Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Thử nghiệm kích thích cá sặc rằn sinh sản với kích thích tố khác nhau ở liều lượng thấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.55 KB, 33 trang )

THỬ NGHIỆM KÍCH THÍCH CÁ SÃC RẰN
SINH SẢN VỚI KÍCH THÍCH TỐ KHÁC NHAU
Ở LIỀU LƯƠNG THẤP

1


LỜI CẢM TA
Sau 2 tháng thực tập từ tháng 4 năm 2010 đến tháng 6 năm 2010, tại phường Lê Bình quận Ninh Kiều - TP. cần Thơ, áp dụng những kiến thức đã học kết hợp với kinh
nghiệm thực tế, nay luận văn đã được chỉnh sửa và hoàn thành.
Trước hết em xin chân thành cảm tạ Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Tây Đô đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến thầy Nguyễn Văn Kiểm, thầy
Nguyễn Thành Tâm đã tận tình chỉ dạy cho em trong quá trình học tập đã hướng dẫn
chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn đến tất cả quý Thầy Cô - Khoa Sinh Học ứng Dụng Trường Đại Học Tây Đô đã tận tình dạy bảo, truyền đạt cho em những kiến thức quý
báu ừong suốt thời gian học và tạo mọi điều kiện thuận lợi để luận văn được hoàn
thành, tạo dựng hành ưang để em bước vào cuộc sống sau này.
Cuối cùng em xin cảm ơn đến gia đình, bạn bè, cùng tập thể lớp thuỷ sản KI đã giúp
đỡ, động viên em trong suốt quá ừình học tập và thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn và ghi nhớ !

Cần thơ, ngày tháng năm
Sinh viên thực hiện


TÓM TẮT
Cá Sặc Rằn Ợrichogaster pectorralỉs) một loài cá quen thuộc và được xem là đặc sản của
đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nhờ phẩm chất thịt thơm, ngon, có giá trị ở sản
phẩm tưoi và đặc biệt là sản phẩm làm khô. Nhờ khả năng chịu đựng tốt với các điều
kiện môi trường mà cá Sặc Rằn được chú ý và ngày càng phát triển rộng rãi.


Nhằm ngày càng hoàn thiện quy ưình sản xuất giống đáp ứng nhu cầu con giống ngày
càng đa dạng cho người dân, đề tài kích thích cá Sặc Rằn sinh sản với các liều lượng
kích thích tố khác nhau được thực hiện với 3 thí nghiệm, mỗi thí nghiệm được thực
hiện với 3 nghiệm thức khác nhau về nồng độ và chia làm 2 đợt sản xuất (đợt thứ 1 tiến
hành vào cuối tháng 4, đợt 2 tiến hành vào cuối tháng 5).
Kết quả sử dụng kích thích tố LRH-a + Motilium qua 2 đợt cho cá Sặc Rằn sinh sản
nhận thấy liều lượng 100 |ig LRH-a + 5 mg Motilium cho kết quả sinh sản tốt với sức
sinh sản thực tế trung bình 149.934 trứng/kg, các chỉ tiêu sinh sản như tỷ lệ đẻ 66,5%,
tỷ lệ thụ tinh của trứng 73%, tỷ lệ nở 77%, tỷ lệ sống cá con 91%.
Đối với việc sử dụng não thuỳ thì ở cả hai đợt sinh sản cá đều không sinh sản.
So với việc sử dụng LRH-a + Motilium và não thuỳ, kích thích tố HCG + não thuỳ
được cho là hormon sử dụng có hiệu quả để kích thích cá Sặc Rằn sinh sản và liều
lượng thích hợp từ 1.000 Ul/kg - 1.500 Ul/kg kết hợp với 2 mg não thuỳ, sức sinh sản
thực tế trung bình dao động khoảng 177.000 trứng/kg, tỷ lệ đẻ 100%, tỷ lệ thụ tinh
ưung bình 68%, tỷ lệ nở 71%, tỷ lệ sống cá con 83%.
TA khóa: cá £Vc R 'lĩ, Trichogaster pectorrali,sinh sHn, kích thích t-1.


CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi
và các kết quả của nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp nào
khác.

Ngày tháng năm


MUCLUC
••

DANH MỤC TỪ VIẾT TÁT

ĐBSCL: Đồng bằng Sông Cửu Long
HCG: Human Chorionic Gonadotropin
LRH-a: Lutienizing Releasing Hormon:
TGHƯ: Thời gian hiệu ứng
SSSTT: Sức sinh sản thực
tế TLĐ: Tỷ lệ đẻ
TLTT: Tỷ lệ thụ tinh
TLS: Tỷ lệ sống NT:
Nghiệm thức NT1:
Nghiệm thức 1 NT2:
Nghiệm thức 2 NT3:
Nghiệm thức 3 h:
Giờ


CHƯƠNG 1
ĐÃT VẤN ĐẺ
1.1 Giói thiệu
Trong những năm gần đây, để đáp ứng nhu cầu con giống phục vụ cho nghề nuôi cá
nước ngọt theo phương châm đa dạng hoá đối tượng, có nhiều loài cá có giá trị kinh tế
đã được nghiên cứu và cho sinh sản thành công: cá Tra, cá Basa, cá Lóc, cá Bống
tượng, cá Leo,.. .Bên cạnh việc phát triển các nguồn lợi trên thì cũng cần củng cố việc
sản xuất giống các loại cá đồng như: cá Rô đồng, Trê vàng, cá Sặc Rằn.. .Cá Sặc Rằn
Ợrichogaster pectorralis) là loài cá có chất lượng thịt thơm ngon, được xem là đặc sản
của ĐBSCL, có giá trị ở cả sản phẩm tưoi và đặc biệt là sản phẩm làm khô.
Cá Sặc Rằn sống ở vùng trũng phèn, rừng tràm, ruộng lúa ven biển,...được nhiều ngưòi
dân chọn nuôi theo nhiều mô hình nuôi khác nhau: vườn ao chuồng (VAC), Heo - Cá
Cá Sặc Rằn có khả năng thích nghi tốt với điều kiện bất lợi của môi trường: mực nước
thấp, nhiệt độ cao, độ ưong thấp, ngoài ra do có cơ quan hô hấp phụ nên cá có thể sống
được môi trường có pH thấp, hàm lượng oxy thấp (Bonsoom, 1986).

Sản lượng cá Sặc Rằn tương đối cao so với một số loại cá đồng khác. Tuy nhiên, ưong
những năm gần đây sản lượng cá Sặc Rằn ngoài tự nhiên đã giảm đáng kể, sản lượng
cá khai thác ít đi, cở cá thu hoạch nhỏ, chủ yếu tập trung ở một số địa phương thuộc
tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, An Giang. Một số vùng khác thì sản lượng cá Sặc Rằn đã ưở
nên khan hiếm. Việc đưa cá Sặc Rằn vào sinh sản nhân tạo nhằm cung cấp giống đảm
bảo đủ nhu cầu con giống cho ngưòi nuôi vẫn chưa thật sự mang lại hiệu quả cao.
Nguyên nhân là khi kích thích cho cá sinh sản thì sức sinh sản thực tế biến động lớn,
phụ thuộc rất lớn vào mùa vụ, chất lượng cá bố mẹ không ổn định ...
Hiện nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về việc cho cá Sặc Rằn sinh sản nhân tạo, tuy
nhiên các kết quả của những tác giả này hoàn toàn khác biệt nhau và cũng chưa thể xác
định được liều lượng kích thích tố thấp nhất gây rụng trứng ở cá Sặc Rằn.
Vì vậy, việc tìm ra liều lượng kích thích tố thấp nhất có tác dụng tốt lên sự sinh sản của
cá rất quan trọng. Do đố đề tài: ” T h ử n g h i ệ m k í c h t h í c h c á S ặ c R ằ n s i n h
sản vói các loại kích thích tố khác nhau ở các liều lượng thấp”
được thực hiện.


