnh. Anh vào Đoàn từ trước Bắc Sơn khởi nghĩa
giữ trách nhiệm tiểu đội trưởng của đơn vị. Trong một trận tấn công của giặc vào Tràng Xá, Hà
Văn Mạnh tình nguyện ở lại chặn địch để trung đội rút đi nơi khác. Anh đã chiến đấu đến viên đạn
cuối cùng và hy sinh anh dũng. Trong cuốn “Nhật ký Cứu quốc” đã có hai câu thơ ca ngợi anh:
"Hoa liềm búa nở trên mộ Anh yên nghỉ
Anh không chết và chúng tôi còn chiến đấu"...

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×