Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCH LÀM VIỆC DÂN CHỦ CỦA CÁN BỘ NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.84 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THANH

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCH LÀM VIỆC
DÂN CHỦ CỦA CÁN BỘ - NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ HỒ CHÍ MINH HỌC

Hà Nội-2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THANH

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCH LÀM VIỆC
DÂN CHỦ CỦA CÁN BỘ - NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ

Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 02 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ HỒ CHÍ MINH HỌC

Hà Nội-2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1


1. Tính cấp thiết của đề tài...........................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu.................................................................................6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...........................................................10
3.1. Mục đích nghiên cứu........................................................................10
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................11
4.1. Đối tượng nghiên cứu........................................................................11
4.2 Phạm vi nghiên cứu...........................................................................11
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu...............................................12
5.1 Cơ sở lý luận......................................................................................12
5.2 Phương pháp nghiên cứu...................................................................12
6. Đóng góp của luận văn.............................................................................12
7. Kết cấu của luận văn................................................................................13
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCH LÀM VIỆC
DÂN CHỦ CỦA CÁN BỘ.............................................................................14
1.1 Khái niệm cán bộ và phong cách làm việc dân chủ của cán bộ............14
1.1.1: Khái niệm cán bộ............................................................................14
1.1.2. Khái niệm phong cách làm việc dân chủ của cán bộ.....................17
1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của
cán bộ...........................................................................................................22
1.2.1 Tầm quan trọng của phong cách làm việc dân chủ của cán bộ.....23
1.2.2 Phong cách làm việc dân chủ của cán bộ trong quá trình ra quyết
định...........................................................................................................30
1.2.3 Phong cách làm việc dân chủ của cán bộ trong quá trình tổ chức
thực hiện quyết định.................................................................................38


1.2.4 Phong cách làm việc dân chủ của cán bộ trong công tác kiểm tra,
giám sát, đánh giá thực hiện quyết định...................................................44
Tiểu kết chương 1..........................................................................................52

Chương 2. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCH
LÀM VIỆC DÂN CHỦ CỦA CÁN BỘ.......................................................53
2.1. Giá trị lý luận........................................................................................53
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ
làm sâu sắc thêm giá trị truyền thống dân tộc và phương Đông về văn
hóa lãnh đạo, quản lý...............................................................................53
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ
góp phần phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về lãnh đạo, quản lý
..................................................................................................................59
2.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ
là cơ sở lý luận để xây dựng nguyên tắc, phương pháp và phong cách
làm việc cho hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay...............................63
2.2. Giá trị thực tiễn.....................................................................................69
2.2.1. Đối với quá trình xây dựng phong cách làm việc của cán bộ trước
thời kỳ đổi mới..........................................................................................69
2.2.2. Tiếp tục xây dựng phong cách làm việc dân chủ của cán bộ theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong 30 năm đổi mới(1986-2016)...........................76
2.2.3. Những khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc xây dựng
phong cách làm việc dân chủ của bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh..................79
Tiểu kết chương 2..........................................................................................87
KẾT LUẬN....................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................90


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phong cách là bộ mặt của tâm hồn là trang phục của tư tưởng, là cách
thức riêng, độc đáo của mỗi người khi thực hiện công việc. Phong cách làm
việc của cán bộ khiến người ta cảm nhận được cái đời thường, dung dị trong
mỗi con người cán bộ, song nó lại phản ánh tâm hồn, đạo đức, tư tưởng đồng

thời thể hiện năng lực, phẩm chất, trí tuệ, tính cách và bản thân người cán bộ.
Phong cách làm việc dân chủ của cán bộ nói chung là sự thể hiện bản chất và
tính cách của một con người, là cái chung biểu hiện thông qua phương pháp,
cách thức và biện pháp để giác ngộ và tổ chức nhân dân hiểu và thực hiện tốt
quyền làm chủ của mình thông qua việc thực hiện các nghị quyết, chính sách
của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng một xã hội dân chủ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ là
một bộ phận rất quan trọng trong di sản Hồ Chí Minh: là sản phẩm của sự kết
hợp, kế thừa, phát triển những yếu tố và hình thức dân chủ trong văn hóa
truyền thống Việt Nam, ảnh hưởng của văn hóa lãnh đạo dân chủ phương
Đông đồng thời tiếp nhận giá trị tư tưởng và hình thức dân chủ phương Tây,
những tinh hoa di sản dân chủ của nhân loại.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của
cán bộ, chúng ta sẽ nắm bắt một cách hệ thống những quan điểm cũng như sự
chỉ đạo thực tiễn của Hồ Chí Minh trong quá trình ra quyết định, tổ chức thực
hiện và kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện quyết định quản lý qua các giai
đoạn lịch sử thấy được ý nghĩa to lớn của tư tưởng ấy đối với việc xây dựng
khung lý thuyết về phong cách làm việc dân chủ cho đội ngũ cán bộ thời kỳ
mới, góp phần làm phong phú thêm các giá trị mà phong cách làm việc dân
chủ mang lại. Đồng thời, chúng ta cũng có điều kiện học tập, vận dụng, phát
triển những vấn đề cụ thể về mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương

