Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Quyền phản tố và việc thực hiện quyền phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.6 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
BẢNG TỪ VIỂT TẮT
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
NỘI DUNG.....................................................................................................1
I. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN PHẢN TỐ:.................................................1
1. Quyền khởi kiện:...................................................................................1
2. Quyền phản tố:.....................................................................................1
II. VIỆC THỰC HIỆN YÊU CẦU PHẢN TỐ CỦA BỊ ĐƠN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ:..........................................................................................3
1. Thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố:.....................................................3
2. Điều kiện của yêu cầu phản tố:............................................................4
3. Trình tự, thủ tục thụ lý, giải quyết yêu cầu phản tố:............................6
III. NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN
QUYỀN PHẢN TỐ CỦA BỊ ĐƠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN:................................................................7
1. Trong thực tiễn:....................................................................................7
2. Quy định pháp luật về quyền phản bố trong BLTTDS:.......................8
3. Phạm vi áp dụng:..................................................................................8
KẾT LUẬN....................................................................................................8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................9


BẢNG TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTP

Hội đồng thẩm phán


CAND

Công an nhân dân

NXB

Nhà xuất bản


MỞ ĐẦU
Trong lĩnh vực dân sự nói chung, khi tham gia tố tụng, các bên đều có
quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Nguyên đơn là người đi kiện không có nghĩa họ
là người đúng hoàn toàn, không giống như trong lĩnh vực hình sự, bị cáo là
người phải chịu tội và không có quyền kiện lại người bị hại. Tuy nhiên, trong
lĩnh vực dân sự lại khác, các bên bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, bị
đơn có thể kiện lại nguyên đơn khi xét thấy những yêu cầu của nguyên đơn là
chưa đúng và không có căn cứ mà đó gọi là quyền phản tố của bị đơn. Vì vậy, để
làm rõ hơn về vấn đề quyền phản tố của bị đơn trong bài này em xin được chọn
đề số 10 : “Quyền phản tố và việc thực hiện quyền phản tố của bị đơn trong tố
tụng dân sự”
NỘI DUNG
I.
KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN PHẢN TỐ:
1. Quyền khởi kiện:
Quyền phản tố cũng là một quyền khởi kiện. Chính vì vậy, để hiểu thế nào
là quyền phản tố thì cần hiểu về quyền khởi kiện. Trước đây Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2004 ban hành đã phân chia rạch ròi giữa vụ án dân sự và việc dân sự.
Theo đó, vụ án dân sự là những vụ có sự tranh chấp về quyền lợi giữa các bên
đương sự, còn việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh
chấp. Theo quy định tại điều 186 BLTTDS 2015 quy định: “ Cơ quan, tổ chức,

cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ
án ( sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” và chỉ trong vụ án dân sự mới tồn
tại khái niệm nguyên đơn và bị đơn. Nguyên đơn là người đi khởi kiện khi cho
rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm, còn bị đơn là người bị
nguyên đơn khởi kiện.
2. Quyền phản tố:
Sau khi nhận và thụ lý đơn khởi kiện của nguyên đơn, Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án phải gửi thông báo thụ lý vụ án đó cho bị đơn. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 199 BLTTDS 2015 quy định về quyền, nghĩa vụ của
bị đơn khi nhận được thông báo thì “Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận
được thông báo, bị đơn phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình về yêu
cầu của người khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu

1


cầu độc lập ( nếu có) ”1. Theo khoản 4 Điều 72 và khoản 1 Điều 200 BLTTDS
2015, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nếu có liên quan đến yêu cầu
của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc
đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến yêu cầu độc lập.
Ta có thể thấy rằng “Phản tố” được hiểu là một quyền của người “bị tố” người bị kiện hay chính là bị đơn – nhằm đưa ra những yêu cầu “phản” lại với
những “tố” - yêu cầu của người khởi kiện. “Phản” ở đây được hiểu theo nghĩa
rộng có tính đối lập với yêu cầu khởi kiện nhưng sự đối lập không chỉ bao gồm
việc loại trừ trực tiếp yêu cầu của nguyên đơn mà có thể theo hướng bù trừ
nghĩa vụ được nêu trong yêu cầu của nguyên đơn.
Có thể chúng ta sẽ thấy yêu cầu phản tố này có sự tương đồng với việc
đưa ra ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện do các yêu cầu này đều liên hệ mật thiết

