Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Thực trạng giáo dục hành vi văn hóa cho trẻ từ 6 11 tuổi trong các gia đình ở phường liên bảo, thành phố vĩnh yên, tỉnh vĩnh phúc (2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.61 KB, 70 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
-----------------------------------

LÊ THỊ THƢƠNG

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC HÀNH VI VĂN HÓA
CHO TRẺ TỪ 6 – 11 TUỔI TRONG CÁC GIA ĐÌNH
Ở PHƢỜNG LIÊN BẢO, THÀNH PHỐ VĨNH YÊN,
TỈNH VĨNH PHÚC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ XUÂN LAN

HÀ NỘI, 2014


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, tôi đã nhận được sự dạy bảo tận tâm của
các thầy cô trong khoa Tâm lý – Giáo dục của Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2, sự động viên khích lệ của bạn bè và gia đình.
Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình, chu đáo, nghiêm túc khoa học của cô
giáo ThS. Nguyễn Thị Xuân Lan. Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc của mình tới cô, các bạn và gia đình.
Xin cảm ơn các các cô, các chú, các anh chị đang công tác tại phường
Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều kiện và cho chúng
tôi những ý kiến quý báu. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các
em, các bậc cha mẹ đã nhiệt tình tham gia vào chương trình của chúng tôi và


hợp tác thiện chí giúp tôi trong quá trình thử nghiệm để hoàn thành đề tài.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện

LÊ THỊ THƢƠNG


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự
hướng dẫn của ThS. Nguyễn Thị Xuân Lan. Các số liệu, dữ liệu, kết quả
trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Các nguồn tài liệu trích dẫn có nguồn
gốc và xuất xứ rõ ràng. Tôi xin cam đoan những điều trên là đúng sự thật.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện

LÊ THỊ THƢƠNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu. .................................................................................... 3
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .............................................................. 3
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu. .................................................................. 3
5. Giả thuyết khoa học ...................................................................................... 3
6. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3
7. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
NỘI DUNG....................................................................................................... 6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ........................................................................ 6
1.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................... 6

1.2 Một số khái niệm công cụ của đề tài ...................................................... 9
1.2.1 Văn hoá ............................................................................................ 9
1.2.2 Hành vi văn hoá ............................................................................. 12
1.2.3 Gia đình và văn hoá gia đình ......................................................... 15
1.2.4 Giáo dục gia đình và giáo dục hành vi văn hoá trong gia đình ... 18
1.3 Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi từ 6-11 tuổi ........................................... 22
1.3.1 Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi từ 6-11 tuổi .................................... 22
1.3.2 Cơ chế hình thành và đặc điểm hành vi văn hoá của trẻ từ 611 tuổi. ..................................................................................................... 24
1.3.3 Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục HVVH cho
trẻ 6-11 tuổi trong gia đình hiện nay. ..................................................... 25
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VIỆC GIÁO DỤC HÀNH VI VĂN HÓA
CHO TRẺ TỪ 6 – 11 TUỔI TRONG CÁC GIA ĐÌNH THUỘC
PHƢỜNG LIÊN BẢO, THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH
PHÚC .............................................................................................................. 28
2.1 Vài nét về địa bàn nghiên cứu ............................................................... 28


2.2 Thực trạng của việc giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ 6 – 11 tuổi
trong các gia đình phường Liên Bảo, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc ...................... 29
2.2.1 Thực trạng về HVVH của trẻ 6 – 11 tuổi trong gia đình hiện
nay ........................................................................................................... 29
2.2.2 Thực trạng giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ trong gia đình
hiện nay. .................................................................................................. 34
2.3 Kết luận chung về thực trạng giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ 6 –
11 tuổi trong các gia đình ở phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc............................................................................................. 44
2.3.1 Tiểu kết chương 2 ........................................................................... 44
2.3.2 Nguyên nhân của thực trạng. ......................................................... 46
Chƣơng 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HÀNH VI VĂN HOÁ
CHO TRẺ Ở PHƢỜNG LIÊN BẢO, THÀNH PHỐ VĨNH YÊN,

TỈNH VĨNH PHÚC ....................................................................................... 47
3.1 Cơ sở để xác định biện pháp giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ
trong gia đình. ............................................................................................. 47
3.1.1 Mục tiêu giáo dục ........................................................................... 47
3.1.2 Cơ sở lý luận. ................................................................................. 47
3.1.3 Cơ sở thực tiễn ............................................................................... 49
3.2. Đề xuất một số biện pháp giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ từ 6 –
11 tuổi trong các gia đình. ........................................................................... 49
3.2.1 Nâng cao nhận thức cho cha mẹ về nhiệm vụ, vai trò, mục
tiêu, nội dung giáo dục HVVH cho trẻ 6 – 11 tuổi trong gia đình. ........ 49
3.2.2 Cha mẹ giáo dục trẻ bằng tình yêu thương và sự làm gương........ 50
3.2.3 Cha mẹ tổ chức các hoạt động cho trẻ trong gia đình, để giúp
trẻ lĩnh hội các chuẩn mực hành vi văn hoá theo yêu cầu phát triển. .... 51
3.2.4 Cha mẹ cần tạo cho trẻ môi trường sống vui vẻ, hoà thuận,
đoàn kết, yêu thương và chăm sóc nhau. ................................................ 51