0


pháp, phong cách làm việc dân chủ theo quan điểm Hồ Chí Minh trong điều
kiện xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý thời kỳ đổi mới.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới đã trải qua hơn 30 năm (1986 – 2017).
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và

phát triển với mục tiêu xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm
2020. Từ thực tế đó đã đặt ra yêu cầu cấp thiết xây dựng đội ngũ cán bộ “có
đạo đức cách mạng, trình độ, năng lực, trí tuệ cao, phương pháp, phong cách
làm việc dân chủ, khoa học đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cuộc sống qua các
thời kỳ phát triển”[31, tr.263]. Đặc biệt là Việt Nam đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa, là một nước dân chủ nên rất cần những cán bộ có phong cách làm
việc dân chủ đưa ra những quyết định đúng đắn mang tầm chiến lược, tổ chức
thực hiện hiệu quả và chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết kết quả
thực hiện quyết định lãnh đạo, quản lý trong và sau quá trình làm việc.
Quá trình cải cách hành chính xây dựng phong cách làm việc dân chủ ở
nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn.
Làm thế nào để xây dựng được phong cách làm việc dân chủ của đội
ngũ cán bộ phù hợp với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
Những cơ sở lý luận và thực tiễn là gì? Những nhân tố tác động ảnh hưởng ra
sao? Đó là những câu hỏi đang đặt ra và tìm kiếm câu trả lời.
Trong các hướng tìm kiếm để giải đáp những câu hỏi đang đặt ra nêu
trên, nghiên cứu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân
chủ của cán bộ là một hướng tìm tòi rất đáng quan tâm. Đứng trước tình hình
đó việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ
của cán bộ nhằm phát huy cao độ nhân tố con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay được coi là một yêu cầu cấp thiết,
góp phần đưa công cuộc đổi mới của đất nước ta đi đến thắng lợi.

1


Về phương diện khoa học cho đến nay, việc nghiên cứu vận dụng “tư
tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ”, ngoài một
số bài viết đăng trên tạp chí và trên các báo điện tử, chưa có công trình nào
nghiên cứu hệ thống, chuyên sâu, dưới góc độ mã ngành Hồ Chí Minh học đề

tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ _ nội
dung và giá trị”. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục nghiên cứu làm
sáng tỏ nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc
dân chủ của cán bộ.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học, thực tiễn và tính thời sự của việc
nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ
của cán bộ, tôi chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc
dân chủ của cán bộ - Nội dung và giá trị” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoảng 27 năm trở lại đây, từ năm 1990 cho tới nay việc nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam được đẩy mạnh và đạt được những
thành tựu khả quan. Có thể nói nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào công cuộc đổi mới được chú trọng như một trong những lĩnh vực
chủ yếu nghiên cứu lý luận về khoa học xã hội – nhân văn. Từ đó đến nay,
hàng loạt các công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh đã được triển khai và
công bố trong thời gian qua. Nghiên cứu về vấn đề học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí
Minh về phong cách làm việc dân chủ nói riêng là đề tài nhận được nhiều sự
chú ý của các học giả.
Xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau các nhà nghiên cứu đã
công bố rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Các công trình đã đề
cập những quan điểm của Hồ Chí Minh về các phong cách, phương pháp và

2


đưa ra những nhận định về giá trị tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc
dân chủ.
Nhóm tác giả với các công trình nghiên cứu tính lý luận và thực tiễn về
phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, gồm các tác giả tiểu biểu như:

Phạm Ngọc Anh, Hoàng Chí Bảo, Đặng Xuân Kỳ, Bùi Đình Phong, Nguyễn
Thế Thắng, Mạch Quang Thắng, Song Thành,…
+ Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ của Bùi
Đình Phong, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2002. Cuốn sách gồm 4 chương khái quát
những nội dung mang tính lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành, tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ, công tác cán bộ của Đảng, vị trí, vai trò của cán bộ và
công tác cán bộ, những yêu cầu đối với người cán bộ, đặc biệt là phong cách làm
việc dân chủ và việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ hiện nay. Tác phẩm này có thể coi là công trình nghiên cứu toàn diện và sâu
sắc mang tính hệ thống, khái quát được những vấn đề cơ bản trong công tác cán
bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.
+ Cuốn Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc của Song Thành, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2009 gồm ba phần lớn trong đó phần thứ hai: Tư
tưởng Hồ Chí Minh - những nội dung cơ bản, gồm 14 chương, đã tập trung
phân tích các nội dung chính trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều
lĩnh vực triết học, kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa – đạo đức...Người nắm
vững và vận dụng sáng tạo lý luận và phương pháp luận Mác-Lênin để tổng
kết lịch sử và tổng kết thực tiễn. Hồ Chí Minh nhận định: Thời đại mới đã
chấm dứt sự tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra mối quan hệ quốc tế
ngày càng rộng lớn, làm cho vận mệnh mỗi dân tộc không thể tách rời vận
mệnh chung của cả loài người. Người đã khai phá ra con đường cách mạng
chưa từng có trong lịch sử, trong cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc

