Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tl kinh điển đường kách mệnh tư tưởng về con đường cách mạng việt nam trong tác phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.12 KB, 26 trang )

Tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam trong tác phẩm
“Đường Cách mệnh” và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay
MỞ ĐẦU
Trước năm 1930, cách mạng Việt Nam đứng trước sự khủng hoảng về
đường lối; Các phong trào yêu nước của các nhà cách mạng như Phan Bội châu,
Phan Châu Trinh, các khuynh hướng cứu nước dù theo phong kiến hay dân chủ
tư sản đều có một kết quả chung là thất bại. Trong bối cảnh đó, sau khi đã đi
khắp các châu lục, qua nhiều nước khác nhau, từ một người thanh niên yêu
nước, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một chiến sỹ cộng sản quả cảm, kiên trung
và chính Người đã tìm ra cho dân tộc Việt Nam một con đường cứu nước mới,
phù hợp với chân lý của thời đại: muốn giải phóng dân tộc Việt Nam không có
con đường nào khác đó là con đường cách mạng vô sản.
Tác phẩm “Đường Kách mệnh” là tập hợp những bài giảng của Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã giảng tại lớp Huấn luyện chính trị trong những năm
1925-1927. Với cách viết mộc mạc, đơn giản, ngắn gọn, nhưng nội dung phong
phú, hàm chứa những tư tưởng lớn mang tính quốc gia và quốc tế vĩ đại của Hồ
Chí Minh. Người đã đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam theo cách của
riêng mình, góp phần trang bị cho nhân dân ta tư tưởng mới của thời đại. Đường
Kách mệnh xác định rõ mục tiêu Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, khẳng
định con đường cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn, đó là dân tộc
cách mệnh và thế giới cách mệnh.
Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm, Đảng ta luôn tìm tòi và làm sáng tỏ hơn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng ta khẳng
định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng
đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế
phát triển của lịch sử”.
1. Tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam trong tác phẩm
Đường Kách mệnh
1.1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời tác phẩm



2
Tình hình quốc tế:
Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở phương Tây đã chuyển sang giai
đoạn độc quyền, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, tiến hành xâm lược, thôn tính các
dân tộc khác, biến các nước khác trở thành thuộc địa để vơ vét tài nguyên, bóc
lột nhân công; lúc này Phương Đông, trong đó có Việt Nam trở thành đối tượng
trực tiếp xâm lược của các nước đế quốc Phương Tây.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, mở ra thời đại mới, thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thời đại
mới đã mở đường cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc
thuộc địa trong đó có Việt Nam. Ở nhiều nơi cách mạng nổ ra như ở Đức (1918),
ở Ấn Độ (1926), ở Trung Quốc (1927) nhưng chưa giành được thắng lợi làm nảy
sinh những xu hướng tả khuynh trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế.
Chủ nghĩa đế quốc tìm mọi cách để bưng bít, xuyên tạc, bóp méo thành
quả Cách mạng Tháng Mười Nga. Ngay cả trong Quốc tế Cộng sản cũng có
những đánh giá chưa thống nhất về ý nghĩa của cuộc Cách mạng này. Lênin đã
viết sách khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga và phê phán xu
hướng tả khuynh nói trên .
Quốc tế Cộng sản ra đời (tháng 3 năm 1919) đã làm thay đổi nhận thức
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, góp phần rất tích cực làm cho
cuộc đấu tranh của công nhân quốc tế diễn ra sôi nổi; hàng loạt các đảng cộng
sản ra đời ở các nước tư bản và xuất hiện xu hướng thành lập các đảng cộng sản
công nhân ở các nước thuộc địa. Đại hội II của Quốc tế Cộng sản – năm 1920
thông qua “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, đã góp phần
không nhỏ làm cho vị trí và vai trò cách mạng ở các nước thuộc địa được khẳng
định và thúc đẩy phát triển.
Sau những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước, tháng 7-1920, Nguyễn
Ái Quốc được đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc

và thuộc địa” của V.I Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà
Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người thấy rõ con đường thắng lợi


