Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Cơ sở cảnh quan học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 150 trang )

Phạm Hoàng Hải. Nguyễn Thượng Hùng
Nguyễn Ngọc Khánh










CƠ SỞ CẢNH QUAN HỌC CỦA VIỆC SỬ DỤNG HỢP LÍ
TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
LÃNH THỔ VIỆT NAM












NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC - 1997
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Tên viết tắt Tên đầy đủ


Ph.H. Hải
Ng.Th. Hùng
Ng.Ng. Khánh
nnk
TNTN
BVMT
VN
BNT
NT
TN.
ĐB
B
Đ
TT
NXB KHKT
NXB ĐH
THCN
KHVN
ĐHSP I
UBQG
TT KHTN & CNQG
Phạm Hoàng Hải
Nguyễn Thượng Hùng
Nguyễn Ngọc Khánh
Những người khác
Tài nguyên thiên nhiên
Bảo vệ môi trường
Việt Nam
Bán nhật triều
Nhật triều

Tây Nam
Đông Bắc
Vĩ độ Bắc
Kinh độ Đông
Số thứ tự
Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật
Nhà xu
ất bản Đại học
Trung học chuyên nghiệp
Khoa học Việt Nam
Đại học sư phạm I
Ửy ban Quốc gia
Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ Quốc gia

ĐẶT VẤN ĐÊ

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam ở các giai đoạn trước mắt
đến năm 2010, 2020 và lâu dài, những vấn đề sử dụng hợp lý các điều kiện tự nhiên,
tài nguyên thiên nhiên, làn dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực tự nhiên cho
mục đích phát triển kinh tế là những vấn đề hết sức quan trọng, bức thiết. Các văn kiện
Đại hội Đảng, những kế hoạch, chiến lược của Nhà nước, Chính phủ đã đề cập đến
vấn đề này và đặt ra những nhiệm vụ hết sức cụ thể về việc sử dụng hợp lý tài nguyên,
khai thác các nguồn lực tự nhiên, đồng thời cải tạo và bảo vệ môi trường cho phát triển
bền vững. Để giải quyết những vấn đề đặt ra thì một trong những phần nội dung quan
trọng cần được sự quan tâm, tham gia thực hiện của các nhà địa lý nói chung và các
nhà nghiên cứu cảnh quan nói riêng là nghiên cứu, xem xét một cách đầy đủ, đồng bộ
đặc điểm các điều kiện tự nhiên theo các miền, các vùng, phân tích và đánh giá một
cách tổng hợp chúng cho các mục đích ứng dụng thực tiễn cụ thể, cho phát triển sản
xuất, kinh tế, sử dụng tối đa có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời

bảo vệ được các điều kiện môi trường - sinh thái của lãnh thổ.
Sự phân hóa theo không gian và thời gian của tự nhiên nhìn chung khả đa dạng,
phức tạp. Trên cơ sở nghiên cứu quy luật phân hóa của tự nhiên, mối quan hệ tương hỗ
giữa các thành phần và yếu tố của tự nhiên sẽ cho ta một bức tranh khảm về sự phân
hóa một cách có hệ thống, có quy luật của các thể tổng hợp tự nhiên lãnh thổ. Nghiên
cứu đặc điểm đặc trưng của các thể tổng hợp tự nhiên, làm rõ các quy luật phân hóa
không gian, các đặc điểm phát sinh, phát triển của chúng chính là đối tượng và nhiệm
vụ của cảnh quan học và phân vùng địa lý tự nhiên (phân vùng cảnh quan) chung.
Lãnh thổ Việt Nam được phân bố ở phần phía Đông bán đảo Đông Dương, có
vị trí địa lý:
* Điểm cực Bắc: 23o22' vĩ độ Bắc, ở Lũng Cú-huyện Đồng Văn-Hà Giang
* Điểm cực Nam khoảng 80 vĩ độ Bắc, 107
0
40' kinh độ Đông, vùng biển cụm
đảo Hòn Khoai.
* Điểm cực Đông 17
0
vĩ độ Bắc, 113
0
kinh Đông, vùng biển quần đảo Trường
Sa.
* Điểm cực Tây 102
0
08' kinh Đông ở A Pa Chải - Mường Tè - Lai Châu với
tổng diện tích tự nhiên (phần đất liền) vào khoảng 330.363 km2.[41].
Đặc trưng chung hình thể Việt nam có cấu trúc hẹp, kéo dài từ Bắc xuống Nam.
Chiếm 3/4 diện tích cả nước là núi, đồi, phần còn lại gồm 2 đong bằng châu thổ sông
Hồng (phía Bắc), sông Cửu Long (phía Nam) và các dải đồng bằng nhỏ, hẹp ven biển
Bắc Bộ và Trung Bộ. Với đặc điểm đặc trưng của vị trí địa lý như vậy, thiên nhiên
Việt Nam nằm trọn trong đời nhiệt đới gió mùa, có các đặc điểm tự nhiên đặc trưng,

các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Các cảnh quan tự nhiên (các thể
tổng hợp tự nhiên) phân hóa phức tạp nhưng đồng thời cũng tuân thủ theo những quy
luật đặc thù chung trong.điều kiện nhiệt đới gió mùa.
Trên nền cảnh quan nhiệt đới gió mùa, ở các khu vực miền núi, đội chủ yếu là
các cảnh quan tự nhiên được phân hóa theo các quy luật phi địa đới, quy luật đai cao.
Trong khi đó các cảnh quan đồng bằng và trên các cao nguyên lại chủ yếu bao gồm
các cảnh quan nhân tác với các đặc điểm đặc trưng khác biệt so với các cảnh quan núi
ở cấu trúc, chức năng và động lực phát triển của chúng.
Tài nguyên thiên nhiên Việt Nam trong quá trình khai thác, sử dụng lâu dài,
dưới tác động của các hoạt động sản xuất của con người đã có những thay đổi hết sức
lớn. Mối quan hệ và tác động tương hỗ giữa xã hội và tự nhiên là một quá trình xảy ra
phức tạp tuy nhiên tùy thuộc vào trình độ phát triển xã hội, thể chế chính trị, những
quan hệ này (bao gồm cả những tác động sản xuất của con người lên tự nhiên, đặc
điểm khai thác tài nguyên,...) luôn luôn thay đổi và tồn tại ở các mức độ mạnh, yếu
khác nhau. Trong thời kỳ đất nước còn ở chế độ thực dân, phong kiến, các hiện tượng
này hầu như chỉ là những hành động mang tính tự phát, chủ yếu là tận dụng khai thác
tài nguyên, thiệu các cơ sở, kế hoạch bảo vệ và phục hồi hợp lý các điều kiện tự nhiên,
tài nguyên thiên nhiên, các điều kiện môi trường - sinh thái của lãnh thổ.
Những tác động mạnh mẽ của con người, xã hội lên tự nhiên đặc biệt phát triển
cùng với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, sự phát triển xã hội ở trình độ cao, những
nhu cầu trong việc sở dụng các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, môi trường
ngày càng tăng. Đặc biệt, trong giai đoạn phát triển hiện nay, giai đoạn công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước thì các nhu cầu về khai thác, sử dụng các điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên càng trở nên bức xúc, được triển khai mạnh mẽ, đồng bộ
trên phạm vi cả nước, cả trên đất liền và trên biển. Trong điều kiện tác động đó, rõ
ràng thiên nhiên Việt Nam đã, đang và sẽ có những biến động lớn, những thay đổi hết
sức sâu sắc, phát triển theo cả 2 hướng tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, ở giai đoạn
phát triển này, vấn đề khai thác, sử dụng tài nguyên đã được quan tâm xem xét và đưa
vào thành các chiến lược hoạt động mang tính hợp lý hơn, có kế hoạch, quy hoạch cụ
thể, đặc biệt lần đầu tiên đã đề cập đến việc tìm kiếm các biện pháp, áp dụng các giải