3.2.5 Giáo dục gia đình cần phối kết hợp với giáo dục nhà trường
và giáo dục xã hội. .................................................................................. 52
3.2.6 Cha mẹ thường xuyên rèn luyện thói quen hành vi văn hoá
cho trẻ. ..................................................................................................... 53
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 54
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 63


CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHOÁ LUẬN

VH


: Văn hoá



: Gia đình

GD

: Giáo dục

GDGĐ

: Giáo dục gia đình

GTVH

: Giá trị văn hoá

HVVH

: Hành vi văn hoá

VHGĐ

: Văn hoá gia đình

BP

: Biện pháp


UBND

: Uỷ ban nhân dân

LĐ – TBXH

: Lao động – thương binh xã hội

Đ

: Đúng

S

: Sai

S.YK

: Số lượng ý kiến

%

: Tỉ lệ phần trăm

ĐTB

: Điểm trung bình

TB


: Giá trị thứ bậc


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Cơ sở lý luận
Nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục luôn là mục tiêu phấn đấu
của toàn ngành giáo dục nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Muốn nâng
cao chất lượng giáo dục đạo đức, văn hoá cho trẻ hiện nay tất yếu phải có sự
thống nhất tác động giữa các lực lượng tham gia công tác giáo dục trong toàn
xã hội, đặc biệt là gia đình – nơi sản sinh, nuôi dưỡng và là trường học đầu
tiên của mọi thành viên trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phát biểu
tại hội nghị cán bộ Đảng trong ngành giáo dục (ngày 03/08/1957): “Giáo dục
trong nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng nếu thiếu giáo dục gia đình và ngoài
xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.
Theo tiến sĩ Trịnh Hoà Bình, Giám đốc Trung tâm Dư luận xã hội, Viện
xã hội học, một trong những giải pháp đầu tiên để giảm thiểu những suy nghĩ
và hành vi lệch chuẩn của giới trẻ là sự giáo dục từ gia đình. Môi trường sống
trong gia đình có tác động đầu tiên và ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển
nhân cách của các em. Vai trò của gia đình trong việc giáo dục hành vi văn
hoá cho trẻ là hết sức quan trọng. Sự quản lý, giáo dục từ gia đình là một quá
trình lâu dài và liên tục từ khi đứa trẻ sinh ra đến khi trưởng thành.
Trẻ em là một thực thể phát triển, lứa tuổi tiểu học (6 - 11) – giai đoạn
đầu của tuổi học sinh, là giai đoạn đặt nền móng cho sự hình thành và phát
triển nhân cách của mỗi người một cách toàn diện và vững bền nhất, cũng là
giai đoạn thuận lợi nhất cho việc giáo dục hành vi văn hoá.
Giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ là một quá trình tác động có mục
đích, có kế hoạch đến các mặt nhận thức, tình cảm và hành động ý chí của
chúng. Hiệu quả của quá trình tác động này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,


1


trong đó việc xác định rõ nội dung và biện pháp giáo dục gia đình là yếu tố
cần được đề cập trước tiên. Bởi “gia đình là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả
đời, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”.
1.2 . Cơ sở thực tiễn
Nước ta đang đổi mới từng ngày dưới tác động của nền kinh tế thị
trường. Chúng ta đang thực hiện hàng loạt các chính sách mở cửa để hợp tác
với mọi dân tộc, quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh như vậy chúng ta đang
chịu sự tác động tích cực của thời đại trong sự hoà nhập với nền văn minh
nhân loại, nó sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến các định hướng giá trị của chúng ta
hiện nay. Tại nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nêu ra mục tiêu là
đưa Việt Nam về cơ bản trở thành nước Công nghiệp vào năm 2020. Để thực
hiện được nhiệm vụ đó yếu tố quyết định là con người. Con người Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá phải là con người có nhân cách
vững vàng, có trí tuệ sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt giữ gìn bản sắc dân
tộc Việt Nam. Vì vậy chúng ta cần quan tâm đến việc vun đắp, giáo dục hành
vi văn hoá cho trẻ nhất là ở lứa tuổi tiểu học. Việc xây dựng, phát triển
chương trình giáo dục đạo đức, văn hoá ở bậc tiểu học và việc lồng ghép giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ ở độ tuổi này rất thích hợp.
Mặt khác, “văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Làm thế nào để giáo
dục hành vi văn hoá cho trẻ em từ trong gia đình đến ngoài xã hội, đây là một
trong những vấn đề cấp thiết hiện nay.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục hành vi văn hoá; giáo
dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ các độ tuổi khác nhau và để cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau. Song việc đi tìm hiểu thực trạng giáo dục hành vi
văn hoá cho trẻ 6 - 11 tuổi trong gia đình hiện nay, chưa có nhiều công trình
đi sâu tìm hiểu.