3
của cách mạng giải phóng dân tộc, nhận rõ lập trường của V.I.Lênin và Quốc tế
thứ ba khác hẳn với những lời tuyên bố suông của Quốc tế thứ hai. Luận cương
của V.I.Lênin đã có ảnh hưởng quyết định đến lập trường cứu nước của Nguyễn
Ái Quốc. Sau này người viết: “luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động,
phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông
đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo V.I Lênin, tin theo
Quốc tế thứ ba”1.
Tháng 12-1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (Tours), Nguyễn
Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba và tham gia thành lập Đảng
Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời
hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, mở đường
giải quyết đúng đắn về đường lối giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Qua 10 năm sống và làm việc ở nhiều nước trên thế giới, qua nhiều lục
địa, đặc biệt là ở những nước tư bản phát triển, Nguyễn Ái Quốc không choáng
ngợp trước sự giàu có của giai cấp tư sản mà lại nhận thấy chế độ tư bản có
nhiều khuyết tật. Người khẳng định dứt khoát chủ nghĩa tư bản không cứu được
nước, không cứu được dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm
1917 đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Người chỉ rõ: “muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”2.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ

đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến
mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng
vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin để truyền bá vào nước ta, từng bước chuẩn bị

1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 127.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 314.


4
về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập chính đảng cộng sản ở Việt
Nam.
Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) làm
nhiệm vụ đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản và trực tiếp chuẩn bị thành lập
Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Tại đây, Người cùng với một số nhà cách mạng lập
Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, do ông Liêu Trọng Khải (Trung
Quốc) làm Hội trưởng và Người làm bí thư.
Tình hình trong nước:
Phong trào yêu nước và phong trào công nhân giai đoạn 1919 – 1926 có những
bước phát triển mới.
Bãi công Ba Son (8/1925); Ra đời Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí
hội (6/ 1925); Việt Nam Quốc dân Đảng (25/12/1927).
Sự thất bại của các khuynh hướng yêu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh đã dẫn đến sự phân liệt giữa các phong trào yêu nước ở Việt Nam.
Có người cho rằng cách mệnh Việt Nam cần đi theo hướng cải cách để
duy tân đất nước, chấn hưng dân khí. Đây thực chất là con đường cải lương.
(Phan Châu Trinh).
Có người hiểu nó phải đi theo con đường bạo lực, nhưng bạo lực là gì? Của ai?

Thì không được giải quyết thấu đáo (Phan Châu Trinh), bạo động là ám sát.
Sau Đại hội V của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp
chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Tháng 6-1925, Người sáng lập “Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên”, hạt nhân là Cộng sản đoàn, nhằm tập hợp
những thanh niên yêu nước Việt Nam có xu hướng cộng sản chủ nghĩa, chuẩn bị
thành lập Đảng, cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo Thanh niên. Từ năm
1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo
một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau các khoá học một số được
chọn đi học ở Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, một số được
cử đi học Trường Quân sự Hoàng Phố, còn phần lớn trở về nước để “truyền bá
lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân”3.
3

Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. Nxb Văn nghệ, Hà Nội, 1956. tr 71


5
Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp đào tạo
cán bộ tại Quảng Châu được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị
áp bức xuất bản thành sách với tên gọi là Đường Kách mệnh. Tháng 4-1927,
Tưởng Giới Thạch phản bội cách mạng Trung Quốc, đàn áp đảng viên cộng sản
và những người cách mạng. Nguyễn Ái Quốc phải rời Quảng Châu sang Liên
Xô. Mùa thu năm 1928, Người về Thái Lan tiếp tục công việc chuẩn bị thành lập
Đảng.
Những bài giảng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc dùng trong các lớp huấn
luyện của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) vào
những năm 1925-1927, được tập hợp thành quyển sách “Đường cách mệnh” đáp
ứng kịp thời yêu cầu đó. Tác phẩm dài 61 trang (từ trang 257 đến trang 318)
được trình bày 15 chương, mỗi chương là một nội dung, một chủ đề tương đối
độc lập trong một bài giảng: Tư cách người cách mệnh; Vì sao viết sách này?;

Cách mệnh; Lịch sử cách mệnh Mỹ; Cách mệnh Pháp; Lịch sử cách mệnh Nga;
Quốc tế; Phụ nữ quốc tế; Công nhân quốc tế; Cộng sản thanh niên quốc tế; Quốc
tế giúp đỡ; Quốc tế cứu tế đỏ; Cách tổ chức Công hội; Tổ chức dân cày; Hợp tác
xã.
Tóm lại, Đường cách mệnh ra đời xuất phát từ những lý do sau đây:
Thứ nhất, khách quan do phong trào cách mạng của Đông Dương nói
chung và ở Việt Nam nói riêng cho phép và đòi hỏi phải có lý luận khoa học dẫn
đường;
Thứ hai, chủ quan, đáp ứng nhu cầu khách quan đó, Nguyễn Ái Quốc trên
cơ sở đã tiếp thu được chủ nghĩa Lênin và nhận thức sâu sắc sự cần thiết phải
truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam để giác ngộ giai cấp công nhân, nhân dân Việt Nam về con
đường cách mạng Việt Nam, mà trực tiếp là chuẩn bị các tiền đề tư tưởng, chính
trị, tổ chức để thành lập Đảng Công sản Việt Nam.
Tư tưởng cơ bản của tác phẩm Đường cách mệnh truyền thụ những vấn đề
cốt lõi nhất của chủ nghĩa Mác- Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam,
trên cơ sở đó, tuyên truyền về con đường cứu nước vào phong trào yêu nước,


