Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

CHUYÊN ĐỀ CHIẾN SỸ THI ĐUA Tình hình phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 30 năm đổi mới (từ 1986-nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.96 KB, 23 trang )

TỔNG CỤC THỐNG KÊ
CỤC THỐNG KÊ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHUYÊN ĐỀ CHIẾN SỸ THI ĐUA

Tên chuyên đề: Tình hình phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội
trong giai đoạn 30 năm đổi mới (từ 1986-nay)

Người thực hiện: Nguyễn Thúy Chinh
Đơn vị công tác: Phòng TK Tổng hợp
Cục Thống kê TP Hà Nội

Hà Nội, tháng 9 năm 2015


MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu

3

I. Tính cần thiết xây dựng chuyên đề

4

II. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội trong giai
đoạn 30 năm đổi mới (từ 1986-nay)

5

2.1. Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội



5

2.1.1. Giai đoạn từ 1986 đến trước khi mở rộng địa giới hành chính
(1986-2008)

5

2.1.2. Giai đoạn sau khi mở rộng địa giới hành chính đến nay (2009-2015)

12

2.2. Những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội

19

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế xã hội

20

III. Đề xuất một số giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô
trong thời gian tới

21

Kết luận

23

2



DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ ĐỒ THỊ
Trang

Bảng 1. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu giai đoạn 1996-2000

8

Bảng 2. Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu giai đoạn 2001-2005

10

Bảng 3. Một số chỉ tiêu xã hội chủ yếu giai đoạn 2001-2005

11

Bảng 4. Cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn giai đoạn 2009-2013

15

Đồ thị 1. Tốc độ tăng Tổng sản phẩm trên địa bàn giai đoạn 1991-1995

7

Đồ thị 2. Tốc độ tăng Tổng sản phẩm trên địa bàn giai đoạn 2001-2005

9

3



LỜI MỞ ĐẦU

Sự nghiệp đổi mới của Đảng ta được bắt đầu từ năm 1986 tới nay đã gần
30 năm. Với thời gian đó, cùng với sự chuyển mình của cả nước, Hà Nội đã thay
đổi và lớn mạnh hơn lên, xứng đáng là một trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế
của cả nước, “Thành phố vì Hòa bình” của nước Việt Nam độc lập, tự do và chủ
nghĩa xã hội.
Sau gần 30 năm đổi mới, Hà Nội, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của
cả nước, đã và đang thay da đổi thịt với nhiều thành tựu vượt bậc. Thành phố Hà
Nội hiện nay là một đô thị lớn với 30 đơn vị hành chính, gồm 12 quận, 1 thị xã
và 17 huyện, với diện tích là 3,3 nghìn km2, dân số hơn 7 triệu người. Thủ đô
Hà Nội là trung tâm kinh tế lớn nhất phía Bắc và đứng thứ hai của cả nước, sau
Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của Hà
Nội chiếm tỷ trọng 10% cả nước, đóng góp hơn 16% tổ ng thu ngân sách nhà
nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng ngành
dịch vụ, công nghiệp và xây dựng, giảm dần tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản. Các mặt văn hoá xã hội, giáo dục, y tế và con người đạt được nhiều
thành tựu. An ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân Thủ đô ngày càng được cải thiện.

Chuyên đề "Tình hình phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội trong
giai đoạn 30 năm đổi mới (từ 1986-nay)” , ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm
các phần chính sau:
I. Tính cần thiết xây dựng chuyên đề
II. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội trong giai đoạn
30 năm đổi mới (từ 1986-nay)
III. Đề xuất một số giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô trong
thời gian tới


4


I. Tính cần thiết xây dựng chuyên đề
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề
ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới kinh tế được xác định là trọng
tâm. Đường lối đổi mới này được tiếp tục khẳng định và hoàn thiện qua các kỳ
Đại hội VII, VIII, XI và X. Các kỳ kế hoạch 5 năm được triển khai để thực hiện
đường lối của Đảng.
Bằng những cải biến sâu sắc và toàn diện, quá trình đổi mới đã đem lại
những thành tựu phát triển to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta nói chung, Thủ
đô Hà Nội nói riêng đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng
kém phát triển, gia nhập nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp.
Trong liên tục nhiều năm, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng khá, góp phần
đẩy lùi đói nghèo, lạc hậu, nâng cao đời sống nhân dân. Chính trị-xã hội đất
nước ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường; văn hóa-xã hội có bước
phát triển tích cực. Đó là tiền đề quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công
cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, phát triển sáng tạo, sớm đưa nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai với các cường quốc năm
châu.
Tuy nhiên, thời gian qua, tốc độ tăng trưởng của Hà Nội vẫn chưa ổn
định, chưa tương xứng với vị trí, vai trò và tiềm năng của Thủ đô. Nhiều nguồn
lực quan trọng và những yếu tố thuận lợi là thế mạnh của Thành phố chưa được
khai thác triệt để. Kinh tế còn tiềm ẩn những yếu tố thiếu bền vững, chất lượng
và hiệu quả cạnh tranh chưa cao.
Nhằm đánh giá một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời sự phát triển của
kinh tế - xã hội Thủ đô 30 năm qua, tìm ra những hạn chế và nguyên nhân trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, sẽ đóng vai trò quan trọng và cần thiết trong
việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế của các nhà quản lý trong thời

gian tới.

