Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tư tưởng hồ chí minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.28 KB, 23 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại:
LỜI MỞ ĐẦU
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung lớn của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy trong xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là
một yêu cầu quan trọng.
Nhân dân ta có lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong đấu
tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động sản xuất nhân dân Việt
Nam đã thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường, sự thông minh sáng tạo, ý
thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Trong truyền thống dân tộc ấy Hồ Chí
Minh nhìn thấy nổi bật lên sức mạnh của lòng yêu nước. Tinh thần yêu nước của
nhân dân Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc, vì phải luôn luôn đối
đầu với nhiều khó khăn của tự nhiên và chiến tranh xâm lược, sự đô hộ của kẻ
thù từ nhiều phương kéo đến. Lòng yêu nước Việt Nam đã trở thành sức mạnh,
một thứ đạo lý, một lẽ sống của mỗi người dân, cũng là một tiêu chí cao nhất để
đánh giá con người trong xã hội ta.
Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc
đã phát huy lòng yêu nước truyền thống và nâng thành lòng yêu nước xã hội chủ
nghĩa. Tinh thần, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường và lòng yêu nước phát huy
được sức mạnh to lớn, tạo nên truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân.
Hồ Chí Minh đã làm nổi bật sức mạnh của con người Việt Nam, đó là sức mạnh
thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và trong cuộc đấu tranh hiện tại,
sức mạnh của sự thông minh và dũng cảm, của lòng tin chân chính không gì lay
chuyển. Sức mạnh ấy bền vững và được nhân lên nhiều lần dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh sức mạnh thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản thế
giới, của nhân dân lao động thế giới. Trong quá trình nhận thức và vận dụng
sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Vịêt Nam, Hồ Chí
1
Minh nhận thấy phải dựa vào sức mạnh của dân tộc là chủ yếu, đồng thời phải
khai thác sức mạnh của thời đại. Những nội dung, nguyên tắc về kết hợp sức


mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Thời đại ngày nay, đặc biệt là giai đoạn hiện nay đang diễn ra một cuộc đấu
tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng cũng như về hoạt động thực tiễn mà chúng
ta cần nhận thức đúng đắn để tiến hành những hoạt động quốc tế phù hợp phục
vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Do vậy phải giáo dục cho nhân dân có được niềm tin về lý tưởng XHCN
trong điều kiện thế giới có nhiều biến đổi. Cần phải xử lý nghiêm minh, công
bằng đối với những hành vi vi phạm pháp luật làm suy thoái tư tưởng, băng hoại
đạo đức xã hội. Hội nhập quốc tế mà không được chệch hướng XHCN, bảo đảm
mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ,
giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào cách mạng thế giới.
Không ngừng bảo vệ và pháy huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc,
làm cho bản sắc văn hoá được giữ vững và phát triển. Giữ vững tinh thần độc
lập tự chủ trong tiếp thu sức mạnh bên ngoài, kết hợp sức mạnh trong nước.
Việc giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc chính đáng, ý thức bảo vệ
văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc văn hoá nước ngoài là những yêu cầu cấp
thiết được đặt ra đối với việc “mở cửa”. Công tác đối ngoại được xác định có vai
trò quan trọng đối với việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung
lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được vận dụng và phát triển trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nội dung cuả tư
tưởng này rất phong phú, sâu sắc về thời đại, về sự kết hợp các sức mạnh này
trong thực tiễn đấu tranh. Tư tưởng của Người còn thấm đượm chủ nghĩa nhân
văn sâu sắc, tính cách mạng triệt để nên ảnh hưởng to lớn đến cuộc đấu tranh lâu
dài cho nhân dân các nước vì sư nghiệp”Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người”
2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại:

