Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Tiểu luận về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.85 KB, 54 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINNH TẾ - LUẬT

BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT NGÂN HÀNG
Đề tài: HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

CỔ PHẦN VIỆT NAM
GVHD: PGS.TS Lê Vũ Nam
Sinh viên thực hiện: Nhóm số 4

Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 15/4/2018



LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã phát triển với tốc độ khá cao, điều
này phản ánh tiềm lực của hệ thống Ngân hàng rất mạnh mẽ và các Tổ chức tín dụng
đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Đồng thời
cũng phản ánh nhu cầu vốn cho nền kinh tế nước ta là hết sức lớn.
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, hoạt động tín dụng của hệ thống ngân
hàng những năm qua đã nảy sinh một số biểu hiện không lành mạnh, báo hiệu nguy cơ
rủi ro thất thoát vốn tín dụng từ các khoản nợ sau cho vay của các tổ chức tín dụng
ngày càng chồng chất. Nếu muốn có một nền kinh tế ổn định, đòi hỏi quốc gia phải có
hệ thống ngân hàng vững mạnh, Chính phủ phải thiết lập được hệ thống pháp luật chặt
chẽ để đảm bảo được hành lang an toàn cho hệ thống các Tổ chức tín dụng. Do đó mà
Luật các Tổ chức tín dụng ra đời cùng với các Thông tư, Nghị định hướng dẫn cụ thể
chi tiết để giúp cho các hoạt động cấp tín dụng của Tổ chức tín dụng có những bước đi
đúng đắn và hoạt động một cách hiệu quả hơn trong khuôn khổ pháp luật.
Cho vay là một trong những hình thức cấp tín dụng của các Ngân hàng thương
mại hiện nay. Hoạt đông này diễn ra một cách mạnh mẽ và ngày càng phát triển bởi


nhu cầu vay vốn hiện của phần đông người dân và các doanh nghiệp để phục vụ cho
nhu cầu tiêu dùng và mục đích kinh doanh ngày càng lớn, vì vậy trong phạm vi bài
viết này, chúng tôi sẽ đi sâu vào và nghiên cứu hoạt động cho vay giữa Ngân hàng
thương mại và khách hàng không phải là tổ chức tín dụng. Vậy hoạt động cho vay này
là gì? Hình thức cho vay khác với các hình thức cấp tín dụng khác của Ngân hàng ở
chỗ nào? Và các quy định của pháp luật hiện nay đối với hoạt động này ra sao?
Những câu hỏi trên sẽ được giải đáp lần lượt thông qua quá trình nghiên cứu và tìm
hiểu của nhóm với đề tài: “Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam” sẽ giúp cho bạn đọc có cái nhìn tổng quan và toàn diện nhấ



MỤC LỤC


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Đây là
hoạt động đem lại khoản thu nhập khá lớn cho ngân hàng.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN thì hoạt
động cho vay của ngân hàng được quy định như sau:
“Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao hoặc
cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác
định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có
hoàn trả cả gốc và lãi”.
Trên thực tế, chúng ta thường dùng thuật ngữ cho vay để chỉ một mối quan hệ cấp
tín dụng có thể là bằng tiền hoặc bằng tài sản giữa một tổ chức cá nhân này với tổ
chức cá nhân khác. Tuy nhiên theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng thì cho vay
là một trong những hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng. Thuật ngữ cho vay ở
đây dùng để chỉ quan hệ cấp tín dụng bằng tiền giữa tổ chức tín dụng (tư cách bên cho

vay) với một cá nhân hay pháp nhân (với tư cách bên đi vay) nhằm thỏa mãn nhu cầu
về vốn của các chủ thể này để đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh hoặc tiêu
dùng. Hoạt động vay được tiến hành thông quan việc ký kết hợp đồng tín dụng giữa
hai đối tượng như đã nêu trên nhằm xác định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của hai bên
trong mối quan hệ cho vay này. Đối tượng của hoạt động cho vay này là vốn tiền tệ
được thể hiện bằng đồng tiền Việt nam hay ngoại tệ. Cho vay là một hoạt động cấp tín
dụng chủ yếu của các tổ chức tín dụng theo các thời hạn khác nhau như ngắn, trung và
dài hạn. Sở dĩ hoạt động cho vay là một hoạt động cấp tín dụng chủ yếu của Ngân
hàng thương mại là bởi đối tượng của hoạt động này là vốn tiền tệ nên bên đi vay có
thể sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau.

6


1.2 Các đặc trung cơ bản của hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ
phần
Để phân biệt cho vay với tư cách là một hoạt động của các TCTD với giao dịch
vay tài sản trong đời sống dân sự thông thường, cũng như phân biệt cho vay với các
hình thức cấp tín dụng khác của TCTD, thì nhóm dựa trên các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất về chủ thể, thì chủ thể cho vay là TCTD
Khác với các giao dịch vay tài sản thông thường thì chủ thể vay có thể là bất kì ai
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và sở hữu tài sản vay, còn trong hoạt động cho vay,
bên cho vay phải là tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động hợp pháp, có đủ
điều kiện để tiến hành hoạt động cho vay. Ở đây hoạt động cho vay không phải là một
giao dịch dân sự đơn thuần mà thực chất là một hoạt động kinh doanh, trong đó, tổ
chức tín dụng muốn có được lợi nhuận thông qua hoạt động cho vay. Bên cạnh yếu tố
về mục đích, hoạt động cho vay của TCTD còn được thực hiện một cách chuyên
nghiệp, liên tục và có tính chuyên môn nghiệp vụ sâu sắc.
Chính vì hoạt động cho vay trong lĩnh vực ngân hàng là hoạt động mang tính
chuyên nghiệp cao nên chủ thể thực hiện hoạt động cho vay là các TCTD phải được