1.2 Mục tiêu
• Xác định liều lượng kích thích tố thấp nhất có tác dụng gây rụng và đẻ trứng ở
cá Sặc Rằn.


Rèn luyện và nâng cao kỹ năng sản xuất giống cá Sặc Rằn.
• Chủ động nguồn giống, góp phần hoàn chỉnh quy ưình sản xuất giống cá Sặc
Rằn.
1.3 Nội dung
• Nghiên cứu ảnh hưởng của kích thích tố ở liều lượng khác nhau tới sự sinh sản
cá Sặc Rằn.




Theo dõi một số chỉ tiêu sinh sản của cá


CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Đặc đỉễm phân loại và phân bố của cá Sặc Rằn
2.1.1

Đặc điểm phân loạỉ

Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) định loại cá Sặc Rằn như sau:
Ngành: Vertebrata
Ngành phụ: Craniata
Tổng lớp: Gnathostomata
Lớp: Osteichthyes
Lớp phụ: Actinopterygii
Tổng bộ: Percomorpha
Bộ: Pereiíòrmes
Bộ phụ: Anabantoỉdeỉ
Họ: Anabantidae
Giống: Trichogaster
Loài: Trichogaster pectoralis (Regan, 1910)
Tên tiếng Anh: Snakeskin Gouramy Tên địa phương: Cá Sặc Rằn, cá
Sặc Bổi, cá Lò Tho...

Hình 2.1: Hình dạng bên ngoài cá Sặc Rằn (Nguin; FishBase)
Yasuhiko Taki, (1974) đã mô tả một số mẫu vật cá Sặc Rằn thu được tại các thủy vực
của Lào như sau:



Cá có dạng hình thuỗn. Miệng nhỏ, hướng lên trên. Hàm dưới ưồ. Đầu phủ vẩy. Mắt
lớn. Vi lưng có các tia cứng ngắn, tia mềm kéo dài. Có một số vẩy nhỏ chồng lên gốc
vi lưng. Vi hậu môn rất dài. Vi ngực phát triển. Cá có màu xám sậm nâu với các tia
xanh đen hoặc xám đen chạy dọc bề mặt cơ thể và có một ít vân ngang màu nâu đậm.
Trên vi lưng, vi hậu môn, vi đuôi có chấm đen sậm nhỏ.
Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) sau khi phân tích 23 mẫu thu thập ở
nhiều nơi tại vùng ĐBSCL đã mô tả về cá Sặc Rằn như sau: Đầu nhỏ, dẹp bên. Mõm
ngắn. Miệng hơi hướng trên. Mắt lớn. Thân cá dẹp bên. vẩy lược phủ khắp thân và
đầu, có một số vẩy nhỏ chồng lên gốc vi hậu môn, vi đuôi, vi bụng, vi ngực. Đường
bên bắt đầu từ mép trên lỗ mang, cong lên phía trên một đoạn ngắn rồi uốn cong tới
trục giữa thân sau đó chạy ngoằn ngoèo đến giữa gốc vi đuôi. Khởi điểm vi lưng ngang
với vẩy đường bên thứ 17 - 19. Ở cá đực khi trưởng thành, vi lưng kéo dài tới khỏi gốc
vi đuôi còn cá cái thì vi này ngắn, chưa tới gốc vi đuôi. Gốc vi hậu môn kéo dài. Khởi
điểm vi hậu môn ngang với vẩy đường bên thứ 5 và phần cuối nối với vi đuôi. Gai vi
lưng, vi hậu môn cứng, nhọn. Tia phân nhánh đầu tiên của vi bụng kéo dài có thể chạm
tới ngọn vi đuôi. Vi đuôi chẽ hai, rãnh chẻ cạn và phần cuối cuả 2 thùy vi đuôi tròn.
Phần bụng của thân và đầu có màu xanh đen hoặc xám đen và lợt dần xuống bụng. Có
nhiều sọc đen nằm xiên vắt ngang thân cá. Chiều rộng 2 sọc lớn hơn khoảng cách 2
sọc. Ở cá nhỏ các sọc ngang chưa rõ nhưng có 1 sọc dọc chạy từ mõm tới gốc vi đuôi
và ở gốc vi đuôi có 1 chấm đen tròn. Chấm và sọc này lợt dần và mất hẳn khi cá lớn.
Vi cá có màu xanh đen hoặc xám đen.
Từ những dẫn liệu thu thập được cho thấy có đôi chỗ khác nhau trong các mô tả.
Những điểm khác nhau này, biểu hiện sự thay đổi trong nội bộ loài khi cá sống trong
các vùng địa lý khác nhau với điều kiện sinh thái không giống nhau. Đó cũng là kết
quả của sự biến dị thích nghi trong những vùng mà cá Sặc Rằn phân bố (Nguyễn Văn
Kiểm vàcsv, 1999).
Các công trình nghiên cứu đi sâu vào việc tìm hiểu về các đặc điểm sinh
vật học, các nghiên cứu về sinh sản nhân tạo cá Sặc Rằn nói riêng và các
loài cá khác nói chung rất cần thiết và quan trọng để phát triển hơn nữa

nghề nuôi cá ở vùng ĐBSCL.


Theo Hoưa và Pilay (1962) cho rằng cá Sặc Rằn phân bố tự nhiên ở các nước thuộc
khu vực Đông Nam Á như Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Campuchia và Nam
Việt Nam Cá có thể sinh sản rộng rãi ở kênh rạch, ruộng lúa, rừng ừàm, ao, hồ...Cá Sặc
Rằn đặc biệt thích sống ở các thuỷ vực có nhiều cây cỏ thuỷ sinh và có nhiều chất hữu
cơ. Tại Việt Nam, trong vùng châu thổ sông MeKong, cá phân bố tập ừung trong các
vùng trũng ngập nước quanh năm, sinh sản tự nhiên trong ao, ruộng, kinh mương nơi
chúng cư trú, đặc biệt là những nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh với nhiều chất hữu cơ.
Ngoài ra, cá Sặc Rằn còn có khả năng sử dụng các loại thức ăn khác nhau do con ngưòi
cung cấp: bột ngũ cốc, xác bã động thực vật, bột cá... Hai tỉnh Cà Mau và Kiên Giang
là vùng phân bố tập ừung và có sản lượng cao hiện nay ở ĐBSCL. Loài cá này cũng
được nuôi phổ biến trong ruộng lúa và ao gia đình (Nguyễn Văn Kiểm và csv, 1999).
2.2 Đặc điểm sinh học
2.2.1