3


thuộc địa và phụ thuộc, con đường gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội,
từ đó khơi dậy sức mạnh dân tộc và thời đại đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp
giải phóng dân tộc ở Việt Nam và mở ra cao trào giải phóng dân tộc trên thế

giới trong thế kỷ XX. Muốn đi tới thắng lợi phải có phong cách làm việc dân
chủ.
+ Cuốn Phương pháp và Phong cách Hồ Chí Minh của Đặng Xuân
Kỳ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Cuốn sách với 3 chương, tác giả
đã trình bày một cách hệ thống kết quả nghiên cứu lý luận chung về phương
pháp và phương pháp cách mạng, hệ thống phương pháp cách mạng Hồ Chí
Minh và phong cách Hồ Chí Minh. Từ đó, tác giả đã phân tích khá cặn kẽ nội
dung, ý nghĩa của phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh, đề cập đến các
khái niệm, quan niệm và nội dung về phương pháp, phương pháp cách mạng
và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh; chỉ ra hệ thống phương pháp cách
mạng Hồ Chí Minh, hệ thống phong cách Hồ Chí Minh trong đó có phong
cách làm việc dân chủ. Song trong cuốn sách tác giả chủ yếu trình bày những
phong cách làm việc của Hồ Chí Minh, ít đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ. Mặc dù vậy, đây là cuốn sách
tham khảo rất có giá trị.
+ Hoàng Chí Bảo, Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2011. Cuốn sách chia làm 2 phần chính, Phần 1, tác giả nêu
lên 10 nội dung chính từ dẫn luận cho đến mấy vấn đề và thực tiễn về phương
pháp giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh. Phần 2 với 17 nội dung tác giả xuất
phát từ cách nhìn của văn hóa và văn hóa chính trị Hồ Chí Minh nêu ra những
vấn đề về xây dựng Đảng, tầm quan trọng của nhân tố con người trong quá
trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phong cách, phương
pháp Hồ Chí Minh được tác giả tiếp cận từ việc phân tích nội dung các tác
phẩm của Người: “di chúc”, “sửa đổi lối làm việc”, “đường cáck mệnh”,

4


“nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Từ đó làm nổi
bật nét đặc sắc phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh và việc vận dụng tư

tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ vào công cuộc đổi mới ở
Việt Nam.
Cũng có nhiều tác giả và các công trình tiếp cận trên lĩnh vực văn hóa
như: GS. Nguyễn Khắc Mai: Dân chủ - di sản văn hóa Hồ Chí Minh, Đỗ Huy:
Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, GS.Song Thành: Hồ Chí Minh nhà văn hóa
kiệt xuất,… các công trình nói trên chỉ tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về
phong cách làm việc một cách gián tiếp nhưng cũng cố gắng làm sáng tỏ thêm
nhiều vấn đề cụ thể, đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm
việc dân chủ của cán bộ thông qua văn hóa dân chủ.
Trong các cuốn sách nêu trên, các tác giả coi tư tưởng – phương pháp –
phong cách Hồ Chí Minh tuy gắn bó hữu cơ với nhau nhưng không đồng
nhất, vẫn có thể và cần phải nghiên cứu độc lập. Các công trình nghiên cứu đã
đưa ra được hệ thống lý luận về phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh.
Song, trong các công trình nghiên cứu kể trên các tác giả tiếp cận từ phương
pháp, phong cách của Hồ Chí Minh đã sử dụng ít đề cập đến những quan
diểm của Người về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ.
Hiện nay, phong cách làm việc dân chủ của cán bộ có vai trò đặc biệt
quan trọng và có ảnh hưởng đến uy tín của cán bộ và tác động đến hiệu quả
thực hiện quyết định của tổ chức, phong cách của cán bộ cấp dưới, lợi ích của
nhân dân. Sử dụng phong cách làm việc nào trong quá trình công tác luôn là
vấn đề đặt ra cho mỗi cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Vì vậy, có
rất nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng phong cách làm việc của cán bộ
đặc biệt là phong cách làm việc dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tiêu biểu
như:

5


+ Cuốn sách: “ Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng phong
cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay” của Nguyễn

Thế Thắng (Chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010. Cuốn sách gồm
2 chương, sách đã nêu lên tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của
cán bộ lãnh đạo, quản lý và vận dụng tư tưởng ấy trong việc xây dựng phong
cách quản lý của cán bộ nước ta. Sách có ưu điểm là xây dựng phong cách
làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay theo phong cách làm
việc, lãnh đạo quản lý của Hồ Chí Minh.
+ Cuốn “ Đổi mới văn hóa lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay”
của Phạm Ngọc Thanh (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013.
Cuốn sách đã làm rõ những vấn đề lý luận chủ yếu về văn hóa lãnh đạo, quản
lý, phân tích những kinh nghiệm, thực trạng văn hóa lãnh đạo, quản lý ở Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở đó làm rõ các nhân tố tác động đến xu
hướng biến đổi của văn hóa lãnh đạo, quản lý, tác giả đề xuất các nhóm giải
pháp đổi mới văn hóa lãnh đao, quản lý trong giai đoạn mới.
Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí
khoa học, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ với đề tài tư tưởng Hồ Chí Minh
và vận dụng các tư tưởng ấy trong cuộc sống hiện nay. Bên cạnh những đề tài
đó nhiều cuộc hội thảo khoa học lớn gắn liền với những sự kiện tiêu biểu
mang đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, dưới nhiều góc độ nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
phong cách, phương pháp, nghệ thuật làm việc đã bước đầu làm rõ tư tưởng
Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ. Tuy nhiên, qua
khảo cứu các ấn phẩm đã công bố cũng cho thấy trong các công trình nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc các tác giả thường tiếp cận
theo hệ thống phong cách Hồ Chí Minh, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về phong cách làm việc nói chung và phong cách làm việc dân chủ của

