Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tl triét1 vấn đề NHẬN THỨC LUẬN TRONG TRIẾT học tây âu cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.25 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG............................................................................................................................................................................ 2
I. Những điều kiện hình thành, phát triển của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại......................................................................2
II. Nội dung và vai trò của nhận thức luận trong triết học Tây Âu cận đại...............................................................................3
1. Nhận thức luận của các nhà triết học duy vật Anh thế kỷ XVII....................................................................................... 3
2. Nhận thức luận của các nhà triết học siêu hình thế kỷ XVII..........................................................................................11
3. Nhận thức luận của các nhà triết học duy tâm và hoài nghi luận ở Anh cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII.....................13
4. Nhận thức luận của Điđơrô và các nhà triết học Khai sáng Pháp thế kỉ XVIII................................................................16

1


NỘI DUNG
I. Những điều kiện hình thành, phát triển của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại
Thời kỳ cận đại là thời kỳ phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa tư bản, của khoa học và
tư tưởng, trong đó có chủ nghĩa duy vật triết học, nhưng với những đặc điểm mới.
Khác với thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XV-XVI), thời cận đại (thế kỷ XVIIXVIII) ở các nước Tây Âu là thời kỳ giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về
chính trị trước giai cấp phong kiến. Nếu như thế kỷ XV-XVI, trong lòng xã hội
phong kiến ở các nước Tây Âu mới bắt đầu hình thành phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa (PTSX TBCN), thì từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, PTSX
TBCN phát triển mạnh mẽ mâu thuẫn gay gắt với PTSX phong kiến, dẫn đến các
cuộc cách mạng tư sản thay thế PTSX phong kiến bằng PTSX TBCN. Cuộc cách
mạng tư sản nổ ra đầu tiên là cách mạng tư sản Hà Lan (1560-1570), sau đó là
cách mạng tư sản Anh (1642-1648), rồi đến cách mạng tư sản Pháp (1789-1794).
Do yêu cầu phát triển của PTSX TBCN, thời kỳ này khoa học tự nhiên có một
bước phát triển nhảy vọt. Đây là thời kỳ trong khoa học tự nhiên diễn ra quá trình
phân ngành mạnh mẽ, hình thành các ngành khoa học độc lập như toán học, vật lý
học, hoá học, sinh học v.v.. Các ngành khoa học độc lập này có đối tượng và
phương pháp nghiên cứu riêng. Trong đó, cơ học cổ điển của Niutơn phát triển
nhất. Thời kỳ này là thời kỳ phát triển mạnh mẽ khoa học tự nhiên thực nghiệm.


Các tri thức khoa học được khái quát từ các tài liệu do thực nghiệm mang lại. Do
vậy tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng
tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển, nếu có nói đến vận động thì chỉ
là là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho triết học duy
vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu hình.

2


Từ những thay đổi sâu sắc trong đời sống xã hội và những thành tựu mới
trong khoa học tự nhiên, triết học thời kỳ này đã có một bước phát triển mới.

II. Nội dung và vai trò của nhận thức luận trong triết học Tây Âu cận đại
Nội dung và vai trò của nhận thức luận trong triết học Tây Âu cận đại được
thể hiện trong tư tưởng, quan điểm của các nhà triết học thời kỳ này. Mà tiêu biểu
nhất là tư tưởng của nhà triết học Phranxis Bêcơn, Tômát Hôpxơ, Rơnê Đêcáctơ,
Gioóc Beccơly, Điđơrô và các nhà triết học Khai sáng Pháp thế kỉ XVIII.
1. Nhận thức luận của các nhà triết học duy vật Anh thế kỷ XVII
Nhận thức luận của Phranxis Bêcơn (1561-1626)
Bêcơn là người ủng hộ nhiệt thành sự phát triển của khoa học. Ông nói: Mục đích
của tôi là ở chỗ chỉ ra uy thế thực sự của khoa học mà không cần phải tô vẽ và
cường điệu, và làm rõ
ý nghĩa và giá trị chân chính của nó. Với hoài bão xây dựng một cách nhìn mới về
thế giới thật sự khách quan, Bêcơn đồng thời chỉ ra những hạn chế trong khả năng
nhận thức của con người, những hạn chế không phải chỉ dẫn đến những sai lầm
vụn vặt và nhất thời, mà là những sai lầm nghiêm trọng không thể tránh khỏi của
con người trong nhận thức. Ông gọi chúng là các “ảo tưởng” (Idola theo tiếng cổ
Hi Lạp nghĩa là hình ảnh bị xuyên tạc). Để nhận thức chân lí và khắc phục được
các ảo tưởng, thì phải vạch ra cơ chế và bản chất của chúng. Do vậy, Bêcơn coi
học thuyết về các ảo tưởng tựa như phần mở đầu trong nhận thức và phương pháp

luận của mình.
Các ảo tưởng có nguồn gốc hoàn toàn khách quan, bởi vì chúng một phần có
trong bản chất của trí tuệ con người, một phần xuất hiện trong quá trình lịch sử
nhận thức của nhân loại, một phần nảy sinh trong sinh lí và nhân cách của mỗi
người. Theo Bêcơn, trí tuệ con người tự đặt ra chướng ngại vật và cạm bẫy cho