6
phong trào công nhân, góp phần vào xây dựng chính đảng của giai cấp công
nhân, tiến tới đấu tranh giành chính quyền, giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi sự
xâm lược, đô hộ của thực dân Pháp, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, độc lập, tự do, hạnh phúc. Từ đó Đường cách mệnh trở thành “cẩm nang”
cho cán bộ, đảng viên học tập, truyền bá lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin vào
phong trào yêu nước, phong trào công nhân Việt Nam.
1.2. Tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam trong tác phẩm
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã trình bày một
cách khái quát những quan điểm cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường
cách mạng Việt Nam, đó là, phải tập trung vào nhiệm vụ "dân tộc cách mệnh",

để "giành lấy quyền tự do bình đẳng của dân nước mình", nhằm chuẩn bị những
tiền đề cho cuộc cách mạng thứ hai “thế giới cách mệnh” làm cho nước nào, dân
nào cũng được hạnh phúc. Người đã luận giải nội dung cơ bản của giai cấp, đấu
tranh giai cấp, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản. Người đi
thẳng vào bản chất “cách mệnh”. Người nói: “Văn chương và hy vọng sách này
là chỉ trong hai chữ “Cách mệnh! Cách mệnh!!Cách mệnh!!!”
Vì theo Người hiện tại còn nhiều quan điểm nhận thức không đúng về
cách mệnh: “Lý luận và lịch sử cách mệnh có nhiều sách lắm. Pháp nó sợ nên nó
cấm chúng ta học, cấm chúng ta xem, cho nên đồng bào ta đối với hai chữ cách
mệnh còn lờ mờ lắm”. Nguyễn Ái Quốc đã lập luận chặt chẽ, luận giải một cách
ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức của quần chúng nhân
dân về “cách mệnh”:
Theo Người “Cách mệnh” là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi
ra cái tốt. Nguyễn Ái Quốc cũng luận giải và chỉ ra các loại hình cách mạng, chỉ
rõ nguyên nhân của cách mạng tư sản, cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng
vô sản, xét đến cùng là do áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị, mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hoà, đòi hỏi phải giải quyết bằng cách mạng xã hội. Cách
mạng không thể thực hiện bằng con đường cải lương mà chủ yếu bằng giải pháp
là cách mạng bạo lực, Người cũng đã phê phán những quan điểm và nhận thức
sai trái.


7
Từ những vấn đề chung đó, Người đi sâu vào những vấn đề cấp thiết của
cách mạng Việt Nam, vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược và
sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Về tính chất của cách mạng Việt Nam, trong tác phẩm, Bác Hồ chỉ rõ Việt
Nam đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập, đấy là dân tộc cách mệnh, cách
mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Nhưng, cách mạng giải phóng
dân tộc Việt Nam phải là cuộc cách mạng vô sản, phải làm cách mạng vô sản,

phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Chỉ có đi theo con đường cách mạng
vô sản thì mới có độc lập thật sự, độc lập đầy đủ, độc lập bền vững.
Người khẳng định: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là
cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ
thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh
đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới
hòng thoát khỏi vòng áp bức”4. Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là
cách mạng thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng
cái hạnh phúc tự do bình đẳng thật sự chứ không phải cái bình đẳng, tự do giả
dối như đế quốc Pháp khoe khoang bên An Nam”. Như vậy, Bác Hồ khẳng định
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô
sản, con đường cách mạng Tháng Mười Nga mới mang lại độc lập thật sự, mới
mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong tác phẩm, Bác cũng
chỉ rõ, cách mạng Nga và cách mạng Việt Nam phải đi theo chủ nghĩa Mác –
Lênin, phải đi theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân.
Về mục tiêu của cách mạng Việt Nam, Bác Hồ cho rằng giành độc lập dân
tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam phải trải qua hai cuộc
cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa,
giành độc lập dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội. Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ, chỉ có
cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đại đa số dân chúng.
Thông qua giới thiệu những cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, từ Cách
mạng tư sản Mỹ (1776) đến Cách mạng tư sản Pháp (1789), từ Công xã Pari
4

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000, tr.274.