6


cán bộ nói riêng vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều vấn đề chưa

được đề cập một cách cụ thể ví dụ như: Các khái niệm cốt lõi về phong cách,
phong cách làm việc dân chủ của cán bộ. Các công trình chưa tập trung làm
rõ các giá trị và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc
dân chủ của cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Do vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán
bộ là mảng đề tài rất cần sự chú ý, quan tâm của các học giả và đặc biệt là các
nhà nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phong
cách làm việc dân chủ của cán bộ, giá trị lý luận và thực tiễn của những tư tưởng
đó và từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho việc tiếp tục xây
dựng phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ của đội ngũ cán bộ ở Việt Nam hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích, nhiệm vụ đề tài cần giải quyết là:
-

Làm rõ những khái niệm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phong

cách làm việc dân chủ của cán bộ.
-

Phân tích và làm rõ nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về

phong cách làm việc dân chủ của cán bộ.
-

Luận giải về những giá trị lý luận và giá trị thực tiễn của phong cách


làm việc dân chủ của cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp tiếp tục xây dựng phong cách làm việc dân
chủ của cán bộ ở Việt Nam hiện nay .

7


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ và
giá trị lý luận và thực tiễn của nó đối với việc xây dựng phong cách làm việc
dân chủ của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ có
nội dung rộng, phong phú, đa dạng, trong luận văn này chỉ tập trung nghiên
cứu, làm rõ những đặc trưng cơ bản của phong cách quản lý dân chủ trên các
phương diện: Ra quyết định; Tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra, giám
sát, đánh giá thực hiện quyết định quản lý
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ có
giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, toàn diện. Trong khuôn khổ của luận văn
theo hướng nghiên cứu cơ bản nên những giá trị về lý luận và thực tiễn được
tiếp cận dưới góc độ vĩ mô.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
- Thực hiện đề tài, tác giả dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phong cách làm việc của cán bộ.
- Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về tư tưởng Hồ
Chí Minh về phong cách làm việc của người cán bộ đặc biệt là phong cách
làm việc dân chủ của cán bộ.

5.2 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tác giả vận dụng các phương pháp chung, các phương pháp liên ngành và
chuyên ngành để thực hiện mục đích đề tài đã đặt ra, như: Phương pháp lôgic

8


- lịch sử, phương pháp phân tích,tổng hợp; Phương pháp quy nạp, diễn dịch;
Phương pháp nghiên cứu tài liệu…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách
làm việc dân chủ của cán bộ.
- Luận giải giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về
phong cách dân chủ đối với việc tiếp tục xây dụng phong cách làm việc dân
chủ của cán bộ ở Việt Nam hiện nay.
- Kết quả của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công tác cán bộ nói chung,
tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán bộ nói riêng.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong công tác chỉ đạo thực tiễn
của các cơ quan Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng phong cách của cán
bộ nói chung và phong cách làm việc dân chủ nói riêng trong điều kiện hiện
nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của
cán bộ.
Chương 2: Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân
chủ của cán bộ.


9


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCH LÀM VIỆC
DÂN CHỦ CỦA CÁN BỘ
1.1 Khái niệm cán bộ và phong cách làm việc dân chủ của cán bộ
1.1.1: Khái niệm cán bộ
Cho tới nay, có nhiều quan niệm khác nhau về cán bộ, tùy theo cách diễn
đạt của từng chuyên ngành, lĩnh vực khác nhau, có thể kể ra một số quan niệm
sau:
Khái niệm “cán bộ” được hiểu theo cách phổ biến nhất là: Người làm có
chức vụ lãnh đạo quản lý, hoặc nhà chuyên môn, khoa học hay công chức,
viên chức làm việc tại các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị, hưởng
lương hay phụ cấp từ ngân sách nhà nước. Từ điển Tiếng Việt giải thích, “Cán
bộ là người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước hay
người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với
người thường không có chức vụ”[106. Tr. 234].
Luật cán bộ công chức 2008 quy định tại điều 4: “Cán bộ là công dân
Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo
nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau
đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước.”
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong các văn
kiện thì: Cán bộ bao gồm tất cả cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong
các tổ chức của hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp nhà
nước, các đơn vị sự nghiệp công lập; những người được bầu cử, phê chuẩn,

bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và những người làm công tác chuyên