Sinh trưởng

Cá Sặc Rằn sinh trưởng chậm, ở các ao nuôi và các thủy vực tự nhiên ở ĐBSCL, cá có
trọng lượng khoảng 50 - 80 g/con sau 1 năm nuôi, sau 2 năm có thể đạt từ 100 - 150
g/con. Cá lớn nhanh ừong 7 tháng đầu, cá lớn nhanh vào mùa mưa, vào mùa khô sức
lớn cá giảm (Lê Như Xuân, 1993).
Theo Lê Như Xuân ( 1 9 9 3 ) nếu nhiệt độ trong khoảng 28 - 3 0 ° c thời gian phát ừiển
phôi 24h - 26h. Cá con sau khi nở ra sẽ tự dinh dưỡng bằng noãn hoàng trong 2 - 3
ngày. Sau khi hết noãn hoàng cá con sẽ xuống dưói lớp nước sâu hơn để kiếm thức ăn.
Chiều dài tối đa của cá khoảng 25 cm Theo Quách Thanh Hùng và csv (1999) nếu cá
đực và cá cái cùng tuổi thì cá đực có trọng lượng nhỏ hơn, lý do khiến cá đực có trọng
lượng nhỏ hơn cá cái có thể là do trong quá trình sinh sản cá đực thường phải giữ tổ và
chăm sóc đàn cá con nên chúng thường ăn ít hoặc đôi khi bỏ ăn. Cá ương ưong ao đạt

chiều dài 2-3 cm sau 30 - 35 ngày, thức ăn cho cá ban đầu là động vật phiêu sinh có
kích thước nhỏ như luân trùng, các chất lơ lửng, tảo...khi cá lớn hơn thì ăn nhiều loại
thức ăn hơn, cá ăn thiên về thực vật.
Đối với cá Sặc Rằn, vì phân bố chủ yếu ừên đồng ruộng hay các vùng trũng phèn ngập
nước, nên thời điểm hình thành vòng tuổi rất có thể là các tháng mùa khô. Bởi vì trong
những tháng này cá thường tập trung ở ao, đìa, kênh mương với mật độ cao, môi
trường khắc nghiệt, thiếu thức ăn (Trương Thủ Khoa và Nguyễn Minh Trung, 1980).
Trong điều kiện ĐBSCL những nghiên cứu trước đây cho rằng, độ béo của cá thường
đạt cao nhất vào các tháng mùa khô, tới đầu mùa mưa. Tương phản với độ béo là sự


phát triển lớn dần lên của tuyến sinh dục. Độ béo giảm dần ở các tháng mùa mưa, kết
thúc mùa sinh sản và sau đó lại tiếp tục một chu kỳ mới (Trương Quan Trí, 1987).
2.2.2

Sinh sản

Ho ra và Pillay (1962) cho rằng cá Sặc Rằn thành thục lần đầu sau 7 tháng tuổi. Khi
thành thục có thể phân biệt dễ dàng cá đực, cá cái bằng các biểu hiện bên ngoài của
dấu hiệu sinh dục phụ. Smith (1945) cho biết cá Sặc Rằn ở Thái Lan đến thời kỳ thành
thục, ở cá đực phần tia mềm vây lưng kéo dài tới hoặc vượt khỏi gốc vi đuôi, còn cá
cái thì vi này rất ngắn và không bao giờ chạm tới gốc vi đuôi. Hiện tượng tương tự như
vậy cũng thấy ở cá Sặc Rằn phân bố tại ĐBSCL (Nguyễn Tường Anh, 2004). Ngoài
chỉ tiêu căn bản này, cũng có thể phân biệt cá đực với các sọc ngang đậm nét chạy từ
lưng xuống bụng rõ hơn cá cái và miệng của nó cũng lớn hơn (Lê Như Xuân, 1993;
Trương Thủ Khoa và Nguyễn Minh Trung, 1980). Sự phát triển tuyến sinh dục của cá
Sặc Rằn ở vùng ĐBSCL theo mùa rất rõ (Lê Như Xuân, 1993; Trương Thủ Khoa và
Nguyễn Minh Trung, 1980). Vào mùa khô (Tháng 1- tháng 2), phần lớn tuyến sinh dục
của cá ở giai đoạn II, sang tháng 3 tăng dần giai đoạn III và đã thấy xuất hiện những cá
thể có tuyến sinh dục ở thời kỳ đầu của giai đoạn IV. Trong khoảng thời gian ngắn của

thời điểm giao mùa, mùa khô sang mùa mưa, là sự chuyển biến rất nhanh của tuyến
sinh dục. Thời kỳ này, tuyến sinh dục cá phần lớn ở giai đoạn IV chỉ một số ít cá có
tuyến sinh dục ở giai đoạn III. Khi mùa mưa tới, nhất là sau những ưận mưa đầu mùa,
cá tìm tới những nơi nước cạn ven bờ, nhiều cây cỏ thủy sinh để sinh sản. Cá sinh sản
trong suốt mùa mưa nên trong đàn luôn xuất hiện những cá thể ở nhiều giai đoạn thành
thục khác nhau (giai đoạn IV, V, VI) và giai đoạn trung gian VI - II...Ở thời điểm cuối
mùa mưa (tháng 10 - thángl 1), ít bắt gặp cá thành thục giai đoạn IV, tuyến sinh dục
của cá phần lớn lúc này ở giai đoạn VI, VI - II và giai đoạn II . Hệ số thành thục
(HSTT) là một chỉ số quan trọng để đánh giá khả năng sinh sản, cũng như các vấn đề
có liên quan khác. Ở ĐBSCL khi tuyến sinh dục chuyển sang giai đoạn IV, HSTT cũng
tăng dần và đạt giá trị cao vào tháng 5, tháng 6 với số liệu lần lượt là 11,22% và
12,97% và có thể đạt tới 22% (Nguyễn Tường Anh, 2004). HSTT giảm dần ở các tháng
cuối mùa mưa, đầu mùa khô (Tháng 10,11, 12, 1, 2) (Lê Như Xuân, 1993; Trương Thủ
Khoa và Nguyễn Minh Trung, 1980).
Cũng như một số loài thuộc giống Trichogaster, khi sinh sản cá Sặc Rằn bắt cặp và tìm
đến vùng nước ven bờ, nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh để đẻ. Hoạt động sinh sản bắt đầu
với tổ làm bằng bọt của cá đực, sau đó trứng đẻ ra ngoài được thụ tinh và cũng chính
cá đực dùng miệng gom trứng lại rồi đặt vào tổ bọt (Hora và Pillay, 1962; Lê Như
Xuân, 1993). Sức sinh sản của cá Sặc Rằn dao động 200.000 - 300.000 trứng/kg cá cái.
(Nguyễn Tường Anh, 2004). Kể từ khi trứng thụ tinh, trong điều kiện nhiệt độ nước
27- 29 °c cá nở sau 20h - 23h. Trong suốt thời gian kể từ khi trứng đẻ tới lúc nở và

1
1


dinh dưỡng bằng noãn hoàng, cá đực thường xuyên bơi lội quanh tổ để bảo vệ và dùng
vây quạt nước cung cấp oxy cho trứng (Nguyễn Văn Kiểm và csv, 1999).
Thời gian tái phát dục ở cá Sặc Rằn có thể từ 25 - 30 ngày, trong điều kiện đầy đủ thức
ăn cá Sặc Rằn có thể đẻ được 3 - 4 lần /năm (Phạm Văn Khánh, 2005).