8
(1871) đến Cách mạng Tháng mười Nga (1917) và sau khi so sánh Cách mạng
tư sản với Cách mạng vô sản.

Người nêu rõ: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa
Pháp khoe khoang bên An Nam”5. Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: “làm sao cách
mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít
người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”6.
Như vậy, trong tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: phương hướng cơ
bản của cách mạng Việt Nam là phải đánh đổ đế quốc xâm lược, phong kiến
phản động để giải quyết vấn đề dân tộc, dân chủ. Người đã đặt cách mạng Việt
Nam vào phạm trù, quỹ đạo của cách mạng vô sản nghĩa là làm cách mạng dân
tộc dân chủ, tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Về lực lượng cách mạng, công nông là gốc của cách mệnh, học trò, nhà
buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Ai mà bị áp bức càng nặng, thì
lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết. Cách mệnh là việc chung
của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người. Lực lượng quần
chúng đông đảo nhưng phải dựa trên nền tảng liên minh công nông, lấy công nông làm gốc: “Công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền
chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy
chỉ là bầu bạn của cách mệnh thôi”.
Bên cạnh đề cập đến vai trò của liên minh công nông trong khối đại đoàn
kết dân tộc, Người còn nêu lên: Muốn đoàn kết thì phải làm gì? “Muốn phát huy
được phải giáo dục, giác ngộ cho quần chúng biết được tác hại do chính sách
ngu dân của bọn đế quốc phong kiến. Phải giảng lý luận cách mạng, làm cho
phong trào cách mạng trở nên tự giác, chứ không phải tự phát, cách mệnh phải
có chiến lược, sách lược đúng”. Phải tuyên truyền mở rộng tầm nhìn của quần
chúng nhân dân, không chỉ tình hình trong nước mà còn ở cả phạm vi quốc tế,
nhận thức rõ ai là bạn, ai là thù.
5
6

Hồ Chí Minh, Toàn tập,tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.280.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000, tr.270.


9
Về phương pháp cách mạng, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là quan
điểm cách mạng bạo lực. Người cho rằng giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng
bào, cho nhân loại là công việc “to tát”, cho nên phải “dùng hết sức”, phải
“quyết tâm thì làm chắc được”, “thà chết tự do hơn sống làm nô lệ”. Trong tác
phẩm, Người phê phán các trào lưu manh động, bạo động: Cách mệnh không
phải là bạo động, ám sát làm liều của một cá nhân nào đó: “ám sát là làm liều và
kết quả ít, và giết thằng này còn thằng khác, giết sao cho hết? Cách mệnh thì
phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ các giai cấp áp bức mình, chứ
không phải nhờ năm ba người giết hai ba anh vua, chín mười anh quan mà
được”.
Nhưng phải “biết cách làm thì mới chóng”. “Cách mệnh trước hết phải
làm cho dân giác ngộ”. Tiếp theo tư tưởng khởi nghĩa vũ trang quần chúng giành
chính quyền đề ra từ năm 1924, trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc phát triển
thêm: “dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không thắng nổi”.
“Đời này làm chưa xong, đời sau nối theo làm thì phải xong”. Người chỉ ra
những thiếu sót của những người đi trước như “xúi dân bạo động mà không bày
cách tổ chức”, hoặc “làm cho dân quen tính ỷ lại mà quên tính tự cường”. Tóm
lại là phải có sách lược, mưu chước, kế hoạch, biết lúc nào nên làm, lúc nào
chưa nên làm.
Về đoàn kết quốc tế, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ “Cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mạng trên thế giới là đồng
chí của Việt Nam”. “Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những
đảng cách mệnh trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa (như
Đệ tam quốc tế )” 7. “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ
tam quốc tế”8. Trong quan hệ giữa cách mạng nước ta với bầu bạn thế giới,
Người nhấn mạnh: “Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình tự giúp lấy

mình đã”. Cách mạnh vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa quan hệ mật thiết với nhau và ảnh hưởng thúc đẩy nhau
trong quan hệ bình đẳng. “Việt Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản
7
8

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. tr.281.
Hồ Chí Minh,Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000. tr. 287.