pháp khoa học công nghệ cho vấn đề khai thác hợp lý tài nguyên, nhưng đồng thời làm
ơn đính bảo vệ môi trưởng trong phát triển bền vững. Trong quá trình giải quyết các
vấn đề đặt ra, việc nghiên cứu các quy luật phát triển của tự nhiên, các đặc điểm đặc
trùng của các tổng hợp thể tự nhiên theo các vùng, các miền và mối liên quan giữa
chúng, vấn đề khai thác các nguồn lực tự nhiên, các tài nguyên thiên nhiên sẽ có ý
nghĩa vữa lý luận vừa thực tiễn hết sức quan trọng.
Từ xuất phát điểm trên đây, rõ ràng việc nghiên cứu tổng hợp tự nhiên, đề xuất
các giải pháp hữu hiệu nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trưởng
lãnh thổ có một ví trí đặc biệt quan trọng.
Công trình nghiên cứu: "Cơ sở cảnh quan học cho việc sử dụng hợp lý tài
nguyên và bảo vệ môi trưởng lãnh thổ Việt Nam "dựa vào kết quả nghiên cứu các quy
luật cũng như các đặc điểm chung các tổng hợp thể tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, để
phân tích, đánh giá tổng hợp chúng cho các mục đích ứng dụng thực tiễn cụ thể. Vì
vậy những mục tiêu và nhiệm vụ chính được đặt ra sẽ bao gồm:
1. Làm rõ các đặc điểm đặc trưng chung của tự nhiên Việt Nam thông qua việc
nghiên của các quy luật phát sinh, sự phân hóa và động lực phát triển của các tổng hợp
thể tự nhiên (các cảnh quan) theo lãnh thổ.
2. Xây dựng các cơ sở lý luận, phương pháp luận, các nguyên tắc và phương
pháp nghiên cứu cảnh quan nhiệt đới, gió mùa; ứng dụng kết quả nghiên cứu đó cho
các mục đích, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
3. Đề xuất các giải pháp, các biện pháp khoa học, công nghệ cụ thể cho khai
thác hợp lý, có hiệu qua các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ thiên nhiên, nhằm
phát triển bền vững môi trường lãnh thổ.
Những nội dung chính trình bày trong công trình nghiên cứu - cuốn sách được
công bố này là những miêu tả chì tiết các quy luật và đặc điểm đặc trưng các tổng hợp
thể tự nhiên (các cảnh quan) nhiệt đới, gió mùa Việt Nam, trên cơ sở một hệ thống
phân loại được nghiên cứu gần đây, tương đối thống nhất cho toàn lãnh thổ, đồng thòi
theo các miền, các vùng cảnh quan riêng biệt. Đặc biết các inh dung nghiên cứu này đã
đề cập một cách khá đầy đủ, sâu sắc những biến đổi của tự nhiên nói chung và cảnh
quan nói riêng dưới các tác động, các hoạt động sản xuất của con người; đưa ra các

giải pháp, các hướng tiếp cận khoa học tin cậy sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi
trường.
Các kết quả nghiên cứu này có thể có ích cho các nhà nghiên cứu, các cơ quan
lập kế hoạch, quy hoạch lãnh thổ, các cơ quan và các nhà quản lý, điều hành sản xuất,
các nhà nông nghiệp, lâm nghiệp, các nhà quản lý, các nhà thủy mí và bảo vệ môi
trưởng, có thể dùng làm tài liệu tham khảo để giảng dạy và học tập địa lý cảnh quan
cho giáo viên, sinh viên các trưởng đại học, cao đẳng và đông đảo người đọc.
PHẦN MỘT
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VIỆT NAM - THÀNH PHẦN VÀ YẾU
TỐ CƠ BẢN THÀNH TẠO CẢNH QUAN


Việt Nam - một đất nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, là phần lãnh thổ
giáp biển phía Đông của bán đảo Đông Dương, có diện tích khá rộng
2
lớn bao gồm
phần lãnh thổ trên đất liền và phần lãnh thổ trên Biển Đông, trong đó có rất nhiều đảo
và quần đảo.
Diện tích lãnh thổ trên đất liền là 330.363 km2, diện tích trên biển của nước ta
rất rộng, gấp hàng chục lần diện tích trên đất liền, đây là phần lãnh thổ chứa đựng
nhiều nguồn tài nguyên phong phú, cho phép chúng ta xây dựng một nền kinh tế mạnh
trên biển, đồng thời là cầu nối cho nước ta giao lưu, hội nhập với các nước khác trong
khu vực và trên thế giới.
Nằm trong khoảng từ 60 vĩ Bắc (quần đảo Thổ Chu) đến 23
0
22' Bắc (xã Lũng
Cả huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang) các cảnh quan Việt Nam mang tính chất nhiệt đới,
gió mùa nóng và am do ảnh hưởng của các khí đoàn được hải dương hóa. Các cảnh
quan phân hóa phức tạp không chỉ theo chiều Bắc - Nam, theo chiều Đông - Tây; phân
hóa theo chiều cao, mà còn phân hóa mang tính địa phương. Sự phân hóa không gian

hòa quyện với phân hóa thời gian theo các mùa với sắc thái riêng của các quá trình
trao đổi vật chất và năng lượng.
Dưới tác động của các hoạt động hoàn lưu gió mùa, của các nhân tố thành tạo,
hệ thống cảnh quan nhiệt đới gió mùa chung của Việt Nam đã phân hóa thành hàng
chục kiểu cảnh quan, hàng trăm loại cảnh quan khác nhau trên các địa phương cụ thể,
the hiện các quy luật phân hóa cảnh quan từ chung đến riêng, từ cấp cao đến các cấp
thấp: ngược lại, tất cả các đơn vị cảnh quan bậc thấp ở Việt Nam đều nằm trong hệ
thống chung, là các thành phần của các đơn vị bậc cao hơn. Đây chính là sự thống nhất
của các mặt đối lập trong cảnh quan Việt Nam, biểu hiện tính hoàn chỉnh của hệ thống
cảnh quan nhiệt đới gió mùa Việt Nam.

2

2- CSCO


CHƯƠNG I: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT - KIẾN TẠO VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG VIỆC HÌNH THÀNH NỀN CẢNH QUAN

Nghiên cứu nền rắn của cảnh quan có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình tìm
hiểu nguyên nhân phát sinh và phát triển của cảnh quan Việt Nam. Nền rắn trong cảnh
quan là kết quả tổng hòa của một tương quan tác động giữa các yếu tố nội lực và ngoại
lực kéo dài hàng trăm triệu năm trước đây.
Lịch sử phát triển của lãnh thổ nói chung và nền rắn của cảnh quan Việt Nam
nói riêng còn là vấn đề cần nghiên cứu, tìm hiểu, bổ xung, song trên cơ sở của nguồn
tư liệu hiện có có thể tóm tắt trong các đặc điểm sau:
Theo các kết quả nghiên cứu địa chất, kiến tạo của nhiều tác giả (Trần Văn Trí,
Phan Trường Thị, Trần Đức Lương, Nguyên Xuân Bao và nnk) thì lãnh thổ Việt Nam
nằm trong bình đồ kiến tạo chung của khu vực Đông Nam Á, có cấu trúc và lịch sử
phát triển khá phức tạp. Nhiều đơn vị kiến tạo lớn của khu vực gồm có những miền

phát triển vỏ lục địa, vỏ dại dương và vỏ chuyển tiếp với cấu trúc của các yếu tố kiến
tạo bậc I bao gồm: các megabioc nền (Trung - Việt, Indosinia) và các đai địa máng -
uốn nếp (Cathaysia, Việt - Lào, Thái - Maiaysia)[54].
Trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam các yếu tố kiến tạo bậc I được phân bố cụ thể
như sau:
- Nền Trung - Việt chứa hầu hết diện tích Bắc Bộ, giới hạn phía Nam bởi đứt
gãy sông Mã và được chia ra thành 2 (mesobloc.): máng nền Đông Bắc Bộ và hệ khâu
rìa Tây Bắc Bộ.
- Nền lndosinia chứa một phần diện tích đất liền và thềm lục địa phía Nam vĩ
tuyến 15
0
30' Bắc với các mesobioc Kon Tum, Nam Việt Nam và Minh Hải - Nattina. -
Hệ địa máng - uốn nếp Cathaysia nằm dọc ven biển Đông Bắc Bộ và phân cắt với
máng nền Đông Bắc Bộ bởi đứt gãy Dương Huy - Đồng Mô.
- Hệ địa máng - uốn nếp Việt - Lào phân bố ở Bắc Trung Bộ, giới hạn phía
Nam bởi đứt gãy Tam Kỳ - Hiệp Đức và phía Bắc bởi đứt gãy sông Mã.
Trên lãnh thổ Việt Nam gặp 2 đới riêng thuộc hệ địa máng - uốn nếp Thái -
Malaysia, gồm đới Mường Tè và đới Hà Tiên.
Cũng theo kết quả nghiên cứu của các tác giả [54] trên lãnh thổ Việt Nam còn
thấy tồn tại các kiến trúc đặc biệt trên quan với các quá trình kiến lào xây dựng, phá
hủy và cải tạo lại vỏ lục địa dã được hình thành ở các giai đoạn sớm hơn. Ngoài ra còn
có sự phát triển các auiacogen trên các nền cổ với các đặc trưng là các đối hẹp dọc
theo các đứt gãy và được lấp đầy bởi các đá trầm tích - phun trào có bề dày lớn với
thành phần phun trào chủ yếu là bazơ, trung tính, axít và kiềm.
Tuy nhiên trong mối liên quan đến việc hình thành cảnh quan theo ý kiến của
nhiều tác giả [11, 12, 33, 54 ] có thể chia lịch sử phát triển nền rắn Việt Nam thành 3
giai đoạn: giai đoạn tiền Cambri, giai đoạn Cổ kiến tạo, giai đoạn Tân kiến tạo.
Vết tích còn lại của cấu trúc địa chất thuộc giai đoạn tiền Cambri là các địa khối
đá biến chất - những hạt nhân của lãnh thổ Việt Nam gồm các khối và những mảng sót
của mảng lục địa cổ tiền Cambri nha khối vòm sông Chảy, dải Hoàng Liên Sơn, cánh