1. Đặt cách mạng Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới
Tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc sẽ không bình thường nếu
không có sự quan hệ hợp tác với thế giới bên ngoài. Mở rộng quan hệ quốc tế đã
trở thành đường lối chiến lược của tất cả các quốc gia từ thế kỷ XX. Với Việt
Nam, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ và phát triển đất nước đã để
lại những bài học kinh nghiệm vô giá, trong đó có bài học về kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế.
Ngày nay, những thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đã và đang tạo dựng
được luôn có sự đóng góp to lớn của nhân tố quốc tế và thời đại. Điều đó thể
hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng ta mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người đặt nền móng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự kết hợp
tài tình giữa đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các dân tộc thuộc địa với
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới. Tư tưởng này
bao gồm một hệ thống luận điểm đề cập đến những vấn đề bức thiết nhất của
nhân loại tiến bộ là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hồ Chí
Minh là người đã giải quyết thành công những đòi hỏi khách quan của lịch sử
trong xu hướng phát triển của nhân loại tiến bộ.
40 năm đã trôi qua kể từ khi trái tim người con vĩ đại của dân tộc Việt
Nam ngừng đập, Bác kính yêu của chúng ta đã đi vào thế giới của Người Hiền,
nhưng tư tưởng, đạo đức và sự nghiệp cao cả của Người thì vẫn còn sống mãi
trong tình yêu của hàng triệu trái tim Việt Nam và nhân dân tiến bộ toàn thế
giới. Người ra đi, để lại một di sản quý báu cho dân tộc, đó là bản Di chúc
thiêng liêng, là những lời dặn dò cuối cùng mà Bác đã chuẩn bị trong nhiều năm,
đồng thời đó là niềm tin sắt son mà Người gửi gắm cho các thế hệ mai sau. 40
năm đã trôi qua, kể từ khi Bác viết những dòng cuối cùng trong bản Di chúc lịch
sử, là thời gian thích hợp nhất để toàn Đảng, toàn dân ta suy ngẫm về trách
nhiệm của chúng ta trong việc thực hiện lời căn dặn của Bác đồng thời khẳng
3
định lại những thắng lợi trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc theo con
đường Hồ Chí Minh.

Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đề cập rất nhiều vấn đề từ đấu tranh giành
độc lập đến xây dựng đất nước, từ đối nội đến đối ngoại, từ việc chung đến việc
riêng. Trong bộn bề những việc đại sự của một bậc vĩ nhân, một thiên tài trước
lúc 'đi gặp cụ Các-Mác, cụ Lê-nin', Bác vẫn giành trước hết và phần nhiều nói
về đoàn kết, từ đoàn kết trong Đảng đến đoàn kết dân tộc và sau nữa là đoàn kết
quốc tế. Đến những dòng Di chúc cuối cùng, Người vẫn tâm nguyện 'Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng
một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới'. Theo Hồ Chí Minh mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam đều phải dựa trên sự kết hợp của sức mạnh đoàn kết trong
toàn Đảng, toàn dân tộc với sự giúp đỡ của bè bạn quốc tế. Đó là 'bài học lớn mà
mỗi cán bộ, đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi'. Trong đó,
đoàn kết quốc tế là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Những hoạt động quốc
tế sôi nổi của Người trong suốt những năm tháng tìm đường cứu nước, trong
những năm tháng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đã hình thành và
phát triển những nhận thức quý báu của Người về nhân tố quốc tế đối với cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN Việt Nam. Từ đó vạch ra những
đường lối, bước đi đúng đắn cho con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
ở nước ta trên cơ sở vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Trong những hoạt động không mệt mỏi nhằm hình thành một mặt trận
nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ cuộc kháng chiến vì nền độc lập của Việt
Nam, Hồ Chí Minh rất coi trọng sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên khắp thế
giới. Người phân biệt rõ 'bạn' và 'thù' để triệt để sử dụng sách lược 'thêm bạn bớt
thù' trong nghệ thuật chiến tranh cách mạng cũng như trong đường lối đối ngoại
Việt Nam. Người khẳng định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của nhân dân ta không thể tách rời sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ của các
nước XHCN và bầu bạn khắp năm châu. Vì vậy, một trong những dự kiến đầu
4
tiên, ngay sau khi chiến tranh kết thúc của Hồ Chí Minh là thay mặt cho nhân
dân ta, Người sẽ đi thăm, cảm ơn các nước anh em, bè bạn trên thế giới đã ủng