2


Với những vấn đề được đặt ra trên, chúng tôi thấy rằng việc đi sâu tìm
hiểu, nghiên cứu đề tài “Thực trạng giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ 6 –
11 tuổi trong các gia đình ở phƣờng Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc” là cần thiết nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục trong
gia đình và xã hội hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận, đề tài tiến hành khảo sát thực trạng
giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ từ 6 - 11 tuổi trong các gia đình ở phường
Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ
6 - 11 tuổi.
3.2 Khách thể nghiên cứu: Vấn đề giáo dục trẻ từ 6 – 11 tuổi.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi tập trung nghiên cứu thực trạng giáo dục
hành vi văn hoá cho trẻ từ 6 - 11 tuổi trong các gia đình ở phường Liên Bảo,
thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, việc giáo dục hành vi văn hóa cho trẻ nói chung và trẻ từ 6 –
11 tuổi nói riêng chưa được quan tâm đúng mức tại các gia đình. Nếu phát
hiện đúng thực trạng và đề xuất được những biện pháp hợp lí thì sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục thói quen, nếp sống và hành vi văn hóa cho trẻ.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các cơ sở lý luận, những quan
điểm, tư tưởng về giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ trong gia đình.


3


6.2. Nghiên cứu thực trạng: Nghiên cứu để làm rõ thực tế giáo dục các
hành vi văn hoá cho trẻ từ 6 - 11 tuổi ở phường Liên Bảo, thành phố
Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
6.3. Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng và đề xuất một số biện pháp
để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục thói quen, nếp sống và hành vi
văn hóa cho trẻ.
Trong 3 nhiệm vụ trên, nhiệm vụ (6.2) là nhiệm vụ chính của đề tài.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng một số biện pháp sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Chúng tôi phân tích, tổng hợp,
hệ thống hoá một số tài liệu, văn bản, công trình nghiên cứu có liên quan đến
đề tài.
Dựa trên cơ sở các tài liệu, các văn bản, các sản phẩm (sách báo, các
công trình nghiên cứu) có liên quan nhằm phục vụ cho đề tài, chúng tôi tìm
hiểu các quy luật, các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục hành vi văn
hoá cho trẻ trong gia đình.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra viết: Chúng tôi chủ yếu sử dụng điều tra xã hội
học, nhằm thu thập thông tin về thực trạng giáo dục trẻ em từ 6 - 11 tuổi trong
gia đình, kết quả tác động hình thành hành vi văn hoá cho trẻ. Trong quá trình
nghiên cứu chúng tôi sử dụng phiếu điều tra cho các bậc cha mẹ, với mục
đích thu thập thông tin về quan niệm, thái độ và việc làm của cha mẹ trong
giáo dục con cái nói chung và giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ nói riêng. Và
phiếu điều tra dành cho trẻ để tìm hiểu xem mức độ thực hiện hành vi văn
hoá của trẻ trong các gia đình.

4



Phương pháp quan sát: Mục tiêu quan sát là những biểu hiện cụ thể
(nhận thức, thái độ, việc làm) của các bậc cha mẹ cũng như nhận thức và hành
vi của trẻ.
Phương pháp phỏng vấn.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động (Phân tích sản phẩm hoạt
động của trẻ trong một số gia đình).
7.3. Phương pháp thống kê toán học

5


NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu vấn đề
Gia đình (GĐ) luôn là tế bào của xã hội, thực hiện một số chức năng chủ
yếu sau: Chức năng sản xuất tự nhiên, chức năng kinh tế, chức năng giáo
dục,… Các chức năng trên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tuỳ theo sự phát
triển của GĐ và hoàn cảnh xã hội mà vị trí, vai trò của từng chức năng thay
đổi. Nhưng nhìn chung, chức năng giáo dục và sự hình thành, phát triển nhân
cách trẻ là một trong những chức năng quan trọng có vị trí, vai trò rất lớn.
Qua các thời kỳ lịch sử và các nền văn hóa cụ thể, vấn đề gia đình được
các nhà tư tưởng quan tâm, nghiên cứu từ rất sớm. Các nghiên cứu này đã làm
rõ bản chất của quá trình giáo dục, nhiệm vụ, động lực, nội dung, biện pháp
giáo dục con người nói chung và giáo dục trẻ em nói riêng.
* Lịch sử nghiên cứu của các tác giả nước ngoài.
Trong học thuyết Mác - Lênin khi bàn đến vấn đề chung của giáo dục
(GD) và GDGĐ cho rằng: Giáo dục con cái là chức năng quan trọng của GĐ,
muốn GD thế hệ trẻ, thì ngay từ khi mới ra đời phải củng cố quan hệ gia đình

và tổ chức tốt các mối quan hệ gia đình. [9, 180-233]
A.X.Macrenco (1888 – 1939) khi bàn về giáo dục con người ông đã đưa
ra các nguyên tắc: GD trẻ em trước hết là trách nhiệm của cha mẹ, giáo dục trẻ
phải chú ý các đặc điểm của trẻ, giáo dục phải bắt đầu từ tuổi ấu thơ. GDGĐ
cần có những nội dung,biện pháp, hình thức tổ chức riêng. [9, 275-283]
Nhà giáo dục Nga L.F.Ôxtrôxcaia đã dày công nghiên cứu quá trình
GD và khẳng định: Những phẩm chất tốt đẹp và năng lực sáng tạo của con
người cần phải xây dựng, rèn luyện, từ rất sớm, trong GĐ. Hành vi của trẻ là