thành lập hợp pháp, có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và chịu sự giám sát
chặt chẽ của Ngân hàng nhà nước.
Thứ hai, đối tượng cấp tín dụng trong hoạt động cho vay là vốn tiền tệ
Khác với hoạt động cho thuê tài chính với đối tượng cấp tín dụng là tài sản; đối
tượng với hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá với đối tượng cấp tín
dụng của nó là giá trị của các giấy tờ có giá, thì đối tượng của hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại tiền tệ. Tiền tệ ở đây có thể là đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ.
Thứ ba, thời hạn trong hoạt động cho vay rất đa dạng, có thể là ngắn hạn, trung hạn
hoặc dài hạn
Trong hoạt động cho vay, mục đích của TCTD là cấp cho bên đi vay một khoản
tiền để họ sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Yếu tố mà các
TCTD xem xét để quyết định cho vay chính là tính hiệu quả của việc sử dụng tiền vay
và căn cứ vào các biện pháp bảo đảm tiền vay. Nói cách khác, khi tiến hành cho vay,
7


TCTD sẽ không bị phụ thuộc vào thời hạn tối đa hay tối thiểu phải tuân thủ. Căn cứ
vào nhu cầu vay của bên đi vay thì TCTD có thể tiến hành cho vay với nhiều thời hạn
khác nhau. Đây chính là điểm khác biệt giữa hoạt động cho vay và các hoạt động cấp
tín dụng khác của TCTD. Cụ thể, trong hoạt động cho thuê tài chính, thời hạn vay phụ
thuộc vào thời gian khấu hao của tài sản thuê. Trong chiết khấu giấy tờ có giá, TCTD
phải căn cứ vào thời hạn thanh toán còn lại của giấy tờ có giá để quyết định có nên
mua lại hay không. Còn đối với hoạt động bao thanh toán, thời hạn cấp tín dụng phải
căn cứ vào thời hạn phát sinh các khoản phải thu của bên được cấp tín dụng.
Thứ ba, thời hạn trong hoạt động cho vay rất đa dạng, có thể là ngắn hạn, trung
hạn hoặc dài hạn
Trong hoạt động cho vay, mục đích của TCTD là cấp cho bên đi vay một khoản
tiền để họ sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Yếu tố mà các
TCTD xem xét để quyết định cho vay chính là tính hiệu quả của việc sử dụng tiền vay
và căn cứ vào các biện pháp bảo đảm tiền vay. Nói cách khác, khi tiến hành cho vay,

TCTD sẽ không bị phụ thuộc vào thời hạn tối đa hay tối thiểu phải tuân thủ. Căn cứ
vào nhu cầu vay của bên đi vay thì TCTD có thể tiến hành cho vay với nhiều thời hạn
khác nhau. Đây chính là điểm khác biệt giữa hoạt động cho vay và các hoạt động cấp
tín dụng khác của TCTD. Cụ thể, trong hoạt động cho thuê tài chính, thời hạn vay phụ
thuộc vào thời gian khấu hao của tài sản thuê. Trong chiết khấu giấy tờ có giá, TCTD
phải căn cứ vào thời hạn thanh toán còn lại của giấy tờ có giá để quyết định có nên
mua lại hay không. Còn đối với hoạt động bao thanh toán, thời hạn cấp tín dụng phải
căn cứ vào thời hạn phát sinh các khoản phải thu của bên được cấp tín dụng.
Thứ tư, quan hệ cho vay luôn được thiết lập bởi một hợp đồng tín dụng
Như đã xác định ở trên, để xác lập quan hệ cho vay, các bên phải tiến hành giao
kết một hợp đồng tín dụng. Nội dung của hợp đồng tín dụng sẽ chứa các điều khoản
chủ yêu theo quy định của pháp luật ngoài ra, pháp luật ngân hàng cho phép hai bên
thỏa thuận.
Khác với các hợp đồng kinh tế và dân sự thông thường hợp đồng tín dụng thường
là hợp đồng mẫu cho một bên là tổ chức tín dụng soạn thảo sẵn cho từng nghiệp vụ
8


cho vay của tổ chức, sở dĩ như vậy là bởi hoạt động kinh doanh tiền tệ có tính đặc thù
đòi hỏi chủ thể thực hiện hoạt động này phải có chuyên môn nhất định, tính chuyên
nghiệp cao, trong khi đó bên còn lại là những thành phần trong nên kinh tế nên nếu để
hai bên gặp nhau rồi mới xây dựng một hợp đồng thì sẽ rất mất thời gian.
1.3 Phân loại hoạt động cho vay
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động cho vay của NHTM rất đa dạng và phong
phú với nhiều loại hình tín dụng khác nhau. Việc áp dụng hình thức cho vay nào là tùy
thuộc vào đặc điểm kinh tế của đối tượng sử dụng vốn tín dụng nhằm sử dụng và quản
lý vốn tín dụng có hiệu quả và phù hợp với sự vận động cũng như đặc điểm kinh tế
khác nhau của đối tượng tín dụng. Trên thực tế việc phân loại cho vay theo các tiêu
thức sau:
1.3.1. Theo mục đích sử dụng vốn:

Cho vay sản xuất kinh doanh: là loại cho vay mà tiền vay tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình bỏ vốn mua các yếu tố
sản xuất sau đó thực hiện quá trình lao động để kết hợp các yếu tố sản xuất thành sản
phẩm và tiêu thụ, sau đó tiếp tục quá trình tái sản xuất.
Đối với cho vay sản xuất kinh doanh có thể cho vay ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn.
Thông thường đối với lĩnh vực lưu thông hàng hoá các ngân hàng thường cho vay
ngắn hạn.
Cho vay tiêu dùng: là loại cho vay mà mục đích là để sử dụng vào tiêu dùng.
Khác với cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng vốn vay bị tiêu dùng dần
không tạo ra sản phẩm hàng hoá, vì vậy cho vay tiêu dùng phải có nguồn thu nợ độc
lập với dự án, như nguồn tiền lương, nguồn thu từ bán các tài sản khác của người
vay…

9


1.3.2. Theo thời hạn cho vay1
Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 năm trở xuống và được sử
dụng để bổ sung, bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu
tiêu dùng ngắn hạn của các cá nhân
Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 1 đến 5 năm. Mục đích của
loại cho vay này là đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công
nghệ, mở rộng kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi
nhanh. Bên cạnh đó nó còn được dùng để đầu tư tài sản lưu động thương xuyên của
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp mới thành lập.
Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Nó được dùng để đáp ứng
nhu cầu đầu tư dài hạn như xây dụng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy
mô lớn.
1.3.3. Theo hình thức bảo đảm
Cho vay có bảo đảm: là hình thức cho vay mà số tiền được cấp dựa trên tài sản

đảm bảo (cầm cố, thế chấp). Các tài sản dùng để đảm bảo nợ vay phải hội đủ các điều
kiện về tính thị trường, ổn định…Các hình thức cho vay có đảm bảo như đảm bảo
bằng giấy tờ có giá, bằng hợp đồng thầu khoán, bằng bất động sản..
Cho vay không bảo đảm: Có thể hiểu đơn giản là một hình thức vay không có tài
sản bảo đảm.
1.3.4. Theo tính chất luân chuyển vốn vay
Cho vay vốn cố định.
Tài sản cố định là loại tài sản tham gia vào nhiều quá trình sản xuất kinh doanh,
giá trị của tài sản cố định hao mòn dần trong quá trình sản xuất kinh doanh và chuyển
dần vào giá trị sản phẩm.
Cho vay tài sản cố định là loại cho vay mà vốn vay sử dụng vào các mục đích mua
sắm, mở rộng, duy tu tài sản cố định.
1 Điều 10, Thông tư só 39/2016/TT-NHNN
10


Cho vay vốn lưu động.
Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động là những tài sản chỉ tham gia vào một
quá trình sản xuất kinh doanh, giá trị của tài sản lưu động chuyển một lần vào giá trị
sản phẩm.
Cho vay vốn lưu động là loại cho vay mà mục đích để mua tài sản lưu động.
1.3.5. Theo phương thức hoàn trả
Cho vay trả góp: là loại cho vay mà quá trình trả nợ diễn ra đều đặn. Chu kỳ trả nợ
bằng nhau, số tiền trả nợ gốc các kỳ bằng nhau.
Cho vay phi trả góp: là các phương thức cho vay mà quá trình trả nợ gốc không
đều, không đều về chu kỳ trả nợ và không đều về số tiền trả nợ từng chu kỳ.
Căn cứ để xây dựng kế hoạch trả nợ giữa ngân hàng và khách hàng là nguồn tra
nợ, những dự án có nguồn trả nợ đều thì cho vay theo phương thức cho vay trả góp.
Những dự án không có nguồn trả nợ đều thì cho vay theo các phương thức phi trả góp.
Cho vay phi trả góp có rất nhiều phương thức cho vay, phổ biến hiện nay là các

phương thức cho vay mà quá trình trả nợ gốc do hai bên thoả thuận, quá trình trả nợ
lãi trả định kỳ hằng tháng hoặc cùng kỳ với kỳ trả gốc. Căn cứ để ngân hàng và khách
hàng xây dựng kỳ hạn trả nợ là nguồn trả trả nợ của khách hàng, đặc điểm luân
chuyển vốn vay và khả năng nguồn vốn của ngân hàng.
Cho vay thấu chi.
Cho vay thấu chi, là phương thức cho vay mà theo đó ngân hàng mở cho khách
hàng một tài khoản và thoả thuận với khách hàng một hạn mức thấu chi trong một
khoảng thời gian nhất định.
Tài khoản của khách hàng khi dư có là nguồn vốn để ngân hàng kinh doanh và
ngân hàng phải trả lãi cho khách hàng. Ngược lại khách hàng có thể rút quá số dư của
mình đến một hạn mức nhất định mà khách hàng và ngân hàng đã thoả thuận. Khi
thấu chi tài khoản của khách hàng dư nợ và ngân hàng tính lãi đối với khách hàng.
Sản phẩm này hiện nay rất phổ biến và thường gắn với sản phẩm thẻ ATM. Cho vay
thấu chi phổ biến là cho vay tín chấp tiêu dùng.
11