10
Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng
dễ”.
Trong tác phẩm Bác đã nhấn mạnh vai trò quan trọng hàng đầu của
Đảng Cộng sản - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam và
việc lựa chọn mô hình nhà nước trong tương lai.
Về đảng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: muốn đưa cách mạng
đến thắng lợi, trước hết phải có đảng cách mệnh. Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Trong đảng phải
có chủ nghĩa làm cốt, ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo: “Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy”. Đảng thiếu chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn
chỉ nam. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” 9. Sau này trong
nhiều tác phẩm, Hồ Chí Minh tiếp tục đề cập nhiều vấn đề quan trọng, cốt lõi về
Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng cầm quyền, mà cốt lõi là đảng phải là trí tuệ,
đạo đức, quang vinh, để lãnh đạo giai cấp công nhân, dân tộc Việt Nam giữ vững
độc lập dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội
Về mô hình nhà nước trong tương lai khi cách mạng thành công, Nguyễn
Ái Quốc đã khẳng định tinh thần: Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên

làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng
số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần,
thế dân chúng mới được hạnh phúc. Nhận thức này đã giúp Hồ Chí Minh xác
định rõ con đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo quỹ đạo cách mạng vô
sản và thiết lập một thể chế quyền lực thuộc về nhân dân theo mô hình nhà
nước Xô - Viết. Đó chính là con đường: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, để đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa. Như vậy, khác với cuộc cách mạng
vô sản ở các nước chính quốc: giai cấp công nhân giải phóng mình, đi tới (giúp
đỡ) giải phóng các dân tộc bị áp bức và sau đó là giải phóng nhân loại, theo Hồ
Chí Minh, khi tiến hành dân tộc cách mệnh để giành lại độc lập cho Tổ quốc và
9

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000. tr 268.


11
tự do cho nhân dân, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa đã giải
quyết được một phần của nhiệm vụ giải phóng giai cấp, tạo cơ sở để đi tới giải
phóng giai cấp hoàn toàn.
Những nội dung cơ bản trong tác phẩm Đường cách mệnh là tư tưởng
cốt lõi về con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Tác phẩm ra đời lúc bấy
giờ đã góp phần to lớn vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên, vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước một
cách sáng tạo, đúng đắn, kịp thời và có hiệu quả, tạo tiền đề cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Tác phẩm đã chỉ rõ những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, chấm dứt
thời kỳ khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam; nâng phong trào đấu tranh
cuả công nhân và phong trào yêu nước phát triển lên một trình độ mới – đấu tranh tự
giác; góp phần tạo nên thắng của cách mạng Tháng Tám năm 1945 và công cuộc xây
dựng nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Những tư tưởng trong tác phẩm đã góp phần

giáo dục, đào tạo một thế hệ cán bộ cách mạng đầu tiên của Đảng-những hạt giống đỏ
đầu tiên để nhân lên một đội ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước hùng hậu sau này.
Đây là tác phẩm lý luận, trở thành “cẩm nang” không chỉ của phong trào
giải phóng dân tộc Việt Nam xây dựng chế độ xã hội mới mà còn là lý luận chỉ
đạo cả phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa trên thế giới.
Đến nay, những nội dung lý luận trong tác phẩm Đường cách mệnh vẫn
còn giữ nguyên giá trị, nhiều vấn đề lý luận được Người đề cập cách đây 80 năm
vẫn có ý nghĩa thời sự ( như vấn đề tư các người cách mạng; vấn đề xây dựng
đảng cầm quyền; lý luận cách mạng; Con đường cách mạng, lực lượng cách
mạng). Nghiên cứu tác phẩm giúp chúng ta kiên định với con đường đổi mới và
quyết tâm đưa sự nghiệp đổi mới nước ta đi đến thành công.
Đối với giai đoạn hiện nay, tác phẩm Đường Cách Mệnh đã khẳng định sự
lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí
Minh là hoàn toàn có cơ sở khoa học và đúng đắn, để củng cố niềm tin và mục
tiêu lý tưởng, củng cố niềm tin vào sự nghiệp cách mạng, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã


12
hội, đây là sự lựa chọn rất sớm từ trong lịch sử của Bác Hồ, của Đảng và nhân
dân ta, nhưng đây vẫn là vấn đề thời sự nóng bỏng đối với chúng ta hiện nay.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã vận dụng sáng
tạo tư tưởng của Người về con đường cách mạng trong tác phẩm để xác định
ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
2. Sự vận dụng tư tưởng về con đường cách mạng trong tác phẩm
“Đường Kách mệnh”của Đảng ta hiện nay.
2.1. Những thành tựu nổi bật trong vận dụng và hiện thực hóa tư
tưởng về con đường cách mạng Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng và con
đường cách mạng Việt Nam, ngay sau khi ra đời, Đảng ta vận dụng sáng tạo

trong đề ra đường lối lãnh đạo cách mạng và đã có những thành tựu nổi bật, độc
đáo trong tư duy về con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định với mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – nội hàm “cách mạng vô sản” được Bác
Hồ đã nêu trong tác phẩm, sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đã và đang giành
được những thắng lợi to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời là một trong những thắng lợi nổi bật, vĩ đại nhất của cách mạng Việt
Nam trong thế kỷ XX, đã làm cho chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta bị
xóa bỏ, một kỷ nguyên mới mở ra, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội đồng thời, góp phần quan trọng vào tiến trình cách mạng thế giới,
phá vỡ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thực hiện vai trò tiên phong
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và tiến bộ xã hội.
Cách mạng Tháng Tám kết hợp với sức mạnh của chế độ mới - chế độ dân
chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân
Việt Nam tạo nên hợp lực to lớn, giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử
(năm 1954). Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã


13
hội, trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng cả nước. Hai mươi mốt
năm kiên cường kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng mà Đảng đã vạch ra, với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa
Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã
giành thắng lợi oanh liệt, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải
phóng miền Nam, thu non sông về một mối.
Thứ hai, Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc hơn các đặc điểm của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 xác
định:
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ chủ nghĩa xã hội; Từ
một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, đi lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng
sản xuất rất thấp; Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt kéo dài nhiều chục năm,
hậu quả xã hội do chiến tranh để lại rất nặng nề; Các thế lực thù địch thường
xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của
nhân dân ta; Đó là những khó khăn khách quan trên con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, cho thấy thời kỳ quá độ ở Việt Nam là một thời kỳ lịch
sử lâu dài, phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp chưa có tiền lệ.
Bên cạnh đó, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa cũng có nhiều thuận lợi:
Đất nước hòa bình và thống nhất; Dân tộc Việt Nam có truyền thống anh
hùng, bất khuất, nhân dân ta có lòng yêu nước và cần cù lao động; Chúng ta có
một số cơ sở vật chất ban đầu; Thời cơ phát triển do cách mạng khoa học và
công nghệ và xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới tạo ra.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển năm 2011) xác định:
Quá trình xây dựng xã hội XHCN là một quá trình cách mạng sâu sắc,
triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về
chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời


14
kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội đan xen.
Chỉ rõ những thuận lợi cơ bản đó là: Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh
chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; Dân tộc ta là một dân tộc

anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn,
có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; Chúng ta đã từng bước xây dựng được
những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với quá
trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển.
Thứ ba, Về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhận thức này
càng rõ hơn những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Bắt đầu từ Đại hội
VII (tháng 6/1991), Đảng ta đã khái quát các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã
hội. Đại hội X và XI của Đảng đã bổ sung, phát triển các đặc trưng trên.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991 đã khái quát 6 đặc trưng của xã hội chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta
xây dựng là:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới.


15
Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm đổi mới, trên nền
Cương lĩnh năm 1991, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã có sự bổ sung, phát

triển, nêu lên 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Một là, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. (Đây là đặc trưng mới mà
Cương lĩnh năm 1991 chưa đề cập. Sự bổ sung phản ánh yêu cầu diễn đạt chủ
nghĩa xã hội một cách khái quát, ngắn gọn, dễ hiểu nhất).
Hai là, do nhân dân làm chủ. (So với Cương lĩnh năm 1991 đã bỏ cụm từ
“lao động” cho đúng với thực tế khi đã xây dựng về cơ bản chủ nghĩa xã hội).
Ba là, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. (So
với Cương lĩnh năm 1991 đã bỏ cụm từ: “dựa trên chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu” và thay bằng cụm từ mới “quan hệ sản uất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” nhằm tránh sự hiểu lầm, xuyên tạc về
đường lối kinh tế của Đảng ta. Cách diễn đạt này không trái với Cương lĩnh năm
1991 vì quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất hiện đại trong
điều kiện nền kinh tế phát triển cao chính là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa).
Bốn là, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện. (So với Cương lĩnh năm 1991 đã
bỏ cụm từ “bóc lột” xuất phát từ thực tế khi kết thúc thời kỳ quá độ và do khái
niệm “bóc lột” còn có ý kiến khác nhau).
Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. (So với Cương lĩnh năm 1991 đã bổ sung cụm
từ tương trợ).
Bảy là, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. (Đặc trưng này chưa
được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Sự bổ sung thể hiện nhận thức rất mới
của Đảng về Nhà nước xã hội chủ nghĩa).