6


kết quả giáo dục, thói quen tự tiện, bướng bỉnh, nhõng nhẽo của trẻ chứng tỏ
sự thiếu uy tín của người lớn trong gia đình. Do đó, giáo dục tính sẵn sàng
vâng lời được coi trọng để hình thành ở trẻ những giá trị văn hoá tốt đẹp. Cần
lựa chọn các phương pháp sư phạm để tác động đến trẻ tính yêu cầu cao, tính
hợp lý của công tác động viên, khuyến khích, nêu gương, lời chỉ bảo và sự
giải thích những quy tắc thực hiện hành vi trong giáo dục trẻ. [7, 77 - 92]
* Lịch sử nghiên cứu của các tác giả trong nước
Trong pháp lệnh ngày 14/11/1979 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về
“Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em”, Điều 2, quy định việc giáo dục trẻ em
căn cứ vào 5 điều Bác Hồ dạy:
“1. Yêu tổ quốc, yêu đồng bào
2. Học tập tốt, lao động tốt
3. Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
4. Giữ gìn vệ sinh thật tốt
5. Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”.
(Hồ Chí Minh - Toàn tập - Tập X – NXB Chính trị QGHN - 1995, tr356)
Điều 13, cha mẹ phải làm đầy đủ nghĩa vụ của mình, hết lòng, hết sức
nuôi dưỡng,chăm sóc và GD các con, tạo điều kiện cho các con phát triển

toàn diện và trở thành người có ích cho xã hội. Nhà nước và các tổ chức xã
hội bằng những biện pháp thích hợp giúp đỡ cha mẹ thực hiện nhiệm vụ đó.
Điều 14, cha mẹ phải làm gương tốt về mọi mặt cho các con, trong lao
động sản xuất tiết kiệm, trong công tác, học tập và trong sinh hoạt hàng ngày.
Bồi dưỡng cho các em những tình cảm tốt đẹp, nếp sống văn minh và đạo đức
xã hội.[6, 103]
TS. Võ Nguyên Du trong luận án “Một số nội dung và biện pháp giáo
dục hành vi văn hóa cho trẻ en trong gia đình”, đã phân tích rất rõ các nội
dung giáo dục hành vi văn hóa, căn cứ theo 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên và
nhi đồng, biện pháp giáo dục hành vi văn hóa cho trẻ cần được tiến hành theo

7


các nhóm biện pháp tác động: Giữa trẻ em với cha mẹ và người lớn trong gia
đình; giữa trẻ em với cộng đồng dân cư trên địa bàn sinh sống. Tuy nhiên, tác
giả vẫn chưa đưa ra những biện pháp giáo dục cụ thể trong giáo dục hành vi
văn hóa cho trẻ trong gia đình hiện nay. Song những kết luận của tác giả sẽ
giúp chúng tôi tập trung nghiên cứu biện pháp giáo dục hành vi văn hóa cho
trẻ từ 6 – 11 tuổi trong gia đình hiên nay. [1, 115 – 118]
Ngoài ra, còn rất nhiều công trình có giá trị thực tiễn đã được các nhà
khoa học nghiên cứu.
Qua nghiên cứu các công trình của các tác giả trong và ngoài nước
chúng tôi nhận thấy:
Việc giáo dục hành vi văn hoá (GDHVVH) cho trẻ đã được quan tâm
từ rất lâu trong gia đình và trong nhà trường. Chủ yếu là giáo dục cho trẻ
nhận thức đúng đắn các giá trị văn hoá qua các mối quan hệ giữa con người
với con người trong cuộc sống, nhằm hình thành những phẩm chất tốt đẹp ở
mỗi cá nhân.
Giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ từ 6 - 11 tuổi là một quá trình toàn

vẹn với hệ thống các thành tố GD: Mục đích, nhiệm vụ, nội dung, nguyên
tắc, phương pháp, người giáo dục và người được giáo dục. Là quá trình tác
động của nhà giáo dục và người được giáo dục tự giác, tích cực, chuyển hoá
những yêu cầu của các chuẩn mực hành vi đã quy định thành thói quen
tương ứng.
Nội dung và phương thức thể hiện HVVH do thực tiễn cuộc sống và
những truyền thống văn hoá quy định, vì vậy không ngừng biến đổi cùng với
sự phát triển của xã hội hiện nay.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chưa đi sâu nghiên cứu thực trạng
giáo dục HVVH cho trẻ nên chưa đưa ra được cách giải quyết thực trạng giáo
dục HVVH cho trẻ hiện nay.