hộ, giúp đỡ chúng ta và mở rộng hơn nữa khối đoàn kết quốc tế đối với Việt
Nam. Ước nguyện bình dị mà cao đẹp với tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng
ấy của Người đã không kịp thực hiện.
Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh gắn bó trọn vẹn với dân tộc, với Đảng,
với nhân dân và bạn bè quốc tế. Trước khi qua đời, điều mà Bác băn khoăn, day
dứt nhất là sự bất hoà trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Thực tế
lịch sử đã thừa nhận, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh với uy
tín, nhiệt huyết cách mạng và chủ nghĩa quốc tế trong sáng của mình đã đóng
góp quan trọng vào sự đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách mạng trên
thế giới. Vì vậy, khi Người qua đời 'để lại muôn vàn tình thân yêu' cho toàn
Đảng, toàn dân, cho các cháu thiếu niên, nhi đồng và bầu bạn quốc tế thì những
cống hiến vĩ đại đó của Người đã được Đảng, nhân dân ta và bạn bè quốc tế trân
trọng, suy ngẫm, học tập và vận dụng.
Khi Bác đã đi vào cõi vĩnh hằng, thực hiện lời dạy trong bản Di chúc của
Người, Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn thể nhân dân Việt Nam đã và đang làm
hết sức mình để xây dựng đất nước 'đàng hoàng hơn, to đẹp hơn', không ngừng
mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới nhằm nâng
cao vị thế Việt Nam đồng thời đóng góp vào nền hoà bình, đoàn kết, hữu nghị
giữa các dân tộc. Nhờ kiên trì đường lối ngoại giao hoà bình ấy theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, những năm cuối của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta
đã đấu tranh làm thất bại âm mưu chia rẽ quốc tế, cô lập cách mạng Việt Nam
của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari 1973
rút quân về nước tạo điều kiện cho ta hoàn thành nốt nhiệm vụ giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước.
Trong giai đoạn cả nước cùng đi lên xây dựng CNXH và tiến hành công
cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta vẫn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa quốc tế
vô sản, đề ra nhiệm vụ đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới, với các dân tộc bị
5
áp bức, coi đó là một nguyên tắc, một trong những nhân tố quyết định thành
công của cách mạng nước ta. Bằng những việc làm vô tư, trong sáng trong việc

giúp đỡ bạn bè, cùng với việc không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị
với tất cả các nước, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ, vai trò, uy tín của nước ta ngày càng được nâng cao trên
trường quốc tế. Triết lý ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng, kế thừa, phát
triển của Đảng ta trong điều kiện, hoàn cảnh quan hệ quốc tế mới đã buộc các
thế lực thù địch nước ngoài phải từ bỏ chính sách bao vây cấm vận Việt Nam.
Thế giới đã thừa nhận sự thành công của Việt Nam trong việc tham gia, hội
nhập, hợp tác ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới. Ngày nay,
trong bối cảnh quốc tế đang có nhiều biến động phức tạp, khó lường, các quan
hệ kinh tế- chính trị đan xen, Đảng và Nhà nước ta vẫn thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại 'độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển' với chính
sách đối ngoại rộng mở : 'Việt Nam sẵn sàng là bạn , là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế' như Đại hội X của Đảng đã khẳng định. Chúng ta
đang tích cực hội nhập quốc tế bằng cả sức mạnh dân tộc và thời đại để thực
hiện thắng lợi mục tiêu 'dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh' như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng
Tư tưởng quốc tế Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân
Chính sự kết hợp ở đỉnh cao lòng yêu nước nồng nàn, tình nhân loại bao la,
tinh thần nhân văn sâu sắc, tư tưởng thiết tha giải phóng con người, mà Hồ Chí
Minh được toàn dân tộc Việt Nam và quốc tế tôn vinh là Nhà yêu nước vĩ đại,
Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Từ khi Người hoạt
động cách mạng trên đất châu Âu, bạn bè quốc tế đã thấy ở Nguyễn Ái Quốc
sự tỏa sáng của một nền văn hóa tương lai; qua Nguyễn Ái Quốc, cảm nhận
6
được điều mới mẻ của ngày mai, cảm thấy sự yên bình mênh mông của tình
hữu ái quốc tế, tình nhân ái bao la cho dân tộc và cho nhân loại. Tìm hiểu, học
tập tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng trong công việc hằng ngày là điều kiện