cảng sông Mã, địa khối Pu Hoạt, dải Pulaileng-Rào cỏ, địa khối Kon Tum).
Cột địa tầng của các hệ tầng tiền Cambri rất dày (có nơi tới 10.000 m) chứng tỏ
hoạt động sụt lần diễn ra mạnh, nham tướng chủ yếu là đá biến chất có nguồn gốc khác
nhau:
+ Gơnai với tướng đá mafic có nguồn gốc macma phân bố ở dưới
+ Đá hoa, diệp thạch kết tính có nguồn gốc trầm tích nằm ở giữa
+ Đá biến chất yếu và xâm nhập gianh nằm ở phần trên
Giữa các địa khối (các mảng khiển cổ) là các vùng sụt võng.
Vào giai đoạn này bầu khí quyển chung bao gồm các khí: NH
3
, CO
2
, N, H
2

sau đó là O
2
được hình thành từ các bụi khí núi lửa. Khí hậu nóng hầu như đồng nhất
trên toàn cầu, khi bế mặt trái đất nguội dần, nước được tích đọng lại và từ đó phát triển
các sinh vật bậc thấp dưới nước, thực vật trên cạn đến động vật.
Giai đoạn địa tào có 4 chu kỳ tạo núi: Caiedoni, Hecxini, Indosỉní và Kimeri.
Tử chu kỳ Caledoni bắt đầu hình thành quá trình tạo lục, gắn phần đất mới hình
thành vào các khiên nhân lục địa tiền Cambrỉ trên lãnh thổ Việt Nam với đặc trưng là
cường độ nâng không cao, uốn nếp yếu và cục bộ ở một số điểm:
+ Mở rộng khối vòm sông Chảy thành khối nâng Việt Bắc
+ Hình thành cánh cung Duyên hải
+ Đặc trưng bởi chế độ sụt võng ở địa máng Trường Sơn
+ Tách khiên Kon Tum với các vùng sụt lún còn lại của đìa khối lnđôxinia bởi
các đứt gãy "Thung lững Xecông "và "rãnh Nam Bộ ".
Đây là những nền móng cho các cảnh quan núi và cao nguyên ở Việt Nam. Dấu

ấn đậm nét của chu kỳ Hecxinỉ đường viền núi kéo từ Nam Trung Bộ đến cực Nam
Trung Bộ ôm lấy địa khối KonTum, mà các chuyên gia người Pháp gọi là gờ núi An
Nam. Đây là ranh giới phân tách các cảnh quan cao nguyên phía Tây với các cảnh
quan duyên hải Nam Trung Bộ.
Hiện tượng biển tiến mạnh vào đầu Đevon tạo nên các nham tướng đa dạng từ
nham tướng biển sâu dấn nham tướng biển nông và ven biển. Trong đó sự có mặt của
đá vôi Đevon và Cacbon - Pecmi là cơ sở hình thành các cảnh quan karst ở Việt Nam
sau này. Các tập trầm tích này lắng đọng với bề dày đến 3.000 m do quá trình sụt lún
xảy ra tại các vùng phía Bắc đèo Ngang (tốc độ 0,07 mm/năm) và đến 7.000 m ở địa
máng Trường Sơn (0,15 mm/năm).
Chu kỳ Inđoxini là chu kỳ hoàn thành phần lục địa nước ta. Chu kỳ Inđoxini là
một trong hai chu kỳ diễn ra ở Nguyên đại Trung sinh từ Thai hạ đến Thật thượng
trong thời gian khoảng 40 triệu năm. Đây là chu kỳ hoàn thành phần lãnh thổ nước ta.
Chu kỳ Inđoxinia hoạt động mạnh ở phía Bắc vĩ độ 18 trong các địa máng sông
Cả địa máng Sầm Nữa và mạnh nhất ở địa máng sông Đà. Tốc độ sụt lùn ở trong vùng
đạt 018 - 0,20 mm/năm tạo ra tập trầm tích dày đến 6.000 m với nham tướng phong
phú, chủ yếu là cát kết và đá sét. Tử Sơn La đến Nính Bình - Thanh Hóa trong địa
phận địa máng sông Đà hình thành các tập trầm tích đá vôi dày tuổi Triat, chủ yếu là
đá vôi điệp Đồng Giao T2 eđg.
Tại khiên KonTum và nền Hecxini các đứt gãy hình thành trong chu kỳ này và
các hoạt động nâng - hạ nhẹ xảy ra dọc theo các đứt gãy.
Ở rìa nền Hoa Nam. nơi quá trình tạo tục đã hoàn thành sau các chu kỳ
Caiedoni và Hecxini chỉ có một số khu vực sụt võng chứa trầm tích Thai như vùng
sông Hiến, vùng An Châu.
Chu kỳ Kimeri là chu kỳ sau trong nguyên đại Trung sinh được đặc trưng bởi
các hoạt động macma.
- Ở phần phía Bắc lãnh thổ:
+ Các đá phun trào chủ yếu là hoạt trong các máng trũng Cao Bằng - Thất Khê
- Lộc Bình, ở thung lũng sông Thương, ở Bình Liêu, Tạm Đảo.
+ Xâm nhập chủ yếu là granit ở PhiaBiooc, ở Phiaoac.

+ Xâm nh(âp và phun trào mafic ở đứt gãy sân sông Đà.
- Ở phần phía Nam lãnh thổ:
+ Phun trào hoạt từ Quỹ Nhơn đến Vũng Tàu.
+ Các đá andezit ở các nút cực Nam Trung Bộ: Biđup, Langbíang, TaĐưng.
Hiện tượng xâm nhập và phun trào của chu kỳ này diễn ra trên khắp lãnh thổ
Việt Nam và chấm dứt giai đoạn Cổ kiến tạo (giai đoạn địa máng). Từ đây lãnh thổ
Việt Nam căn bản đã hoàn thành, các vận động kiến lào vào Tân sinh chỉ có tác dụng
cải tạo lại bề mặt cổ, các cảnh quan tục đĩa được hình thành và phát triển từ sau giai
đoạn này.
Dựa trên kết quả phân tích tài liệu, Vũ Tự Lập cho rằng từ Cổ sinh, rừng đã có
mặt và bao phủ trên nhiều vùng lãnh thổ nước ta, sang Nguyên đại Trung sinh trong
điều kiện nóng ẩm và mùa khô ngắn, giới thực vật Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và
phong phú với nhiều loài cây lớn như loài Hiển hoa khỏa tử (Araucarioxilon) với
đường kính thân cây đạt 40 -50 em và nhiều loại khác mà hóa thạch có trong các bể
than: loài Dương xỉ lớn (Giostopteris Indiea),. Mộc tặc (Equisetineae),.. Trong các
rừng do có các loài Bò sát không lồ sinh sống. Một vài loài thực vật bản địa đặc hữu
còn tồn tại từ đó cho đến ngày nay, như Dương xỉ thân gỗ (Cythea podophylla), Lõa
tùng (Pisilottim mtium), Thủy tùng, Tuế (Cycas pinectata), Bụt mọc, Dẻ tùng,...
Các cảnh quan Việt Nam ngày nay thực sự hình thành và phát triển tử các giai
đoạn trước, đặc biệt từ sau chu kỳ Indoxini và được cải tạo vào giai đoạn Tân kiến tạo.
Điều đặc biệt là do lãnh thổ được cố kết vững chắc bởi các hoạt động xâm nhập, phun
trào vào chu kỳ Kimeri và đặc điểm kế thừa trong hoạt động kiến tạo ở Việt Nam mà
trong giai đoạn Tân sính, lãnh thổ không quay lại chế độ đĩa máng mà chi diễn ra
những vận động tạo lục. Dạc điểm này tạo nên tính chất kế thừa trong phát triển của
các cảnh quan Việt Nam. Các cảnh quan hiện đại được cải tạo im trên nền các cảnh
quan cổ và được phân hóa theo các nguyên nhân khác nhau từ cấp cao đến các cấp
thấp.
Giai đoạn Tân kiến tạo được bắt đầu từ quá trình bán bình nguyên hóa kéo dài
trên 40 triệu năm trong suốt Paieogen từ sau chu kỳ Kimeri, tạo nên các bề mặt bán
bình nguyên cổ Paleogen trên khắp lãnh thổ Việt Nam.