2.2.3. Dinh dưỡng
Cũng như nhiều loài cá khác, ở thời kỳ đầu sau khi nở, cá dinh dưỡng bằng noãn
hoàng. Sau khi noãn hoàng tiêu biến cá chuyển sang ăn thức ăn bên ngoài (Lê Như
Xuân, 1993). Thức ăn ở thời kỳ đầu gồm nhiều loại như phiêu sinh động vật (Ciliata,
Rotiíera, Copepoda, Cladocera), phiêu sinh thực vật (Bacillariophyceae,
Cyanophyceae, ITagellata, Chlorophyceae và mùn bã hữu cơ). Ở thời kỳ trưởng thành,
cấu tạo bộ máy tiêu hoá của cá phù hợp với loài ăn tạp. Những loại thức ăn thường
xuyên bắt gặp và chiếm khối lượng lớn ừong ruột cá Sặc Rằn gồm: mùn bã hữu cơ,
thực vật phiêu sinh, động vật phiêu sinh, mầm non thực vật cũng như các loại thực vật
thủy sinh mềm trong nước. Ngoài ra, cá cũng sử dụng tốt các loại thức ăn do con người
cung cấp như: bột ngũ cốc các loại, động vật và khi thiếu thức ăn chúng ăn cả trứng
của chính nó...(Quách Thanh Hùng và csv, 1999).
2.2.4 Khả năng thích nghi vói môi trường
Cá Sặc Rằn có thể sống được ở nước thiếu hoặc không có oxy ừong một thời gian nhờ
có cơ quan hô hấp phụ. Ngoài ra, cá còn có khả năng chịu được môi trường nước
nhiễm bẩn, có hàm lượng hữu cơ cao và môi trường có hàm lượng pH thấp (pH có thể
từ 4 - 4,5) (Nguyễn Tường Anh, 2004).
Nguyễn Phú Trí (1990) cho rằng cá Sặc Rằn sinh trưởng và phát ừiển tốt ở nhiệt độ từ
24 - 30 °c và nhiệt độ thích ứng của cá dao động từ 11- 39 °c.
Trong thời kỳ phát ừiển của phôi, cũng như các loài cá nuôi khác, phôi cá Sặc Rằn rất
nhạy cảm với các yếu tố môi trường: nhiệt độ, oxy hoà tan, pH,...Nếu các yếu tố môi
trường ổn định hoặc biến động ừong khoảng thích hợp thì phôi cá phát triển bình
thường, cá con sinh ra khoẻ mạnh.
Trong các yếu tố môi trường nêu trên thì nhiệt độ là yếu tố có tác động rất
lớn. Nhiệt độ thích hợp cho quá ừình phát triển phôi cá từ 27 - 29
(Nguyễn Thị Ngọc Thuý, 1998).

1
2


°c


2.3 Sơ lược tình hình nuôi cá Sặc Rằn
2.3.1

Sơ lược tình hình nuôi cá Sặc Rằn trên thế giới

Theo Soong (1948) trích dẫn bởi Lê Như Xuân (1997) mặc dù không phân bố tự nhiên
ở Mã Lai, song những năm đầu thập kỹ 20 cá Sặc Rằn đã được nhập từ Thái Lan. Sản
lượng cá Sặc Rằn nuôi trong ruộng lúa tại Mã Lai thường chiếm gần 50% so với tổng
sản lượng các loài cá đồng được nuôi cùng. Tại Thái Lan, cá Sặc Rằn bắt đầu được
nuôi từ năm 1922, cũng là thời điểm đánh dấu cho nghề nuôi cá của nước này. Theo
Yoonpundh (1992) trích dẫn bởi Nguyễn Thị Ngọc Hà (2009) cho rằng loại hình nuôi
quảng canh được áp dụng nhiều với diện tích từ 3 - 20 ha. Tuy nhiên, nuôi cá Sặc Rằn
tại nước này có xu hướng giảm dần, thí dụ từ năm 1986 sản lượng cá Sặc Rằn là 18%
đến năm 1989 chỉ còn 13,4% ừên tổng sản lượng cá nước ngọt. Cũng theo Yoonpundh
(1992) nguyên nhân giảm sản lượng là do: việc quản lý không chặt do diện tích nuôi
lớn, thiếu kiến thức về nuôi cá, nguồn giống không ổn định... Vào năm 1991, cục nghề
cá Thái Lan cho biết, sản lượng cá Sặc Rằn chiếm khoảng 10,8% tương đương 9,7% về
giá trị so với tổng sản lượng cá nước ngọt của Thái Lan (Komtorn Kaewpaitoon,
1994).
2.3.2

Sơ lược và hiện trạng nuôi cá Sặc Rằn ở ĐBSCL

Cá Sặc Rằn tăng trưởng chậm so với các loài cá khác, nhưng với đặc điểm thích nghi
tốt với điều kiện môi trường khắc nghiệt và phổ thức ăn rộng nên có thể nuôi cá Sặc
Rằn với nhiều mô hình khác nhau. Hiện nay cá Sặc Rằn không chỉ tiêu thụ nội địa mà
còn xuất khẩu sang một số thị trường khác trên thế giới ở dạng cá khô. Nuôi cá Sặc

Rằn đang là một xu hướng cho phát triển nuôi cá nước ngọt để cung cấp nguồn thực
phẩm có tiếng này. Việc chủ động sản xuất giống nhân tạo và nuôi cá thương phẩm
cũng phát ưiển tại nhiều nơi ở Nam bộ như Tây Ninh, cần Thơ, Hậu Giang, An Giang,
Cà Mau... Hiện nay có nhiều mô hình nuôi ghép cá Sặc Rằn với các loài cá khác như
cá Rô Đồng, cá Hường, cá Lóc....trong đó cá Sặc Rằn thường được ghép với tỷ lệ dao
động từ 30 - 70% tuỳ thuộc vào dạng mô hình nuôi.
Gần đây bên cạnh các mô hình nuôi kếp hợp thì có thể áp dụng phương pháp nuôi đơn
dưói dạng bán thâm canh hay thâm canh cá Sặc Rằn ừong ao đất với mật độ cá thả dao
động từ 5 - 7 con/m2 tăng lên 30 - 40 con/m2 (Dương Nhựt Long, 2009). Tuy nhiên, với
các hình thức nuôi bán thâm canh hay nuôi ghép từ thực tế cho thấy các mô hình này
cho hiệu quả không cao do thời gian nuôi kéo dài, năng suất thấp, do đó việc thực hiện
mô hình nuôi thâm canh cá Sặc Rằn đang được ngưòi nuôi thuỷ sản quan tâm.
Thông qua số liệu từ các trạm nông, khuyến ngư của các tỉnh cần Thơ, Hậu Giang và
một số huyện của tỉnh An Giang cho thấy rằng năng suất nuôi nuôi cá Sặc Rằn của các
mô hình nuôi như sau: Với mô hình nuôi cá kết hợp với heo, mật độ thả là 10 - 15
con/m2, năng suất cá Sặc Rằn từ 4 - 5 tấn/ha (tối đa là 7 - 8 tấn/ha). Mô hình nuôi ghép
các loại cá với nhau, mật độ thả 10 - 20 con/m 2, năng suất đạt 3 - 4 tấn/ha. Trong quá