giúp mỗi người chúng ta hoàn thiện mình, góp phần vào sự thành công của sự
nghiệp cách mạng của dân tộc theo con đường mà Người, Đảng ta và nhân dân
ta đã lựa chọn.
Đây là sự kết hợp thành công, sự thống nhất hai giá trị cao cả của thời đại
trong Hồ Chí Minh. Hai yêu cầu này đối với người cách mạng là không thể
thiếu. Không thể xem nhẹ mặt này, coi trọng mặt kia; càng không thể tách rời
hai mặt đó. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh được thể hiện nhất quán trong sự
chỉ đạo của Người đối với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt
Nam.
Kiên định nguyên tắc độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh nhiều lần khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm độc lập, tự do
thực sự cho các dân tộc. Và, chính sự thống nhất biện chứng giữa chủ nghĩa
yêu nước chân chính của mỗi dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai
cấp công nhân toàn thế giới là cơ sở để các dân tộc yêu chuộng hòa bình có thể
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn quốc tế ngày càng khẳng
định điều này. Hồ Chí Minh suốt đời đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân
tộc mình và phấn đấu không mệt mỏi vì sự bình đẳng giữa các dân tộc, cho
phẩm giá của con người. Với Hồ Chí Minh, quyền cơ bản và thiêng liêng nhất
của con người là quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do và bình
đẳng giữa con người với con người, giữa các dân tộc với nhau. Người nhấn
mạnh tư tưởng này trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa năm 1945. Đó là sự thể hiện khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt
Nam, đồng thời cũng là ước nguyện của nhân loại yêu chuộng hòa bình. Với
Hồ Chí Minh, đó chính là sự thể hiện bước tiến của nhân loại trong việc vươn
lên giành lấy và bảo vệ những quyền cơ bản cao quý, khi Người dẫn Tuyên
7
ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp 1791 và Tuyên
ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Và sau này, Người tiếp tục khẳng định
cô đọng trong câu nói bất hủ "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Tư tưởng
này của Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo và tài tình mối quan hệ

giữa giai cấp và dân tộc, giữa dân tộc và quốc tế trong suốt quá trình cách
mạng Việt Nam đầy sóng gió, khó khăn và vô cùng phức tạp.
Kiên trì độc lập tự chủ gắn với đoàn kết quốc tế, phấn đấu vun đắp cho tình
cảm trong sáng, thủy chung giữa các dân tộc có chung ước nguyện, Hồ Chí
Minh khẳng định, trước hết phải đem sức ta mà giải phóng cho ta; phải có ý
chí tự lực tự cường thì mới nhận được sự tôn trọng, ủng hộ của người khác;
đồng thời, xem việc "giúp bạn là tự giúp mình". Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn
đề đoàn kết, coi việc giữ gìn sự đoàn kết phải như giữ gìn con ngươi của mắt
mình; đoàn kết từ trong Đảng mở rộng ra toàn dân tộc; và đoàn kết giữa các
dân tộc trên thế giới. Đoàn kết là nguyên nhân đưa đến những thắng lợi của
cách mạng Việt Nam: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành
công, đại thành công". Mặt khác, chính sự hy sinh to lớn của dân tộc Việt Nam
cho phẩm giá của con người trở thành tấm gương sáng đối với các quốc gia,
dân tộc có chung hoàn cảnh, cũng như lay động lương tri của nhân loại tiến bộ,
yêu chuộng hòa bình. Tình đoàn kết của quốc tế là một trong những nguyên
nhân làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, qua hai cuộc kháng
chiến lâu dài, gian khổ nhưng rất đỗi vinh quang.
Kiên trì kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, cùng với sức mạnh tổng hợp của dân tộc được khơi nguồn
từ sự nghiệp chính nghĩa vì độc lập, tự do và phát triển của chúng ta, sức mạnh
tổng hợp về vật chất và tinh thần của Việt Nam được huy động cao độ, đã
được nhân lên gấp bội khi hợp lưu với khát vọng của các dân tộc, của nhân
loại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh nhiều
lần khẳng định sự thống nhất về ước nguyện được sống trong hòa bình của
8
nhân dân Việt Nam với nhân dân thế giới nói chung, với đông đảo nhân dân
Mỹ yêu chuộng các giá trị cao đẹp của con người, mà một trong những dịp đó
là cuộc trả lời phỏng vấn nhà báo Anh Phê-lích Gơ-rin, ngày 18-11-1965, như
sau: "Nhân dân Mỹ chủ yếu là có thiện ý. Chính vì vậy mà đại đa số nhân dân
Mỹ không thể ủng hộ chính sách xâm lược của Tổng thống Giôn-xơn.