Từ Neogen vận động Hymaiaya với các pha nâng đặc trưng xen kẽ các pha yên
tĩnh, với mức độ và cường độ không đồng đều trên các vùng lãnh thổ của Việt Nam.
Đây là nguyên nhân tạo nên sự phân hóa phức tạp trong hệ thống cảnh quan nhiệt đới
gió mùa Việt Nam.
Sau mỗi pha nâng lên, hoạt động xâm thực bóc mòn dẫn đến sự phân hủy, chia
cắt các bán bình nguyên thành tạo trước đó; đến pha yên tĩnh, sông ngòi mở rộng
thung lũng, bồi tụ, san bằng dẫn đến sự hình thành các bề mặt san bằng mới.
Trong giai đoạn này có 6 chu kỳ tạo nên các bề mặt địa hình ngày nay (theo Vũ
Tự Lập, 1 995)
+ Bề mặt 2.100 - 2.200 m là các bán bình nguyên cổ Paieogen
+ Bề mặt 1.500 - 1.800 m là các bề mặt bán bình nguyên Mioxen hạ
+ Bề mặt 1.000 - 1.600 m là các bề mặt bán bình nguyên Mioxen thượng
+ Bề mặt 600 - 900 m là các bề mặt bán bình nguyên Plioxen hạ
+ Bề mặt 200 - 600 m là các bề mặt bán bình nguyên Plioxen thượng
+ Bề mặt 25 - 1 00 m là các bậc thềm cao 25 - 1 00 m có tuổi Pleixtoxen hạ
+ Các thềm biển 4 -5 m có tuổi từ Pieixtoxen thượng đến Holoxen.
Bề mặt Paleogen và Mioxen hạ còn tồn tại ở dãy núi Hoàng Liên Sơn (quanh
khu vực Sa Pa).
Bề mặt Mioxen thượng (1.000 - 1.400 mi phát triển trên khu vực Dà Lạt.
Bề mặt Plioxen hạ (600 - 900 m) còn thấy rõ ở các vùng đồi núi sông Hiện và
vùng Cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh.
Bề mặt Plioxen thượng (200 - 600m) phủ bởi dung nham do phun trào bazan và
chu kỳ IV phát triển rộng rãi trên khu vực Tây Nguyên, ở châu thổ Bắc Bộ là sự hình
thành các trầm tích Đệ tam, Đệ tứ trong các khu vực sụt võng.
Các thềm cao 25-100 m là đặc trưng địa hình Đông Nam Bộ với hiện tượng
phun trào bazan phủ trên các bậc thềm cao. Bazan phun trào còn thấy ở Bắc Trung Bộ.
quá trình laterit hóa xảy ra mạnh mẽ trong khí hậu nóng ẩm có mùa khô dài tạo nên
lớp đá ong laterit dày ở Đông Nam bộ vào chu kỳ này.
Đây là thời gian hình thành các quần đảo san hô Hoàng Sa và Trường Sa và
hoạt động núi lửa tạo nên một số đảo ven bở: đảo Lý Sơn, Hòn Hải...

Vào chu kỳ VI (Pleixtoxen thượng) cũng xảy ra phun trào bazan trẻ (Q
II-IV
) ở
Vĩnh Linh - Lao Bảo, Quảng Ngãi, sông Cầu, lưu vực sông La Ngà...
Quá trình tạo nơi với sự phân bậc địa hình đã cải tạo bề mặt địa hình cổ, tạo nên
tính chất đồi núi của nước ta, là nguyên nhân hình thành các vành đai cảnh quan theo
độ cao.
Mặt khác, cấu trúc địa hình với các hướng sơn văn, hướng phơi, với các dạng
địa hình địa phương đã có ảnh hưởng tới sự hoạt động của các khí đoàn đã phân phối
lại chế độ nhiệt ẩm, là nguyên nhân của sự phân hóa phỉ địa đới cũng như những phân
hóa địa phương trong cảnh quan Việt Nam làm đa dạng và phức tạp hệ thống các cảnh
quan nhiệt đới gió mùa nước ta.
CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH - NHÂN TỐ QUAN TRỌNG TRONG
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CẢNH QUAN VIỆT NAM

Địa hình Việt Nam biểu hiện rõ đặc điểm hoạt động Tân kiến tạo là nâng cao ở
phía Bắc và hạ thấp ở phía Đông Nam. Đồi núi là bộ phận chính của địa hình Việt
Nam, chiếm 3/4 diện tích trên đất nổi. Đồi núi nhiều chỗ ăn lan xuống biển tạo thành
các dải ngầm chia cắt các đồng bằng ven biển cũng như đáy biển gần bở, những chỗ
nhô lên tạo thành hệ thống các đảo ven bờ.
Các nhánh núi đâm ngang ra biển như dãy Hoành Sơn (180 B), Bạch Mã (160
B), các khối cực Nam Trung Bộ (140 - 110B) tao nên những ngưỡng quan trọng trong
tú nhiên Việt Nam.
Trong số các bậc địa hình, chiếm diện tích rộng nhất, đến 1/2 diện tích là các
bậc từ 100 500 m, nay đã bị chia cắt mạnh thành những quả đồi hay dãy đồi. Sau đến
bậc 600 -900 m, rồi đến bậc địa hình đồng bằng và bán bình nguyên. Các núi cao trên
1.000 m chiếm tỷ lệ 10%. Điều này dã dẫn đến tính chất đồi - núi thấp là tính chất chủ
yếu của địa hình Việt Nam, có ảnh hưởng quyết định đến đặc tính cơ bản, chủ đạo của
tự nhiên và cảnh quan là tính chất nhiệt đới ẩm.
Một đặc điểm quan trọng của địa hình thể hiện các cấp trúc cổ kiến tạo là

hướng núi. Hướng núi chính ở Việt Nam là hướng Tây Bắc - Đông Nam và hướng
vòng cung. Các thung lững sông lớn chạy theo các hệ dứt gãy lớn cũng thể hiện 2
hướng cấu trúc chính đó.
Hướng vòng cung là hướng sơn văn chính của khu vực Đông Bắc và khu vực
Nam trung Bộ, tiên quan với dạng khối của vòm sông Chảy và đìa khối KonTum. Các
thung lũng hướng vòng cung chỉ tồn tại trên từng đoạn ngắn như khúc cong sông Lô,
đoạn trung lưu sông Gâm, các phần thượng và trung núi sông Cầu, sông Lục Nam ở
Việt Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ. Cánh cung tạo nên dãy Trưởng Sơn Nam chạy ra sát
biển, nên chỉ có những sông ngắn, đổ nhanh từ sườn Đông của dãy xuống biển. Các
hướng núi nói trên có ảnh hưởng lớn đến hoàn lưu và khí hậu, khi thì mở đường, khi
thì ngăn chặn các luồng gió mùa, tạo nên sự tương phản về tự nhiên giữa hai mặt sườn
Đông Bắc và Tây Nam, biểu hiện ở chế độ nhiệt - ẩm khác nhau, là nguyên nhân gây
nên sự phân hóa Tây - Đông cũng như khơi sâu thêm sự phân hóa Bắc - Nam trong các
cảnh quan Việt Nam.
Địa hình Việt Nam được các nhà nghiên cứu phân chia thành các bộ phận khác
nhau, đó là nhân tố chủ đạo trong sự phân hóa các lớp cảnh quan nhiệt đới gió mùa
Việt Nam.
Theo ý kiến của Lê Đức An [1.2], các bộ phận địa hình được đặc trưng như sau:
Núi Việt Nam thuộc hai xứ núi khác nhau: Xứ núi Hoa Nam và Xứ núi Đông Đông
Dương, mà ranh giới giữa chúng là sông Hồng. Có thể chia lãnh thổ thành 5 thiên địa
hình: Đông Bắc Bắc Bộ, Tây Bắc Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ,
đây là các phần quan trọng trong cấu trúc các kiểu và phụ kiểu cảnh quan đất nổi Việt
Nam.
Các dãy núi ăn sát ra biển theo hướng Tây - Đông như đã trình bày là những
ngưỡng ngăn cách hoạt động của các khí đoàn tạo nên sự phân hóa quan trọng theo
hướng Bắc - Nam, khơi sâu thêm sự phân hóa đĩa đối.
Kết quả là sự hình thành ba phụ hệ cảnh quan trong tương quan tác động của
hoàn lưu và hướng sơn văn.
Ảnh hưởng của độ cao địa hình tới đặc điểm của các quá trình chuyển hóa vật
chất theo độ cao là nguyên nhân chính tạo nên các lớp cảnh quan: lớp cảnh quan trên