3


mình. Vì các ảo tưởng thường xuyên ám ảnh con người, tạo nên cho nó những tư
tưởng và ảo ảnh giả dối, xuyên tạc bộ mặt thật của thế giới, nói tóm lại, cản trở
con người xâm nhập vào thế giới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Vì vậy, quá trình
con người đấu tranh khắc phục những hạn chế khách quan đó cũng là quá trình
con người đấu tranh vì sự hoàn thiện bản thân mình. Bêcơn phân loại các dạng ảo
tưởng như sau:
- Dạng ảo tưởng loài (Idola tribus): Những nhận thức sai lầm do loài người
thường xuyên nhầm lẫn bản chất trí tuệ của mình với bản chất khách quan của sự
vật. Ai cũng dễ dàng gán cho sự vật những ý tưởng của riêng mình. Các ảo tưởng
loài có cơ sở trong chính bản thân loài người. Trí tuệ con người cũng tương tự như
chiếc gương méo, khi nó pha trộn bản chất của mình với bản chất của sự vật thì nó
phản ánh các sự vật dưới dạng bị xuyên tạc, bóp méo. Sở dĩ có loại ảo tưởng này,
theo Bêcơn, là do các giác quan cũng như trí tuệ của con người còn chưa được
hoàn thiện. Một trong những biểu hiện của ảo tưởng này là ở chỗ, người ta thường
hay bảo thủ, coi ý kiến và suy nghĩ chủ quan của mình là thước đo tất thảy mọi
vật. Ảo tưởng loài do vậy rất bền vững. Để hạn chế ảnh hưởng của ảo tưởng này
thì con người trong nhận thức phải tôn trọng tính khách quan, không được chủ
quan duy ý chí áp đặt tư tưởng của mình cho các đối tượng, thận trọng thăm dò,
tăng cường quan sát, thực nghiệm, thường xuyên kiểm tra các tài liệu do cảm tính
mang lại, loại bỏ những sai lầm về mặt logic v.v..
Việc Ph.Bêcơn đòi hỏi nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan là hợp lý.

Ông nhận xét đúng rằng, con người thường hay chủ quan, duy ý chí trong hoạt
động của mình. Nhưng ông lại sai lầm khi phủ nhận hoàn toàn cái chủ quan trong
nhận thức. Việc đòi hỏi nhận thức
phải "khách quan thuần tuý" của ông là một điều không tưởng, tuy nhiên nó có ý
nghĩa tích cực trong việc phê phán các quan niệm thần học chủ quan kinh viện
thời đó, vì sự tiến bộ của khoa học.

4


- Dạng ảo tưởng hang động (Idola Specus): Thực chất là ảo tưởng loài nhưng
nó được biểu hiện ở mỗi con người cụ thể. Do có những đặc điểm sinh lý riêng
biệt, hoàn cảnh giáo dục, nghề nghiệp khác nhau… làm khúc xạ tầm nhìn, đẻ ra
những phán đoán về mọi cái theo bản thân mình hay theo bè nhóm cảm tính. Sở dĩ
gọi là ảo tưởng hang động vì mượn câu chuyện của Platôn về hang động,
Ph.Bêcơn ví trí tuệ của con người như hang động méo mó của Platôn, mà trong đó
thể hiện cái bóng của các sự kiện diễn ra bên ngoài. Để hạn chế dạng ảo tưởng
này, mỗi người cần phải hoàn thiện nhân cách của mình, thận trọng trong quá trình
nhận thức, dựa vào kinh nghiệm tập thể v.v..
- Ảo tưởng thị trường (Idola Fori): Ảo tưởng này xuất hiện do thường xuyên
sử dụng những danh từ trống rỗng để giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày (giống
như ở chợ). Đó còn do sự ngộ nhận sử dụng các thuật ngữ khoa học chưa thật
chính xác. Theo ông, nhiều từ ngữ đã trở nên cưỡng bức lý tính, làm đảo lộn tất cả
và cuối cùng, thì chỉ dẫn mọi người đến các cuộc cãi vã để diễn giải những cái
rỗng tuếch. Vì thế phải phải bỏ thói quen dựa vào các quan niệm đang lưu hành và
có thái độ phê phán đối với các thuật ngữ mơ hồ không chính xác. Theo Bacơn,
điều kiện được gọi là tri thức phải là tính chính xác của khái niệm. Ảo tưởng này
xuất hiện do mọi người thường hay sùng bái, chạy theo các quan điểm của ai đó
có uy tín, hoặc ủng hộ những quan điểm phổ biến giáo điều, các tập quán truyền
thống, trong đó bên cạnh nhiều yếu tố tích cực, cũng chứa đựng không ít những

điều lạc hậu. Các ảo tưởng này còn xuất hiện do ngôn ngữ khoa học của chúng ta
đôi chỗ còn chưa thật chuẩn xác. Quan niệm trên của Ph.Bêcơn có nhiều điểm hợp
lý và tiến bộ.
- Ảo tưởng nhà hát (Idola Theatri): Sai lầm bắt nguồn do chúng ta quá tin vào
người xưa, diễn ra trước mắt người ta như diễn ra trên sân khấu. Quá khứ chỉ là
một thời kỳ ấu trĩ của loài người chứ không phải là một thời hoàng kim. Đó là