với yêu cầu khởi kiện ban đầu của nguyên đơn, nhưng hai yêu cầu này hoàn toàn
khác biệt về hệ quả pháp lý và mỗi bên trong vụ án đều phải hiểu rõ các quyền
này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Việc đưa ra ý kiến bằng văn bản của bị đơn với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ( quyền phản tố), vì đây là quyền, vì vậy bị đơn có thể thực hiện
hoặc không thực hiện.
Như vậy, yêu cầu phản tố của bị đơn chỉ phát sinh khi có việc nguyên đơn
kiện bị đơn và Tòa án có thẩm quyền đã thụ lý vụ án đối với yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, sau đó bị đơn cũng cho rằng nguyên đơn xâm phạm quyền và
lợi ích hợp pháp của mình nên có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cùng với việc
giải quyết yêu cầu của nguyên đơn trong cùng một vụ án. Trường hợp bị đơn có
yêu cầu phản bác đối với yêu cầu của nguyên đơn (như yêu cầu Tòa án không
chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của
nguyên đơn) thì đây là phản bác ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên
đơn chứ không phải là yêu cầu phản tố.
Thực chất, phản tố là quyền của bị đơn trong vụ án dân sự. Thực chất việc
phản tố của bị đơn là việc bị đơn khởi kiện ngược lại người đã kiện mình, nhưng
được xem xét, giải quyết cùng với đơn kiện của nguyên đơn trong vụ án vì việc
giải quyết yêu cầu của hai bên có liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu yêu cầu của
bị đơn là một việc hoàn toàn không liên quan đến đơn khởi kiện của nguyên đơn
1 Nguyễn

Thị Hạnh, “Thời hạn bị đơn có quyền yêu cầu phản tố trong tố tụng
dân sự”, Tạp chí Toà án nhân dân, Số 2/2011, tr. 37 - 39, 20
2


thì bị đơn phải khởi kiện thành một vụ án dân sự mới. Như vậy, yêu cầu phản tố
của bị đơn chỉ phát sinh khi có việc nguyên đơn bị kiện và Tòa án có thẩm
quyền đã thụ lý vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, sau đó, bị đơn

cũng cho rằng nguyên đơn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình
nên có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cùng với việc giải quyết yêu cầu của
nguyên đơn trong một vụ án. Trường hợp bị đơn có yêu cầu, Tòa án bác bỏ yêu
cầu của nguyên đơn (như yêu cầu Tòa án không chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn), thì đây chỉ là phản
bác ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn chứ không phải là yêu cầu
phản tố. Cùng với việc nộp ý kiến bằng văn bản về yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn cho Tòa án, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố và đây được coi
là yêu cầu khởi kiện của bị đơn đối với nguyên đơn.
Tóm lại, quyền phản tố có thể được hiểu là quyền của bị đơn về việc bị
đơn khởi kiện lại nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập. Mục đích của yêu cầu phản tố là để bù trừ nghĩa vụ, khấu trừ nghĩa vụ
hoặc loại trừ một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ đối với yêu cầu của nguyên đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
II. VIỆC THỰC HIỆN YÊU CẦU PHẢN TỐ CỦA BỊ ĐƠN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ:
1. Thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố:
Để được Tòa án thụ lý, giải quyết trong cùng vụ án thì phản tố của bị đơn đối
với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải
đáp ứng được những yêu cầu nhất định quy định tại khoản 1 Điều 200 BLTTDS
2015 đó là: “Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình
đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với
nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.” và
quan trọng đó là yêu cầu này phải được đưa ra kịp thời, đúng thời điểm.
Trước đây khoản 1 Điều 176 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 có
quy định: “Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối
với yêu cầu của người khởi kiện, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với
nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.”. Đồng
thời, khoản 3 Điều 176 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 cũng chỉ ra rõ:
“ Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Tòa án ra quyết định đưa

vụ án ra xét xử sơ thẩm”. Với các quy định này có thể hiểu, khoảng thời gian mà
bị đơn được quyền đưa ra yêu cầu phản tố chỉ trong khoảng thời gian từ khi
nhận được thông báo thụ lý vụ án của Tòa án cho đến trước thời điểm Tòa án
ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên, thời điểm bắt đầu của yêu
3