núi, lớp cảnh quan trên cao nguyên, lớp cảnh quan vùng đồi, lớp cảnh quan đồng bằng,
lớp cảnh quan biển và lớp cảnh quan trên đảo, quần đảo.
Sự khác biệt trong các quá trình di chuyển vật chất đặc trưng trong các lớp cảnh
quan tạo nên sự phân hóa của các phụ lớp cảnh quan.
Trong sự phân hóa các loại và nhóm loại cảnh quan các yếu tố địa mạo - thổ
nhưỡng là các nhân tố chủ đạo, các nhóm loại cảnh quan thể hiện các đặc điểm địa
mạo hình thái và đặc điểm các ioạỉ đất được thành tạo trên đó.
Như vậy,:các yếu tố của nền rắn nói chung và địa hình nói riêng là một phần
quan trọng trong cấu trúc của cảnh quan nhiệt đới gió mùa Việt Nam.
CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM KHÍ HẬU - NHÂN TỐ CHÍNH QUYẾT ĐỊNH
TÍNH CHẤT NHIỆT ĐỚI GIÓ MÙA CỦA CẢNH QUAN VIỆT NAM
Hai nhân tố quan trọng được các nhà cảnh quan đánh giá là những nhân tố
quyết đính bộ mặt của cảnh quan Việt Nhìn là địa hình và khí hậu.
Khí hậu Việt Nam như nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến là khi hậu nội chí
tuyến gió mùa ẩm. Đặc điểm nội chí tuyến được tạo bởi vị trí đìa lý của lãnh thổ. Với
vị trí này trên lãnh thổ nước ta có chế độ ngày ngắn, ít dao động trong năm và mặt trời
luôn đứng cao ở phía chân trời.
Hệ quả là lượng bức xạ tổng cộng nhận được trên lãnh thổ Việt Nam rất cao tạo
tiền đề phát triển của hệ thống cảnh quan nhiệt đới.
Miền Bắc có thể nhận được 1 20 kcal/cm2/năm
Miền Nam có thể nhận được từ 130 - 135 kcal/cm2/năm.
Lượng bức xạ cao dẫn đến nền nhiệt cao, nhiệt độ trung bình năm ở các địa
điểm khác nhau đều vượt quá chỉ tiêu chung của nhiệt đới. Hà Nội: 23,4
0
c; thành phố
Hồ Chí Minh: 26,9
0
C.
Mặt khác, nước ta có vỉ trí đặc biệt nằm ở phía Đông bán đảo Đông Dương, là
một bộ phận của lục địa châu Á rộng lớn, thông ra Biển Động và Thái Bình Dương. Vị

trí này đã đặt nước ta vào khu vức chuyển tiếp giữa nhiều hệ thống gió, cả gió tín
phong địa đới và gió mùa phi địa đới, cả dưới thấp và trên cao.
Ví trí chuyển tiếp của nước ta giữa 3 khu vực gió mùa châu Á đưa đến sự có
mặt của nhiều hệ thống hoàn lưu khác nhau, có các hoàn hai nội chí tuyến, có các hoàn
lưu ngoại chí tuyến. Tác động của các hoàn lưu lả nguyên nhân chính tạo nên sự phần
hóa các phụ hệ cảnh quan Việt Nam.
Tác động tổng hòa của vị trí địa lý, hoàn lưu và địa hình tạo nên sự phân hóa
của khí hậu Việt Nam từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây và từ thấp lên cao, theo
không gian lãnh thổ và theo thời gian (mùa 1).
a. Sự phân hóa theo không gian:
Tính chất nội chí tuyến nóng ẩm là tính chất chung của khí hậu Việt Nam,
nhưng ở phần phía Bắc, thiên về tính chất chí tuyển Bắc với một cực đại, một cực tiểu
trong chế độ nhiệt - ẩm, còn ở phần phía Nam Quy Nhơn (110 - 120 Bắc) thiên về tính
chất á xích đạo với 2 cực đại và 2 cực tiểu trong chế độ nhiệt - ẩm.
Tính chất nội chí tuyến nóng ẩm thể hiện ở các vùng thấp dưới 600 m, nơi
chiếm đến 70% diện tích đất nổi, còn tù 600 m trở lên là các đai khí hậu mát và lạnh
trên núi (Vũ Tự Lập, 1978).
1.1. Dưới 600 m là đai khí hậu nội chí tuyến chân núi, có tổng nhiệt độ trên
7.5000C, mùa hạ nóng. Nhiệt độ trung bình tháng đạt trên 250C, đai này được chia
thành các á đai:
+ Từ 0 - 100 m: Á đai khí hậu không có mùa Đông rét (nhiệt độ <250C).
+ Từ 100 - 300 m: Á đai dã có nơi có mùa Đông rét (khu vực Đông Bắc).
+Từ 300 - 600 m: Á đai có mùa Đông rét phổ biến.
1.2. Từ 600 - 2.600 m: Đai khí hậu á nhiệt đổi trên núi, với tổng nhiệt độ từ
4.5000C - 7.5000C, nhiệt độ trung bình tháng 200C - 250C. Đai khí hậu này có các á
đai khí hậu sau:
a. Từ 600 - 1.000 m: Á đai khí hậu chuyển tiếp từ nội chí tuyến sang á nhiệt
đới.
b. Từ 1.000 - 1.600 m: Á đai khí hậu á nhiệt đới điển hình.
c.Từ 1.600 - 2.600 m: Ả đai khí hậu chuyển tiếp sang á đai khí hậu ôn đới ẩm

với mùa Hạ lạnh dưới 20
0
C.
1.3. Trên 2.600 m: Đai khí hậu ôn đới trên núi với tổng nhiệt độ từ 1.700
0
C -
4.500
0
C, nhiệt độ trung bình tháng dưới 15
0
C.
Sự phân hóa Tây - Đông khá rõ nét ở các khu vực núi giữa Đông Bắc, Việt Bắc
và Tây Bắc, giữa Đông Trưởng Sơn và Tây Trưởng Sơn, biểu hiện rõ nét nhất trong
chế độ mưa ẩm, còn giữa Tây Bắc và Đông Bắc còn có sự chênh lệch lớn về chế độ
nhiệt, đặc biệt vào thời kỳ mùa Đông.
Có thể nhận thấy sự phân hóa thành hai đới khí hậu khác nhau:
- Đới khí hậu gió mùa chí tuyến ở phía Bắc vĩ độ 1 60, là ớớí khí hậu có một
chế độ nhiệt dạng chí tuyến, với một tối đa và một tối thiểu trong chế độ mưa ẩm, chịu
tác động trực tiếp của không khí cực đới, cho nên nền nhiệt không cao.
3
- Phía Nam là đới khí hậu gió mùa á xích đạo với đặc trưng của hai tối đa và hai
tối thiểu trong chế độ nhiệt và chế độ mưa ẩm, đặc trưng bởi nến nhiệt cao, ổn định
trong năm, mùa Đông chịu ảnh hưởng của gió tin phong, mùa Hạ chịu ảnh hưởng của
gió mùa Tây Nam chia thành hai mùa: mùa khô và mùa mưa.
b. Sự phân hóa theo thời gian:
Sự phân hóa theo thời gian biểu hiện trong sự biển đổi nhịp diệu mùa của khí
hậu Việt Nam trong năm như sau [11, 12, 41].
Tháng I là tháng điển hình của chế độ gió mùa mùa Đông với sự luân phiên
hoạt động của các khối không khí NPC, Tp và Tm. Trong tháng này ở phần phía Bắc
16

0
Bắc, các front cực tràn sang mạnh nhất (từ 2 - 3 lần đến 6 lần trên tháng). Ở miền

3
- CSCO

Bắc trời rét, có mưa nhỏ rải rác, trời đầy mây khi front mới tràn sang, còn khi front suy
yếu, trời quang mây; nắng nóng, không mưa.
Tháng II: ở miền Bắc trời ấm dần và mưa phùn tăng lên cùng với sự hình thành
của NPC biển. Càng về cuối tháng thành phần gió Nam tăng dần trong khí front cực
hoạt động yếu dần đi.
Tháng III: Cao áp Xibia suy yếu; front cực tràn sang đã yếu, áp suất giảm, áp
thấp ấn - Miến được khơi sâu. Cao áp Tây Thái Bình Dưỡng có dạng độc lập đi vào
Biển Đông và Đông Dương nên miền Bắc sang Xuân, miền Tnmg và miền Nam bước
vào mùa khô. Gió Đông Nam thịnh hành, ở miền Bắc thời tiết mưa phùn, ấm, đôi khi
mưa Đông do hội tụ hoặc do front lạnh.
Tháng IV: Là tháng chuyển mùa với ưu thế của các hệ thống phía Đông và hệ
thống phía Tây so với hệ thống phía Bắc. Không khí cực đới sang Việt Nam đã bị biến
tính mạnh, nhiệt độ tăng và độ ẩm cũng tăng, song thời tiết vẫn còn mưa phùn và
tương đối lạnh.
Ảnh hưởng của địa hình chắn gió, tác động mạnh của áp thấp Miến Điện, sự
phát triển của gió mùa Tây Nam đã tạo nên tháng trong cực đại ở miền Nam, bắt đầu
mùa khô ở miền Trung.
Tháng V: Bắt đầu mùa nóng và mùa mưa. Front lạnh chỉ phát triển yếu đến Bắc
Trung Bộ và thưởng gây Đông dữ dội, dôi khí có Đông tố và mưa đá. Ở Tây Bắc,
Trung Bộ và Nam Bộ gió Tây Nam, tạo Đông tố ở sườn Tây Trường Sơn, còn sườn
Đông chịu hiệu ứng "fơn "nên thời tiết khô nóng.
Tháng VI: Front lạnh đổi khí vẫn ảnh hưởng đến các vùng núi phía Bắc Việt
Nam và thưởng gây mưa lớn. Hoạt động của gió Bengan và sự chi phối của áp thấp
Miến Điện tạo nên thời tiết nắng nóng, có Đông vào buổi chiều. Gió Lào thổi mạnh ó