8


1.2. Một số khái niệm công cụ của đề tài
1.2.1. Văn hoá
Văn hoá là hiện tượng nảy sinh, phát triển cùng đời sống xã hội, VH
gắn liền với sự ra đời của nhân loại. Nhưng mãi đến thế kỷ thứ 17, nhất là nửa
thế kỷ 19 trở đi, các nhà khoa học trên thế giới tập trung vào nghiên cứu sâu
vào lĩnh này.
VH được hiểu theo nghĩa hẹp, là những hoạt động và giá trị tinh thần
của con người. Trong phạm vi này, văn hoá với hai khía cạnh là văn hoá
khoa học (toán học, vật lý học, hoá học,...), văn hoá nghệ thuật (văn học, điện
ảnh,…), được coi là phân hệ chính của hệ thống VH. Nghĩa hẹp hơn nữa, VH
được coi như một ngành - ngành văn hoá - nghệ thuật để phân biệt với các
ngành kinh tế - kỹ thuật khác. Các cách hiểu này thường kèm theo cách đối
xử sai lệch về văn hoá.
Theo nghĩa rộng nhất, văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn,

trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình…
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này chúng tôi tìm hiểu VH trong
phạm vi rộng: giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra.
* Giá trị văn hoá và truyền thống văn hóa.
Giá trị văn hóa
Giá trị VH (GTVH): là những tư tưởng bao quát, là hệ thống các quan
hệ khách quan được quy định bởi thực tiễn lịch sử, bởi tính thông tin rộng rãi.
GTVH gắn với các lợi ích xã hội, đó là nền tảng tinh thần. GTVH chính là
quan niệm về những cái cao cả, cái có ý nghĩa được cộng đồng đúc kết lại,
thừa nhận và tôn vinh. Mỗi dân tộc đều có những GTVH cho riêng mình, thể
hiện được bản sắc dân tộc. Những giá trị đó không phải là những giá trị bất

9


biến mà nó được làm phong phú thêm bởi những sáng tạo mới cũng như hoàn
cảnh mới của dân tộc. GTVH được phân thành 3 nhóm:
- Nhóm GTVH truyền thống mang tính cộng đồng gồm các nội dung:
yêu nước; nhân ái; bao dung; tự lực; tự cường; đoàn kết; tôn trọng; hiếu
học;…
- Nhóm GTVH truyền thống mang tính gia đình gồm các nội dung:
thuỷ chung; hiếu thảo; kính trên nhường dưới; thương yêu đùm bọc;…
- Nhóm GTVH truyền thống mang tính cá nhân gồm các nội dung:
trung thực; chân thành; giản dị; lễ độ; cần cù; sáng tạo; kiên trì vượt khó; yêu
lẽ phải; vị tha; tôn trọng người khác; lạc quan; tiết kiệm;…
Truyền thống văn hoá
VH được duy trì bằng những truyền thống văn hoá. “Truyền” là chuyển
giao, “thống” là nối tiếp, “truyền thống” là cơ chế tích luỹ và truyền đạt kinh
nghiệm qua không gian và thời gian trong cộng đồng, là những giá trị tương

đối ổn định, thể hiện những khuôn mẫu xã hội.
Truyền thống văn hoá là những giá trị văn hoá được tồn tại lâu dài
trong cộng đồng, thấm sâu vào từng con người cụ thể, tạo thành những giá trị
dân tộc. Vậy, truyền thống VH là những giá trị tương đối ổn định, thể hiện
những khuôn mẫu xã hội, được tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người, qua
không gian, thời gian và được cố định hoá dưới dạng ngôn ngữ, phong tục,
tập quán, lễ nghi.
* Lối sống, nếp sống, thói quen văn hoá
Văn hoá được sử dụng ở phạm vi rộng, còn khi nói đến lối sống, nếp
sống, thói quen văn hoá, là góc độ thu hẹp của văn hoá.
Về bản chất, lối sống bao gồm tất cả các hiện tượng xã hội, lối sống
thống nhất với “hình thái kinh tế xã hội”, với phương thức sản xuất, quan hệ
và các điều kiện xã hội. GD là cần phải làm cho con người có cách suy nghĩ

10


đúng và hệ thống hành vi thói quen phù hợp với yêu cầu của xã hội. Đặc
trưng của lối sống là những hình thức hoạt động sống của con người, những
điều kiện lao động sinh hoạt, các mối quan hệ qua lại.
Như vậy, lối sống là tổng hoà các dạng hoạt động với các điều kiện xã
hội nhất định.
Theo Tiến Sĩ Ngô Công Hoan: lối sống thường nói về một giai cấp,
một dân tộc, một quốc gia. Còn nếp sống thường dùng trong phạn vi hẹp hơn.
A.P.Buchenco quan niệm: Nếp sống không phải là một phần mà là một
trong những hình thức biểu hiện của lối sống.
Khi sử dụng thuật ngữ “nếp sống” là để chỉ toàn bộ việc tổ chức sinh
hoạt của các thành viên trong các gia đình đảm bảo cho việc thực hiện tốt các
chức năng gia đình, đặc biệt là chức năng giáo dục của gia đình trong những
điều kiện nhất định.

Thói quen: thường chỉ những hành vi ứng xử của cá nhân được diễn ra
trong những điều kiện nhất định, trong không gian và quan hệ xã hội cụ thể.
[4, 107-108]
Ví dụ: thói quen nói lời “xin lỗi” khi vô tình mắc lỗi, thói quen đi bộ
vào buổi chiều tối, thói quen ăn trầu,…
Trong đó, các phẩm chất nhân cách con người được hình thành trên cơ
sở thói quen được diễn ra ổn định, nếp sống của gia đình. Rất nhiều phẩm
chất nhân cách được hình thành từ thói quen.
Sống trong điều kiện nào thì chúng ta cũng có thể tạo ra được lối sống
đẹp, những nề nếp, thói quen có văn hoá. Thực chất việc xây dựng lối sống,
nếp sống có văn hoá hiện nay chính là việc xác định được phương hướng vận
động của hành vi, nhằm phát triển hệ thống thái độ, ứng xử mang nội dung
văn hoá. Trong môi trường gia đình và đời sống cá nhân tích cực xây dựng hệ
thống hành vi văn hoá cho thế hệ trẻ hôm nay.