5


những ảnh hưởng có hại của nhiều học thuyết, quan niệm thống trị làm cản trở quá
trình nhận thức chân lý. Bên cạnh đó, Ph.Bêcơn cũng phê phán tệ sùng bái cá
nhân của nhiều nhà khoa học thời đó. Để tìm ra chân lý chúng ta không nên rơi
vào chủ nghĩa hoài nghi luận, nhưng cũng không nên giáo điều trong nhận thức.
Ý nghĩa tích cực của những ảo tưởng là ở chỗ không chỉ chống lại các suy
luận vô căn cứ của thần học, kinh viện mà còn đặt cơ sở xã hội cho quá trình nhận
thức. Đó là tôn trọng khách
quan, phê phán và không giáo điều. Một ý nghĩa không chỉ thuộc về thời Cận đại
mà cho tất cả các thời đại. Ý nghĩa đã trở thành nguyên tắc của nhận thức. Công
lao của ông trong học thuyết về ảo tưởng là ở chỗ ông đã đặt ra vấn đề cơ sở xã
hội của quá trình nhận thức; ở chỗ khẳng định quá trình nhận thức sự vật phải
hoàn toàn khách quan, xem xét với tinh thần phê phán, cách mạng chứ không giáo
điều. Những tư tưởng đó có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với thời đại của ông mà
còn đối với cả hiện nay. Về mặt hạn chế, việc xác định bản chất và nguyên nhân
của các ảo tưởng của Ph.Bêcơn còn mang nặng tính trực quan, chủ yếu xét ở khía
cạnh nhận thức luận, vì vậy chưa đưa ra được các giải pháp khắc phục ảo tưởng
một cách hợp lý.
Ph.Bêcơn đánh giá cao vai trò của phương pháp nhận thức. Bacơn cho rằng
“người què chạy đúng hướng sẽ nhanh hơn kẻ lành chạy sai đường” hoặc “phương
pháp giống như ngọn đèn soi đường cho lữ khách trong đêm đông”. Ph.Bêcơn là

một trong những người đầu tiên nhận thức được hạn chế của tam đoạn luận và của
lôgic hình thức - cái mà từ trước đến bấy giờ vẫn được coi là phương pháp nhận
thức vạn năng, đồng thời ông là một trong những người khởi xướng ra tư tưởng
lôgic mới. Theo Ph.Bacơn cần phải rà soát những phương pháp trước đây để từ đó
kế thừa và triển khai phương pháp mới. Ông cho rằng từ trước đến nay con người
chủ yếu sử dụng hai phương pháp là phương pháp con nhện và phương pháp con
kiến. Cả hai phương pháp này đều bộc lộ hạn chế, vì vậy ông đề xuất phương

6


pháp con ong. “Con ong chọn phương thức hành động trung gian, nó khai thác vật
liệu từ hoa ngoài vườn và ruộng đồng nhưng sử dụng và biến đổi nó phù hợp với
khả năng và chỉ định của mình. Công việc đích thực của triết học cũng không khác
gì công việc đó”.
Đóng góp lớn của Ph.Bêcơn về mặt triết học chính là lý luận nhận thức. Ông
cho rằng, không có tri thức bẩm sinh. Mọi tri thức đều bắt đầu từ kinh nghiệm và
chế biến những kinh nghiệm đó thành hệ thống, nhờ đó cho ta biết được bản chất,
quy luật của sự vật. Ở đây, ông đã có tư tưởng biện chứng về mối quan hệ giữa
nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính. Ông ví những người kinh nghiệm luận
máy móc giống như con kiến chỉ biết tha nhặt những cái lẻ tẻ, vụn vặt và sử dụng
chúng mà không biết chế biến chúng; còn những người giáo điều thì giống như
những con nhện dùng lý trí của mình chăng lên cái mạng vô hình, xa rời hiện thực.
Theo ông, nhà khoa học chân chính phải như con ong, biết cóp nhặt nhị hoa và
chế biến thành mật. Thực chất tư tưởng của ông là hướng tư duy, trí tuệ vào khái
quát và diễn giải những tư liệu do cảm tính mang lại, chế biến lại để đi đến bản
chất, đến quy luật. Các nhà khoa học chân chính phải xuất phát từ bản thân sự vật
trong thế giới khách quan chứ không phải từ những tín điều thần học hoặc là từ
các ảo tưởng chủ quan. Bản chất của phương pháp con ong là từ những tri thức do
cảm tính đem lại chế biến chúng, như con ong biến mật hoa thành mật ong, rút ra

những tri thức mới bằng tư duy lý tính.
Ph.Bêcơn nhấn mạnh: Muốn nhận thức được giới tự nhiên một cách khoa học,
đúng đắn, con người cần phải từ bỏ các ảo tưởng như đã trình bày ở trên, đồng
thời phải áp dụng phương pháp nhận thức mới. Ông là người rất đề cao phương
pháp, coi đó là con đường ngắn nhất đi tới chân lý, đi tới những phát minh và sáng
tạo. Phương pháp nhận thức tối ưu, theo Ph.Bêcơn, là phương pháp quy nạp. Đó là
phương pháp đi từ cái riêng đến cái chung, từ những sự kiện riêng lẻ đi đến những
nguyên lý phổ biến. Ông coi phương pháp quy nạp là chiếc la bàn của khoa học.

7


Nhưng ông không thoả mãn với những phương pháp quy nạp đã có (quy nạp đầy
đủ, quy nạp không đầy đủ). Ông là người đầu tiên khám phá ra phương pháp quy
nạp loại trừ, tức phương pháp quy nạp mà trong đó có phân tích, loại bỏ những dữ
kiện phụ, đi đến khẳng định bản chất của sự vật. Quá trình nhận thức được chia
làm ba bước:
+ Bước thứ nhất: Thông qua các giác quan của con người nhận thức giới tự
nhiên với sự đa dạng và sinh động của nó.
+ Bước thứ hai: Trên cơ sở các tài liệu giác quan thu thập được, lập bảng so
sánh, hệ thống lại và phân tích chúng.
+ Bước thứ ba: Quy nạp – đây là bước quan trọng nhất – phân tích các dữ kiện
thu thập được, loại bỏ những dữ kiện phụ, tìm ra mối liên hệ nhân quả của các
hiện tượng mà ta nghiên cứu, qua đó phát hiện ra bản chất của sự vật.
Nhìn chung, trong vấn đề phương pháp luận, Ph.Bêcơn là nhà duy cảm (mặc
dù không cực đoan), thiên về sự phát triển khoa học tự nhiên thực nghiệm; là
người có công khởi xướng ra tư tưởng cần thiết phải xây dựng một hệ thống
phương pháp luận mới, phù hợp với sự phát triển của khoa học thời cận đại. Lý
luận nhận thức của ông có đóng góp rất lớn đối với sự phát triển của khoa học thời
bấy giờ. Tuy nhiên, ông không đứng vững trên lập trường duy vật vô thần. Theo