10


môn, nghiệp vụ trong các tổ chức thuộc phạm vi công tác tổ chức và cán bộ
của Đảng.
Luận văn này tôi xin phép được đi sâu nghiên cứu phong cách làm việc
dân chủ của cán bộ lãnh đạo, quản lý.
* Khái niệm cán bộ lãnh đạo
Cho đến nay, chưa có một quan điểm đầy đủ và chính thức về cán bộ
lãnh đạo. Xuất phát các hướng nghiên cứu được tiếp cận và từ quan điểm
riêng của cá nhân, tác giả nêu lên nhận thức ban đầu về nội hàm khái niệm
cán bộ lãnh đạo, như sau:
Cán bộ lãnh đạo là những người đứng đầu, phụ trách đơn vị, địa phương,
phong trào nào đó do dân bầu cử hoặc chỉ định. Cán bộ lãnh đạo có trách
nhiệm đề ra phương hướng, chủ trương, quyết định, trước hết là những quyết
định có tính chiến lược của tổ chức, địa phương, đơn vị mình. Cán bộ lãnh
đạo là những người có quyền đề ra những quyết định có tầm quan trọng nhất.
Cán bộ lãnh đạo là những người dẫn dắt, tổ chức phong trào theo một hướng
đi cụ thể, là người điều hành, chỉ đạo bằng quyền hành qua các mệnh lệnh. Họ
còn điều chỉnh những quyết định cho phù hợp với những thay đổi của điều
kiện khách quan.
Về phẩm chất cá nhân, cán bộ lãnh đạo phải là người có uy tín, là người
đại diện cho số đông, cho tập thể. Cán bộ lãnh đạo phải là người có khả năng
thu phục nhân tâm, nhân tài, có khả năng sử dụng “đúng người, đúng việc” là
người có tri thức, có kinh nghiệm ở những lĩnh vực phụ trách, có tầm nhìn,
biết quy tụ nhân tài, vật lực.
Cán bộ lãnh đạo là người chịu trách nhiệm cụ thể hay một bộ phận cụ thể
trong hệ thống tổ chức quản lý, là người đại diện và là đại biểu đại diện cho

lợi ích của Đảng, Nhà nước, tập thể, tổ chức nào đó. Dựa vào bộ máy quản lý,
vào hệ thống tổ chức, tập thể, vào những nhiệm vụ được giao phó. Cán bộ

11


lãnh đạo chịu trách nhiệm cá nhân về giải quyết kịp thời những vấn đề cơ bản,
phối hợp hoạt động với các hệ thống quản lý.
Một số cán bộ lãnh đạo được gọi là lãnh tụ tiêu biểu như Hồ Chí Minh,
chính khách_ là những cán bộ lãnh đạo xuất sắc, có ảnh hưởng lớn, có uy tín
rất cao trong cộng đồng xã hội. Lê nin chỉ rõ : “thường thường trong phần
nhiều các trường hợp, hay ít ra trong những nước văn minh hiện nay thì các
giai cấp đều do các chính đảng lãnh đạo của các nhóm có ít nhiều tính chất ổn
định, gồm những người có uy tín nhất, được bầu ra giữ trách nhiệm trọng yếu
nhất và nhân dân gọi là các lãnh tụ”[6; tr.30]
Trên đây là những quan niệm chung nhất, rõ ràng và dễ hiểu nhất về
cán bộ lãnh đạo. Song trải qua các thời kỳ ngoài yêu cầu chung thì những yêu
cầu về phẩm chất, trí tuệ, năng lực của cán bộ lãnh đạo sẽ khác nhau.
* Cán bộ quản lý
Từ những quan niệm bước đầu của các nhà nghiên cứu, trên cơ sở kế
thừa và phát triển, tác giả luận văn đưa ra khái niệm cán bộ quản lý như sau:
Cán bộ quản lý là những người có hoạt động nghề nghiệp của họ
hoàn toàn hay chủ yếu chủ yếu gắn với việc thực hiện chức năng quản lý, là
người điều hành hướng dẫn tổ chức những quyết định của cán bộ lãnh đạo.
Cán bộ quản lý được trao quyền đánh giá độc lập, chỉ đạo hoạt động công
việc của người khác hay của một đơn vị tổ chức, một khâu trung gian tran
trong quá trình quản lý các nhiệm vụ được giao.
Nhằm làm tốt công việc quản lý của mình cán bộ quản lý cần phải
giỏi chuyên môn, có năng lực, phẩm chất điều khiển, tổ chức công việc và
đoàn thể tập thể. Họ trực tiếp làm việc với các đối tượng quản lý, trực tiếp tổ

chức thực hiện các quyết định của các lãnh đạo nên các cán bộ quản lý phải
thường xuyên thu nhận các thông tin từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Cán
bộ quản lý còn cần có khả năng nhìn nhận đúng – sai, phải – trái trong các

12


chủ trương chính sách khi tổ chức thực hiện. Do vậy, cán bộ quản lý cũng là
những người tham mưu cho lãnh đạo chấn chỉnh, điều chỉnh và hoàn thiện
quyết định cũ hoặc ra quyết định mới. Cán bộ quản lý có thể phân loại theo
nghề nghiệp, năng lực và chức vụ.
Trên thực tiễn việc phân định cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý chỉ
là tương đối. Trong một số lĩnh vực và phạm vi quy mô nhỏ cán bộ lãnh đạo
đồng thời là cán bộ quản lý hoặc ngược lại. Khi vừa làm cán bộ lãnh đạo, vừa
làm cán bộ quản lý, cán bộ đó vừa có quyền ra quyết định vừa tổ chức thực
hiện quyết định đó.
Trên tầm vĩ mô, sự phân chia giữa lãnh đạo và quản lý tương đối rõ
ràng nhất là khi nói về vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của nhà
nước.
Như vậy, đối tượng cán bộ mà luận văn nghiên cứu thông qua cách
tiếp cận khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đề cập cả cán bộ lãnh đạo
cũng như cán bộ quản lý và cả trường hợp song, trùng nhiệm vụ lãnh đạo
quản lý trong một người cán bộ.
1.1.2. Khái niệm phong cách làm việc dân chủ của cán bộ.
Khái niệm “phong cách” đã được bàn đến từ rất lâu ở cả Phương Tây và
Phương Đông. Khái niệm này có nguồn gốc từ tiếng Latinh là Stylus và từ
tiếng Hy Lạp là Stylos. Ở Phương Tây, khái niệm “phong cách” được hiểu
theo nghĩa hẹp, chỉ giới hạn trong giới văn hóa, nghệ thuật. Phong cách không
phải là hiện tượng phổ biến mà là hiện tượng cá biệt và chỉ những nghệ sĩ lớn,
những người có tài năng lớn mới có phong cách.