Tôi muốn nói với nhân dân Mỹ rằng cuộc chiến tranh xâm lược mà Chính phủ
Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam không những chà đạp thô bạo lên các quyền
dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, mà còn đi ngược lại nguyện vọng và
lợi ích của nhân dân Mỹ".
(1)
Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng thể hiện việc chống lại các tư tưởng áp bức, thống trị, can thiệp
dưới các chiêu bài khác nhau; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, ích kỷ;
chống lại sự áp đặt, xâm hại lợi ích dân tộc khác dưới các hình thức khác nhau.
3.Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ
của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời
không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.
HCM nêu cao tinh thần “tự lực cánh sinh,dựa vào sức mình là chính” ,“muốn
người ta giúp cho,thì trước hết phải tự giúp mình đã”,“. Một dân tộc không tự
lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ Dtộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được
hưởng độc lập”.Với tư tưởng này khi Người gửi lời kêu gọi tới anh em ở thuộc
địa có viết; “Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng công thức
của Mác,chúng tôi xin nói với anh em rằng,công cuộc giải phóng anh em chỉ có
thể thực hiện được băng sự nỗ lực của bản thân anh em”.Người còn nói “đem
sức ta mà giải phóng cho ta,… họ còn giúp đỡ ~ người anh em mình ở phương
Tây trong sự nghiệp giải phóng hoàn toàn”
Muốn tranh thủ sức mạnh thời đại cần phải có 1 đường lối độc lập tự chủ đúng
đắn.Kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập Dtộc mình với bốn mục
9
tiêu của thời đại: hoà bình,độc lập Dtộc,dân chủ,chủ nghĩa XH.(liên hệ thực tiễn
của VN.)
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế,tranh thủ sự ủng hộ của nhân
loại tiến bộ,nhân dân ta không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả.Bác thường nói:
“phải coi cuộc đấu tranh của bạn như cuộc đấu tranh của ta”.
4.Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng làm bạn với tất cả mọi

nước dân chủ
Thấm thoắt đã 40 năm kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi về thế giới vĩnh
hằng nhưng tư tưởng của Người vẫn tỏa sáng dẫn dắt chúng ta. Di chúc của
Người - từ bản thảo đầu tiên viết năm 1965 đến những đoạn bổ sung trong
những năm tiếp sau - là lời nhắn nhủ chân tình về những điều cần làm cho kháng
chiến thắng lợi, kiến quốc thành công.
Hướng về nhân dân thế giới, Người dự định đến ngày chiến thắng, sau khi đi
chúc mừng và thăm hỏi đồng bào hai miền Nam Bắc, “sẽ thay mặt nhân dân ta
đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu
bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta” . Có thể cảm nhận ở đây phong thái của một nhà cách mạng lão
thành, một cụ già phương Đông, rất trọn vẹn trong nghĩa tình, rất chu đáo trong
ứng xử. Không chỉ một bức thư hay bức điện cảm tạ mà phải đi đến tận nơi, bày
tỏ hết tấm lòng biết ơn chân thành tới những người đã từng giúp mình trong
những năm tháng gian nan vất vả. Phong cách đó nói lên tình cảm bao la, tư
tưởng sâu sắc mà trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ thường
nhắc nhở đồng bào, đồng chí. Đó là quan điểm về hội nhập và đoàn kết quốc tế.
Cuộc hành trình tìm đường cứu nước qua khắp năm châu đã tạo nên ở Hồ Chí
Minh một cách nhìn mới về thế giới, về mối liên hệ giữa Việt Nam và thế giới.
Người đã vượt qua tầm nhìn hạn hẹp của các bậc tiền bối để hướng ra bên ngoài,
gắn kết giữa sự nghiệp cứu nước với công cuộc cách mạng của các dân tộc.
10
Vào nửa sau thế kỷ XIX, các thủ lĩnh nghĩa quân của phong trào kháng Pháp hay
các nhà văn thân dưới ngọn cờ Cần Vương đều thu hẹp hoạt động trong từng địa
phương, chưa mở rộng đến phạm vi toàn quốc, lại càng không có mối liên hệ với
bên ngoài. Đến đầu thế kỷ XX, các sĩ phu cấp tiến đã đón nhận làn gió mới từ
Duy tân Minh Trị, Biến pháp Mậu Tuất cho đến Cách mạng Tân Hợi, hoặc
hướng về nền dân chủ phương Tây với hy vọng cải cách chế độ phong kiến thối
nát. Làn sóng yêu nước ở Việt Nam được khởi sắc với việc mở Đông Kinh nghĩa
thục và các trường học khác, với phong trào Đông Du từng đợt cử thanh niên