ông, khoa học và thần học không nên can thiệp vào công việc của nhau. Khoa học
nghiên cứu cái mà thần học không thể có được; còn thần học nghiên cứu cái mà
khoa học không vươn tới được. Tính không triệt để đó của Ph.Bêcơn phản ánh
tính thoả hiệp của giai cấp tư sản Anh lúc bấy giờ.
Nhận thức luận của Tômát Hốpxơ (1588-1679)
Hốpxơ đã phát triển kinh nghiệm luận Ph.Bêcơn với một số yếu tố của duy lý
luận. Ông cho rằng, đối tượng nhận thức là các vật thể, các đối tượng vật chất và

8


những quan hệ số lượng cơ học và toán học. Con người có thể nhận thức được sự
vật là nhờ cảm giác và lý trí. Cảm giác, kinh nghiệm là bước đầu của nhận thức.
Nguồn gốc của cảm giác, kinh nghiệm là ở thế giới vật chất. Lý trí đi sâu phân
tích sự vật để nắm được bản chất của sự vật. Ông cho rằng, phép quy nạp của
Ph.Bêcơn chỉ cần thiết cho vật lý học; còn đối với hình học và xã hội học thì
phương pháp diễn dịch, duy lý chiếm vị trí thống trị.
Về vấn đề chân lý, Hốpxơ cho rằng: chân lý không phải là của sự vật mà là sự
nhận định về sự vật; giả dối hay chân thực không thuộc về bản thân sự vật mà
thuộc về tư tưởng hay nhận định của con người. Ông phê phán tính chất thần học
của Ph.Bêcơn; phê phán học thuyết về chân lý hai mặt. Đó là điểm tích cực trong
triết học của ông. Song, ông lại theo quan điểm của phái duy danh cho rằng: chỉ có
những vật thể riêng lẻ là có thật, còn các khái niệm như thực thể, vật chất v.v.. chỉ
là những tên gọi, những ký hiệu.
Hốpxơ là nhà duy vật cơ học điển hình. Ông coi cơ học và toán học là mẫu
mực của bất kỳ tư duy khoa học nào. Ông quan niệm vận động chỉ là sự thay đổi
vị trí của các vật thể; nguồn gốc vận động là do va chạm bên ngoài đầu tiên giữa
các vật thể chứ không phải do nguyên nhân bên trong, là cái vốn có của vật chất.
Hốpxơ không thấy đặc điểm riêng của giới hữu cơ. Ông cho rằng trái tim là gì nếu
không phải là cái lò xo; dây thần kinh là gì nếu không phải những sợi chỉ; còn

khớp xương là gì, nếu không phải là những bánh xe làm cho cơ thể vận động.
Nhận thức luận của Giôn Lốccơ (1632-1704)
Lốccơ tiếp tục kinh nghiệm luận duy vật của Ph.Bêcơn và có sự phát triển
thêm. Kế thừa tư tưởng của Ph.Bêcơn cho rằng mọi nhận thức đều bắt đầu từ kinh
nghiệm, Lốccơ phát triển thêm, mọi kinh nghiệm đều bắt nguồn từ cảm giác. Cảm
giác được hình thành khi con người tiếp cận với thế giới xung quanh. Đó là căn cứ
đầu tiên và có ý nghĩa quyết định tới toàn bộ nhận thức. Song, khi lập luận về kinh
nghiệm, Lốccơ đã không đứng vững trên lập trường duy vật. Ông chio rằng: có

9


hai loại kinh nghiệm là kinh nghiệm bên ngoài và kinh nghiệm bên trong. Kinh
nghiệm bên ngoài là kết quả của sự tập hợp các cảm giác phát sinh do sự tác động
của sự vật khách quan lên giác quan của con người; nó có nguồn gốc từ thế giới
vật chất khách quan. Còn kinh nghiệm bên trong là kết quả của sự tập hợp các
cảm giác bên trong con người, hay những phản xạ, những cảm xúc cá nhân không
liên quan gì tới sự vật khách quan.
Lốccơ khẳng định không có tư tưởng bẩm sinh. Mọi nhận thức đều sinh ra
trong kinh nghiệm và từ kinh nghiệm. Những tri thức, tư tưởng của con người
xuất hiện trong quá trình con người tiếp xúc, tác động với thế giới xung quanh.
Con người khi mới sinh ra giống như tờ giấy trắng hay là tấm gỗ mộc. Trong trí
tuệ không có cái gì mà trước đó lại không có trong cảm giác, trong kinh nghiệm.
Theo Lốccơ, tập hợp những kinh nghiệm sẽ làm xuất hiện đời sống tâm lý, đời
sống tư tưởng của con người. Ông phân chia tư tưởng của con người thành hai loại
là tư tưởng giản đơn và tư tưởng phức tạp. Tư tưởng giản đơn là tổng số những
cảm giác của con người; còn tư tưởng phức tạp là do những tư tưởng giản đơn kết
hợp lại, nó đòi hỏi có sự phân tích, so sánh của lý trí để hiểu biết sâu sắc về sự vật.
Lốccơ phân chia đặc tính của một sự vật thành đặc tính có trước và đặc tính có
sau. Đặc tính có trước như là vận động, đứng im, khối lượng, hình dạng, mật độ