Tìm hiểu theo nguồn gốc Hán Việt thì “phong” có nghĩa là phong thái,
“cách” có nghĩa là cách điệu. Phong cách có nghĩa là phong thái cách điệu.
Trong các cuốn Từ điển tiếng Việt Nam, khái niệm “phong cách”
được diễn giải ra thành bốn cách hiểu:

13


- Thứ nhất, “Phong cách” được hiểu là vẻ đẹp riêng biệt trong làm
việc,trong lối sống con người. Phong cách mang đậm dấu ấn cá nhân.
- Thứ hai, “Phong cách” được hiểu là phiên dạng ngôn ngữ có những
đặc điểm trong lựa chọn, kết hợp và tổ chức các phương pháp ngôn ngữ liên
quan tới giao tiếp.
- Thứ ba, “phong cách” được hiểu là toàn bộ các thủ pháp sử dụng phương
tiện ngôn ngôn ngữ đặc trưng cho từng nhà văn, cho tác phẩm, cho thể loại.
- Thứ tư, “phong cách” được hiểu là việc lựa chọn phương tiện ngôn ngữ
theo nguyên tắc tu từ.
Như vậy, theo tác giả khái niệm “phong cách” được hiểu từ nghĩa cơ bản
nhất: Phong cách là cái riêng, cái độc đáo, có tính hệ thống, trở thành nền nếp
ổn định của một người hoặc một lớp người được thể hiện trong tất cả các mặt
của cuộc sống.
Phong cách có quan hệ mật thiết với phương pháp nhưng không đồng
nhất với tác phong và phương pháp. Phong cách làm việc nó là khái niệm
rộng hơn khái niệm phương pháp, cách thức, biện pháp. Khái niệm phong
cách bao hàm cả 3 khái niệm sau, phong cách làm việc là cái chung biểu hiện
thông qua các phương pháp, cách thức và biện pháp. Cả phong cách, phương
pháp và tác phong vừa có tính chủ quan, vừa có tính khách quan, song phong
cách thể hiện những thuộc tính, đặc điểm tâm lý chủ quan nhiều hơn. Phương
pháp là những cái chung, việc sử dụng phương pháp như thế nào dần dần trở
thành những đặc trưng của chủ thể - phong cách. Khái niệm phong cách làm

việc của cán bộ được tác giả hiểu là: “lề lối, cung cách, cách thức làm việc có
tính hệ thống, trở thành nền nếp ổn định của cán bộ mà đối tượng đó là cấp
dưới, là quần chúng nhân dân. Để đạt mục tiêu lãnh đạo, quản lý đã tác động
vào quần chúng nhân dân bằng một tác phong rất sâu sát, với cách thức phù
hợp để phát huy cao nhất vai trò của họ. Cách làm việc này bắt nguồn từ sự

14


thấm nhuần sâu sắc quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và
quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác-Lênin và từ yêu cầu của người cán
bộ”.
“Dân chủ” là một khái niệm mang tính lịch sử, có quan hệ mật thiết với
sự phát triển xã hội. dân chủ là thước đo của sự phát triển và tiến bộ ocủa xã
hội. Khái niệm dân chủ ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước phản ánh khát
vọng – nhu cầu khách quan của nhân dân trong xã hội có giai cấp và thể hiện
một nấc thang nhận thức của con người về thân phận của họ trong quan hệ với
quyền lực.
Thuật ngữ dân chủ ra đời vào thế kỷ thứ VI, VII trước công nguyên.
Theo đánh giá của Aristotle (384 – 322 trước công nguyên) thì Solon
(khoảng 638 – 588 trước công nguyên) là người đầu tiên đặt nền tảng cho
nguyên lý dân chủ. Solon mong muốn xây dựng một nhà nước riêng trên cơ
sở một nền dân chủ thông qua tuyển cử và hòa nhập vào sức mạnh với pháp
luật.
Trong tiếng Hy Lạp, dân chủ ( Decokratia) được cấu thành từ gốc là:
Demos tức là nhân dân và Kratia nghĩa là nhân dân cai trị. Sau này các nhà
chính trị học giản lược mệnh đề đó thành “ tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân”
Như vậy, có thể thấy, thuật ngữ dân chủ chỉ xuất hiện trước đó đã tồn tại
ba yếu tố đó là nhân dân, quyền lực cộng đồng và mối quan hệ giữa chúng.