trình nuôi, thức ăn sử dụng cho cá là thức ăn tự chế (cám + các loại phụ phẩm của nhà
máy chế biến thuỷ sản, hay cá tạp...) kết hợp với thức ăn công nghiệp, trong đó thức ăn
tự chế chiếm tỉ lệ cao hơn (từ 60 - 70%). Do đó, khi thả nuôi kết hợp cá Sặc Rằn với
các đối tượng nuôi khác thì năng suất thường không cao và cở cá khi thu hoạch thường
nhỏ, không đáp ứng cho việc làm cá khô xuất khẩu. Hiện nay, mô hình nuôi đơn cá Sặc
Rằn ở các tỉnh ĐBSCL không nhiều, do đó chưa có số liệu thống kê chính xác về diện
tích cũng như tình hình nuôi của mô hình này. Theo số liệu tại tỉnh Tiền Giang có 1 vài
hộ nuôi chuyên canh cá Sặc Rằn (khoảng 4ha) khi sử dụng thức ăn công nghiệp, hàm
lượng đạm từ 32 - 35%, năng suất sau 8 tháng nuôi đạt 15 - 20 tấn/ha. Hiện nay, tại An
Giang, An Phú là huyện có ngưòi nuôi cá Sặc Rằn tập trung nhiều nhất. Việc duy trì và
phát triển nguồn lợi cá đồng gồm 4 loài cá: cá Lóc, cá Rô Đồng, cá Trê Vàng, cá Sặc

Rằn đã được thực hiện ở ngư trường sông Trẹm tỉnh Cà Mau. Chính quyền địa phương
đang qui hoạch vùng nuôi thương phẩm cá Sặc Rằn nhằm cung cấp nguồn nguyên liệu
cho xuất khẩu (Phạm Minh Thành, 2006).
Tuy nhiên, trong quá trình nuôi, người nuôi cũng gặp phải khó khăn như: Kỹ thuật
ương nuôi còn hạn chế nên sản phẩm thu hoạch thường không đạt được kích cỡ thương
phẩm, vì vậy hiệu quả mang lại chưa cao. Việc ương cá Sặc Rằn từ bột lên giống chưa
phát triển mạnh ở các xã thuộc huyện An Phú - An Giang (là huyện có số lượng hộ
nuôi cá Sặc Rằn nhiều nhất hiện nay) do nông dân chưa nắm bắt kịp thời những kỹ
thuật đã được chuyển giao hoặc chưa vận dụng các kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá
Sặc Rằn một cách có hiệu quả (Huỳnh Ngọc Dũng, 2008). Từ thực trạng trên, việc
nghiên cứu về nuôi cá Sặc Rằn thương phẩm, sử dụng thức ăn công nghiệp là yêu cầu
cần thiết nhằm góp phần nâng cao năng suất sản lượng cá Sặc Rằn, chuyển giao một
cách rộng rãi các kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá Sặc Rằn, đa dạng sản phẩm xuất
khẩu nhằm nâng cao hiệu quả, lợi nhuận cho ngưòi dân.
2.4 Các biện pháp kích thích cá sinh sản
2.4.1

Sinh sản tự nhiên

Theo Nguyễn Văn Kiểm và csv (1999) vùng phân bố của cá Sặc Rằn tập trung ở
ĐBSCL trong đó chủ yếu là hai khu vực rừng u Minh thượng thuộc hai tỉnh Cà Mau
và Kiên Giang. Đây là vùng đất nhiễm phèn trung bình và nhẹ, có thể bị nhiễm mặn
vào mùa khô.
Vào mùa mưa nhiệt độ hạ thấp, mức nước tăng dần làm thay đổi tính chất của môi
trường nước, kích thích sự phát triển của thức ăn tự nhiên, thúc đẩy cá tìm đến môi
trường thích họp để sinh sản.
Phương pháp cho đẻ tự nhiên rất đơn giản ít tốn công sức nhưng tỷ lệ hao hụt cao
thường thì do cá đẻ không tập trung, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở và tỷ lệ sống của cá con
thấp: thông thường cá được giữ trong ao vào mùa khô cho đến khi mùa mưa tới mực
nước trên ruộng đạt khoảng 10-20 cm (vào tháng 5 - 6) đây là thời điểm tốt để thả cá ra



ruộng và cá sẽ đẻ rộ sau 5 - 7 ngày. Cá con sinh ra và lớn lên trong ruộng lúa với nguồn
thức ăn sẵn có ưong tự nhiên.
2.4.2

Cho cá đẻ nhân tạo

Trong sinh sản nhân tạo theo Chung Lân và csv (1969) cho rằng: nguyên lý của kích
thích sinh sản là dựa vào nguyên lý chung về sinh vật học, ưong quá trình sinh sản tự
nhiên của cá, đồng thời vì biết rằng ưong ao nuôi không đủ điều kiện sinh thái làm thoả
mãn những yêu cầu về sinh sản của cá bố mẹ mà ngưòi ta dùng phương pháp tiêm chất
kích thích.
Vì thế, kích thích tố là một yêu cầu cần thiết để tạo cho cơ thể cá có một điều kiện nhất
định thoả mãn về sinh lý, sinh thái cho cơ thể cá tiến hành sinh sản. Trên cơ sở đó kích
thích sinh sản nhân tạo cá Sặc Rằn bằng các loại kích thích tố cũng được nhiều tác giả
nghiên cứu. Các loại kích thích tố như HCG, não thuỳ, LRH-a, đều có tác dụng làm
rụng trứng và kích thích cá Sặc Rằn sinh sản tốt.
Đối với cá Sặc Rằn, Nguyễn Tường Anh (2004) đã sử dụng kích thích tố HCG để cho
sinh sản, liều lượng 2.500 - 3.000 UI HCG/kg cá cái, liều tiêm cho cá đực bằng Vi liều
tiêm cho cá cái, kết quả tốt với tỉ lệ cá đẻ là 75%, tỉ lệ thụ tinh 92% và tỉ lệ nở là 95%.
Trong khi đó nghiên cứu của Nguyễn Trọng Nho và Lê Như Xuân (1998) cho sinh sản
cá Sặc Rằn bằng kết họp 2 loại hormon HCG và não thuỳ thể cá chép với liều lượng
2.500 UI + 0,54 mg não/kg cá cái, tỉ lệ cá sinh sản 100%, tỉ lệ thụ tinh 98,5%, tỉ lệ nở
94%.
Tương tự Nguyễn Văn Kiểm và csv (1999) cũng cho cá đẻ bằng cách tiêm HCG với
các liều lượng khác nhau từ 500 - 5.000 Ul/kg. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy ở tất
cả các liều lượng thì cá đều sinh sản nhưng ở liều lượng 1.000 Ul/kg và 1.500 Ul/kg thì
sức sinh sản đạt cao hơn so với các liều cao 4.000 - 5.000 Ul/kg.
Theo Lê Như Xuân (1993) thì liều lượng HCG được sử dụng là từ 2.500 - 4.000 Ul/kg

