Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

TIỂU LUẬN PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.02 KB, 12 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
LÝ LUẬN DẠY HỌC Ở ĐẠI HỌC

ĐỀ TÀI:

PHƢƠNG PHÁP TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN

GVHD: PGS.TS Đoàn Văn Điều
HVTH: Trần Huỳnh Khƣơng

TP. Hồ Chí Minh ngày 18 tháng 08 năm 2014


Tiểu luận môn: Lý luận dạy học đại học

HV: Trần Huỳnh Khương

Lời nói đầu:
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, lượng thông tin ngày càng gia
tăng. Theo tính toán của các chuyên gia trong lĩnh vực xã hội học, thì lượng
thông tin tăng gấp đôi cứ sau khoảng 5-6 năm. Dưới mái trường đại học, sinh
viên được trang bị rất nhiều kiến thức trong lĩnh vực chuyên môn mà mình đã
chọn học. Dẫu các giảng viên đại học có phương pháp dạy học hay cách mấy,
giúp cho các sinh viên tiếp thu bài một cách tốt nhất. Và với 4 năm học ở đại
học có thể các sinh viên sẽ có được một tấm bằng đại học mà mình mong muốn.
Nhưng điều có không có nghĩa là các sinh viên sẽ phải gắn bó với nghề của
mình suốt cuộc đời một cách thuận lợi và tốt đẹp. Trong một thế giới luôn luôn
phát sinh những điều mới mẻ một cách nhanh chóng thì trong lĩnh vực nghề


nghiệp đã chọn sinh viên cũng phải cập nhật kiến thức, trau dồi và tự đào tạo
cho mình. Xuất phát từ điều đó, chúng tôi xin lựa chọn “phƣơng pháp tự học
của sinh viên” trong tiểu luận này. Và chúng tôi cho rằng đây là phương pháp
tốt nhất để cho sinh viên có thể học tập tốt ở trường đại học và tạo tiền đề để sau
này khi làm việc sinh viên cũng có thể tiếp tục học tập và rèn luyện chuyên môn
cho mình thêm vững vàng theo kịp tiến bộ của xã hội.
Tự học là yếu tố quyết định chất lượng học tập, chất lượng đào tạo, là con
đường nhanh chóng đưa sự nghiệp giáo dục nước ta tiến kịp các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Tự học được xuất phát từ chính nhu cầu muốn học hỏi, muốn gia tăng sự hiểu
biết để làm việc và sống tốt hơn của mỗi người, là hình thức học tập không thể
thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học. Thực tế giảng dạy
tại các trường đại học cho thấy, nếu sinh viên không chịu khó học tập, đào sâu
nghiên cứu, mở rộng thêm kiến thức bằng cách học tập độc lập thì các thầy giáo,
cô giáo có dạy giỏi, có kiến thức sâu rộng và trình độ nghiệp vụ vững vàng đến
mấy chất lượng học tập cũng không thể cao.

Trang 2


Tiểu luận môn: Lý luận dạy học đại học

HV: Trần Huỳnh Khương

Hiện nay, xã hội đặt ra cho giáo dục và đào tạo ngày càng khắt khe, đòi hỏi các
trường đại học không chỉ đào tạo ra nguồn nhân lực thông thạo về lý thuyết mà
còn phải biết vận dụng, ứng dụng những kiến thức đó vào thực tiễn đời sống. Để
đáp ứng yêu cầu đó, các trường đại học đã phát động đổi mới phương pháp học
tập. Tuy các đội ngũ giảng viên đã tiến hành ứng dụng nhưng chuyển biến về
chất lượng trong giờ dạy chưa thật sự có kết quả cao. Bởi sinh viên quen với

việc thụ động trong việc tiếp nhận, áp đặt. Trong bài giảng của thầy giáo, cô
giáo đều có phần định hướng, tổ chức tự học cho sinh viên nhưng nhiều khi
sinh viên chỉ thực hiện một cách sơ sài, chiếu lệ. Như vậy, việc tự học của sinh
viên được đặt ra như một nhu cầu bức thiết.