Ở Việt Nam hiện nay các ngân hàng thương mại cổ phần đang đẩy mạnh sản phẩm
cho vay thấu chi, tín chấp đối với tầng lớp dân cư có thu nhập cao, ổn định và có địa
vị xã hội. Phương pháp của các ngân hàng này thường làm là đồng nhất tài khoản thấu
chi và tài khoản thẻ ATM. Dịch vụ ngân hàng tự động ATM và cho vay thấu chi hiện
đang phát triển rất mạnh ở Việt Nam.
Cho vay từng lần
Cho vay từng lần là phương thức cho vay mà ngân hàng thường áp dụng cho vay
những khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên hoặc những khách hàng
có nhu cầu vay vốn quá dài. Mỗi lần vay vốn ngân hàng và khách hàng tiến hành lập
một bộ hồ sơ riêng, thống nhất một mức vay cố định, khách hàng có thể rút vốn làm
nhiều lần nhưng tổng số tiền rải ngân phải nằm trong phạm vi thoả thuận giữa ngân
hàng và khách hàng.
Phương thức cho vay từng lần thường áp dụng khi cho vay trung, dài hạn, cho vay các

thương vụ độc lập.
Cho vay theo hạn mức tín dụng.
Ngược lại với cho vay từng lần là cho vay theo hạn mức tín dụng . Cho vay theo
hạn mức tín dụng là phương thức cho vay mà khách hàng và ngân hàng thoả thuận với
nhau một mức dư nợ tối đa mà khách hàng được duy trì trong một khoảng thời gian
nhất định. Trong phạm vi hạn mức tín dụng về dư nợ khách hàng có thể rút vốn và trả
nợ làm nhiều lần nhưng không được vượt quá hạn mức dư nợ đã thoả thuận với ngân
hàng. Hồ sơ cho vay Theo hạn mức tín dụng được lập một lần trong suốt thời gian của
hạn mức tín dụng . Mỗi lần rút vốn khách hàng chỉ cần lập giấy nhận nợ mà thôi. Thời
gian duy trì hạn mức tín dụng thông thường là một năm. Hết thời hạn hạn mức tín
dụng ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá lại quá trình vay vốn, nếu thấy vốn vay an toàn
hiệu quả ngân hàng có thể gia hạn hạn mức tín dụng.
Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng thường áp dụng đối với các khách
hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên và vay vốn ngắn hạn.

12


1.3.6. Các phương thức cho vay khác
Còn rất nhiều các phương thức cho vay khác như cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp,
cho vay đồng tài trợ, cho vay theo dự án, cho vay nội tệ, cho vay ngoại tệ, cho vay
theo hạn mức tín dụng dự phòng…

13


CHƯƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Nguyên tắc cho vay2
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được thực hiện theo

thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng, phù hợp với quy định tại Thông tư
39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng và các quy định của pháp luật có liên quan
bao gồm cả pháp luật về bảo vệ môi trường.
Khách hàng vay vốn tổ chức tín dụng phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục
đích, hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng thời hạn đã thỏa thuận với tổ chức tín dụng.
2.1.1. Sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng
Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì do hai bên, ngân hàng và khách hàng thỏa
thuận trong hợp đồng tín dụng, song nhìn chung mục đích của việc cho vay có thể
được phân làm hai loại chính thứ nhất là cho vay phục vụ hoạt động kinh doanh
(thông thường là các tổ chức, doanh nghiệp là người vay), thứ hai là vay phục vụ nhu
cầu đời sống (thường cá nhân sẽ là người đi vay).
Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là dựa vào đặc điểm: hoạt động kinh doanh tiền
tệ của tổ chức tín dụng là hoạt động rất đặc thù đi vay để cho vay, vì vậy hiệu quả của
hoạt động này phụ thuộc chủ yếu vào bên thứ ba đó là bên đi vay. Song chủ thể đi vay
có thể là mọi thành phần trong nền kinh tế nên tổ chức tín dụng cần phải quản lý tốt
được nguồn vốn tín dụng đã cấp thông qua việc yêu cầu bên đi vay nêu rõ mục đích sử
dụng vốn vay. Trong suốt quá trình vay vốn bên đi vay phải sử dụng vốn vay đúng với
mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Để được vay vốn bên đi vay phải
giải trình với tổ chức tín dụng mục đích vay vốn, kế hoạch sử dụng vốn, các tài liệu
giấy tờ liên quan đến quá trình sử dụng vốn.
Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích thỏa thuận nhằm bảo đảm hiệu quả sử
dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ vay sau này. Vậy Ngân hàng với chuyên môn và
2 Điều 4, Thông tư 39/2016/TT-NHNN
14


nghiệp vụ của mình trước khi cho vay sẽ tìm hiểu rõ mục đích vay vốn của khách
hàng, đồng thời trong quá trình vay phải kiếm tra xem khách hàng có sử dụng vốn
đúng như mục đích đã cam kết hay không, thực chất theo quy định của Luật các tổ

chức tín dụng thì việc kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách
hàng vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của tổ chức tín dụng[2], đối với khách hàng tổ chức
tín dụng có quyền kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay chưa,
còn trong nội bộ ngân hàng việc kiểm tra giám sát này lại là một nghĩa vụ của những
cá nhân hay bộ phận thực hiện nghiệp vụ cho vay khi Luật các tổ chức tín dụng yêu
cầu rằng Ngân hàng phải xây dựng Quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay
để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích (Điểm a, Khoản 2, Điều 93, Luật các
tổ chức tín dụng) và một trong những nội dung cơ bản của Quy định nội bộ này, đó là
quy trình kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách
hàng; phân cấp, ủy quyền và trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong việc kiểm
tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng của tổ chức
tín dụng (Điểm c, Khoản 2, Điều 22, Thông tư 39/2016/TT-NHNN).
Việc quy định vừa là quyền vừa là nghĩa vụ tại quy định này góp phần cho tổ chức
tín dụng dễ dàng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn của khách
hàng mặt khác nâng cao trách nhiệm của cá nhân hoặc bộ phận có liên quan đến
nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần nghiêm túc hơn trong công tác
kiểm tra đánh giá việc sử dụng vốn có đúng mục đích hay không, song thực tiễn việc
kiểm tra đánh giá này lại không hề dễ dàng nếu khách hàng cố tình dùng các hành vi
gian dối để qua mặt nhân viên kiểm tra. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng còn có
quyền yêu cầu khách hàng báo cáo việc sử dụng vốn vay và chứng minh vốn vay được
sử dụng đúng mục đích vay vốn (Khoản 4, Điều 94, Luật các tổ chức tín dụng).
Như vậy, có thể thấy rằng, mục đích sử dụng vốn vay trong nhu cầu vay vốn của
khách hàng là tương đối quan trọng. Trên cơ sở mục đích sử dụng vốn, ngân hàng mới
xem xét và quyết định cho khách hàng vay đúng với mục đích mà khách hàng đã đề
xuất. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào khách hàng cũng vay và sử dụng tiền
vay đúng mục đích và cũng không phải lúc nào ngân hàng cũng kiểm tra được việc sử
dụng vốn đúng mục đích của khách hàng. Một câu hỏi hỏi đặt ra là hậu quả pháp lý
15