v.v.. Đó là những đặc tính khách quan, không phụ thuộc vào cảm giác của con
người, chúng không thể mất đi dù sự vật có biến đổi. Nhiệm vụ của khoa học là
phát hiện ra những đặc tính đó. Còn đặc tính có sau là những đặc tính như là màu
sắc, âm thanh, mùi vị v.v.. Đó là những đặc tính dễ biến đổi vì nó tuỳ thuộc vào
cảm giác chủ quan của mỗi người. Việc phân biệt một cách cực đoan đặc tính có
trước và đặc tính có sau thể hiện tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật của
Lốccơ.
Mặc dù triết học của Lốccơ mang tính chất không triệt để, có những điểm
nhượng bộ chủ nghĩa duy tâm, nhưng chủ nghĩa duy vật vẫn chiếm ưu thế. Những
tư tưởng tiến bộ, duy vật của ông đã được các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII kế

10


thừa và phát triển.

2. Nhận thức luận của các nhà triết học siêu hình thế kỷ XVII

Nhận thức luận của Rơnê Đêcáctơ (1596-1650)
Đêcáctơ là nhà toán học, vật lý học và là một trong những người sáng lập ra
triết học cận đại. Cùng với Ph.Bêcơn, ông đã tạo ra một bước cách mạng trong
lịch sử tư tưởng triết học Tây Âu thời cận đại. Đêcáctơ gắn liền và chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, nhất là khoa học tự nhiên lý thuyết, ông đề cao tư
duy lý luận, tư duy lôgic và lý thuyết khoa học, vì vậy Đêcáctơ được coi là nhà
triết học duy lý.
Tiếp theo Ph.Bêcơn và Hốpxơ, Đêcáctơ đã chống lại triết học kinh viện. Ông
đòi hỏi phải thay thế triết học kinh viện nhà thờ bằng việc dạy người ta những
kiến thức về tự nhiên. Để chống lại triết học kinh viện, Đêcáctơ đã nêu lên nguyên
tắc nghi ngờ. Theo ông, nghi ngờ là nguyên tắc để nhận thức đúng, là điểm xuất
phát của khoa học chân chính. Cần phải nghi ngờ tất cả mọi cái mà người ta tin

đấy là chân lý, phải nghi ngờ tất cả mọi tri thức mà con người đã đạt được từ trước
tới nay, phải nghi ngờ cả các tài liệu của khoa học tự nhiên và cả cảm giác của con
người. Từ nghi ngờ buộc con người phải tìm cách chứng minh, tránh những kết
luận vội vàng, hấp tấp, chỉ chừng nào được lý tính kiểm tra, chứng minh, thì mới
có tri thức đúng đắn, tin cậy, mới được coi là chân lý. Nghi ngờ của Đêcáctơ
không phải là chủ nghĩa hoài nghi, mà là để tìm ra phương pháp, hướng đi đúng
đắn cho khoa học nhằm đảm bảo đạt tới chân lý.
Như vậy, nguyên tắc nghi ngờ của Đêcáctơ có nội dung tích cực, nó phủ nhận
tất cả những gì là kinh viện, giả khoa học, giáo điều, mê tín và vạch ra con đường
mới cho nhận thức.

11


Đề cao tư duy, Đêcáctơ đưa lý trí lên vị trí hàng đầu trong lý luận nhận thức,
tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính. Theo ông, tư duy lý luận không phụ
thuộc vào nhận thức cảm tính, nhận thức cảm tính không thể là nguồn gốc của
những nguyên lý khoa học. Ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách giữa nhận thức
lý tính với nhận thức cảm tính. Theo ông, lý trí là tuyệt đối tự do và không phạm
phải sai lầm, là quan toà tối cao để kiểm tra chân lý. Tính rõ ràng, rành mạch của
tư duy chính là tiêu chuẩn để xác định chân lý.
Từ chỗ tuyệt đối hoá nhận thức lý tính, xem nhẹ nhận thức cảm tính, Đêcáctơ
đã đi tới quan niệm cho rằng: trong lý trí có tư tưởng bẩm sinh đối lập với kinh
nghiệm, cảm giác. Ông cho rằng những nguyên tắc cơ bản của lôgic học và của
toán học là những cái bẩm sinh, không phụ thuộc vào kinh nghiệm. Đây chính là
biểu hiện duy tâm trong nhận thức luận của ông.
Cũng giống như Ph.Bêcơn, Đêcáctơ rất coi trọng phương pháp nhận thức. Ông
cho rằng, nhận thức mà không có phương pháp đúng đắn thì giống như người mù.
Song, nếu Ph.Bêcơn xuất phát từ vật lý học, đặc biệt đề cao phương pháp quy nạp,
thì Đêcáctơ xuất phát từ toán học, đặc biệt đề cao phương pháp diễn dịch. Đêcáctơ

cho rằng, bên cạnh việc xây dựng bức tranh khái quát về thế giới, siêu hình học
tức triết học còn có nhiệm vụ đề ra những nguyên lý cơ bản của phương pháp
luận, một vấn đề vô cùng cần thiết đối với nhận thức. Ông mong muốn xây dựng
một lôgic học "dạy cách vận dụng lý tính một cách tốt nhất, nhằm nhận thức
những chân lý mà ta chưa biết". Đêcáctơ đặc biệt đề cao vai trò của lý tính, hướng
tới hoàn thiện và phát triển khả năng trí tuệ của con người. Theo ông, để đạt tới
chân lý cần phải tuân thủ bốn nguyên tắc.
-Nguyên tắc thứ nhất: Chỉ coi là chân lý những gì được cảm nhận rõ ràng và
rành mạch, không gợi lên một chút nghi ngờ nào, tức là những điều hiển nhiên.
-Nguyên tắc thứ hai: Chia mỗi sự vật phức tạp, trong chừng mực có thể làm
được, thành các bộ phận cấu thành nó để tiện lợi nhất trong việc nghiên cứu
chúng. Thực chất, Đêcáctơ đề cao phương pháp phân tích trong nhận thức.