Trang 3


Tiểu luận môn: Lý luận dạy học đại học

I.

HV: Trần Huỳnh Khương

Cơ sở tâm lý học của hoạt động học tập của sinh viên:

Hoạt động học của sinh viên là nột quá trình nhận thức
Mục tiêu của dạy học là thông qua hoạt động học - một hoạt động nhận thức độc
đáo mang tính chất nghiên cứu, làm cho sinh viên lĩnh hội được những kinh
nghiệm xã hội mà loài người đã tích lũy được nhằm hình thành kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp. Hoạt động hay quá trình nhận thức - học tập ở bậc giáo dục nghề
nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau: Quá trình nhận thức là quá trình phản
ánh các hiện tượng thực tiễn nhưng không phải là phản ánh tất cả mọi hiện
tượng mà là phản ánh một cách tích cực và chọn lọc. Chỉ những gì liên quan đến
nhu cầu, hứng thú, đến hoạt động hiện tại và sự phát triển tương lai nghề nghiệp
của sinh viên mới được chọn lọc và phản ánh. Quy luật nhận thức của loài người
đã được V. I. Lênin nêu lên trong công thức nổi tiếng: Từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn...". Con đường
biện chứng của sự nhận thức chân lý, như vậy bao gồm hai giai đoạn, đó là giai
đoạn cảm tính và giai đoạn lý tính. Tuy nhiên, trong sự nhận thức - học tập của

sinh viên không chỉ là nhận thức những điều mà nhân loại đã biết, tức là những
điều mới mẻ chỉ đối với chính bản thân họ mà họ bước đầu khám phá được chân
lý mới cho nhân loại thông qua việc “tập dượt” nghiên cứu khoa học. Điều đáng
lưu ý ở đây là hoạt động nhận thức của sinh viên không cần phải diễn ra theo
như trình tự và thời gian mà loài người và các nhà khoa học đã nhận thức ra
chân lý đó. Tùy thuộc vào đặc điểm nội dung học tập khả năng và điều kiện học
tập thực mà sinh viên có thể thực hiện hoạt động nhận thức - học tập đi từ cụ thể
đến trừu tượng hay ngược lại từ trừu tượng đến cụ thể.
Những công trình nghiên cứu về tâm lý học đã xác minh rằng sự phát triển của
các thao tác tư duy cơ bản được thực hiện theo hai phương hướng: Thứ nhất,
khắc phục tính không đồng đều trong sự phát triển phân tích và tổng hợp và xác
lập sự tương ứng giữa chúng với nhau. Thứ hai, nâng cao trình độ phát triển của
mỗi thao tác đó. Những hình thức phân tích thô thiển được thay thế bằng những
hình thức phân tích phân hóa tinh vi hơn và sự tổng hợp một chiều, từng phần
nhường chỗ cho sự tổng hợp nhiều mặt đầy đủ hơn. Ở sinh viên những biến đổi

Trang 4


Tiểu luận môn: Lý luận dạy học đại học

HV: Trần Huỳnh Khương

ấy không diễn ra cùng một lúc trên tất cả các mặt học tập các bộ môn trong nhà
trường. Việc giảng viên đưa đề tài mới mẻ về nội dung và mức độ phức tạp có
thể hạ thấp mức độ phân tích và tổng hợp. Tuy nhiên, những nghiên cứu cũng
cho thấy một xu thế nhất định đó là trình độ hoạt động tư duy phân tích - tổng
hợp ở sinh viên các lớp trên được nâng cao hơn. Trình độ phân tích và tổng hợp
còn bộc lộ ra đặc tính của những khái quát hóa và trừu tượng hóa của sinh viên
mà họ thường gặp trong quá trình tiếp thu kiến thức khi phải hình thành cho họ