thường được sử dụng cho cá Sặc Rằn sinh sản. Nhưng kết quả thu được có sự biến
động lớn (từ 100.000 - 230.000 trứng/kg) vì phụ thuộc vào chất lượng cá bố mẹ.
Còn theo Quách Thanh Hùng và csv (1999) sử dụng HCG kết họp với não thuỳ với liều
lượng từ 500 - 4.000 UI + 0,54 mg/kg đã làm tỷ lệ đẻ trứng của cá tăng lên 17,7% so
với sử dụng HCG đơn thuần. Các chỉ tiêu như tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở, sức sinh sản
tương đối thực tế cũng đều cao hơn các nghiệm thức sử dụng HCG đơn thuần.
Sự hợp lực của các loại hormon sẽ có tác dụng làm tăng hiệu quả về mặt sinh học cũng
như tính kinh tế trong thực tế sản xuất khi kích thích sinh sản không chỉ riêng cá Sặc
Rằn mà còn đối với nhiều loài cá nuôi khác.
Mục đích của việc phối họp HCG + não thuỳ nhằm thúc đẩy nhanh tốc độ chín cũng
như quá trình rụng trứng ở cá Bản chất của việc kết hợp này chủ yếu là dựa ừên sự hợp
lực của hormom FSH có chứa ừong não và LH ưong HCG làm tăng cường các quá


trình chuyển hoá trong buồng trứng của cá mà nếu như một loại hormon không đủ
(Nguyễn Tường Anh, 1994).
Trên đây là một số nghiên cứu của các tác giả ghi nhận được khi sử dụng hormon để
kích thích cá sinh sản tuy nhiên các kết quả này khác nhau, không ổn định và các kết
quả đều cho rằng khi sử dụng HCG với liều cao thì hiệu quả và kinh tế hon ở liều thấp
nhưng cũng chưa xác định liều lượng kích thích tố thấp tối thiểu nào mà cá có thể sinh
sản được cũng như việc sử dụng LRH-a hay não thuỳ thể cho kết quả sinh sản khác
biệt như thế nào so với việc sử dụng HCG đon thuần. Vì vậy, mà đề tài nghiên cứu này
được thực hiện nhằm khẳng định liều kích tố thấp nhất tác dụng kích thích cá Sặc Rằn
đẻ trứng.
2.4.3

Một số loại kích thích tố và chất kích

thích sinh sản ở cá HCG (Human Chorionic
Gonadotropin)

HCG (kích thích tố màng đệm hoặc kích thích tố nhau thai) được Zondec và Aschheim
phát hiện từ năm 1927 ưong nước tiểu của ngưòi phụ nữ có thai từ 2 - 4 tháng là một
polypeptide có khối lượng phân tử 36.000 kDa, nó được tiết ra từ màng đệm của nhau
thai (Nguyễn Tường Anh, 2001). HCG là một hormon polypeptide, nó có chức năng
như LH (Luteiniãng Hormon) và FSH (Follicle - Stimulating Hormones) HCG kích
thích sự rụng trứng, phát triển của buồng trứng và tiết ra hormon sinh dục. HCG có tác
dụng duy trì thể vàng sau khi rụng trứng do LH sản phẩm nội tiết của thể vàng hoạt
tính là progesteron - hormon có tác dụng chuẩn bị nội mạc dạ con cho sự làm tổ của
phôi và những thay đổi khác về sinh lý ưong thời gian mang thai và nuôi con bằng sữa.
HCG là loại kích thích tố dị chủng được dùng có hiệu quả cho nhiều loài cá nhất.
Ngoài cá Mè, cá Trê, HCG có tác dụng gây rụng trứng cho các loài cá khác ở nước ta
như cá Chày, cá vền, cá Trôi, cá Bống, cá Vàng....
Theo Nguyễn Tường Anh (2004) ở đầu vụ sinh sản, do tính nhạy cảm của nang trứng
chưa cao đặc biệt là sự tiếp nhận của nang trứng đối với đối với yếu tố gây chín và
rụng trứng. Do đó ở đầu mùa sinh sản nếu chỉ sử dụng HCG đon thuần thì tỷ lệ cá đẻ
thường thấp (do HCG không tham gia vào quá ừình thành thục của trứng), trong khi đó
nếu kết hợp với não thuỳ thì tỷ lệ rụng trứng có thể tăng thêm 10 - 15% (do trong não
thuỳ có yếu tố thúc đẩy cá thành thục thêm một bước là FSH). Tỷ lệ não thuỳ là 30%
so với tổng liều lượng.
Não thuỳ thể
Cấu tạo não thuỳ thể của cá cũng giống như động vật bậc cao. Não thuỳ thể nằm ở mặt
bụng của thuỳ trung gian, nối liền với mấu não dưói chia thành bộ phận thần kinh và
bộ phận tuyến thể. Trong não thuỳ thể của cá có lượng FSH rất thấp còn lượng LH
tương đương với động vật có vú. Não thùy thể tuyến yên được lấy ra từ những loài cá
thuộc các loài cá Chép, cá Trắm, cá Mè, cá Trê.. .đã thành thục còn tưoi sống. Cá chết


vài giờ thì hoạt tính kích thích tố chỉ còn khoảng 50% (Nguyễn Tường Anh, 2001).
Não thuỳ thể cá Chép được xem là kích thích tố mạnh cho nhiều loài cá kể cả các đối
tượng khác họ và các loài cá biển.

LRH-a (Lutienizing Releasing Hormon)
LRH-a là một dạng của GnRH-a Hormon phóng kích dục tố.
LRH-a thường được sử dụng với các chất kháng Dopamin (chất gây ức chế sự tiết kích
dục tố). Theo Nguyễn Tường Anh (2004) chất kháng dopamin hiện nay sử dụng kết
hợp với GnRHa domperidin hoặc pimoãde. Motilium là một ưong những sản phẩm
thương mại của domperidone. GnRHa được sử dụng rộng rãi trên thế giới hiện nay vì
có một số ưu điểm:


GnRH có thể tổng hợp được nên hoạt tính luôn ổn định.



Tránh được sự lan truyền của bệnh (vấn đề thường gặp khi sử dụng não thuỳ).