16

Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới.
Như vậy, so với Cương lĩnh năm 1991, về số lượng, Đại hội X đã bổ sung
hai đặc trưng mới của xã hội xã hội chủ nghĩa và sửa đổi một số ý trong sáu đặc
trưng nêu trong Cương lĩnh năm 1991. Đó là bước phát triển mới của Đảng
trong nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội ở
nước ta
Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội XI tiếp tục bổ sung, hoàn thiện thêm nội
dung các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, gồm:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. (So với Đại hội X,
đưa cụm từ “dân chủ” lên trước “công bằng” cho phù hợp về lý luận và thực tiễn
mối quan hệ dân chủ và công bằng).
- Do nhân dân làm chủ;
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. (Thay đổi so với Đại hội X trong cách diễn
đạt về quan hệ sản xuất nhằm khẳng định quả quyết hơn về quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa khi kết thúc thời kỳ quá độ và để khắc phục tư tưởng chủ quan,
nóng vội muốn nhanh chóng có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa khi chưa có
đủ điều kiện...).
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện. (So với Đại hội X, bỏ cụm từ “con người được giải phóng khỏi áp
bức, bất công” cho phù hợp với thực tế khi kết thúc thời kỳ quá độ);
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển. (So với Đại hội X, bổ sung các cụm từ “tôn trọng” và



17
“phát triển” vì đây là những vấn đề rất quan trọng trong quan hệ dân tộc hiện
nay);
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. (So
với Đại hội X có thay đổi cho phù hợp với xu thế trong thực tiễn quan hệ đối
ngoại của nước ta với các nước trên thế giới).
Đại hội XI cũng khẳng định: để xây dựng được xã hội với các đặc trưng
trên phải tiến hành một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp
giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau.
Thực tiễn sau 30 năm kháng chiến thành công, đất nước bước vào một kỷ
nguyên mới: kỷ nguyên hòa bình, thống nhất và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm đầu, đất nước ta phải đương đầu với những thách thức, khó
khăn chồng chất: hậu quả nặng nề của chiến tranh chưa được khắc phục, thì lại
vừa phải tiến hành cuộc chiến đấu mới để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, vừa phải chống lại sự bao vây, cấm vận
của các thế lực thù địch, vừa phải tiếp tục tìm tòi, khảo nghiệm con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội phù hợp đặc điểm Việt Nam trong điều kiện mới. Cùng với
những khó khăn khách quan, còn có những khuyết điểm chủ quan trong lãnh
đạo, quản lý và cơ chế, chính sách, khiến cho kinh tế - xã hội nước ta lâm vào
khủng hoảng trầm trọng.
Đứng trước yêu cầu của lịch sử, nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
kinh tế  - xã hội, khi đổi mới đã trở thành vấn đề có tầm quan trọng sống còn đối
với dân tộc, bằng bản lĩnh chính trị đã được tôi luyện trong quá trình đấu tranh
cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
sự thật, nói rõ sự thật”, tự phê bình và phê bình sâu sắc, nhận thức lại con

đường, bước đi xây dựng chủ nghĩa xã hội, lắng nghe, tập hợp ý kiến, nguyện


18
vọng và trí tuệ của nhân dân để hoạch định đường lối đổi mới đất nước tại Đại
hội VI của Đảng (năm 1986).
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đáp ứng đòi hỏi
cấp bách của đất nước, phù hợp với xu thế phát triển chung của khu vực và cục
diện thế giới mới. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đã không ngừng nỗ lực, tích cực, chủ động tìm tòi, khám phá và
sáng tạo. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn
cả về lý luận và thực tiễn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng (năm 1991) và 20
năm sau, từ thực tiễn của đất nước, Đảng đã hoạch định Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) - là bước phát triển nhận thức, lý luận quan trọng trong tiến trình đổi mới
đất nước.
Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, với sự nỗ lực của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Hệ thống chính trị được củng cố vững chắc, trong đó việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đạt nhiều thành quả cả về lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Công tác đối ngoại được triển khai sâu rộng, có
hiệu quả theo phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế.
Vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng
cao. Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (LHQ), 5/8 mục tiêu đã về đích
trước năm 2015, được LHQ nhìn nhận là hình mẫu quốc tế trong lĩnh vực xóa
đói giảm nghèo; đưa tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn quốc gia) trên toàn quốc từ
58,1% năm 1993 xuống còn 14,8% năm 2007 và 7,8% năm 2013. Chính phủ
luôn dành nguồn lực lớn cho công tác xóa đói giảm nghèo. Trong giai đoạn 2005

- 2012, Nhà nước đã dành 864.000 tỷ đồng, bình quân mỗi năm dành 120.000 tỷ
đồng cho lĩnh vực này. Vì vậy, tỷ lệ giảm nghèo cả nước đều đạt và vượt chỉ
tiêu, bình quân mỗi năm (giai đoạn 2005 - 2012) giảm từ 2,3% đến 2,5% 10. Bởi
10

Nâng cao hiệu quả các chính sách giảm nghèo, Báo Nhân Dân, ra ngày 08-6-2014, tr. 1 và 3.