12


-Nguyên tắc thứ ba: Trong quá trình nhận thức chúng ta cần xuất phát từ
những điều đơn giản và sơ đẳng nhất, dần dần đi đến những điều phức tạp hơn.
-Nguyên tắc thứ tư: Chúng ta phải xem xét đầy đủ các dữ kiện, không được bỏ
sót một tư liệu nào trong quá trình nhận thức sự vật.
Trên lập trường duy lý, Đêcáctơ đặc biệt đề cao vai trò của phương pháp diễn
dịch, mặc dù không hoàn toàn phủ nhận vị trí của phương pháp quy nạp, cũng như
nhận thức cảm tính.
Nhìn chung, phương pháp luận của Đêcáctơ mặc dù có nhiều hạn chế nhưng cũng
có nhiều yếu tố tích cực và cách mạng. Ông đã nhận thức được những hạn chế của
phương pháp kinh viện truyền thống và tìm cách xây dựng một phương pháp luận
mới đáp ứng với sự phát triển như vũ bão của khoa học sau thời trung cổ. Phương
pháp luận của ông ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển khoa học, kỹ thuật lúc
bấy giờ cũng như các giai đoạn về sau.


3. Nhận thức luận của các nhà triết học duy tâm và hoài nghi luận ở Anh cuối
thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII

Nhận thức luận của Gioóc Beccơly (1685-1753)
Beccơly là đại biểu của chủ nghĩa duy tâm chủ quan ở Anh cuối thế kỷ XVII,
đầu thế kỷ XVIII. Nhằm mục đích bảo vệ tôn giáo, tuyên truyền cho chủ nghĩa
duy tâm thần bí, trước tiên Beccơly đã tấn công vào chủ nghĩa duy vật. Theo ông,
thực thể vật chất là cơ sở của chủ nghĩa duy vật, nếu lật đổ được hòn đá tảng đó
thì toàn bộ chủ nghĩa duy vật sẽ bị sụp đổ. Beccơly đã dựa vào quan điểm duy
danh làm căn cứ để phê phán khái niệm vật chất. Theo ông, thế giới chỉ tồn tại
những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không có cái chung, cái phổ biến. Vì thế, khái
niệm vật chất chỉ là sự trừu tượng trống rỗng, nó không bao hàm một quan niệm
13


nào khác, một ý nghĩa nào khác ngoài cái ý nghĩa là không ai biết, tức cũng là con
số không.
Sau khi phê phán khái niệm vật chất của chủ nghĩa duy vật, Beccơly đã đưa ra
học thuyết duy tâm chủ quan để thay thế chủ nghĩa duy vật, phủ nhận sự tồn tại
khách quan của thế giới. Theo ông, sự vật là tổng hợp những cảm giác, cảm giác
không phải là phản ánh sự vật mà là sự vật thực tế; xoá bỏ cảm giác đi thì sự vật
biến mất. Ông giải thích: “Tôi nhìn thấy quả anh đào này, sờ thấy nó, nếm nó…
nên nó có thật. Gạt bỏ cảm giác mầu đỏ (nhìn thấy), mềm dịu (sờ thấy), mát đắng
(nếm)… đi thì tức là tiêu diệt quả anh đào”. Như vậy, không phải sự vật sinh ra
cảm giác mà cảm giác sinh ra sự vật; sự vật là tập hợp những cảm giác, những
biểu tượng, mà biểu tượng thì không tồn tại ngoài trí óc, cho nên sự tồn tại của
chúng là ở chỗ chúng được tri giác, hay là chúng được nhận thức. Từ đó, ông đưa
ra công thức: “Tồn tại tức là được tri giác”. Cái gì mà không được một chủ thể nào
đó tri giác thì nó không tồn tại.
Beccơly không dừng lại ở lập trường duy tâm chủ quan, ông còn chuyển sang

lập trường duy tâm khách quan. Ông lập luận: sự vật tồn tại có nghĩa là được tri
giác; nhưng sự vật tồn tại cả những khi không được người ta tri giác nhưng được
chúa tri giác. Chúa là tinh thần vũ trụ thiêng liêng, là tinh thần vĩnh viễn phổ biến
khắp nơi, nhận thức và bao trùm tất cả mọi vật. Chúa là chủ thể vĩnh cửu, chúa
luôn luôn đưa vào trong ý thức của những chủ thể riêng lẻ (con người) nội dung
của các cảm giác, chúa chuyển tinh thần của mình vào trong trí tuệ con người. Rõ
ràng, việc chuyển từ duy tâm chủ quan sang duy tâm khách quan, một mặt thể
hiện những mâu thuẫn trong thế giới quan của ông, mặt khác thể hiện ông tìm
cách bảo vệ chúa.
Từ chỗ phủ nhận tồn tại khách quan của thế giới vật chất, Beccơly đi đến phủ
nhận chân lý khách quan. Ông cho rằng: tìm chân lý không phải là trong sự phù
hợp của tri thức với sự vật bên ngoài, mà là sự so sánh các quan niệm trong ý thức