khu vực miền Tnmg. Ở Tây Nguyên và Nam Bộ trời nhiều mây, có mưa. Dải hội tụ
nhiệt đội bắt đầu xuất hiện ở phía Nam lãnh thổ tạo nên mưa rào và Đông dọc trải.
Phần lãnh thổ phía Bắc có thể xuất hiện bão.
Tháng VII: Là một trong hai tháng điển hình của mùa Hạ (tháng VII và tháng
VIII) Dải hội tụ nội chí tuyến phát triển cả dưới tầng thấp và trên tầng cao, bão hoạt
động nhiều. Gió Lào hoạt động mạnh ở miền Trung.
Tháng VIII: Dải hội tụ thường nằm ở vĩ độ đồng bằng Bắc Bộ, khí dải hội tụ
dừng lại và khí trên dải có xoáy áp thấp thường tạo ra mưa lớn (có thể trên
200mm/ngày).
Tháng IX: Là tháng cuối mùa Hạ, có tần xuất bão lớn nhất. Front lạnh có thể
tràn về gặp các dải hội tụ (giữa Tp, Tm, Em) gây mưa dữ dội, thưởng kích thích sự
phát triển của bão trên Biển Đông. Mưa nhiều ở miền Trung, mưa diện rộng trên toàn
quốc, gió Lào chấm dứt hẳn ở miền Trung.
Tháng X: Dải hội tụ ở đồng bằng Bắc Bộ. Mưa cực đại ở miền Trung do ảnh
hưởng của bão, front lạnh và địa hình (có thể đạt 250 - 300 mm/ngày). Ở ngoài Bắc,
mưa giảm, tháng này là tháng cuối mùa mưa. Front cực đã tràn sang, xuất hiện thời tiết
lạnh dưới 200C. Bão còn hoạt động ở miền Trung.
Tháng XI: Là tháng bắt đầu chế độ mùa Đông, gió thành phần Bắc chiếm tần
suất lớn. Dải hội tụ nội chí tuyến lùi xuống Nam Bán cầu. Gió Đông Bắc tạo mưa địa
hình ở miền Trung. Mùa mưa chấm dứt ở Nam Bộ. Bão còn đe dọa ở Nam Trung Bộ
đến Nam Bộ. Front lạnh biểu hiện chưa rõ rệt.
Thời tiết khô hanh, hơi lạnh kẻo dài với nhiệt độ khoảng 20
0
C. Khi có áp thấp
Miến Điện xuất hiện đưa lại thời tiết gió tín phong có nhiệt độ cao hơn 25
0
C.
Tháng XII: NPC đất thỉnh hành nên tháng XII là tháng khô hanh nhất ở miền
Bắc. Kết thúc mùa mưa ở Trung Bộ.
Nhân tố khí hậu có vai trò rất quan trọng trong hình thành, phát triển và phân

hóa cảnh quan Việt Nam. Thật vậy, tính chất nội chí tuyến của khí hậu đã quy đỉnh sự
hình thành hệ thống cảnh quan nhiệt đới gió mùa Việt Nam, hệ thống này thể hiện tính
địa đới của các cảnh quan nước ta, trên nền địa đới đó dưới tác động của các yếu tố phi
địa đới tạo nên sự phân hóa cảnh quan ở các bậc thấp hơn.
Phụ hệ thống cảnh quan nhiệt đới gió mùa Việt Nam được hình thành dưới tác
động của hoàn lưu gió mùa và hệ thống són văn.
Sự luân phiên tác động của các khối không khí tạo nên sự phân hóa trong chế
độ ẩm của khí hậu, tạo hai mùa mưa và khô. Song sự có mặt của khối không khí cực
đới đã làm cho nền nhiệt độ, đặc biệt ở phần phía Bắc vĩ độ 16
0
Bắc (ngưỡng Bạch
Mã). Do tác dụng ngăn chặn của dãy Bạch Mã, các front cực thường tĩnh lại, ít hoạt
động xuống phía Nam, tạo nên ranh giới giữa phụ hệ cảnh quan không có mùa Đông
lạnh và các phụ hệ cảnh quan có mùa Đông lạnh (nhiệt độ trung bình tháng <18
0
C
sắc).
Đông Bắc và Tây Bắc được ngăn cách bởi dãy Hoàng Liên Sơn chạy theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam. Dãy núi này ngăn sự xâm nhập của gió mùa Đông Bắc
(NPC) làm cho nền nhiệt mùa Đông ở Tây Bắc cao hơn Đông Bắc từ 20C - 40C, đặc
biệt không khí lạnh ẩm (NPC biển) của nửa sau mùa Đông chỉ có tác dụng đối với
Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ, nơi địa hình có hướng xòe nan quạt mở về hướng
Bắc và Đông Bắc, trong khi đó ở Tây Bắc tồn tại thời tiết lạnh, khô, với nền nhiệt
tương đương nền nhiệt của Bắc Trung Bộ. Do vậy, hình thành các phụ hệ thống cảnh
quan có một mùa Đông lạnh khô ở Tây Bắc và phụ hệ thống cảnh quan có một mùa
Đông lạnh ẩm ở Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ.
Ngoài Biển Đông dưới tác động của các hoàn lưu khí quyển theo mùa tạo nên
các phụ hệ thống cảnh quan có mùa Đông và phụ hệ thống cảnh quan không có mùa
Đông trên biển. Sự giảm sút nhiệt độ và sự biến đổi của chế độ mưa ẩm theo độ
cao địa hình tạo nên sự phân hóa của cảnh quan theo độ cao thành các đai cảnh quan

trên núi. Đây là sự phân hóa quan trọng trong hoàn cảnh đất nước ta đồi núi chiếm tới
3/4 diện tích lãnh thổ. Sự phân hóa của khí hậu do ảnh hưởng của các yếu tố địa hình
địa phương thông qua sự phân phối im chế độ nhiệt - ẩm, được các nhà khí hậu dùng
để phân chia các loại hình và các kiểu sinh khí hậu [311]. Các chỉ tiêu sinh khí hậu là
cơ sở chủ đạo trong việc phân chia các phụ kiểu cảnh quan.
Như vậy, nhân tố khí hậu cũng như nhân tố địa hình có vai trò quan trọng quyết
dính đặc điểm và phân hóa của cảnh quan Việt Nam.

Chú giải sơ đồ Sinh - Khí hậu Việt Nam (tỷ lệ l/6.000.000)
A - Mưa nhiều
R≥ 2.500mm
B- Mưa vừa
1.500 - 2.500mm
C- Mưa ít
800-1.500mm
D- Mưa rất ít
< 800mm
Ẩm Tổng lượng mưa năm
Nhiệt
Số tháng khô

Nhiệt độ
Số tháng lạnh
TB Năm
a - Mùa
khô ngắn
≤ 2 tháng
khô
b- Mùa
khô TB

3-4
tháng
c- Mùa
khô dài
≥ 5
tháng
a- Mùa
khô
ngắn ≤
2 tháng
b- Mùa
khô TB
3-4
tháng
c-
Mùa
khô dài
≥ 5
thá
b- Mùa
khô TB
3-4
tháng
c- Mùa
khô dài
≥ 5
tháng
b-
Mùa
khô TB

3-4
tháng
c- Mùa
khô dài
≥ 5
tháng
I-Rất nóng
T
N
≥25
0
C
0-Không có mùa Đông lạnh
TT > 20
0
C
IAoa
(2)
-

-

IBoa
(l)
IBob (5) IBoc
(2)
ICob
(l)
IC0c
(4)

IDob
(l)
IDoc
(1)
1-Có mùa Đông không lạnh,
không có tháng lạnh
T
L
≤ 20
0
C
IIA1a
(l)
IIA1b
(2)
IIA1c
(1)
IIB1a
(2)
IIB1b
(2)
- IIC1b
(2)
IIC1c
(1)
-

-
2- Mùa lạnh ngắn 1 tháng IIA2a
(l)

IIA2b
(l)
- - - - IIC1b
(2)
IIC1c
(1)
- -
II - Nóng
T
N
≥20
0
C - 20
0
C
3- Mùa lạnh TB
2 - 3 tháng lạnh
IIA3a
(2)
-

-

IIB3a
(7)
IIB3a
(7)
IIB3C
(2)
IIC3b

(4)
IIC3c
(5)
-

-

2 - Mùa lạnh ngắn
1 tháng lạnh
IIIA2a
(2)
IIIA2b
(l)
-

IIIB2a
(1)
IIIB2b
(4)
-

IIIC2b
(l)
-

-

-
3 - Mùa lạnh TB
2 - 3 tháng lạnh

IIIA3a í2
1




liiB3a
(21












III - Mát 16
0
C -
20
0
C
4. Mùa lạnh dài
≥4 tháng
IIIA4a
(ll





IIIB4a
(14)
IIIB4b
(14)