Trong lịch sử hy lạp cổ đại, hình thức quyền lực công cộng đầu tiên của các
quốc gia, đô thị được sử sách ghi lại chính là nhà nước. Do vậy có thể khẳng
định, dân chủ là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ giữa cộng
đồng dân cư với nhà nước. Theo đó cộng đồng là chủ thể và có quyền năng áp
đặt lên nhà nước.

15


Theo Lênin “dân chủ” nghĩa là bình đẳng, là mọi người có quyền ngang
nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý.
Theo quan niệm của Abraham Lincoln trong bài diễn văn Gettysburg
huyền thoại ngày 19.11.1863, dân chủ là : “chính quyền của dân, do dân, vì
dân”
Theo từ điển Tiếng Việt, dân chủ có hai nghĩa. Thứ nhất, dân chủ có tính
chất của chế độ dân chủ. Thứ hai, dân chủ là phương thức công tác tôn trọng và
thực hiện quyền mọi người tham gia bàn bạc và quyết định công việc
chung.Theo từ điển luật học, dân chủ là chế độ chính trị trong đó quyền lực tối
cao thuộc về nhân dân, do nhân dân thực thi hoặc thông qua các đại biểu mình
bầu.
Tóm lại:
Thuật ngữ “dân chủ” xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử gắn với thời kỳ
Hy Lạp cổ đại. Mặc dù chưa có một định nghĩa thống nhất về dân chủ song có
hai nguyên tắc mà bất ký định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào. Nguyên tắc
thứ nhất là: tất cả mọi thành viên của xã hội (công dân) đều có quyền tiếp cận
đến quyền lực một cách bình đẳng. Thứ hai là: tất cả mọi thành viên (công
dân) đều được hưởng quyền tự do, được công nhận rộng rãi. Như vậy, theo
tác giả nhận định: “Dân chủ là quyền của nhân dân tự mình quyết định hoặc
tham gia với nhà nước quyết định những vấn đề nhất định. Nói cách khác dân
chủ là nhân dân làm chủ tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.”

Dân chủ là giá trị văn hóa và giá trị đạo đức cao đẹp nhất mà loài người đã
sáng tạo và đấu tranh để giành lấy, là thước đo của văn minh nhân loại. Dân
chủ vừa biểu hiện là giá trị xã hội mà con người và loài người đạt được trong
tiến trình đấu tranh để tự giải phóng mình từng bước vươn tới tự do và làm
chủ, lại vừa là hình thức và tính tổ chức thể chế nhà nước. Trình độ dân chủ
của cán bộ đi đôi với trình độ văn minh và tiến bộ xã hội. Đồng thời, dân chủ

16


phản ánh các giá trị phổ quát như tự do cá nhân, bình đẳng về điều kiện, thống
nhất trong tính đa dạng và cơ chế thực hiện các giá trị đó trong đời sống thông
qua các mối quan hệ “Nhà nước – Pháp luật – Xã hội công dân”. “Dân chủ”
được luận bàn trong khái niệm “phong cách làm việc dân chủ của cán bộ”
theo tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp cận theo chiều cạnh chính trị của dân chủ.
Khái niệm “Phong cách làm việc dân chủ của cán bộ” được tác giả nhận
thức là: “Tổng hợp những phương pháp, biện pháp cách thức làm việc riêng,
tiêu biểu và ổn định mà người cán bộ sử dụng thường xuyên (hàng ngày) để
thực hiện nhiệm vụ của mình nhằm hướng tới mục tiêu chung là vì lợi ích của
nhân dân và dân tộc, phát huy tối đa quyền làm chủ và là chủ của nhân dân”.
Khi nghiên cứu phong cách làm việc dân chủ của cán bộ cần lưu ý:
Thứ nhất, Phong cách được quy định bởi chức năng nhiệm vụ, phẩm
chất, tri thức, điều kiện chính trị và sinh sống của người cán bộ.
Thứ hai, Phong cách làm việc là khái niệm rộng hơn khái niệm phương
pháp, khái niệm cách thức và khái niệm biện pháp, tác phong. Phong cách
làm việc không đồng nhất với tác phong, phương pháp và cách thức, từng
biện pháp làm việc.
Thứ ba, Phong cách làm việc là cái biểu hiện bên ngoài nhưng luôn phản
ánh phẩm chất bên trong của con người.
Thứ tư, Phong cách làm việc bao hàm cả hai mặt ổn định tương đối và

linh hoạt mềm dẻo
Như vậy, phong cách làm việc dân chủ của cán bộ là cái chung biểu hiện
thông qua phương pháp, cách thức và biện pháp để giác ngộ và tổ chức nhân
dân hiểu và thực hiện tốt quyền làm chủ của mình thông qua việc thực hiện
các nghị quyết, chính sách của Đảng và nhà nước nhằm xây dựng một xã hội
dân chủ.