14


con người, là tính rõ ràng của các tri giác cảm tính, là sự đơn giản và dễ hiểu của
các quan niệm, là sự phù hợp với ý chúa. Tri thức được coi là đúng khi nó thoả
mãn một trong những tiêu chuẩn sau:
1)Tính rõ ràng cả các tri giác cảm tính;
2)Tính đồng thời của các tri giác gần như là giống nhau ở một vài người;
3)Sự tương đồng của nhiều cảm giác với nhau;
4)Tính đơn giản và dễ hiểu;
5)Sự phù hợp với ý chúa và tuân theo ý chúa.
Trong tất cả các tiêu chuẩn trên thì tiêu chuẩn phù hợp với ý chúa là quan trọng
nhất và đáng tin cậy nhất.
Nhận thức luận của Đavít Hium (1711-1776)
Đavít Hium là nhà triết học nổi tiếng người Anh, là nhà hoài nghi luận thời
cận đại. Hium cho rằng: mọi tri thức đều từ kinh nghiệm cảm tính mà ra. Song,
ông coi kinh nghiệm không phải là phản ánh khách quan, mà nó sinh ra từ “ấn

tượng”, “cảm giác” của chủ thể. Nhận thức không phải là nhận thức thế giới bên
ngoài, mà là nhận thức quá trình tâm lý xảy ra trong con người. “Ấn tượng”, “cảm
giác” là nguồn gốc tuyệt đối của nhận thức. Theo ông, con người không thể biết
được gì về thế giới khách quan, mà chỉ biết được cảm giác của mình mà thôi.
Ngay cả nguồn gốc của “cảm giác” là gì cũng không biết được. Từ đó, ông kết
luận: nhận thức đó là quá trình nhận thức các hiện tượng tâm lý xảy ra trong con
người chứ không thể nhận thức

15


được thế giới khách quan.
Như vậy, Hium đã đi từ duy tâm chủ quan đến hoài nghi và bất khả tri cực
đoan.

4. Nhận thức luận của Điđơrô và các nhà triết học Khai sáng Pháp thế kỉ XVIII

Nhận thức luận của Đêni Điđơrô (1713-1784)
Điđơrô thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức. Ông
cho rằng quá trình chuyển biến từ vô tri vô giác tới khả năng cảm giác, tư duy gắn
liền với quá trình phát triển của cấu trúc vật chất từ vô cơ, hữu cơ đến sự sống và
cơ thể con người. Tuy nhiên, cũng như các nhà duy vật trước Mác, ông chưa thấy
được rằng, ý thức không chỉ là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người, mà còn là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Đề cao vai trò đặc biệt của
quá trình nhận thức đối với sự phát triển của xã hội, Điđơrô đưa ra tư tưởng biện
chứng khẳng định tính vô cùng tận trong sự phát triển của giới tự nhiên, cũng như
quá trình nhận thức của con người. Tuy khả năng nhận thức của mỗi cá nhân là
hữu hạn, nhưng đối với nhân loại về nguyên tắc có thể nhận thức được toàn bộ thế
giới, mặc dù quá trình đó cũng là vô tận. Điđơrô đã phê phán chủ nghĩa duy tâm
của Beccơly và tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật Anh. Điđơrô ví chủ thể

của Beccơly như một chiếc đàn pianô ngộ nhận rằng nó là nhạc cụ duy nhất trên
thế gian, và mọi sự hài hoà của vũ trụ đều diễn ra trong đó. Theo ông, trong vũ trụ
chỉ có một thực thể duy nhất đó là vật chất; vật chất là cơ sở của mọi sự vật, hiện
tượng. Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Vật chất là
toàn bộ những vật thể có quảng tính, có hình thức và luôn luôn vận động. Vật chất
luôn luôn vận động, ngay đứng im cũng là một trạng thái vận động. Vận động là
một thuộc tính của vật chất chứ không phải từ bên ngoài mang vào. Bản tính cố
16


hữu của vật chất là vận động. Ông cho rằng sự dịch chuyển của vật thể từ vị trí
này sang vị trí khác không phải là vận động mà chỉ là sự di động, còn vận động thì
có cả ở vật đang dịch chuyển lẫn vật đang đứng yên. Ông khẳng định, trong quá
trình vận động và phát triển, giới tự nhiên sẽ chọn lọc những gì giúp cho nó ngày
càng hoàn thiện, đồng thời đào thải những vật nào không thích nghi hoặc không
tuân theo quy luật của nó. Cấu trúc và trạng thái của các sinh vật là kết quả của
quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên. Với quan niệm này, ông là bậc tiền bối
của thuyết tiến hoá của Đácuyn.
Điđơrô xây dựng lý luận nhận thức trên lập trường duy vật. Theo ông, cảm
giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là giai đoạn thứ nhất trong nhận thức; còn
lý trí, tư duy là giai đoạn thứ hai. Trên cơ sở cảm giác mà xuất hiện tư duy; cảm
giác là bằng chứng, lý trí là quan toà, dùng lý trí để kiểm soát cảm giác. Chính vật
chất, giới tự nhiên là nguyên nhân phổ biến của cảm giác con người. Ông luôn
nhấn mạnh phải dùng thí nghiệm và quan sát để kiểm tra những luận điểm về lý
luận. Có thể nói nhận thức luận của Điđơrô đã tiến đến gần nhận thức luận duy vật
biện chứng, nó có vai trò tích cực chống thần học, chủ nghĩa duy tâm và bất khả
tri.
Nhận thức luận của Pôn Đirích Hônbách (1723-1789)
Hônbách cho rằng tư duy xuất phát từ cảm giác. Thế giới khách quan tác động
vào các giác quan của chúng ta sinh ra cảm giác, từ đó nảy sinh trong đầu óc

chúng ta tư tưởng, ý nghĩ, nguyện vọng. Không có linh hồn bất tử, không có tư
tưởng bẩm sinh. Chân lý là sự phù hợp giữa ý niệm với sự vật. Tuy nhiên, nhận
thức luận của ông còn nhiều hạn chế, chưa thấy được quan hệ biện chứng giữa
nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính.