19
thế, Chương trình phát triển LHQ đã ghi nhận Việt Nam là một trong mười nước
có mức tăng thu nhập cao nhất trong 40 năm qua..
2.2. Về phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Từ nhận thức ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta xác định phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là không
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Nhận thức của Đảng về các quá trình này ngày
càng hoàn chỉnh hơn.
Trong Văn kiện Đại hội VII, Đảng ta xác định phương hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội ở các nội dung sau đây:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải

thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.


20
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hoá làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những
tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích
chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và
thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái
với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu
nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc
phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các

thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trên cơ sở phương huớng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội nêu trong Cương lĩnh năm 1991, Đại hội X đã sắp xếp lại, điều chỉnh và
bổ sung thành tám quá trình tất yếu phải thực hiện ở nước ta.
Một là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền
tảng tinh thần của xã hội.


21
Bốn là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Năm là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
Sáu là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Bảy là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia.
Tám là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011). So với Cương lĩnh năm 1991 và Đại hội X,
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã hoàn chỉnh và sắp xếp lại thứ tự
các phương hướng cơ bản như sau:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Từ một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội,
tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá. Trong thời đại cách mạng khoa học –

công nghệ, công nghiệp hoá phải kết hợp ngay từ đầu với hiện đại hoá, gắn
với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi
mới. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô
hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mô
hình đó đòi hỏi phải:
- Phát triển các thành phần kinh tế; các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng
được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.


22
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế,
giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối
thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
- Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý,
điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
của Đảng.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội.
Văn hoá là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Để xây dựng xã hội
côn bằng, dân chủ, văn minh phải lấy văn hoá làm nền tảng tinh thần. Cần

tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển
kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai
nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong điều kiện mới,
tình hình mới, cần nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm an ninh quốc gia ngày nay bao gồm: an
ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá, an ninh tư tưởng, an ninh xã
hội. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải
đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi
mới...


23
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Toàn cầu là xu thế tất yếu khách quan đang lôi cuốn nhiều nước tham
gia. Kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chúng ta phải chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động về đường lối, chính sách,
bước đi trong hội nhập. Tích cực chuẩn bị vươn lên tham gia mạnh mẽ hơn,
đầy đủ hơn vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đại
hội XI bô sung cam kết nước ta là “thành viên có trách nhiệm” của các tổ
chức quốc tế mà chúng ta tham gia.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân

dân là mục tiêu và bản chất của chế độ ta. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển. Phát huy dân chủ gắn liền với phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội X, Đại hội XI đều xác định đại đoàn kết
toàn dân tộc vừa là nguồn lực chủ yếu để xây dựng xã hội mới, vừa là nhân tố
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
Nhà nước pháp quyền là sự tiến bộ của nhân loại, trong đó có đặc điểm
nổi bật là bảo đảm quyền tối cao của pháp luật. Nhà nước pháp quyền ở nước
ta là nhà nướccủa nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân. Văn kiện Đại hội XI xác định: xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay là xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước;
xây dựng hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan công quyền; tiếp
tục đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; tích cực phòng ngừa
và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí.


24
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Trong điều kiện hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng là “nhiệm vụ then chốt”, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn phải
được coi là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.


25

KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về chủ nghĩa xã hội và những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam có nội dung phong phú, toàn diện và hết sức sâu sắc.
Tác phẩm “Đường Kách Mệnh” ra đời lúc bấy giờ đã góp phần truyền bá lý luận
chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở
nước ta. Tư tưởng của Người về con đường cách mạng với những vấn đề như:
tính chất, mục tiêu, phương pháp, lực lượng, vai trò của đảng cộng sản… đã trở
thành “cẩm nang” và có ý nghĩa hiện thời trong phong trào giải phóng dân tộc
Việt Nam, xây dựng chế độ xã hội mới mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã vận dụng trung
thành, sáng tạo những tư tưởng của Người trong từng giai đoạn, tiến trình của
cách mạng để đề ra chủ trương, đường lối cách mạng đúng đắn. Đảng ta kiên
định với con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước đã chứng minh cho sự vận dụng đúng
đắn của Đảng ta với những tư tưởng trong tác phẩm: Đặc điểm, mô hình, đặc
trưng, mục tiêu, phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội được xác định ngày càng
rõ hơn.


×