sang Nhật Bản học tập văn hóa và huấn luyện võ bị. Nhưng những hoạt động đó
đều không mang lại kết quả, một trong những nguyên nhân chính là do thời đại
đã đổi thay. Nơi mà các nhà chí sĩ trông chờ không còn là quê hương của phong
trào cách mạng nữa, ý tưởng duy tân cũng như lý tưởng dân chủ đã đi vào quá
khứ để thay thế bằng chủ nghĩa thực dân, mở rộng bá quyền thuộc địa. Giới cầm
quyền Pháp - Nhật câu kết với nhau để dẹp trừ sự phản kháng, để ngăn chặn trào
lưu cách mạng nước ta.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đi theo con đường khác và rút ra kết luận:
“Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm
cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả” . Có thể coi đây
chính là điểm khởi phát của tư tưởng hội nhập và đoàn kết quốc tế, bao hàm hai
điều mới: một là, tầm nhìn được mở rộng ra toàn thế giới, không chỉ thu hẹp ở
phương Đông; hai là, quan điểm đoàn kết đặt vào tất cả những ai làm cách
mạng, không bị ràng buộc bởi châu Á hay châu Âu, bởi da vàng hay da trắng
như luận điệu tuyên truyền của thuyết Đại Đông Á thời đó. Nghĩa là Hồ Chí
Minh đã phát hiện một trong những nhân tố dẫn đến thành công của sự nghiệp
cứu nước phải là hội nhập với thế giới, đoàn kết với phong trào cách mạng trên
thế giới. Chính từ đây, Người đã đưa cách mạng Việt Nam đi vào quỹ đạo quốc
tế và trở thành một bộ phận của phong trào cách mạng quốc tế.
11
Dưới ánh sáng của học thuyết Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã tham gia phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, gắn kết công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc với phong trào cách mạng vô sản. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử cách mạng Việt Nam và cũng là sợi dây
nối bền chặt giữa cách mạng Việt Nam với phong trào vô sản quốc tế. Trong
chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã đóng góp
tích cực vào phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít trên thế giới: “Cuộc
cách mạng Đông Dương là một bộ phận cách mạng thế giới và giai đoạn hiện tại
là một bộ phận dân chủ chống phát-xít” . Khi phát-xít Nhật đầu hàng, lực lượng
cách mạng đã phát huy thế chủ động của mình, cùng toàn thể đồng bào vùng lên

giành chính quyền, tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam độc lập.
Trên cương vị người đứng đầu Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhiều lần nhấn mạnh tư tưởng hội nhập và đoàn kết quốc tế trong thời
chiến cũng như thời bình,
Với đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa ngày nay, cơ hội tiếp xúc
với người nước ngoài được mở rộng, hoạt động đối ngoại không chỉ thu hẹp
trong các cơ quan ngoại giao mà đã bao gồm toàn xã hội. Bất cứ ai, từ học giả,
doanh nhân cho đến bất cứ người dân thường nào cũng đều có cơ hội tiếp xúc
với người nước ngoài. Chính sự gặp gỡ đó là dịp giao lưu văn hóa, thể hiện đất
nước và con người Việt Nam, phản ánh thành tựu kinh tế và xã hội Việt Nam.
Cho nên tạo được những ấn tượng đẹp, tình cảm sâu trong con mắt người nước
ngoài cũng là đóng góp vào thành quả của đối ngoại nhân dân. Đồng thời sự
giao lưu với nước ngoài cũng tạo điều kiện để chúng ta hiểu biết về thế giới, về
văn hóa thế giới và qua đó có thể tiếp thu điều hay, lẽ phải, đồng thời hạn chế
những mặt xấu, tiêu cực. Như vậy, đối ngoại nhân dân chính là một mặt trận góp
phần tăng cường đoàn kết quốc tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
12
Chủ Tịch Hồ Chí Minh và đảng ta về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong suốt tiến trình cmvn.
Để giành được độc lập cho tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân
đồng thời giữ vững nền độc lập tự do ấy, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại đã kết hợp nhuần nhuyễn và sáng tạo nguồn sức mạnh dân
tộc với nguồn sức mạnh thời đại thành nguồn sức mạnh tổng hợp cực kỳ to lớn
nhấn chìm tất cả bè lũ xâm lược cướp nước và tay sai bán nước.
Sức mạnh dân tộc (nội lực) Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh là đỉnh
cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến lâu dài
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta, quân đội ta và nhân dân
ta đoàn kết một lòng, muôn người như một từ đó đã huy động tới mức cao nhất
sức người, sức của phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Cả nước cùng ra trận
với khí thế hào hùng của lịch sử bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước trên nền