11


1.2.2. Hành vi văn hoá
1.2.2.1. Khái niệm hành vi
Khái niệm hành vi được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tâm lý
học Macxit quan niệm hành vi của con người là “cuộc sống”, “lao động thực
tiễn” tức là hoạt động. Hành vi con người là biểu hiện bên ngoài của hoạt động
được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lý bên trong của chủ thể, của nhân cách.
Theo nhà tâm lý học Nga L.X.Vưgotki, hành vi của con người được
hiểu là quá trình nắm lấy các chức năng tâm lý xã hội của bản thân, nói cách
khác hành vi được hiểu là hoạt động nhằm vào bản thân để tổ chức hành vi
của mình, đồng thời tham gia vào hoạt động bên ngoài, tác động lên các đối
tượng bên ngoài, hoặc những người khác. Để được hoạt động tâm lý bên
trong thì trước hết phải tổ chức được hình thức bên ngoài của nó. Trẻ em sẽ

hoạt động trước hết trên những đối tượng bên ngoài rồi “chuyển vào trong”
thành tâm lý, ý thức. Hoạt động bên ngoài và hoạt động bên trong có cùng cơ
cấu duy nhất, cấu trúc chung ấy là cơ sở quan trọng cho các quá trình chuyển
hóa “từ ngoài vào trong”, “từ trong ra ngoài”.[3, 49]
Từ các kết quả nghiên cứu của các tác giả cho chúng ta xác định được
một số vấn đề đối với việc giáo dục hành vi sau đây:
Hành vi bên ngoài là biểu hiện ra bên ngoài của hoạt động, được điều
chỉnh bởi cấu trúc tâm lý bên trong, của nhân cách.
Hành vi con người có mục đích và ý nghĩa, tức là có cùng một lúc tính
đến cả chủ thể lẫn thực tại. Điều đó cho thấy, con người chịu tác động rất lớn
từ môi trường sống, cho nên nhà giáo dục không được coi nhẹ vấn đề hình
thành khả năng thích nghi với môi trường của đứa trẻ. Tuy nhiên, yếu tố quyết
định chính là hành vi của chủ thể.
Khi xét về chuẩn mực hành vi của con người thì phải xem chủ thể có
nắm được nội dung, quy tắc thực hiện hành vi đó, có nhu cầu tình cảm, mong

12


muốn thực hiện không, có khả năng và thói quen thực hiện hành vi đó không.
Cho nên, có thể nhìn nhận hành vi của con người văn hóa, có đạo đức hay
không cần căn cứ vào lời nói, các cử chỉ, hành động của họ, “có thể thông qua
hệ thống hành vi, cử chỉ trong cuộc sống cá nhân mà hiểu biết, đánh giá trình
độ phát triển nhân cách của cá nhân cụ thể”.
Cấu trúc tâm lý của hành vi:
- Ý thức của cá nhân về các chuẩn mực xã hội cần tuân theo.
- Sức mạnh thúc đẩy hành động (nhu cầu, tình cảm,...)
- Ý chí, thói quen tham gia vào quá trình thực hiện hành vi đó.
1.2.2.2. Hành vi văn hoá, hành vi đạo đức, hành vi pháp luật.
Theo tác giả Phạm Ngọc Định thì một hành vi văn hóa phải đạt được

các yêu cầu: Hành vi thường xuyên lặp đi lặp lại tương đối theo một quy trình
bởi nhiều người. Có tác dụng mẫu mực cho các thành viên nhóm hay trong xã
hội, chứa đựng một giá trị nào đó. Vì vậy hành vi văn hóa là những hành vi
con người tự giác thực hiện, có động cơ phù hợp với chuẩn mực quy tắc xã
hội. [2]
Hành vi văn hóa được hiểu như sau: HVVH là hành vi của con người
mang lại hiểu biết cho mọi người và tạo nên những phong tục, tập quán tốt
đẹp, tạo dựng mối quan hệ người với người đầy tình thương và trách nhiệm.
Nói một cách khác HVVH là những hành vi mang lại sự tiến bộ, hướng tới
chân, thiện, mĩ biểu hiện nhân cách tốt đẹp của con người.
Theo quan niệm đạo đức học Mác – Lênin thì: Hành vi đạo đức không
chỉ là cách ứng xử bên ngoài, mà là tổng hợp những nhân tố như ý thức đạo
đức, quan hệ đạo đức và thực tiễn đạo đức. Đó là sự thống nhất những yêu
cầu thực tiễn khách quan của xã hội và vai trò của chủ thể hoạt động tích cực
trong điều kiện xã hội đó.