• Sử dụng ưên nhiều loại cá khác nhau.
Theo Nguyễn Tường Anh (2004) thì LRH-a là loại kích thích cá tiết GtH-L GtH-n điều
khiển phản ứng 1 (thúc đẩy trứng thành thục thêm một bước) và phản ứng 2 (gây ra
phản ứng chín và rụng trứng ở cá). Đây là loại kích thích tố đạt hiệu quả cao khi kích
thích nhiều loài cá sinh sản.
2.5 Các nhân tố ảnh hưởng tói sự phát triển của cá Sặc Rằn
Nhiệt độ: Là nhân tố có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến hoạt động của thuỷ sinh vật
ưong quá trình sinh trưởng, dinh dưỡng, cũng như ừong quá ừình sinh sản của cá Nhiệt
độ ừong nước được cung cấp từ nguồn năng lượng ánh sáng mặt ười hoặc do quá trình
oxy hoá các hợp chất vô cơ, hữu cơ có trong thuỷ vực. Nhiệt độ thích hợp đa số các
loài cá nuôi từ 20 - 30 ° c giới hạn cho phép 10 - 40 ° c (Theo Nguyễn Thị Ngọc Thúy,
1998).
O x y h o à t a n : Oxy hoà tan ưong nước là nhân tố cần thiết cho hoạt động sống.
Hàm lượng oxygen là chất khí quan trọng nhất trong các chất khí hoà tan trong môi
trường nước nó rất cần đối với đời sống của thuỷ sinh vật. Lượng oxy trong nước thấp

nhất mà cá có thể chịu được là 2 mg/1 nếu dưói nồng độ này cá vẫn sống nhưng không
ăn và ngừng tăng trưởng. Nhưng cá Sặc Rằn sau một tuần tuổi đã có cơ quan hô hấp
phụ nên có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện bất lợi của môi trường như: mức
nước thấp, nhiệt độ cao, pH thấp, oxy thấp....
p H : pH là một yếu tố hết sức quan trọng, mọi sự biến động của nó đều có tác động
lớn đến đời sống thuỷ sinh vật. Theo Boyd (1998) thì pH dao động ưong khoảng 6 - 9
đối với ao nuôi thuỷ sản nước ngọt và từ 8 - 9 đối với nước lợ. Mỗi loài cá khác nhau
thì có khoảng thích ứng pH khác nhau.
Đ ộ m ặ n : Là một yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự sinh sống và phân bố của thuỷ
sinh vật. Ở các vùng có độ mặn khác nhau sẽ là nơi cư trú của những loài thuỷ sinh vật


khác nhau. Theo Nguyễn Thị Oanh (2009) thì phôi cá Sặc Rằn phát triển bình thương
khi gây sốc ở độ mặn 1 %0, 3 %0, 5 %0, 7 %0, 9 %0 nhưng ở 11 %0 thì phôi dừng phát
triển và phân huỷ sau 20h.
N-NO2 : Hàm lượng N-NO2 quá cao sẽ ngăn cản oxy kết hợp Hemoglobin và gây chết
ngạt. Tính độc của Nitric giảm khi nhiệt độ và oxy hoà tan cao vì sẽ bị oxy hoá thành
dạng Nitrate không độc. Hàm lượng N-NO 2 thích hợp phải thấp hơn 0,5 mg/1 (Nguyễn
Thị Ngọc Thuý, 1998).
NH3/NH4+: Được cung cấp trong các thuỷ vực từ quá trình phân huỷ bình thường
protein, xác bã động thực vật phù du, sản phẩm bài tiết của động vật hay từ phân bón
vô cơ và hữu cơ. NH3 là khí độc đối với thuỷ sinh vật. Theo Nguyễn Đình Trung
(2004), niưite là một trong những chất đạm rất độc với tôm cá, tính độc của niưite khác
nhau giữa môi trường nước ngọt và nước lợ, ừong môi trường nước ngọt tính độc của
nitrite gấp 55 lần so với môi trường nước có độ mặn 16 %0.
Một số yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của cá Sặc Rằn
Trong sinh sản nhân tạo tất cả các loài cá nuôi muốn thu được kết quả tốt thì nuôi vỗ cá
bố mẹ là khâu quan trọng đầu tiên. Mục đích của việc nuôi vỗ là đem lại đàn cá có mức
độ thành thục cao có thể sinh sản và cho kết quả như mong muốn. Nhưng không phải
lúc nào cá thành thục tốt cũng đều cho kết quả sinh sản cao. Cũng như các loài cá khác

quá trình phát dục và sinh sản của cá Sặc Rằn chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố như:
nhiệt độ, môi trường, dòng chảy, ánh sáng, thức ăn, không gian hoạt động,...
Á n h s á n g : Là một yếu tố khá quan trọng đối với hoạt động của cá, nó ảnh hưởng
nhiều đến quá trình sinh trưởng và sinh sản của hầu hết các loài cá nuôi.
Mỗi loài cá có ngưỡng ánh sáng khác nhau, có loài ánh sáng mạnh là kích thích nhưng
loại khác lại thích nghi hơn với bóng tối nhất là đối với hoạt động sinh sản.
Ngoài tự nhiên cá Sặc Rằn có tập tính thích làm tổ nơi yên tĩnh và bóng tối. Việc tác
động của ánh sáng đến quá trình sinh sản đã được Nguyễn Phú Trí (1990) thực hiện thí
nghiệm và rút ra kết luận trong quá trình sinh sản cá Sặc Rằn thích nghi với điều kiện
che tối và trong lúc sinh sản thì cá cần sự yên tĩnh.
Ảnh hưởng của không gian hoạt động và tỉ lệ đực cái đến khả năng và hiệu quả
sinh sản của cá Sặc Rằn
Cá Sặc Rằn thường có tập tính rượt đuổi, trước lúc sinh sản cá đực và cá cái cắn vào
bụng và đuôi lẫn nhau để kích thích sinh sản.


Hình 2.2: Hoạt động bắt cặp của cá Sặc Rằn

Tỷ l ệ đ ự c c á i : Khi tỷ lệ đực cái không tương xứng, như thiếu cá cái thường xảy ra
sự cắn giành cá đực với nhau, còn thiếu cá đực thì sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ
nở của cá Do đó, theo nhiều kết quả nghiên cứu Nguyễn Tường Anh (2004), Phạm
Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) thì tỷ lệ đực cái tốt nhất là 1:1.
Việc bố trí cho cá sinh sản trong dụng cụ có diện tích nhỏ thích hợp với mật độ vừa
phải sẽ tăng khả năng bắt cặp của cá được dễ dàng hơn, xác suất gặp nhau nhiều hơn.
Còn nếu bố ừí ừong bể có thể tích quá lớn sẽ làm hạn chế khả năng rượt đuổi và bắt
cặp của cá Vì vậy theo khuyến cáo thì ưong sinh sản nhân tạo cá Sặc Rằn nên bố ừí
ừong dụng cụ với diện tích phù hợp, che tối một phần và ừánh tiếng động mạnh. Tỷ lệ
đực cái là 1:1 và bố ừí từ 2 - 3 cặp cá/thau hoặc thùng sẽ thích họp cho việc sinh sản
của cá (Nguyễn Phú Trí, 1990).
Mực nước: Mực nước thích hợp cho cá đẻ trung bình khoảng 40 - 80 cm (Nguyễn

Tường Anh, 2004).
Vì cá Sặc Rằn có tập tính làm tổ, con đực làm tổ bằng nước bọt dưới những tán lá hay
lùm cây cỏ. Sau đó đưa cá cái đến gần tổ và cong mình ép cá cái đẻ trứng vào tổ, vì
vậy việc đặt giá thể (lá môn, lá sen nước...) là rất quan trọng ưong lúc cho cá đẻ. Và
lưu ý không nên lấy giá thể ra sớm khi cá sinh sản chưa xong sẽ làm cho cá hoảng sợ
ảnh hưởng đến sức sinh sản của cá
Mặc dù cá có tập tính ăn trứng sau khi đẻ (cá càng đói ăn càng nhiều) nhưng cũng
không nên bắt cá bố mẹ ra quá sớm. Thông thường kể từ khi cá đẻ đến lúc bắt cá bố mẹ
khoảng 3 - 5h.