cầu phản tố đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
sẽ muộn hơn. Bởi vì, về nguyên tắc, yêu cầu độc lập chỉ được đưa ra sau khi
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án và
họ được đưa vào tham gia tố tụng trong cùng vụ án. Nhưng đến Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 đã có quy định khác so với BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung
năm 2011 về thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn. Đó là tại khoản 3
Điều 200 BLTTDS 2015 quy định: “ Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố
trước thời điểm mở phiên tòa họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải”2.
So với quy định tại khoản 3 Điều 176 BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung
năm 2011, thời hạn để bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố theo quy định tại khoản 3
Điều 200 BLTTDS 2015 đã bị rút ngắn hơn, cụ thể là trước thời điểm mở phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, chứ không
còn được đến thời điểm trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ
thẩm. Quy định như vậy giúp cho việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn của
Tòa án hợp lý hơn và chủ động hơn. Bởi lẽ, nếu quy định như trước đây sẽ dẫn
tới trường hợp Tòa án đã tiến hành hòa giải xong đối với vụ án thì bị đơn mới
đưa ra yêu cầu phản tố. Khi đó, Tòa án lại phải tiến hành các thủ tục xác minh,
thu thập chứng cứ, sau đó mới tiến hành hòa giải riêng với yêu cầu phản tố của
bị đơn và như vậy việc giải quyết vụ án sẽ bị kéo dài, gây tốn kém về thời gian,
tiền bạc, công sức của cơ quan tiến hành tố tụng và của các đương sự.
2. Điều kiện của yêu cầu phản tố:
Yêu cầu phản tố của bị đơn chỉ được chấp nhận khi thuộc một trong các

trường hợp sau đây theo quy định tại khoản 2 Điều 200 BLTTDS 2015.
Cùng với đó là các khoản 3, 4 và 5 Điều 13 Nghị quyết số 05/2012/NQHĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ
án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS 2004 còn hướng dẫn chi tiết các điều
kiện của yêu cầu phản tố. Mặc dù hiện nay BLTTDS 2015 đã thay thế BLTTDS
2004 nhưng những quy định về điều kiện của yêu cầu phản tố trong bộ luật tố
tụng dân sự mới so với bộ luật tố tụng dân sự cũ không có sự thay đổi, chính vì
thế vẫn có thể áp dụng Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để phân tích vấn đề này.
Trước hết yêu cầu phản tố phải là yêu cầu không cùng với yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
2 Bộ

luật tố tụng dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015
4


Ví dụ: Nếu nguyên đơn đưa ra yêu cầu về việc trả tiền theo hợp đồng mua
bán, bị đơn đưa ra ý kiến là chỉ chi trả một phần hoặc không chấp nhận trả tiền
phát sinh từ hợp đồng mua bán đó cho nguyên đơn thì đó không phải là yêu cầu
phản tố mà chỉ được coi là ý kiến của bị đơn với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn bởi yêu cầu của bị đơn cũng về nghĩa vụ trả tiền phát sinh từ một hợp đồng
như của nguyên đơn. Nhưng nếu như yêu cầu của bị đơn là yêu cầu nguyên đơn
trả tiền cho mình phát sinh từ hợp đồng mua bán khác thì có thể được coi là yêu
cầu phản tố vì tuy là cùng một nghĩa vụ trả tiền nhưng nó lại phát sinh từ hợp
đồng mua bán khác – có nghĩa là tính chất đã khác với yêu cầu của nguyên đơn
– việc xác định cụ thể đó có phải là yêu cầu phản tố không còn phải căn cứ vào
các yếu tố được phân tích dưới đây.
Tiếp theo, để xác định như thế nào là yêu cầu phản tố, thì yêu cầu đó phải
thuộc một trong ba trường hợp như đã quy định tại khoản 2 Điều 200 BLTTDS

2015
Thứ nhất, với trường hợp yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu
của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là
trường hợp bị đơn có nghĩa vụ đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập và nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập cũng có nghĩa vụ đối với bị đơn; do đó, bị đơn có yêu
cầu Toà án giải quyết để bù trừ nghĩa vụ mà họ phải thực hiện theo yêu cầu của
nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Trong
Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP đã lấy ví dụ sau: “Nguyên đơn A có đơn khởi
kiện yêu cầu bị đơn B phải trả lại tiền thuê nhà còn nợ của năm 2005 là năm
triệu đồng. Bị đơn B có yêu cầu đòi nguyên đơn A phải thanh toán cho mình tiền
sửa chữa nhà bị hư hỏng và tiền thuế sử dụng đất mà bị đơn đã nộp thay cho
nguyên đơn là ba triệu đồng. Trường hợp này, yêu cầu của bị đơn B được coi là
yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn A”. Như vậy nghĩa vụ bù trừ ở đây là nghĩa
vụ trả tiền cụ thể số tiền bên B nợ tiền thuê nhà của bên A có thể được bù trừ với
số tiền bên B đã bỏ ra sửa chữa căn nhà.
Thứ hai, với trường hợp yêu cầu phản tố của bị đơn dẫn đến loại trừ việc
chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố
lại đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập và nếu yêu cầu đó được chấp nhận, thì loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc
toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập vì không có căn cứ. Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP đã lấy ví dụ sau:
“ A có chiếc xe ô tô thuộc sở hữu riêng đã bán cho C, nhưng nói với con (B là
5