13


Hành vi đạo đức là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động, nhưng
được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lý bên trong của chủ thể nhân cách. Hành
vi đó được thực hiện bởi các chủ thể có ý thức, với những mục đích nhất
định và chịu sự quy định của chuẩn mực xã hội, được xây dựng từ hệ thống
những giá trị.
Các quan hệ trong gia đình, bạn bè, học tập, lao động,… đều là các
quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội thường rất phức tạp, pháp luật không thể
đưa ra quy tắc xử sự cho tất cả, chỉ những quan hệ cần tuân theo ý chí của
nhà nước, cần điều chỉnh bằng những thể chế nhất định mới được coi là quan
hệ pháp luật.
Như vậy, hành vi pháp luật là xử sự của chủ thể pháp luật trong những

điều kiện, hoàn cảnh khách quan, cụ thể với những biểu hiện ra bên ngoài và
chịu sự chi phối chủ quan của ý thức chủ thể để nhằm đạt được những mục
đích nhất định và được các quy luật điều chỉnh.
Như vậy chúng ta thấy hành vi văn hoá, hành vi đạo đức, hành vi pháp
luật đều được biểu hiện qua hoạt động sống của cá nhân với tư cách là chủ thể
hoạt động, đều dựa trên cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác và chịu sự quy định
của những giá trị, chuẩn mực chung.
Tóm lại, hành vi pháp luật chính là sự biểu hiện cấp độ bắt buộc giữa
tuân theo và xử phạt, là hành vi đạo đức cấp thấp , còn hành vi văn hoá có thể
gọi là hành vi đạo đức cấp cao. Tất cả các hành vi này đều được ngăn cấm,
ràng buộc nhưng hành vi pháp luật thì được pháp luật điều chỉnh bằng hệ
thống pháp lý do nhà nước ban hành còn hành vi đạo đức do lương tâm, do dư
luận xã hội điều chỉnh.
Từ sự phân biệt trên chúng ta có thể rút ra kết luận: Nội dung, biện
pháp giáo dục hành vi văn hoá, hành vi đạo đức, hành vi pháp luật có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau và thống nhất biện chứng với nhau.

14


1.2.3. Gia đình và văn hoá gia đình
1.2.3.1. Gia đình
GĐ là một trong những vấn đề cực kỳ quan trọng của đời sống xã hội,
đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học.
Trong nghị quyết của đại hội Đảng lần thứ VI có nêu: Gia đình là một
trong những môi trường xây dựng con người mới của xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội chủ nghĩa gia đình được coi là “chiếc nôi” của những
quan hệ ruột thịt, nơi thể hiện những tình cảm cao đẹp nhất của con người.
Trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VI có đoạn: “Con người mới
là con người biết xây dựng gia đình hạnh phúc, có trách nhiệm đầy đủ và tình

yêu chân thật trong quan hệ vợ chồng, có trách nhiệm cao đối với việc xây
dựng con cái thành những con người mới…”[5]
Theo từ điển tiếng Việt: GĐ là tập hợp những người cùng sống chung
thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn
nhân và dòng máu, thường có vợ chồng, con cái và cha mẹ.[10]
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Rất quan tâm đến GĐ là đúng, vì
nhiều gia đình cộng lại mới thành một xã hội, GĐ tốt thì xã hội mới tốt.
Trong lĩnh vực nghiên cứu gia đình, Lê Ngọc Văn ghi rõ những đặc
điểm mới của gia đình Việt Nam trong điều kiện công nghiệp hoá, toàn cầu
hoá. Đó là tính đa dạng của gia đình về cấu trúc, quy mô, nghề nghiệp, những
mâu thuẫn về lối sống và độ tuổi… là sự thay đổi quan niệm về người chủ gia
đình, những mâu thuẫn về lối sống, bạo lực gia đình.
Hiện nay, gia đình tồn tại dưới nhiều hình thức, tùy theo mục đích,
nhiệm vụ nghiên cứu mà có thể phân gia đình thành: gia đình truyền thống,
gia đình mở rộng (có từ ba thế hệ trở lên); gia đình pha trộn (xây dựng lại các
cặp vợ chồng); gia đình độc thân (một mẹ nuôi một con,...) Xét theo đẳng
cấp, theo hình thái kinh tế xã hội có: gia đình nông thôn; gia đình công nhân,
gia đình trí thức,...

15


Tóm lại, những điều quan trọng nhất trong nội hàm khái niệm gia đình
là:
- GĐ là tổ chức cơ bản, các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau.
Mọi người sinh ra trong gia đình chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của nhau bởi sự
chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ từ lúc thai nhi trong bụng mẹ cho đến khi trưởng
thành.
- GĐ là một nhóm nhỏ xã hội có giới tính, hình thành và phát triển từ
hôn nhân, tái sản xuất ra con người tạo nên quan hệ ruột thịt, huyết thống.