Hình 2.3: Chuẩn bị dụng cụ cho cá Sặc Rằn sinh sản


CHƯƠNG3

VÂT LIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu

••
3.1 Thòi gian và địa điểm thực hiện đề tài
3.1.1

Thòi gian

Thời gian từ tháng 04/2010 đến tháng 05/2010.
Kích thích sinh sản cá Sặc Rằn bằng các loại kích thích tố khác nhau được thực hiện
ưong 2 đợt
• Đợt 1: thời gian từ 24/04/2010 - 30/04/2010
• Đợt 2: thời gian từ 23/05/2010 - 29/05/2010
3.1.2


Địa điểm

Đề tài được thực hiện tại phường Lê Bình - quận Ninh Kiều - TP. cần Thơ.
3.2 Vật liệu thí nghiệm
• Cá bố mẹ cho sinh sản
• Hormon kích thích cá đẻ: HCG, LRH-a, não thuỳ, Motilium, nước muối sinh lý
• Lá môn
• Thùng mốp
• Ồng tiêm, kim tiêm
• Cối nghiền não thùy
• Bộ dụng cụ kiểm tra các yếu tố môi trường (bộ test): nhiệt độ, oxy, pH, NH 3,N-NƠ2.
Ngoài ra còn một số dụng cụ khác như vợt, lưói, thau, cân điện tử, kính hiển vi....
3.3 Phưong pháp nghiên cứu
3.3.1
Chọn cá bố mẹ cho sinh sản
Cá Sặc Rằn được mua từ hộ nuôi cá (Hậu Giang), cá khỏe mạnh, không dị hình dị tật,
màu sắc tưoi sáng, được vận chuyển nhẹ nhàng tránh làm xây xát, cá thành thục tốt có
thể sẵn sàng cho sinh sản.
Theo Nguyễn Văn Kiểm và Phạm Minh Thành (2009) ưong quá trình sinh sản cần bố
ừí cá với tỷ lệ đực cái là 1:1 nhằm ưánh sự tranh giành cá cái.
Theo Nguyễn Tường Anh (2004) thì cá có thể chọn cá bố mẹ dựa vào một số chỉ tiêu
sau
Cá đ ự c : Màu sắc sặc sỡ, bụng thon, tia vi lưng dài đến cuống đuôi hoặc vượt cuống
đuôi.


Cá cái: Màu sắc nhạt hơn cá đực, bụng to mềm và căng tròn hình chữ
lồi, màu hồng, tia vi lưng ngắn hơn.


u, lỗ sinh dục

Hình 3.1: Cá Sặc Rằn đực và cái (A: Cá đ\ic ; B: Cá cái)

3.3.2

Chuẩn bị dụng cụ cho cá sinh sản

Thùng dùng để bố ừí cho cá đẻ sử dụng thùng mốp, mực nước bố trí cho cá sinh sản
khoảng 30 - 40 cm. Thùng được vệ sinh sạch sẽ sau đó bơm nước vào, nguồn nước sử
dụng là nước máy.
Có chuẩn bị sẵn lá môn để làm tổ đẻ cho cá (mỗi cặp cá cần một lá môn).
Mỗi thùng bố ừí 1 cặp cá bố mẹ. số lượng cá bố mẹ cho sinh sản ở mỗi thí nghiệm là 9
cặp cá
3.4 Bố trí thí nghiệm
Nghiên cứu: Thử nghiệm kích thích cá Sặc Rằn sinh sản với LRH-a + Motilium, não
thuỳ, HCG + não thùy, với các thí nghiệm lần lượt được bố ừí liều lượng khác nhau.
Nghiên cứu gồm 3 thí nghiệm, mỗi thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức và mỗi nghiệm thức
lặp lại 3 lần .
T h í n g h i ệ m 1 : Kích thích cá sinh sản bằng LRH-a + Motilium
Nghiệm thức
(NT)

Liều lượng kích tố
(gg + mg)/kg cá cái

Số lượng cá bố mẹ
(cặp)

1


60 + 5

3

2

80 + 5

3

3

100 + 5

3

Nghiệm thức
(NT)

Liều lượng kích tố
(mg/kg cá cái)

Số lượng cá bố mẹ
(cặp)

1

4


3


2

6

3

3

8

3

Thí nghiệm 3: Kích thích cá sinh sản bằng HCG + não thuỳ
Nghiệm thức
(NT)

Liều lượng kích tố
(UI + mg)/kg cá cái

Số lượng cá bố mẹ
(cặp)

1

1000 + 2

3


2

1500 + 2

3

3

2000 + 2

3

Cách tiêm thuốc: Kích thích tố được tiêm vào gốc vi gốc vi ngực của cá, sâu khoảng
1/3 kim tiêm, lệch 1 gốc 45° hướng về phía bụng cá

Hình 3.2: Cách tiêm kích thích tố cho cá Sặc Rằn

Cá cần có giá thể để phun bọt đẻ trứng, giá thể sử dụng trong thí nghiệm
là lá môn. Theo Nguyễn Văn Kiểm và Phạm Minh Thành (2009) thời gian
hiệu ứng thuốc ở cá Sặc Rằn khoảng 18h.

Tiêm cá đực bằng 1/2 liều lượng tiêm cá cái.


3.5 Phương pháp thu và xử lý số liệu
3.5.1
Các chỉ tiêu sinh sản theo dõi
Thời gian hiệu ứng thuốc: Là thời gian bắt đầu khi tiêm xong liều quyết định cho đến
khi cá bắt đầu đẻ hoặc rụng trứng đồng loạt.

Số cá cái đẻ trứng

Tổng số cá nở


Các chỉ tiêu môi trường theo dõi
• Nhiệt độ: đo bằng nhiệt kế (đo mỗi ngày 2 lần buổi sáng và buổi chiều)
• Oxy: đo bằng bộ dụng cụ kiểm ưa môi trường (bộ test)
• pH: đo bằng bộ dụng cụ kiểm ưa môi trường


NH3 /NĨỈ4+: đo bằng bộ dụng cụ kiểm tra môi trường

• N-NO2: đo bằng bộ dụng cụ kiểm ưa môi trường
Các chỉ tiêu Oxy, pH, NH3/NH4 +, N-NO2, được đo 2 lần/ngày và đo trước khi thay
nước.
3.5.2

Ghi nhận và xử lý số liệu

Sử dụng phần mềm Microsoít Office Word 2003 để soạn thảo văn bản. Sau đó số liệu
được xử lý bằng phần mềm Microsoĩt Office Excell 2003 và SPSS 11.5.


×