con của A) là cho C thuê mỗi tháng năm triệu đồng. Sau đó A chết, B khởi kiện
yêu cầu C phải thanh toán tiền thuê xe trong một năm qua là sáu mươi triệu
đồng. C có yêu cầu phản tố yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu xe ô tô và

có tranh chấp. Nếu Toà án chấp nhận yêu cầu phản tố của C, thì dẫn đến không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu của B đòi C thanh toán tiền thuê xe ô tô.” Trường
hợp này yêu cầu phản tố của C đã loại trừ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn B.
Thứ ba, với trường hợp có sự liên quan giữa yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu
cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập là trường hợp hai yêu cầu này có mối quan hệ với nhau và nếu được giải
quyết trong cùng một vụ án, thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và
nhanh chóng hơn. Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP đã lấy ví dụ sau: “ Chị M
khởi kiện yêu cầu anh N phải trợ cấp nuôi con P một tháng ba trăm ngàn đồng.
Anh N có yêu cầu phản tố yêu cầu Toà án xác định P không phải là con của
anh”. Trường hợp này, yêu cầu của anh N không bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu
của chị M cũng không làm triệt tiêu yêu cầu của chị M. Yêu cầu của chị M vẫn
chính đáng nếu như P là con anh N, tuy nhiên việc giải quyết yêu cầu này sẽ dẫn
tới kết luận cuối cùng về việc giải quyết yêu cầu của chị M.
Trên thực tế, các yêu cầu của nguyên đơn có thể phức tạp hơn, và việc
đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn cũng có thể trên nhiều phương diện, có thể
thuộc đồng thời 3 trường hợp trên hoặc chỉ thuộc một trường hợp,… và việc
chấp nhận yêu cầu phản tố một phần dựa trên quan điểm của thẩm phán giải
quyết vụ việc dân sự.
3. Trình tự, thủ tục thụ lý, giải quyết yêu cầu phản tố:
Thủ tục yêu cầu phản tố của bị đơn được thực hiện theo quy định của
BLTTDS về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Có nghĩa là bị đơn phải soạn
đơn phản tố bằng văn bản và gửi tới Tòa án, sau đó bị đơn sẽ phải thực hiện
nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí như nguyên đơn. Thời hạn chuẩn bị xét xử sẽ được
tính lại kể từ ngày bị đơn nộp tạm ứng án phí hoặc trong trường hợp bị đơn được
miễn án phí thì tính từ ngày Tòa án nhận được đơn phản tố.
Bên cạnh những yếu tố về trình tự thủ tục thì hệ quả pháp lý cũng thay đổi
cơ bản nếu như bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố. Cụ thể, thay vì trước kia bị đơn
không có nghĩa vụ chứng minh cho ý kiến của mình thì bây giờ bị đơn phải chủ

động trong việc chứng minh yêu cầu phản tố của mình. Khi nguyên đơn rút đơn
khởi kiện, nếu bị đơn không đưa ra yêu cầu phản tố thì thẩm phán sẽ đình chỉ
giải quyết vụ việc, tuy nhiên nếu như bị đơn đã đưa ra yêu cầu phản tố thì vai trò
của các bên sẽ thay đổi, bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn và ngược lại nguyên
6


đơn sẽ trở thành bị đơn, vụ án sẽ tiếp tục được giải quyết ( điểm b, khoản 2 Điều
217 BLTTDS 2015) .
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy việc thực hiện quyền phản tố của bị
đơn có sự tác động to lớn tới quá trình giải quyết vụ việc về mặt nội dung và
hình thức. Thực tế, bị đơn thường lỡ mất các quyền này do không biết, cụ thể về
mặt nội dung với những người dân bình thường, không am hiểu pháp luật
thường không biết cách trình bày yêu cầu của mình rõ ràng mà chỉ lồng ghép các
với các ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, về mặt thủ tục, người dân
không biết trình tự thủ tục nếu đưa ra yêu cầu phản tố mà các cán bộ Tòa án
không hướng dẫn cụ thể. Như vậy, pháp luật cần quy định rõ ràng, dễ hiểu hơn
về quyền này cũng như trách nhiệm của các cán bộ tòa án trong việc phổ biến
quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như việc hướng dẫn các bên trong việc thực
hiện quyền của mình để pháp luật đi vào đời sống và đảm bảo được chức năng
bảo vệ công lý của mình.
III. NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN
QUYỀN PHẢN TỐ CỦA BỊ ĐƠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN:
1. Trong thực tiễn:
Thực tiễn tố tụng dân sự cho thấy, việc xác định đúng yêu cầu phản tố của
bị đơn để chấp nhận, xem xét giải quyết trong cùng một vụ án là điều không dễ
dàng đối với thẩm phán. Nhiều trường hợp xác định không chính xác yêu cầu
phản tố dẫn đến vụ án bị Tòa án cấp trên hủy để giải quyết lại khiến việc giải
quyết vụ án bị kéo dài gây bức xúc cho đương sự. Có sự xác định không chính