17


KẾT LUẬN
Triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là sự phát triển kế thừa, tiếp tục các tư tưởng
triết học thời kỳ Phục hưng trong giai đoạn mới – giai đoạn cách mạng tư sản và
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên. Chính những điều kiện kinh tế chính trị và khoa học tự nhiên thời cận đại đã quy định những đặc trưng về mặt
triết học thời kỳ này:
-Thứ nhất, đây là thời kỳ tiếp tục diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, đây là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy
vật đối với chủ nghĩa duy tâm, của khoa học đối với tôn giáo. Chủ nghĩa duy vật
thời kỳ này là thế giới quan của giai cấp tư sản cách mạng; là vũ khí tư tưởng của
giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội, xác lập xã hội
tư bản.
-Thứ hai, chủ nghĩa duy vật thời kỳ này mang hình thức của chủ nghĩa duy vật
siêu hình, máy móc, phương pháp siêu hình, máy móc thống trị, phổ biến trong
lĩnh vực tư duy triết học và khoa học do thói quen trong nghiên cứu khoa học
chuyên môn, tách biệt khỏi các mối liên hệ chung.
-Thứ ba, đây là thời kỳ xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh
vực xã hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc
giải thích xã hội và lịch sử. Những đặc điểm ấy thể hiện rõ nét trong quan niệm
của một số triết gia, điển hình như B.Xpinôda, Ph.Bêcơn, T.Hôpxơ, R.Đêcactơ,
G.Lamettri, Đ.Điđơrô, P.Hônbách, G.G.Rutxô.
-Thứ tư, trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật vô thần của thời
cận đại, chủ nghĩa duy tâm và thần học buộc phải có những cải cách nhất định.

Nhu cầu ấy được phản ánh đặc biệt trong triết học duy tâm chủ quan của nhà triết
18


học thần học người Anh G.Beccơly.
-Thứ năm, mặc dù thời kỳ này là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy vật đối
với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, nhưng hầu hết các nhà duy vật vẫn rơi vào
phiếm thần luận hoặc tự nhiên thần luận, chỉ có một số ít nhà duy vật đi đến chủ
nghĩa vô thần. Điều này không chỉ do ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo, mà còn do
giai cấp tư sản vẫn cần đến tôn giáo cho nên có lập trường thiếu triệt để.
Triết học Tây Âu cận đại ra đời trong bối cảnh khoa học tự nhiên diễn ra quá
trình phân ngành sâu sắc và phát triển mạnh mẽ. Vấn đề là làm sao để tìm ra
phương pháp khoa học chung của nhận thức và khái quát hệ thống hóa các khoa
học độc lập. Chính vì vậy, nhiệm vụ trọng tâm của triết học thời kỳ này là lý luận
nhận thức, là tìm ra phương pháp của tri thức chân lý cho tất cả các khoa học.
Thời kỳ này diễn ra cuộc đấu tranh giữa phái duy cảm với phái duy lý; giữa
phương pháp quy nạp với phương pháp diễn dịch; giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và
chủ nghĩa duy lý. Trên thực tế, chủ nghĩa duy lý cùng các phương pháp của nó
chiếm ưu thế và được sử dụng rộng rãi. Cuộc đấu tranh này đã đóng một vai trò
quan trọng trong việc tìm kiếm các phương pháp nhận thức khoa học, góp phần
thúc đẩy khoa học phát triển. Điều đó đủ nói lên vị trí quan trọng và vai trò to lớn
của nhận thức luận trong thời kỳ này.
Với nội dung trả lời cho nhưng câu hỏi lớn như: Phương pháp khoa học chung
của nhận thức là gì? Khái quát, hệ thống hóa các khoa học độc lập như thế nào?
Cảm tính và lý tính là gì? Cảm tính và/hoặc lý tính dẫn tới nhận thức như thế nào?
Sử dụng phương pháp quy nạp và diễn dịch ra sao? Phương mới cho nhận thức là
gì?... Nhận thức luận thời kỳ này đã đạt được nhiều thành tựu. Tuy còn có những
điểm hạn chế nhưng có ý nghĩa và vai trò to lớn:
Vài trò thúc đẩy khoa học phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là khoa học tự nhiên.


19


Vai trò làm chất liệu, tiền đề cho nhận thức luận thời kỳ sau kế thừa phát triển.
Vai trò đấu tranh chống quan điểm tôn giáo, quan điểm thần học, chủ nghĩa
kinh viện. Mặc dù vẫn có quan niệm đầy duy tâm trong nhận thức luận của một số
nhà triết học, nhưng nhìn chung, quan niệm vô thần vẫn chiếm ưu thế.

20


Tài liệu tham khảo

 Giáo trình triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành triết học) - Nhà xuất bản Chính trị-Hành chính
 (Trang web của Khoa lý luận chính
trị - Trường Đại học Mỏ địa chất)
 Lịch sử triết học (giáo trình dùng cho các trường đại học và cao đẳng) – Nhà
xuất bản Giáo
 dục

21



×