IIIC4b
(6)
IIIC4c
(2)


-
IV - Lanh.
T
N
=12
0
C -16
0
c
4 - Mùa lạnh dài
≥ 4 tháng lạnh
IVA4a
(3)
-


-

IVB4a
(31)
-

-

-

-

-

-

V- Rất lạnh
T
N
< 12
0
C
4 - Mùa lạnh dài
≥ 4 tháng lạnh
VA4a
(1)
- -

VB4a

(2)
-

- - -

- -
(l...4) Số trong ngoặc là số lần lặp lại của kiểu Sinh - Khí hậu (Nguồn. Ngiuyễn Khanh Vân và nnk, 1992)
CHƯƠNG IV: ĐẶC ĐIỂM THỦY VĂN, HẢI VĂN NHÂN TỐ QUAN TRỌNG
TRONG CHUYỂN HÓA VẬT CHẤT CỦA CẢNH QUAN VIỆT NAM
Nằm trong vùng nội chí tuyến nóng ẩm, với vị trí tiếp giáp giữa lục địa và đại
dương, đặc điểm địa hình với 3/4 diện tích lãnh thổ là đồi núi, có lịch sử phát triển lâu
dài và phức tạp, lãnh thổ Việt Nam có mạng iướí sông ngòi khá dày đặc. Mạng lưới
sông suối trung bình đạt từ 1 - 1,5 km/km2, có nơi trên 1,5km/km2. Nơi có mạng sông
suối nhỏ nhất là các khu vực đá vôi < 0,5 km/km2. Ở đó tồn tại những hệ thống karst
lớn. Dọc bờ biển cứ khoảng 20km lại gặp một cửa sông.
Phần lớn các sông lớn chỉ có phần hạ lưu hoặc thêm phần trong lưu chảy trong
địa phận nước ta. Phần lớn các sông có diện tích lưu vực < 200km2, chỉ có khoảng 20
con sông có diện tích lưu vực > 500 km2.
Hướng của sông ngòi phản ánh hướng cấu trúc địa hình với hướng dòng chảy
chính là hướng Tây Bắc - Đông Nam và hướng vòng cung. Các dòng sông phản ánh rõ
nét đặc điểm địa hình như ở các khu vực nhí già, các khúc sông uốn lượn; còn dòng
sông hẹp ngang lắm thác, ghềnh, chảy trong khu vực núi trẻ. Dòng sông trên các cao
nguyên, các bề mặt địa hình sau. bằng khác với dòng sông trên sườn sơn nguyên, cao
nguyên,... Vì thế, dòng sông Đồng Nai có đến 4 đoạn với các dòng chảy khác ithati.
Dòng chảy ở miền núi khác với dòng chảy ở vùng đồng bằng.
Các sông ngòi Việt Nam thường tập trung thành các hệ thống sông lớn như hệ
thống sông Hồng, hệ thống sông Thái Bình, hệ thống sông Mã, hệ thống sông Cả, hệ
thống sông Dòng Nai, hệ thống sông Cửu Long,...[18]
Ở phần trung lưu và thượng lưu, phần lớn phụ trái các sông ngòi có dạng nan
quạt tập trung vào một điểm nút. Dưới hạ lưu, các dòng sông thường tỏa tia chia nước

khi chảy trên đồng bằng ra biển.
Sông ngòi Việt Nam có lưu lượng lớn, hệ số dòng chảy cao và có sự phân hóa
dòng chảy theo từng khu vực và phân hóa theo mùa. Phần lớn sông ngòi nước ta có
nguồn nước phong phú, lượng dòng chảy trong các dòng sông phụ thuộc rất nhiều vào
lượng mưa trên lưu vực, vào đặc điểm địa hình, vào khả năng thấm nước, giữ nước của
đất đá vỏ phong hóa, vào đặc điểm lớp phủ thực vật trên lưu vực,...
Lượng nước biên đổi khá rõ nét trong năm theo hai mùa: lũ và kiệt, tương ứng
với hai mùa khô và mưa trong chế độ mưa ẩm. Lưu lượng mùa lũ thường chiếm đến
80% tổng lượng nước trong năm, còn lưu lượng mùa kiệt chỉ chiếm 20%. Trong đó hai
lượng dòng chảy trong các tháng kiệt chỉ bằng 2% tổng lượng nước trong năm. Do
vậy, chênh lệch lưu lượng cực đại và lưu lượng cực tiểu rất lớn, ở các sông lớn có thể
đến hàng chục lần, còn ở các sông nhỏ, gốc có thể đền hàng trăm lần ít [15].
Bảng 2 : Hệ thống các sông chính



Đt lưu vực (km2) Chiều dài (km) Mưa lũ Lưu lượng (m3)
STT
Hệ
thống
sông
Toàn
bộ
Trong
nước
Toàn bộ
Trong
nước
Các
tháng

Lượng
nước %
Các phụ lưu
chính
Mức tập
trung lũ
Trung
bình
Mùa lũ Mùa cạn
1
Hồng 145.965 70.722 1.149 510 VI-X 74,4 Đà (hữu ngạn),
Lô (tả ngạn ),
Thao (chính)
41%-61%
20%-34%
15%-23%
Tại Sơn
Tây
3.880
7.020 1.660
2
Thái
Bình




Cầu
Thương
Lục Nam

300
160
180




Cầu
Thương
Lục Nam




2.200
1.400
1.200
13%-17%
3%-6%
3%-6%
3

Chu

500

VI-X 74 Mã
Chu

298,1

83,0
4.040
1.150
36,0
12.6
4
Cả

VI-X 74,7 Con
Nậm Pô

399 13.750 54.0
5
Các sông
Đông
Trường
Sơn








IX - XI 62,5
76,8
Gianh, Trà Khúc
Nhật Lệ, Trà
Bông.

Hlương, Thu
Bồn.
Cái, Đà Rằng




8.250 21,2
6
Đồng
Nai

500

V-XI

Đa Dung, La Ngà

7
Cửu
Long
810.000

VI-XI

Sông Tiền
Sông Hậu

13.565 23.870 3.266
Phần lớn các hệ thống sông có đặc thù tập trung nước quanh nên lũ lên đột

ngột, nhiều khí là lũ kép dồn dập do mưa to kẻo dài. Lũ lên nhanh, rút chậm nên tác
hại lớn như lũ sông Lô ở Tuyên Quang có thể lên 5 m/ngày, sông Hồng 3 m/ngày.
Biến thiên dòng chảy nhiều năm tương ứng với biến thiên nhiều năm của khí
hậu mà hậu quả là có năm lũ nhiều, có năm lũ ít, năm lũ sớm, năm lũ muộn, năm nước
to, năm nước nhỏ,... Ngoài ra, chế độ dòng chảy ở các hệ thống sông lớn còn phụ
thuộc vào chế độ dòng chảy và miền tiếp nhân nước ở khu vực thượng nguồn nằm
ngoài lãnh thổ nước ta.
Dòng chảy rắn và hàm lượng phù sa của sông ngòi Việt Nam đều khá lớn, dòng
chảy rắn lớn và hàm lượng phù sa cao trong mùa lũ và thấp trong mùa kiệt.
Nước ta có nhiều hồ, đầm. Số lượng các hồ chứa nước trên lãnh thổ Việt Nam
khoảng 3.600 cái, với nhiều nguồn gốc khác nhau như hồ kiến tạo (Ba Bể), hồ tiềm
thực, móng ngựa (Hồ Tây). Dọc duyên hải có nhiều hồ, dầm nước rợ, có một số hồ
nước ngọt trong các vùng cồn cát như hồ Bàu Tró (Quảng Bình), các hồ có vai trò hết
sức to lớn trong việc điều hòa dòng chảy và cấp trước mùa cạn cho sinh hoạt và sản
xuất
Nhân tố thủy văn có vai trò lớn trong vận chuyển, phân bố lại vật chất, trong đó
quan trọng là việc hình thành lớp cảnh quan đồng bằng do tác dụng vận chuyển, bồi
đắp phù sa của các dòng chảy.
Sự hình thành và phát triển của các cảnh quan ngập nước trên phần tục địa của
lãnh thổ, tạo nên các dòng sông, các hồ, đầm, đặc biệt là các cảnh quan ngập mặn ven
biển, nơi có độ nhạy của sinh thái cao.
4
Sự phát triển của các cảnh quan nước dưới đất có ví trí quan trọng trong việc
cung cấp độ ẩm. Nhịp điệu phát triển của các cảnh quan có mùa khô phụ thuộc khá
nhiều vào tiềm năng nước dưới đất của chúng.
Quá trình hình thành và phát triển của các cảnh quan biển liên quan chặt chẽ
đến đặc điểm hải văn của Biển Đông. Trong đó, đặc điểm nổi bật nhất khiến cho Biển
Đông khác rõ rệt so với các biển khác trên thế giới là: ở hầu khắp mọi nơi trên biển,
các thành phần nhật triều (NT) đóng vai trò đáng kể. Trong phần lớn vùng biển, thủy
triều mang tính NT không đều hoặc NT đều, một hiện tượng hiếm thấy trên đại dương

thế giới. Trong khi đó các vùng mang tính chất bán nhật triều (BNT) đều và không đều
thấy phổ biến ở các vùng biển khác lại chỉ choán những miền rất nhỏ, những khu vực
có diễn biến thủy triều phong phú và phức tạp là thềm lục địa, nhất là ở vịnh Bắc Bộ,
vịnh Thái Lan và eo biển Đài Loan [14].
Gió mùa và áp thấp nhiệt đới hoặc bão chi phối chủ yếu chế độ sóng ở Biển
Đông. Một đặc điểm nổi bật khác là do kích thước của biển rộng lớn nên ngoài sóng