xác như vậy là do BLTTDS không quy định rõ về yêu cầu phản tố của bị đơn tại
khoản 2 Điều 200 BLTTDS 2015 nên đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau về
yêu cầu phản tố của bị đơn đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập3.
Mặc dù, yêu cầu phản tố chỉ được chấp nhận khi đảm bảo một trong ba
điều kiện tại điểm a, b, c khoản 2 Điều 200 BLTTDS 2015. Tuy nhiên, nếu như
hai điều kiện tại điểm a, b khoản 2 Điều 200 BLTTDS 2015 có mục đích để bù
trừ nghĩa vụ hoặc loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu độc lập
thì điều kiện tại điểm c khoản 2 Điều 200 BLTTDS 2015 lại chỉ quy định yêu
cầu phản tố có sự liên quan với yêu cầu độc lập và nếu được giải quyết trong
cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án đó được chính xác và nhanh
3 Bình

luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chủ biên TS.Bùi Thị
Huyền, Nxb Lao động, năm 2016
7


hơn. Do đó, khi người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì dù
yêu cầu đó đối với nguyên đơn hay đối với bị đơn thì bị đơn đều có quyền yêu
cầu phản tố đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Tuy nhiên, cần có sự hiểu biết, áp dụng thống nhất, cần có quy định cụ thể về
vấn đề này.
2. Quy định pháp luật về quyền phản bố trong BLTTDS:
Quy định về quyền phản tố của bị đơn trong BLTTDS cũng không thống
nhất. Tại khoản 1 Điều 200 BLTTDS 2015 quy định, bị đơn có quyền yêu cầu
phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập. Tuy nhiên, khoản 4 Điều 72 BLTTDS 2015 chỉ quy định bị đơn có
quyền phản tố đối với nguyên đơn mà không quy định quyền phản tố đối với
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Để có sự thống nhất,

cần bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 72 BLTTDS cho tương thích với quy
định tại khoản 1 Điều 200 BLTTDS.
3. Phạm vi áp dụng:
Về phạm vi áp dụng yêu cầu phản tố, theo quy định tại khoản 1 Điều 200
BLTTDS 2015, bị đơn có yêu cầu phản đối chỉ áp dụng đối với nguyên đơn hoặc
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Cho nên, trong
trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập thì
bị đơn không có quyền phản tố đối với họ, bất kể để giải quyết đúng đắn vụ án
cần phải giải quyết yêu cầu này của bị đơn. Để khắc phục vướng mắc này, cần
mở rộng phạm vi yêu cầu phản tố của bị đơn. Theo đó, dành quyền cho bị đơn
yêu cầu phản tố đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bất kể người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hay không trong những trường
hợp nếu yêu cầu của bị đơn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
không có yêu cầu độc lập được giải quyết bằng vụ án độc lập sẽ không đảm bảo
kịp thời quyền lợi của các đương sự trong vụ án.
KẾT LUẬN
Mặc dù Bộ luật tố tụng dân sự 2015 mới ra đời thay thế cho Bộ luật tố
tụng dân sự 2004 ( sửa đổi bổ sung 2011) nhưng vẫn còn những điểm hạn chế
trong đó có những quy định về yêu cầu phản tố của bị đơn như đã nói ở trên.
Chính vì vậy, cần có những nghị định, thông tư hướng dẫn vấn đề này để các
quy định này được hiểu thống nhất và áp dụng nó được hiệu quả hơn, tránh
những sai lầm trong thực tiễn.

8


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam”,Trường Đại học Luật Hà Nội,
NXB Công an nhân dân, năm 2017.
2. Bộ luật tố tụng dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm

2015.
3. Bộ luật tố tụng dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011).
4. Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chủ biên TS.Bùi
Thị Huyền, Nxb Lao động, năm 2016.
5. Học viện tư pháp, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội,
2007.
6.

Nguyễn Thị Hạnh, “Thời hạn bị đơn có quyền yêu cầu phản tố trong tố
tụng dân sự”, Tạp chí Toà án nhân dân, Số 2/2011, tr. 37 - 39, 20.

7.



8.
9.
10. />11. />
9



×