nào sẽ dành cho khách hàng khi Ngân hàng phát hiện được khách hàng vay vốn nhưng
không sử dụng vốn vay đúng mục đích?
Trong quá trình quan hệ tín dụng với ngân hàng, nếu khách hàng sử dụng vốn vay
không đúng mục đích thì khách hàng sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc sử
dụng vốn vay không đúng mục đích đó. Cụ thể, chúng ta có thể thấy tại Luật các tổ
chức tín dụng đã quy định rất rõ: Tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt việc cấp tín
dụng, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi
phạm các quy định trong hợp đồng cấp tín dụng. Tại quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN
ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Thông tư 39/2016/TTNHNN về việc thay thế quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN đã quy định: Khách hàng
vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng; thực hiện đúng các nội dung đã thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng và các cam kết khác; nếu tổ chức tín dụng phát hiện khách hàng sử
dụng vốn vay sai mục đích, tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi
nợ trước hạn.
Theo quy định của Bộ luật dân sự, hợp đồng cấp tín dụng mà các ngân hàng hiện
đang áp dụng đối với việc cho vay khách hàng thực chất là hợp đồng vay tài sản do
Bộ luật dân sự điều chỉnh. Khi khách hàng (có thể là khách hàng cá nhân hay tổ chức)
quan hệ vay vốn tại ngân hàng, đã được ngân hàng đồng ý cho vay và giải ngân thì khi
ngân hàng giải ngân khoản vay đó tức là khách hàng có toàn quyền (bao gồm quyền
sử dụng, quyền chiếm hữu và quyền định đoạt) đối với khoản tiền mà ngân hàng đã
cho vay. Tuy nhiên, khách hàng có đầy đủ quyền sở hữu đối với số tiền đã vay từ ngân
hàng nhưng phải trong phạm vi sử dụng vốn đúng mục đích mà khách hàng đã cam
kết với ngân hàng trước khi vay vốn, không được sử dụng số tiền vay từ ngân hàng
vào những mục đích mà pháp luật không cho phép.
Tuy nhiên cần lưu ý, nguyên tắc này không nhất thiết là phải áp dụng cho mọi
hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng. Trong một số hình thức cho vay đặc thù như
cho vay thấu chi, cho vay theo tín dụng sự phòng, cho vay trong tường hợp phát hành
thẻ, khi tiến hành cho vay, tổ chức tín dụng có thển không cần áp dụng nguyên tắc
16



này. Bỏi vì, đối với các hình thức cho vay này thường là tổ chức tín dụng biết được
mục đích sử dụng tiền vay của bên đi vay khi bên này tiến hành thanh toán (cho vay
thấu chi, cho vay phát hành thẻ). Đối với trường hợp cho vay tín dụng dự phòng thì tổ
chức tín dụng cũng đã xác định được mục đích vay vốn của bên đi vay trong quan hệ
tín dụng trước đó. Nguyên tắc này không sử dụng trong các trường hợp trên đây vì
đây là những quan hệ tín dụng mang tính khá đặc thù tổ chức tín dụng rất khó kiểm
soát được mục đích sử dụng vốn vay của bên đi vay trong thời gian vay vốn.
2.1.2. Hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng thời hạn đã thỏa thuận với Ngân hàng
thương mại
Hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động
cho vay. Theo đó, vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng sau thời
gian vay vốn. Thời gian vay vốn là khoảng thời gian kể từ khi người vay lĩnh tiền vay
lần đầu tiên đến khi trả hết nợ gốc và tiền lãi. Nguyên tắc hoàn trả thể hiện ở hai khía
cạnh:
Khía cạnh thứ nhất là số lượng hoàn trả. Số lượng hoàn trả sẽ bằng tổng số tiền
gốc của khoản vay và số lãi phát sinh trong quá trình vay vốn.
Khía cạnh thứ hai là thời gian hoàn trả. Thời gian hoàn trả phải thực hiện theo
thoả thuận giữ hai bên được ghi trong hợp đồng vay tiền.
Nguyên tắc này xuất phát từ tính tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng
sử dụng để cho vay. Đại đa số vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay là vốn huy động
từ khách hàng gửi tiền, do đó, sau khi cho vay trong một thời hạn nhất định khách
hàng vay tiền phải hoàn trả lại cho ngân hàng để ngân hàng hoàn trả lại cho khách
hàng gửi tiền. Hơn nữa bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm
thời quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn
trả cả gốc và lãi.
2.2. Điều kiện vay vốn
Mặc dù khi cho vay, ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải bảo đảm các
nguyên tắc như vừa nêu trên nhưng thực tế không phải khách hàng nào cũng tuân thủ

đúng các nguyên tắc trên. Do vậy để giúp cho việc đảm bảo việc vay vốn diễn ra hiệu
17


quả, ngân hàng chỉ xem xét cho vay khi khách hàng thỏa mãn một số điều kiện vay
nhất định. Theo đó Tổ chức tín dụng xem xét, quyết định cho vay khi khách hàng có
đủ các điều kiện sau đây[3]:
-

Khách hàng là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự theo quy định của pháp
luật. Khách hàng là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ theo quy định của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp
luật.