4- CSCQ

do gió trực tiếp tác động lên mặt biển, thường thấy xuất hiện thêm sóng lừng được sinh
ra từ ngoài khơi rồi truyền đi xa dưới dạng tắt dần.
- Ở biển khơi độ cao sóng trung bình trên 5 m, độ cao sóng lớn nhất có thể vượt
quá 1 âm (có trường hợp tới 11 - 12 m).
- Ở vùng ven bở có độ sâu 10 - 15 m trở xuống, độ cao sóng trung bình vượt
quá 3m, lớn nhất tiện 6 m.
Do cơ chế gió mùa là có bản đối với trường hợp Biển Đông nên tương ứng với
hoàn lưu khí quyển theo gió mùa. Ở vùng biển rộng lớn với hai vịnh lớn này cũng hình
thành hoàn hai nước nổi bật theo mùa.
Trong thời kỳ Hè Thu, sự phân bố nhiệt độ nước tầng mặt giữa các vùng trên
biển rất đồng đều. Đặc biệt trong tháng VIII, vào thời kỳ thỉnh hành của gió mùa TN,
nhiệt độ trung bình toàn biển đạt từ số lớn nhất là trên dưới 29
0
c.
Trong mùa gió ĐB, sự phân bố nhiệt độ trên mặt biển chịu ảnh hưởng rõ rệt của
không khí lạnh với mức độ ngày càng sâu sắc ở phía Bắc của biển. Các đường đ ỉng
nhiệt của nước biển trên tầng mặt trong tháng II đều uốn theo gió DB, hình thành các
tưởi nước lạnh ăn sân xuống phía TN của biển, với trị số dưới 25
0
c, thậm chí dưới
22

0
C.
Ở vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan và vùng thềm lục địa, sự phân bố nhiệt độ nước
theo chiều sân chênh lệch tương đối ít trong mùa Hạ những có thể biến thiên phức tạp
hơn trong mùa Đông. Ở vùng khơi nước sâu, biến thiên của nhiệt độ nước theo độ sâu
có thể đạt tới 10
0
C - 20
0
C hay hơn.
Lớp nước mặt có bề dày khoảng 30 - 40 m trong mùa Hạ và khoảng 70 - 90 m
trong mùa Đông chịu ảnh hưởng trực tiếp của các quá trình động lực tác động. Từ
khoảng 100 m xuống sâu hơn là lớp nước có nhiệt độ từ 25
0
C - 12
0
C, sâu hơn nữa là
khu vực nước lạnh.
Trong mùa gió ĐB trên biển hình thành lưỡi nước lạnh có độ mặn cao trên
30%o ăn theo hướng ĐB - TN tới giáp bờ biển Trung Quốc và Việt Nam. Ở phía Bắc
của rưới nước lạnh và mặn này đường đắng mặn 34-34,4%o ứng với dòng nước có độ
mặn cao hơn từ Thái Bình Dương chuyển vào biển qua lạch Bashi. Đồng thòi ứng với
nghịch lưu trong mùa này, từ phía trong tâm của biển lại có một lưỡi nước kém mặn
tấn về phía Bắc. Những vùng ven bờ phía Tây vịnh Bắc Bộ và hầu khắp vịnh Thái Lan
đều có độ mặn dưới 33%o, thậm chí dưới 30%o ở gần của sông. Đáng chú ý là ở giữa
vịnh Bắc Bộ (khoảng vĩ độ 18-9
0
B, kinh độ 107- 108
0
Đ), ở vùng có độ sâu trên dưới

50m, hình thành một vùng nước nhạt hơn khoảng 32-33%o trong mùa Đông.
Trong mùa gió TN, là mùa mưa, độ muối trên Biển Đông giảm đáng kể, hiếm
thấy có độ mặn 34%o hoặc cao hơn. Ở ven bờ Trung Quốc, Việt Nam và vịnh Thái
Lan, độ mặn giảm xuống dưới 32%o, thậm chí dưới 20-25%o ở gần các cửa sông lớn
và vừa
CHƯƠNG V: ĐẶC ĐIỂM ĐẤT VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ ĐẤT
TRONG THÀNH TẠO VÀ PHÁT TRIỂN CẢNH QUAN VIỆT NAM
Đất có vai trò rất lớn trong hình thành và phát triển cảnh quan nhiệt đới gió mùa
Việt Nam. Đất dược ví như tấm gương phản ánh cảnh quan vì đây là nhân tố duy nhất
chỉ ra một tương quan tác động giữa các nhân tố sổng và các nhân tố không sống. Đất
thể hiện rõ hệ quả tác động của các nhân tố mang tính địa đời và các nhân tố phi địa
đới.
Đặc điểm của quá trình feralit và tổ hợp các loại đất feralitic là yếu tố mang tính
địa đổi trong lịch sử hình thành hệ thống cảnh quan nhiệt đới gió mùa Việt Nam. Các
đặc điểm phân hóa của lớp vỏ thổ nhưỡng Việt Nam được xem xét trong việc phân
chìa các cấp phân vị cảnh quan, trong đó ở các cấp lớp cảnh quan, nhân tố đất được
xem như một nhân tố quan trọng để xem xét, 15hân tích sự di chuyển và chuyển hóa
vật chất, để xác định ranh giới của cấp này. Trong sự phân chia phụ lớp cảnh quan,
việc xác đính cân bằng vật chất của mỗi phụ lớp cũng dựa nhiều vào các yếu tố của
thành phần thổ nhưỡng.
Việc phân chia các đơn vị cảnh quan bậc thấp hơn cũng dựa trên sự phân hóa
của các loại đất đặc thù. Đặc biệt, đặc điểm của các biến chủng đất trên các thành phần
phong hóa đá mẹ khác nhau là những chỉ tiêu quan trọng để phân cấp cảnh quan (xem
phần hệ chỉ tiêu phân loại và đặc điểm các cảnh quan Việt Nam).
Trong sự phân hóa của các cảnh quan Việt Nam, nếu các nhân tố địa hình và
khí hậu đóng vai trò chủ đạo thì cùng với nhân tố sinh vật, nhân tố thổ nhưỡng đóng
vai trò nhân tố bổ trợ quan trọng trong sự phân chia đó, đặc biệt trong việc xác định
ranh giới các đơn vị bậc thấp như 1oạí hoặc nhóm loại, hạng cảnh quan.
Quá trình hình thành đất feralit là quá trình mang tính địa đối. Dưới tác động
của quá trình này đã hình thành các loại đất địa đới: đất feralit nâu tím, nâu vàng, nâu

đỏ phát triền trên các đá macma trung tính và bazơ phân bố tập trung ở Tây Nguyên,
Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Quảng Trí, Nghệ An, Hà Tĩnh trên địa hình đồi
lượn sóng, hoặc cao nguyên. đất nâu đỏ trên đá vôi phân bố ở Sơn La, Cao Bằng, Lạng
Sơn, Hà Tây, Hòa Bình, Nam Dính, Hà Nam, Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Đất feralit nâu đỏ thường có tầng đất rất dày, nhiều nơi trên 1 0 m và hầu nhu
đồng nhất từ trên xuống dưới. đất chua (PHKCI = 4 - 4,5), tỷ lệ mùn cao. Đạm, lại
tổng số cao. Đây là loại đất giàu lân nhất trong các loại đất ở nước ta. Thành phần cc
giới thít nặng, cấu tượng tốt nên vẫn tơi xốp. Nhìn chung, đây là đất tốt để phát tríểl~
cây công nghiệp dài ngày.
Đất đỏ nâu phát triển trên đá vôi có độ đày rất thay dõi, có chỗ 40 - 50 chỉ và cc
nhiều đá lẫn, có chỗ dày hàng chục mét, thường thiếu nước, song nhìn chung vẫn là
loại đất tốt (giàu mùn và cấu tượng tốt, tơi xốp) thích hợp với hoa màu.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×