Đây là nét đặc trưng cơ bản nhất của gia đình.
- Các thành viên trong GĐ có thể thuộc nhiều thế hệ, được gắn bó với
nhau không chỉ về huyết thống mà còn những giá trị truyền thống văn hoá
trong gia đình, tạo nên nét văn hoá của gia đình.
- Đời sống gia đình tồn tại nhờ một ngân sách chung, mà nhân sách đó
được các thành viên trong gia đình đóng góp. Các thành viên sống chung với
nhau dưới một mái nhà, có quan hệ khăng khít với nhau bằng tình cảm, trách
nhiệm.
1.2.3.2. Văn hoá gia đình
GĐ ngay từ đầu là một tồn tại văn hoá, một thực thể văn hoá, gia đình
luôn bị chi phối bởi các trạng thái xã hội “xã hội nào, gia đình thế ấy”. Nếu
chúng ta coi gia đình là “xã hội vi mô” thì nó phản ánh tất cả các mặt của đời
sống xã hội vào bản thân GĐ. Mặt khác, “mỗi tế bào của xã hội” sẽ tác động
ngược lại vào xã hội. Do đó, văn hoá xã hội và văn hoá gia đình cùng nằm
trong sự tương tác vô cùng chặt chẽ.
Theo quan điểm xã hội học thì: văn hoá gia đình (VHGĐ) gắn liền với
chức năng gia đình là một thể chế xã hội.
VHGĐ là tập hợp của những biểu hiện văn hoá gắn liền các mặt quan
hệ và đời sống gia đình. “Văn hoá gia đình là các biểu hiện văn hoá gắn liền

16


với các mặt của quan hệ gia đình”, và đời sống gia đình. Hay nói cách khác
văn hoá gia đình bao gồm tất cả những con người tạo ra và có được trong môi
trường gia đình.
VHGĐ có những đặc điểm nổi bật:
- Mang tính đa dạng.
- VHGĐ Việt Nam đã và đang trải qua những biến hoá sâu sắc do kết
quả của những thay đổi to lớn về xã hội.

- VHGĐ truyền thống Việt Nam có nội lực bền vững, nhiều gia đình
trải qua rất nhiều biến động, vẫn giữ nguyên được các đặc trưng văn hoá của
mình.
1.2.3.3 Những biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay
Chính sách đổi mới và hội nhập đã đưa đất nước ta vào thời kỳ mới,
thời kỳ công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước. Sau Đại hội VI, nước ta
chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Những thay đổi đó đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế
xã hội mạnh mẽ, đồng thời cũng tạo nên những thay đổi lớn lao và sâu sắc
trong đời sống xã hội của nước ta, cụ thể hơn là sự thay đổi trong mỗi người,
mỗi gia đình Việt Nam. Có ý kiến cho rằng, “phải chăng những biểu hiện tiêu
cực xã hội, một số tín hiệu suy thoái về đạo đức, tình hình trẻ em phạm tội
đang có chiều hướng gia tăng và đều có nguồn gốc từ sự xuống cấp của giáo
dục gia đình”.
Hoà nhập với nền kinh tế thế giới, mỗi gia đình Việt Nam có vai trò
không hề nhỏ trong sự phát triển của đất nước. Mỗi gia đình là một đơn vị
kinh doanh độc lập, tư tưởng làm giàu được động viên khuyến khích. Bên
cạnh đó, sự hội nhập, hợp tác, giao lưu kinh tế của đất nước với thế giới đã
phá vỡ được sự khép kín của gia đình truyền thống trước kia. “Mọi thành viên
trong gia đình được tiếp xúc với nhiều nguồn tri thức, nhiều kênh thông tin

17


mới, tạo điều kiện giao tiếp rộng rãi hơn, đã làm thay đổi nhận thức, thái độ
và nếp sống của các thành viên trong gia đình”.
Gia đình hiện nay đã có rất nhiều sự thay đổi ở tất cả các mặt, cấu trúc
gia đình ít nhân khẩu, ít thế hệ ngày càng phổ biến. Các gia đình có sự kết
hợp giữa các nghề mà không chỉ theo một nghề… sức mạnh của đồng tiền đã
chi phối rất lớn đến đời sống sinh hoạt của từng cá nhân trong mỗi gia đình.

Sức mạnh đó đã dẫn tới nhiều tai tệ nạn trong xã hội, báo hiệu sự xuống cấp
về đạo đức … Vì thế, bất luận trong hoàn cảnh nào thì gia đình cũng phải trực
tiếp gánh chịu mọi kết quả tốt đẹp hay hư hỏng về sự phát triển của nhân cách
của con cái mình.
1.2.4. Giáo dục gia đình và giáo dục hành vi văn hoá trong gia đình
1.2.4.1. Giáo dục gia đình
Giáo dục con cái trong gia đình là công việc, là trách nhiệm, đạo đức,
nghĩa vụ công dân của người làm cha mẹ. Chức năng gia đình này được hình
thành một cách tự phát, dần dần các bậc cha mẹ đã ý thức được giáo dục con
cái như một trách nhiệm xã hội của gia đình.
Điều 64 trong Hiến pháp nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam đã quy
định: “Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành những người công dân tốt.
Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà cha mẹ”.
Nói tới GDGĐ là phải nói tới bầu không khí tâm lý, đạo đức, lối sống,
các giá trị văn hoá truyền thống, nền nếp gia phong,…đến những thói quen
trong lối sinh hoạt hàng ngày trong đời sống của mỗi gia đình. Một đứa trẻ từ
khi sinh ra đã chịu ảnh hưởng rất lớn từ gia đình của mình, trẻ thường nói
tiếng nói của người lớn, bắt chước những hành động của người lớn trong gia
đình. Tình yêu thương, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái là tiền đề của
một nền giáo dục tốt.

18


×