Đối với khách hàng là tổ chức, thì tổ chức này phải có tư cách pháp nhân,
pháp nhân này bao gồm pháp nhân được thành lập và hoạt động tại Việt
Nam và pháp nhân thành lập ở nước ngoài và hoạt động hợp pháp tại Việt
Nam. Vì vậy với những tổ chức kinh doanh không có tư cách pháp nhân
như doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình hoặc tổ hợp
tác nếu cần vay để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình thì người
chủ sở hữu sẽ là khách hàng đi vay vốn song là vay và vay với tư cách cá



nhân.
Đối với khách hàng là cá nhân (bao gồm cá nhân có quốc tịch Việt Nam và
cá nhân có quốc tịch nước ngoài) điều kiện được đặt ra là các nhân này
phải từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có nghĩa là

những cá nhân này không bị rơi vào các trường hợp bị toà án tuyên bố là
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và
làm chủ hành vi của mình hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Bên cạnh đó thông tư này mở rộng thêm đối tượng khách hàng là cá nhân

-

từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi được vay tại Ngân hàng thương mại.
Nhu cầu vay vốn để sử dụng vào mục đích hợp pháp.
Có phương án sử dụng vốn khả thi.
Có khả năng tài chính để trả nợ.
Trường hợp khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng theo lãi suất cho vay quy
định tại khoản 2 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN, thì khách hàng được tổ
chức tín dụng đánh giá là có tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh.

Các quy định về điều kiện cho vay trên đây giúp cho tổ chức tín dụng có thể căn
cứ vào năng lực chủ thể của các tổ chức, cá nhân mà quyết định ch vay hay không.
18


Quy định này nhằm đả bảo an toàn nguồn vốn của tổ chức tín dụng khi cho vay đồng
thời nhằm bảo vệ tiền gửi của khách hàng tại tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên các điều kiện vay vốn trên đây chỉ là những hướng dẫn chung cần thiết
cho các Ngân hàng thương mại. Khi cụ thể hóa các điều kiện cho vay này, các ngân
hàng thương mại có thể cụ thể hóa và đặt ra các điều kiện của riêng mình dựa trên quy
những điều kiện cơ bản đã được nêu trên.
2.3. Đối tượng được cho vay
Đối tượng được cho vay là tổ chức cá nhân có nhu cầu sử dụng vốn trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng,...Những đối tượng cho vay là cá nhân và
pháp nhân phải thỏa mãn những điều kiện như đã được trình bày ở mục 2.2 chương II.

Các đối tượng không phải là pháp nhân (ví dụ như hộ kinh doanh, hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân) không đủ tư cách chủ thể vay vốn dưới
danh nghĩa là một tổ chức nhưng tại thông tư 39/2016/TT-NHNN thì những đối tượng
trên có thể vay dưới danh nghĩa là cá nhân đối với những khoản vay phục vụ mục đích
kinh doanh cho cơ sở kinh doanh của mình.
Bên cạnh đó theo quy định tại Điều 8 của Thông tư 39/2016/TT-NHNN thì tổ chức
tín dụng không được cho vay các nhu cầu vốn để thực hiện các việc sau:

- Để thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh thuộc ngành, nghề mà pháp luật cấm
đầu tư kinh doanh.
- Để thanh toán các chi phí, đáp ứng các nhu cầu tài chính của các giao dịch, hành vi
mà pháp luật cấm.
- Để mua, sử dụng các hàng hóa, dịch vụ thuộc ngành, nghề mà pháp luật cấm đầu tư
kinh doanh.
- Để mua vàng miếng.
- Để trả nợ khoản nợ vay tại chính tổ chức tín dụng cho vay.

19


- Để trả nợ khoản nợ vay tại tổ chức tín dụng khác và trả nợ khoản vay nước ngoài
Có thể thấy rằng so với quy định tại Quyết định 1627, Thông tư 39/2016/TTNHNN kế thừa các quy định hiện hành tại Quyết định 1627, bổ sung một số nhu cầu
vốn không được cho vay nhằm kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, nhưng vẫn
đảm bảo phù hợp với nhu cầu thực tế. Bên cạn đó Thông tư 39/2016/TT-NHNN có
quy định ngoại lệ đối với hai nhu cầu vay vốn, cụ thể:
Thứ nhất, cấm cho vay để trả nợ khoản cấp tín dụng tại chính TCTD cho vay, trừ
trường hợp cho vay để thanh toán lãi tiền vay phát sinh trong quá trình thi công xây
dựng công trình, mà chi phí lãi tiền vay được tính trong tổng mức đầu tư xây dựng
được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật;
Thứ hai, cấm cho vay để trả nợ khoản cấp tín dụng tại TCTD khác và trả nợ

khoản vay nước ngoài, trừ trường hợp cho vay để trả nợ trước hạn khoản vay đáp ứng
đầy đủ các điều kiện sau đây: Là khoản vay phục vụ hoạt động kinh doanh, thời hạn
cho vay không vượt quá thời hạn cho vay còn lại của khoản vay cũ và Là khoản vay
chưa thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ.
Ngoài ra các tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng (bao gồm hoạt động cho
vay) đối với các đối tượng được quy định cụ thể tại Điều 126 của Luật các tổ chức tín
dụng bao gồm:
-

Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban
kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) và
các chức danh tương đương của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần vốn góp là thành viên Hội
đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát của tổ chức tín dụng là công ty cổ
phần, pháp nhân là thành viên góp vốn, chủ sở hữu của tổ chức tín dụng là
công ty trách nhiệm hữu hạn;

20


-

Cha, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng
thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng
giám đốc (Phó giám đốc) và các chức danh tương đương.