những khái niệm trong một lĩnh vực khoa học nào đó.
Sinh viên chỉ thực sự nắm vững kiến thức trong điều kiện có sự tác động qua lại
giữa quá trình cụ thể và trừu tượng của hoạt động tư duy, mà cơ sở sinh lý của
hoạt động này là sự tác động qua lại của hai hệ thống tín hiệu. Chính vì vậy, để
hình thành một khái quát có giá trị đầy đủ về một vấn đề nào đó cho sinh viên
không những cần đến những kiến thức lý thuyết mà cần cả đến công tác thực
hành. Hoạt động học tập ở sinh viên sẽ tiến bộ lên theo hai phương hướng cơ
bản và ngược chiều nhau: một mặt, những kiến thức đã tiếp thu sẽ phức tạp hóa
lên do chúng mỗi ngày một nhiều thêm lên và do chúng được đưa vào hệ thống
những kiến thức mới và được vận dụng để giải quyết những nhiệm vụ ngày càng
phức tạp. Mặt khác, bản thân quá trình vận dụng kiến thức đơn giản hóa đi do sự
tự động hóa, sự hình thành những kỹ xảo khi thực hiện những động tác nào đó,
mà không cần nhớ đến những quy tắc tương ứng với chúng. Khi đề cập đến hiện
tượng tự động hóa để hình thành những kỹ năng và kỹ xảo cho sinh viên cần đặc
biệt chú ý đến những hành động học tập được thực hiện không cần nhớ đến quy
tắc làm cơ sở cho hành động. Tác giả P. A. Sevarep có phân tích loại hành động
này, phát hiện ra cơ chế của chúng, gọi chúng là những hành động đúng quy tắc
và chứng minh nguồn gốc khác nhau của chúng. Trong một số trường hợp, con
người hành động phù hợp với quy tắc mặc dù không biết và cũng không thể diễn
tả quy tắc đó thành lời được. Trong những trường hợp khác, con người hành
động mà không nhớ đến quy tắc vì đã nhiều lần giải quyết những nhiệm vụ khác
nhau dựa vào quy tắc đó. Luận điểm này cho thấy rằng kiến thức về quy tắc là
cơ sở để sinh viên giải quyết và kiểm tra vấn đề.

Trang 5


Tiểu luận môn: Lý luận dạy học đại học

HV: Trần Huỳnh Khương


II. Các hình thức tự học chính của sinh viên:
Các hình thức tự học chủ yếu của sinh viên là:
1) Tự học với tài liệu;
2) Chuẩn bị thảo luận, kiểm tra, thi;
3) Chuẩn bị viết luận văn;
4) Kiến tập, thực tập chuyên đề và thực tập tốt nghiệp;
5) Chuẩn bị các báo cáo cho hội thảo sinh viên nghiên cứu khoa học.
Tự học với tài liệu
Kỹ năng tự học với các nguồn tài liệu kinh tế là vô cùng quan trọng. Vấn đề
đặt ra là thế nào để đọc các tài liệu chuyên ngành như báo chí, sách giáo khoa,
sách chuyên khảo,… thu được lợi ích tối đa? có bao nhiêu phần trăm kiến thức
đọc được liên quan đến ngành học, phương pháp học?
Kỹ thuật đọc tài liệu bao gồm một số vấn đề cần lưu ý:
1) Lĩnh hội đầy đủ, thấu hiểu nội dung bài đọc, lựa chọn và nắm bắt những
nội dung quan trọng;
2) Làm rõ những thuật ngữ, những cụm từ, những khái niệm, những nhân
vật chưa rõ;
3) Tập trung chú ý vào những vấn đề được giáo viên cung cấp để thảo luận
trong giờ học.
Mục đích câu hỏi đưa ra thường được xác định bởi mục tiêu đào tạo. Nếu
câu hỏi nhằm mục đích nghiên cứu các sự kiện, con số, ý tưởng, nghĩa là bài học
đòi hỏi tái hiện những kiến thức chuyên môn, áp dụng kiến thức đã học để giải
quyết vấn đề, sử dụng làm bằng chứng trong tranh luận. Nếu câu hỏi được mong
đợi sẽ hướng đến phân tích phê bình, sử dụng kinh nghiệm cá nhân, xây dựng
phương pháp đánh giá, …thì phải giải quyết các vấn đề đào tạo ở một cấp độ
nhận thức cao hơn.
Tự học với tài liệu kinh tế có thể thực hiện hiệu quả bằng cách:

Trang 6



Tiểu luận môn: Lý luận dạy học đại học

HV: Trần Huỳnh Khương

1. Ghi chép tất cả những gì liên quan đến môn học, đặc biệt ghi chép những
vấn đề, bài tập mà giáo viên đưa ra trên lớp.
2. Để làm việc với nội dung tài liệu có hiệu quả cần phải nắm vững các khái
niệm. Sinh viên không thể khái quát được bất kỳ mục tiêu nhận thức nào nếu
không nắm được các khái niệm. Từ hệ thống các khái niệm phát triển thành lý
thuyết, quan điểm, kiến thức ứng dụng được chuyển thành hành động cụ
thể. Sinh viên theo từng người hoặc theo từng nhóm nhỏ được mời để phản ánh
những ý chính và mối liên kết quan trọng và phụ thuộc lẫn nhau trong các sơ đồ,
bản vẽ, mô hình. Một số phần của nội dung được liên kết lại với nhau để khám
phá một cách đầy đủ và chính xác nội dung của vấn đề nghiên cứu, của môn
học.
3. Để làm việc với tài liệu kinh tế, sinh viên có thể sử dụng phương pháp
thảo luận phê bình. Khi sinh viên đặt câu hỏi về luận điểm của tác giả, có nhiều
vấn đề có thể tổ chức thảo luận:
a) Những luận điểm chính nào được tác giả đưa ra và những luận chứng gì
tác giả sử dụng để bảo vệ luận điểm của mình?
b) Những mối nghi ngờ nào phát sinh về ý nghĩa của kết quả nghiên cứu?
c) Điều gì có thể được cung cấp trong việc bảo vệ lập trường (quan điểm)
của tác giả?
d) Những thế mạnh của phản biện là gì?
4. Giáo viên phải là người chốt lại vấn đề. Sinh viên được đề nghị lựa một
đoạn văn quan trọng nhất từ nguồn tài liệu chuyên ngành và viết ra trên một mặt
giấy, mặt còn lại ghi lời bình cho sự lựa chọn của mình.
Trong thảo luận về nội dung, sinh viên được mời lần lượt để đọc đoạn trích

của mình, sau đó là lời bình và kết luận đánh giá.
5. Bằng phương pháp “ghép hình” các sinh viên tham gia thảo luận nhóm
để nghiên cứu tài liệu mới, giáo viên sẽ là người tổng hợp lại. Chi tiết về phương
pháp thảo luận nhóm có thể tham khảo trong tài liệu [3].
6. Sử dụng phương pháp "trích yếu" (ghi tóm tắt) nội dung bài đọc.
Trang 7


Tiểu luận môn: Lý luận dạy học đại học

HV: Trần Huỳnh Khương

Chuẩn bị thảo luận, kiểm tra, thi
Vai trò của giáo viên trong tổ chức chuẩn bị cho sinh viên thảo luận, kiểm
tra, thi bao gồm: thứ nhất, ra bài tập cho sinh viên, và thứ hai, hỗ trợ sinh viên
trong việc giải bài tập, sửa chữa bài viết của sinh viên.
Hỗ trợ về mặt phương pháp cho sinh viên trong việc chuẩn bị kiểm tra, thi,
bao gồm tổ chức giải đáp thắc mắc nhằm mục đích tạo điều kiện cho sinh viên
thu thập thêm kiến thức, mở rộng giới hạn nghiên cứu ra ngoài môn học.
Chuẩn bị viết chuyên đề, Khóa luận tốt nghiệp
Viết chuyên đề, khóa luận tốt nghiệp nhằm mục đích tăng cường, hệ thống
hóa, tổng hợp kiến thức, hiểu biết và kỹ năng của sinh viên. Yêu cầu không thể
tách rời đối với các công trình kinh tế là đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề
chuyên môn, một nhiệm vụ kinh tế cụ thể. Đề tài nghiên cứu có thể được đề xuất
bởi người hướng dẫn khoa học, cũng có thể là sinh viên. Sự hiểu biết lô- gích
của các vấn đề tương hỗ trong chuyên đề và khóa luận tốt nghiệp tạo điều kiện
đóng góp vào xây dựng sâu sắc hơn và có hệ thống hơn vấn đề nghiên cứu. Đặc
biệt chú ý đến các phần phân tích, chứa đựng những thông tin quan sát riêng và
kết luận của tác giả.
Một trong những yêu cầu đối với sinh viên nghiên cứu khoa học là biết sử