tảng văn hóa nhân nghĩa, khoan hòa, trí dũng, với ý chí không có gì quí hơn
độc lập tự do. Tất cả mọi giới, mọi tầng lớp, mọi lực lượng từ bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương, dân quân du kích đến gái, trai, già, trẻ; từ nông thôn, thành thị
đến miền xuôi, miền ngược đều tham gia giết giặc cứu nước; từ hai bàn tay
không của bà mẹ, tầm vông vạt nhọn, cuốc thuổng, giáo mác, chông tre, súng
kíp, bom 3 càng đến con ong, con rắn cũng trở thành vũ khí tiêu diệt kẻ thù; từ
mặt đất nóng bỏng đạn bom cày xới, dưới địa đạo khắc nghiệt trong lòng
đất, trên mặt nước bưng biền đến bầu trời của đất nước ta, đâu đâu cũng là
trận địa vùi xác quân thù. Khi Việt Nam đứng ở tuyến đầu chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược thì sức mạnh thời đại (ngoại lực) đã đạt tới đỉnh
cao về sự ủng hộ và giúp đỡ chí tình, toàn diện cho Việt Nam của chủ nghĩa
quốc tế vô sản, của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào
không liên kết (thế giới thứ ba), của nhân dân tiến bộ trên thế giới kể cả
nhân dân tiến bộ ở nước Pháp và nước Mỹ. Việt Nam đại diện cho phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc của châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh đã đánh
13
thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng của nhân dân thế giới. Từ nền tảng của tình hữu nghị quốc tế trong sáng
do Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun đắp để có được kết quả: Việt Lào hai
nước chúng ta, tình sâu như nước Hồng Hà, Cửu Long; Việt Nam Trung Hoa
núi liền núi, sông liền sông; Vì Việt Nam, Cu Ba sẵn sàng hiến dâng cả máu
của mình; từ trong lòng nước Mỹ, nhân dân tiến bộ Mỹ đã xuống đường đấu
tranh ủng hộ Việt Nam, đòi chính quyền Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược
Việt nam; từ các cuộc biểu tình rầm rộ và liên tục nhiều năm liền của nhân dân
các nước trên thế giới … đã tạo thành dòng thác sức mạnh thời đại ủng hộ
cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nhân tố
quan trọng, quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta. Nhân tố hết sức
quan trọng đó là: Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với cách mạng vô sản thế giới. Chủ

tịch Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng Việt nam là một bộ phận trong cách
mạng thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của nhân
dân Việt nam. Từ nguồn sức mạnh tổng hợp cực kỳ to lớn được Chủ tịch Hồ
Chí Minh kết hợp nhuần nhuyễn và sáng tạo giữa sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại đã đưa cách mạng Việt Nam tiến lên từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác: Từ nền tảng của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám
(năm 1945), giành độc lập cho đất nước, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đầu
tiên ở Việt Nam và Đông Nam Á ra đời (2/9/1945), đến chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ (7/5/1954) “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đánh bại hoàn
toàn thực dân Pháp xâm lược. Từ thắng lợi to lớn đạt được trong việc thực hiện
nhiệm vụ chiến lược của Đảng là vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
vừa đấu tranh chống Mỹ xâm lược ở miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước,
quân và dân ta đã đánh bại tất cả các cuộc chiến tranh do Mỹ đặt ra như:
Đánh bại “Chiến tranh đặc biệt” (Công thức của cuộc chiến tranh này là:
14
cố vấn Mỹ + ngụy quân, ngụy quyền ở miền Nam) bằng phong trào đồng
khởi toàn miền Nam, bằng chiến thắng vang dội Ấp Bắc (1963), Thạnh
Phú (1964). Đánh bại “Chiến tranh cục bộ” (công thức của cuộc chiến tranh này
là: ồ ạt đưa quân Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam với quân ngụy và quân
chư hầu) bằng trận Vạn Tường (1965), Plâyme, Bàu Bàng, Dầu Tiếng (1965).
Giành thắng lợi ở các mùa khô: 1965 – 1966, 1966 – 1967. Mở cuộc tổng tiến
công và nổi dậy toàn miền Nam vào Tết Mậu Thân (1968). Đánh thắng “cuộc
chiến tranh phá hoại miền Bắc” của không quân Mỹ bằng chiến thắng vang dội
“Điện Biên Phủ trên không” với 12 ngày đêm trên bầu trời Thủ đô Hà Nội năm
1972, buộc Mỹ ký kết Hiệp định Pari (1973), rút hết quân Mỹ ra khỏi miền
Nam. Đánh bại “Việt Nam hóa chiến tranh” (công thức cuộc chiến tranh này
là: rút hết quân Mỹ, dùng người Việt đánh người Việt ở miền Nam) và làm nên
kỳ tích “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” bằng đại thắng mùa Xuân năm
1975 mà đỉnh

cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước (30/4/1975).Học tập và làm theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta quyết tâm thực hiện thật tốt Di chúc thiêng liêng của
Người. Tăng cường học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người về
thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; về sửa đổi lối làm
việc; về phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn; về nâng cao ý thức
trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân; về đoàn
kết, hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng, các nước khu vực và thế giới; về
hội nhập kinh tế và văn hóa thế giới. Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
15
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về lòng yêu nước
thương dân, về sức mạnh của nhân dân, lấy dân làm gốc; về sản xuất và tiết
kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; về tăng cường quốc phòng - an ninh,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về nền văn hóa dân tộc và hiện đại; về
đạo đức cách mạng; về đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh; xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi.
Đó là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn
cách mạng và là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận

của Đảng ta.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại. Đó cũng là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về
chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, tất
16
yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Từ Đại hội 8, đất
nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trong
chặng đường hiện nay còn phải tiếp tục hoàn thành một số nhiệm vụ của chặng
đường trước.
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, cho nên tất yếu còn mâu thuẫn
giai cấp và đấu tranh giai cấp; tuy nhiên cơ cấu, nội dung, vị trí của các giai cấp
trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã
hội.
Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu
tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cuộc đấu tranh giai cấp,
đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa diễn ra trong
những điều kiện mới, với nội dung giai cấp và nội dung dân tộc gắn kết với nhau
bằng những hình thức mới. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích
toàn dân tộc trong mục tiêu chung: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã

hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ
yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc
phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của
thời kỳ quá độ; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh
ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái để giữ
gìn trật tự, kỷ cương xã hội; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
17
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, của đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông
dân và trí thức, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại phải gắn liền với xây dựng quan hệ sản
xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và
phân phối.
Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu là sản phẩm
của nền kinh tế phát triển với trình độ xã hội hóa cao các lực lượng sản xuất hiện
đại, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội
được xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng chế độ đó là một quá trình phát triển
kinh tế - xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ
thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cộng nói riêng và
quan hệ sản xuất mới nói chung với bước đi vững chắc. Tiêu chuẩn căn bản để
đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa
là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện
công bằng xã hội.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Sử dụng cơ chế thị trường, áp
dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để
kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động,
giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển nền
kinh tế đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
18
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có sự quản lý của Nhà
nước. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước thật sự của dân, do
dân, vì dân, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch,
phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng
góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi
xã hội.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước phát triển.
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa
Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần
của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người phát triển toàn
diện, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Chủ trương của Đảng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Iv- Đường lối kinh tế và chiến lược phát triển.
Đường lối kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp;
ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh
19
thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển
nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn
hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
quốc phòng-an ninh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là
nền tảng chính trị trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Thấm nhuần Tư tưởng
Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng trong những năm đổi mới đều khẳng định
sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại do Người nêu lên. Nghị quyết Đại hội VII của Đảng ( 1991 )
khẳng định ; Trong điều kiện mới càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đổi mới, quan điểm “ Làm bạn với các nước dân chủ và
không gây thù oán với một ai” của Hồ Chí Minh được Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm và vận dụng sáng tạo. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định :
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Trước nguy cơ “ diễn biến hoà bình”, trước việc một số thế lực phản động lợi

dụng vai trò giúp đỡ, viện trợ, đặt nhân quyền cao hơn chủ quyền để can thiệp
vào công việc nội bộ các nước, hiện nay, hơn lúc nào hết chúng ta cần quán triệt
lời dạy của Hồ Chí Minh : Mỗi một người phải nhớ rằng có độc lập mới có tự
lập, có tự cường mới có tự do. Người còn chỉ rõ ; Cố nhiên sự giúp đỡ của các
nước là quan trọng nhưng không được ỷ lại, không được mong chờ người khác.
Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập. Vận dụng tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh
phù hợp với xu thế toàn cầu hoá và thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại
20
hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định : chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc,
bảo vệ môi trường.
Thực tiễn công cuộc đổi mới vì mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” ở nước ta trong suốt thời gian qua đã chứng minh rằng
: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
luôn được Đảng ta quán triệt, vận dụng một cách sáng tạo và đưa lại những
thành tựu to lớn, tạo thế và lực cho dân tộc ta vững bước vào thế kỉ XXI.

21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Giáo trình tư tưởng HCM
-Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học
-Báo điện tử :
: www.cpv.org.vn/
www.tapchicongsan.org.vn/
vietbao.vn/
www.qdnd.vn/
22

23
24

×