-

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng
cho khách hàng trên cơ sở bảo đảm của đối tượng quy định như trên. Tổ chức

tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được bảo đảm dưới bất kỳ
hình thức nào để tổ chức tín dụng khác cấp tín dụng cho đối tượng quy định
như trên.

-

Tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát.

-

Tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng trên cơ sở nhận bảo đảm bằng cổ
phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó đối với các đối tượng được cho vay, Ngân hàng cần lưu ý không

được cho vay mà không có bảo đảm hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi cho hững đối
tượng được quy định tại Khoản 1, Điều 127 Luật các tổ chức tín dụng về hạn chế cấp
tín dụng. Theo đó những đối tượng này bao gồm:
- Tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài; thanh tra viên đang thanh tra tại tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài;
- Kế toán trưởng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
- Cổ đông lớn, cổ đông sáng lập;
- Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 126
của Luật này sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó;
- Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng;

21



- Các công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp mà
tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát.
2.4. Quy định bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay
Hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn các rủi ro, để đảm bảo an toàn hiệu quả trong
cho vay và tránh rủi ro thì Luật đã quy định về những nguyên tắc về cho vay, kiểm tra
việc sử dụng vốn vay. Để hoạt động cho vay của Ngân hàng lành mạnh và có hiệu
quả, các NHTM phải làm tốt việc kiểm tra đánh giá khả năng hoàn trả vốn vay của
người vay vốn.
Các hạn chế để đảm bảo an toàn tín dụng quy định giới hạn cho vay của NHTM
đối với mỗi khách hàng, điều này được thể hiện tại Điều 128, Luật các tổ chức tín
dụng. Qua đó NHTM hạn chế được việc tập trung vốn vào một số ít khách hàng, một
số ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh nhờ đó tránh được rủi ro và phân tán rủi ro tín
dụng. Các biện pháp bảo đảm trong cho vay nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế
hoặc pháp lý để thu hồi nợ vay.
Về vấn đề bảo đảm tiền vay, Luật quy định rằng việc áp dụng các biện pháp bảo
đảm tiền vay hay không áp dụng là do các bên thỏa thuận. Theo đó cho vay có bảo
đảm là việc thực hiện vay vốn của ngân hàng thương mại mà theo đó nghĩa vụ trả nợ
của khách hàng được cam kết thực hiện bằng tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh bằng tài
sản của bên thứ ba. Về hoạt động cho vay không có bảo đảm bằng tài sản Ngân hàng
cho vay dựa vào uy tín của khách hàng, đó là người trung thực trong kinh doanh, khả
năng tài chính lành mạnh, có tín nhiệm với ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay,
hoàn trả nợ vay,....và tổ chức tín dụng sẽ phải chịu trách nhiệm về việc cho vay không
áp dụng biện pháp bảo đảm3. Mặc dù tinh thần pháp luật là vậy song các biện pháp
bảo đẩm bằng tài sản có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình cho vay bởi vì trong cơ
chế thị trường sẽ tất yếu xảy ra hiện tượng có một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Khi
cho vay nếu tổ chức tín dụng yêu cầu bên vay vốn phải có tài sản làm vật đảm bảo để
thì rủi ro thất thoát nguồn vốn tín dụng của tổ chức tín dụng sẽ thấp hơn. Cụ thể, nếu
trường hợp bên đi vay không còn khả năng trả nợ khi đến hạn thì tổ chức tín dụng có
3 Khoản 2, Điều 15, Thông tư 39/2016/TT-NHNN
22



thể xử lý tài sản làm vật bảo đảm để thu hồi nợ. Những biện pháp bảo đảm thường
được sử dụng phổ biến trong hoạt động cho vay như cầm cố tài sản, thế chấp tài sản,
….Giao dịch bảo đảm tiền vay phải được thể hiện dưới hình thức văn bản. Hình thức
thể hiện có thể là văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính (hợp đồng tín dụng).
Sau khi giao dịch bảo đảm được ký kết hai bên sẽ tiến hành thủ tục công chứng và
đăng ký giao dịch bảo đảm.
2.5. Hợp đồng tín dụng
Theo đó Hợp đồng tín dụng là một dạng hợp đồng vay tài sản theo quy định của
Bộ luật dân sự 2015, theo đó hợp đồng cho vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên,
theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả
cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi
nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định4.
Về hình thức của hợp đồng vay tài sản Bộ luật dân sự cho phép Luật chuyên
ngành được ấn định hình thức cụ thể để phù hợp và đảm bảo hạn chế rủi ro có thể tìm
ẩn trong giao dịch cụ thể liên quan đến chuyên ngành đó và pháp luật ngân hàng quy
định rằng thỏa thuận cho vay phải được lập thành văn bản 5vì vậy hợp đồng tín dụng
cũng là hình thức thể hiện bằng văn bản của một thỏa thuận cho vay giữa ngân hàng
và người đi vay. Hoạt động cho vay là một hoạt động phức tạp và mang tính rủi ro cao
nên vì vậy việc thể hiện hợp đồng tín dụng dưới hình thức văn bản nhằm giúp cho tổ
chức tín dụng có thể quản lý và kiểm soát tốt hoạt động cho vay của mình đồng thời là
một chứng cứ cho hai bên khi có tranh chấp xảy ra.
Thông thường hợp đồng tín dụng đa phần sẽ là các loại hợp đồng theo mẫu có
nghĩa là hợp đồng được tổ chức tín dụng soạn thảo sẵn đối với từng nghiệp vụ cho vay
của mình, những hợp đồng này do một bên soạn thảo nên sẽ không tránh khỏi tình
trạng họ sẽ soạn thảo theo hướng có lợi cho mình đặc biệt là khi mà một bên soạn thảo
lại là những người có chuyên môn cao trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ như ngân
hàng; và bên còn lại là khách hàng đi vay lại yếu thế hơn về mặt kiến thức và kinh
4 Điều 468, Bộ luật dân sự 2015