dụng các phương pháp nghiên cứu hiện đại, biết đọc những tài liệu khác nhau,
biết sử dụng các nguồn số liệu thống kê trong và ngoài nước, biết sử dụng và
khai thác tài nguyên từ mạng Internet.
Nội dung của công trình cần phải thuyết phục, hợp lý, rõ ràng, có sử dụng
các thuật ngữ khoa học, biết sử dụng tài liệu trích dẫn. Sinh viên cần phải tự
mình trình bày vấn đề, đưa ra kết luận.
3. Nhiệm vụ của Bộ môn và giảng viên trong việc nâng cao hiệu quả cho
quá trình tự học của sinh viên
Bộ môn cần phải xác định rõ:
1) Các hướng tự học chính, nội dung, hình thức và phương pháp dạy cho
sinh viên cách tự học, tạo động lực để sinh viên tiếp thu kiến thức;
Trang 8


Tiểu luận môn: Lý luận dạy học đại học

HV: Trần Huỳnh Khương

2) Xác định nội dung cụ thể, chỉ rõ tài liệu để sinh viên tự nghiên cứu theo
từng môn học phù hợp với chương trình đào tạo;
3) Xác định quỹ thời gian tự học cho sinh viên;
4) Lập kế hoạch tự học cho sinh viên;
5) Kiểm tra, đánh giá chất lượng của việc tự học của sinh viên.
Nhiệm vụ của giảng viên là:
1) Giúp sinh viên làm quen với các hình thức và phương pháp giảng dạy ở
trường đại học, cách thức tổ chức NCKH, phương pháp tự học, các tiêu chuẩn
đánh giá việc tự học;
2) Giúp sinh viên hình thành khả năng ra quyết định; kỹ năng nghiên cứu
khoa học; kỹ năng đọc sách giáo khoa, tài liệu tham khảo; cố vấn về phương
pháp tự học; kiểm tra theo dõi kế hoạck tự học của sinh viên, đồng thời phân

tích và đánh giá kết quả tự học.

Trang 9


Tiểu luận môn: Lý luận dạy học đại học

HV: Trần Huỳnh Khương

III. Một số giải pháp nâng cao tính tự học cho sinh viên
1.Sinh viên cần chủ động rèn luyện tính tự học
Tự học có thể hiểu là tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức. Bước đầu
quá trình tự học có thể sinh viên còn có nhiều lúng túng nhưng đó cũng chính là
động lực giúp sinh viên tư duy để thoát khỏi những khó khăn, lúng túng đó, nhờ
vậy mà thành thạo lên.
Trong quá trình tự học của sinh viên, đọc sách được coi là khâu quan trọng đầu
tiên giúp sinh viên tiếp thu tri thức và phát triển phương pháp tự học hiệu quả.
Để đọc sách hiệu quả thì sinh viên phải có phương pháp đọc, đó là:
- Đọc có suy nghĩ: Khi đọc sách cần phải tập trung tư tưởng. Khi đọc chỗ chưa
thông, chưa nắm vững cầm phải ngưng để đọc kỹ, ôn lại. Đọc sách để hiểu
những điều tác giả nói và cả những điều tác giả không nói, mà người đọc tự suy
nghĩ, mở rộng đến những điều liên quan mà sách không đề cập đến.
- Đọc có hệ thống: Khi đọc bất kỳ cuốn sách nào, sinh viên nên đọc lướt
nhanh toàn bộ phần tổng quát của sách để nắm sơ bộ nội dung cuốn sách. Sau
đó, tuỳ vào mục đích đọc mà đọc kỹ một lần hay nhiều lần. Cuối cùng là cần
rèn luyện cách đọc nhanh để tập trung được sự chú ý, sự suy nghĩ diễn ra liên
tục và dễ dàng xác lập được mối quan hệ giữa các đoạn với nhau khiến ta dễ
nắm được nội dung tài liệu.
- Đọc có chọn lọc: Đọc có chọn lọc là đọc để tìm những điểm cốt lõi, chọn ý
tưởng hay nhất, đúng nhất và có ích cho việc học sẽ rèn được tư duy phê phán,