17


1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của
cán bộ.
Cho đến nay, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc
dân chủ của cán bộ chưa có được một nội hàm rõ ràng. Tuy nhiên, từ những
quan niệm bước đầu của các nhà nghiên cứu, trên cơ sở kế thừa và phát triển,
tác giả luận văn đưa ra cách hiểu cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách
làm việc dân chủ của cán bộ, như sau: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách
làm việc dân chủ của cán bộ là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc
của Người về lề lối, cung cách, cách thức làm việc có tính hệ thống, trở thành
nề nếp ổn định của cán bộ mà đối tượng đó là cấp dưới, quần chúng nhân dân
để thực hiện mục tiêu nhằm hướng tới mục tiêu chung là vì lợi ích của nhân
dân và dân tộc, phát huy tối đa quyền làm chủ và là chủ của nhân dân, không
ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân lao động, hướng tới các
giá trị chân, thiện, mỹ, phấn đấu vì một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ, giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Khái niệm nêu trên đã tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm
việc dân chủ của cán bộ ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của
cán bộ là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc của Người về lề lối,
cung cách, cách thức làm việc có tính hệ thống, trở thành nền nếp ổn định của

cán bộ.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán
bộ góp phần tổ chức các lực lượng xã hội để thực hiện quyết sách chính trị
hiệu quả, đúng đắn, dân chủ.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán
bộ, nhằm đạt mục tiêu chung là vì lợi ích của nhân dân và dân tộc, phát huy
tối đa quyền làm chủ và là chủ của nhân dân, không ngừng cải thiện và nâng

18


cao đời sống của nhân dân lao động, tiến bộ xã hội và phù hợp với xu thế thời
đại.
1.2.1 Tầm quan trọng của phong cách làm việc dân chủ của cán bộ.
Hồ Chí Minh là người tham gia các sự kiện trọng đại nhất của dân tộc
Việt Nam, luôn là người dấn thân vào cuộc sống thực tế, trở thành nhân vật
cốt yếu nhất, một nhà chính trị, nhà tư tưởng, một vị lãnh tụ mẫu mực hoạt
động. Dưới ánh sáng của Chủ Nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sớm nhận thấy cần có một hệ thống chính trị vững mạnh, một đội ngũ cán bộ
có đủ phẩm chất, năng lực, trí tuệ và phong cách làm việc chuẩn mực để lãnh
đạo nhân dân thực hiện mục tiêu chung. Hồ Chí Minh khẳng định vị trí, vai
trò của cán bộ: “là gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại
là do cán bộ tốt hay kém”[62; tr.235]. Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, cây thì phải có gốc, không có gốc thì cây héo, sông thì phải có nguồn,
không có nguồn thì sông cạn. Vì vậy trong mọi việc mà không có cán bộ thì
không thể hoàn thành.
Cán bộ còn được hiểu "là cái dây chuyền của bộ máy". Trong cỗ máy
công nghiệp, dây chuyền liên quan đến nhiều bộ phận, nếu dây chuyền không
tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Sự
chuyển động của xã hội được coi như một "cỗ máy" khổng lồ. Trong "cỗ

máy" đó, cán bộ là dây chuyền, "cầu nối" giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân.
Đây là một "dây chuyền" đặc biệt. Bởi vì, cán bộ phải đem chính sách của
Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, giải thích cho dân chúng
hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Như vậy, nếu cán
bộ dở thì một mặt chính sách không thể thực hiện được, mặt khác việc hoạch
định, xây dựng chính sách mới sẽ sai lầm hoặc không phù hợp.

19


Trong mối quan hệ giữa cán bộ và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
niệm dân như nước, cán bộ như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ dân hết.
Người chỉ rõ "cán bộ không có đội viên, lãnh tụ không có quần chúng thì
không làm gì được"[62; tr.275]. Từ đó, Người khẳng định nước lấy dân làm
gốc, "cán bộ quyết định mọi việc". Sự "quyết định" ở đây là cán bộ phải đi
trước, làm gương về tư tưởng, đạo đức, thái độ, lề lối làm việc. Muốn phát
huy được đầy đủ tính sáng tạo của hàng chục triệu người, thì cán bộ phải đi
trước, tự cải tạo mình, tự nâng cao mình. Cán bộ phải có lập trường giai cấp
vô sản vững chắc, giác ngộ về chủ nghĩa xã hội cao; phải rửa sạch ảnh hưởng
tư tưởng của giai cấp bóc lột, rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện tinh thần
và ý thức tập thể.
Phong cách làm việc là sản phẩm của con người, vì vậy phong cách làm
việc của mỗi cán bộ sẽ mang sắc thái riêng. Tuy nhiên, xuất phát từ phương
pháp tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc dân chủ của cán
bộ theo chiều cạnh chính trị của dân chủ. Cán bộ có phong cách làm việc dân
chủ phải có đầy đủ các đặc trưng:
- Mỗi cán bộ phải biết biết phân chia quyền lực, lãnh đạo quản lý của
mình, phải gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, đặt mình trong tập thể, lắng
nghe ý kiến của tập thể. Đồng thời phải lắng nghe, tranh thủ ý kiến cấp dưới,

của nhân dân đưa họ tham gia vào việc thảo luận các quyết định, tôn trọng
quyền làm chủ của nhân dân.
- Cán bộ phải mở rộng dân chủ để phát huy sức mạnh của tập thể. Cán
bộ phải biết giác ngộ và tổ chức nhân dân thực hiện chủ chương chính sách
của Đảng và Nhà nước vì mục tiêu chung của Dân tộc, vì lợi ích của nhân
dân.
- Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết trong quá trình tổ chức
thực hiện. Theo phong cách dân chủ Hồ Chí Minh là nhận trách nhiệm cá

20


×