5 Khoản 1, Điều 23, Thông tứ số 39/2016/TT-NHNN
23


nghiệm trong lĩnh vực này nên họ sẽ không thể nắm bắt hết được toàn bộ nội hàm và ý
nghĩa của từng điều khoản trong hợp đòng tín dụng, vì vậy pháp luật dân sự dành một
sự ưu tiên trong việc giải thích hợp đồng theo mẫu, theo đó trường hợp bên soạn thảo
đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên kia thì khi giải thích hợp đồng phải theo
hướng có lợi cho bên kia[7] và khi hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng
thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó[8].
Theo đó hợp đồng tín dụng là một căn cứ pháp lý quan trọng trong việc xác lập và
hình thành quan hệ cho vay giữa hai bên một bên là khách hàng (là cá nhân hoặc pháp
nhân) và một bên là Ngân hàng thương mại. Và hợp đồng tín dụng phải thể hiện đầy
đủ các nội dung cơ bản sau6:
- Tên, địa chỉ, mã số doanh nghiệp của tổ chức tín dụng cho vay; tên, địa chỉ, số
chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước hoặc hộ chiếu hoặc mã số doanh nghiệp của
khách hàng;
- Số tiền cho vay; hạn mức cho vay đối với trường hợp cho vay theo hạn mức; hạn
mức cho vay dự phòng đối với trường hợp cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng;
hạn mức thấu chi đối với trường hợp cho vay theo hạn mức thấu chi trên tài khoản
thanh toán;
- Mục đích sử dụng vốn vay.
- Đồng tiền cho vay, đồng tiền trả nợ: Theo đó hai bên thỏa thuận về đồng tiền cho
vay có thể là đồng tiền Việt Nam hoặc ngoại tệ. Đồng tiền trả nợ là đồng tiền cho vay
của khoản vay.
- Phương thức cho vay;
- Thời hạn cho vay; thời hạn duy trì hạn mức đối với trường hợp cho vay theo hạn
mức, thời hạn hiệu lực của hạn mức cho vay dự phòng đối với trường hợp cho vay

6 Khoản 1, Điều 23, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN

24


theo hạn mức cho vay dự phòng, hoặc thời hạn duy trì hạn mức thấu chi đối với
trường hợp cho vay theo hạn mức thấu chi trên tài khoản thanh toán;
- Lãi suất cho vay theo thỏa thuận và mức lãi suất quy đổi theo tỷ lệ %/năm tính theo
số dư nợ cho vay thực tế và thời gian duy trì số dư nợ cho vay thực tế đó theo quy
định tại khoản 3 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN; nguyên tắc và các yếu tố xác
định lãi suất, thời điểm xác định lãi suất cho vay đối với trường hợp áp dụng lãi suất
cho vay có điều chỉnh; lãi suất áp dụng đối với dư nợ gốc bị quá hạn; lãi suất áp dụng
đối với lãi chậm trả; loại phí liên quan đến khoản vay và mức phí áp dụng;
-

Giải ngân vốn cho vay và việc sử dụng phương tiện thanh toán để giải ngân vốn

cho vay;
- Việc trả nợ gốc, lãi tiền vay và thứ tự thu hồi nợ gốc, lãi tiền vay; trả nợ trước hạn:
Theo đó điều khoản này là rất quan trọng, vì nó liên quan đến việc thu hồi vốn và lãi
cho vay. Vì thế, các bên phải thỏa thuận rõ ràng về kỳ hạn trả nợ, số tiền vay sẽ được
trả dần hàng tháng hay trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Thứ tự việc thu
nợ gốc và lãi tiền vay dô hai bên thỏa thuận, song đối với khoản vay bị quá hạn trả nợ,
tổ chức tín dụng thực hiện theo thứ tự nợ gốc thu trước, nợ lãi tiền vay thu sau[12].
- Cơ cấu lại thời hạn trả nợ; chuyển nợ quá hạn đối với số dư nợ gốc mà khách hàng
không trả được nợ đúng hạn theo thỏa thuận và không được tổ chức tín dụng chấp
thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ; hình thức và nội dung thông báo chuyển nợ quá hạn
theo Điều 20 Thông tư này;
- Trách nhiệm của khách hàng trong việc phối hợp với tổ chức tín dụng và cung cấp
các tài liệu liên quan đến khoản vay để tổ chức tín dụng thực hiện thẩm định và quyết
định cho vay, kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng;
- Các trường hợp chấm dứt cho vay; thu nợ trước hạn; chuyển nợ quá hạn đối với số

dư nợ gốc mà khách hàng không trả được nợ trước hạn khi tổ chức tín dụng chấm dứt
cho vay, thu hồi nợ trước hạn; hình thức và nội dung thông báo chấm dứt cho vay, thu
hồi nợ trước hạn theo khoản 1 Điều 21 Thông tư này;
25


×