làm tiền đề cho năng lực giải quyết vấn đề sau này.
- Đọc có ghi nhớ: Đọc sách là học tập tích cực nên cần kèm theo việc ghi chép
để nhớ lâu. Đọc sách hoặc tài liệu giáo khoa cần ghi các dàn ý và diễn tiến nội
dung. Các ý chính cần ghi chép cẩn thận, gạch chân hoặc tô màu vì đó là ý cơ
bản mà từ đó có thể suy luận ra các ý khác liên quan. Những phần chưa hiểu
hoặc chưa nắm vững cũng cần đánh dấu để tiếp tục suy nghĩ, tìm người giải đáp.
Ngoài đọc sách, sinh viên cũng nên có kỹ năng chọn lọc, sử dụng kiến thức cũ
để học kiến thức mới bằng cách: Khi học các kiến thức mới cần phải tái hiện

Trang 10


Tiểu luận môn: Lý luận dạy học đại học

HV: Trần Huỳnh Khương

những kiến thức cũ có liên quan để làm sáng tỏ các kiến thức mới; Dùng kiến
thức cũ chứng minh cho kiến thức mới...
2. Vai trò của thầy giáo, cô giáo trong việc rèn luyện tự học của sinh viên
Trong quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học cho sinh viên, vai trò
của người thầy là rất quan trọng. Mỗi giảng viên cần giáo dục cho sinh viên xác
định động cơ học tập một cách đúng đắn. Giảng viên phải tích cực đổi mới
phương pháp dạy học, xem tự học như là một tiêu chí hàng đầu trong quá trình
đào tạo để hình thành phương pháp tự học, tạo nền tảng cho năng lực tự học
trong sinh viên.
Giáo viên nên tăng cường các hình thức dạy học nhóm, trao đổi thảo luận, nêu
lên chính kiến của mình... Điều này sẽ buộc sinh viên phải nghiên cứu tài liệu,
phân tích, mổ xẻ các vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau để có thể tham gia
đóng góp hoặc tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình.
Để định hướng cho sinh viên vạch ra kế hoạch tự học cá nhân, giảng viên cần đề

ra kế hoạch dạy học cụ thể toàn bộ học phần (hoặc từng chương), cung cấp trước
cho sinh viên nghiên cứu để biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào trong quá
trình học tập bộ môn.

Trang 11


Tiểu luận môn: Lý luận dạy học đại học

HV: Trần Huỳnh Khương

IV. Tài liệu tham khảo
1. ThS. Nguyễn Thị Xuân Thuỷ, “Rèn luyện kỹ năng tự học tập cho sinh viên
đạp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tin chỉ” Tạp chí Giáo dục,Số đặc biệt
3/2012
2. Nguyễn Nghĩa Dán, Vì năng lực tự học sáng tạo của học sinh, Tạp chí
“Nghiên cứu Giáo dục”, số 2/ 1998.
3. Thái Duy Tuyên, Giáo dục học hiện đại - Những vấn đề cơ bản, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
4. Đặng Vũ Hoạt, Một số nét về thực trạng, phương pháp dạy học đại học, Tạp
chí “Nghiên cứu Giáo dục”, số 1/ 1994.
5.

Đinh Trung Quỳnh, “Nghiên cứu các kỹ năng và biện pháp tự học của sinh
viên ĐH Sư phạm Thái Nguyên” (Đề tài NCKH cấp Bộ quản lý), 2001.

6.

Tạp chí khoa học giới thiệu “Học sinh nên đọc sách như thế nào?”, Tự học
(19), tr. 24-25, 29


Trang 12



×