5


II. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội trong giai
đoạn 30 năm đổi mới (từ 1986-nay)
2.1. Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội
2.1.1. Giai đoạn từ 1986 đến trước khi mở rộng địa giới hành chính
(1986-2008)
Kỳ kế hoạch 5 năm 1986-1990, kinh tế cả nước nói chung và Hà Nội nói
riêng lâm vào tình trạng khủng hoảng kéo dài và mất cân đối nghiêm trọng do
hậu quả của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Kế hoa ̣ch phát triể n kinh tế - xã hội
5 năm 1986 - 1990 của Hà Nội được tiến hành chủ yếu bằng việc đổi mới cơ chế
quản lí kinh tế theo định hướng : chuyể n cơ chế quản lí kế hoa ̣ch hoá tâ ̣p trung
cao đô ̣ sang cơ chế thi ̣trường có sự quản lí của nhà nước bằ ng pháp luâ ̣t và các
công cu ̣ khác , chuyể n viê ̣c bao cấ p , cấ p phát hiê ̣n vâ ̣t sang sử du ̣ng qui luâ ̣t giá
trị của sản xuất hàng hoá , tự ha ̣ch toán ; chuyể n viê ̣c phát triể n kinh tế nhà nước
và kinh tế tập thể ồ ạt sang phát triển kinh tế n
hiề u thành phầ n , chuyể n hoa ̣t
đô ̣ng kinh tế đố i ngoa ̣i theo phương châm đa da ̣ng hoá , đa phương hoá . Nhờ
vâ ̣y, đến năm 1990, Hà Nội cơ bản đã chia tay với cơ chế quản lí cũ và cơ bản
xác lập cơ chế quản lí mới. Trong Kế hoa ̣ch 5 năm này, tuy không đẩ y ma ̣nh đầ u
tư như trước đây , nhưng viê ̣c chuyể n đổ i thành công cơ chế quản lí kinh tế đã
tạo động lực ổn định, giải phóng sức sản xuất và phát huy tích cực vai trò của nó
trước khi Liên Xô và các nước xã hô ̣i chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã hình thành, tạo động lực thúc đẩy
kinh tế Thủ đô không ngừng tăng trưởng, tạo đà cho các năm tiếp theo.
Trong thời kỳ 1986-1990, tốc độ tăng trưởng tổ ng sản phẩ m trên địa bàn
(GRDP) bình quân hàng năm đạt 4,5%, trong đó kinh tế nhà nước tăng 5,2%,

kinh tế ngoài nhà nước tăng 2,8%; Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 1989 (tính
theo giá so sánh 1982) đã tăng 24,0% so với năm 1985; Sản lượng lúa năm 1989
đa ̣t trên 426,8 nghìn tấn tăng 14,9% so với năm 1986. Do sản xuấ t lương thực
phát triển , nên mă ̣c dù dân số tăng với tố c đô ̣ cao , nhưng sản lươ ̣ng lúa biǹ h
quân đầ u người của Hà Nô ̣i vẫn tăng từ 132 kg (năm 1986) lên 142 kg (năm
1989); Trồ ng tro ̣t p hát triển đã tạo điều kiện đẩy mạnh chăn nuôi gia súc , gia
cầ m. Năm 1989, đàn trâu có 52,8 nghìn con, tăng 6,2% so với năm 1986; đàn bò
có 91,3 nghìn con, tăng 43,7%; đàn lơ ̣n có 480,7 nghìn con, tăng 2,7%. Giá trị
tổ ng sản lươ ̣ng công nghiê ̣p trên điạ bàn năm 1989 cũng đã tăng 3,9% so với
năm 1986, thể hiê ̣n khả năng tru ̣ vững trong khó khăn . Hoạt động kinh tế đối
6


ngoại bắt đầu khởi sắc. Kim nga ̣ch xuấ t khẩ u do điạ phương quản lí tăng từ 20,7
triê ̣u rúp-USD (năm 1986) lên 37,7 triê ̣u rúp-USD (năm 1990). Giá bán lẻ hàng
hoá trên địa bàn từ mức tăng ba chữ số (so với năm trước , năm 1986 gấ p 4,8
lầ n; năm 1987 gấ p 4,1 lầ n; năm 1988 gấ p 4,2 lầ n) giảm xuống chỉ còn tăng 32%
(năm 1990), thấp hơn mức tăng 67,4% của thị trường cả nước . Tổ ng thu ngân
sách trên địa bàn năm 1990 đa ̣t 587 tỉ đồng, trong đó thu ngân sách điạ phương
là 226,5 tỉ đồng, chi ngân sách điạ phương 220,6 tỉ đồng, bô ̣i thu 5,9 tỉ đồng.
Giai đoạn 5 năm từ năm 1991đến năm 1995, Hà Nội lần đầu tiên đạt và
vượt kế hoạch, trong đó có nhiều mục tiêu hoàn thành vượt mức cao và trước
thời hạn. Kinh tế Thủ đô không chỉ khắc phục được tình trạng đình đốn, mà còn
liên tục tăng trưởng cao, bước đầu có tích luỹ. Tổng sản phẩm trên địa bàn
(GRDP) tăng bình quân 12,5% năm. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,3%
năm, giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản tăng 3,9%, kim ngạch xuất khẩu tăng
16,5% năm. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm đạt 32 nghìn tỷ đồng.
Đồ thị 1. Tốc độ tăng Tổng sản phẩm trên địa bàn giai đoạn 1991-1995
14000
12000


Tổng số

10000
Nông, lâm
nghiệp, thủy sản

8000
6000
4000

Công nghiệp-Xây
dựng

2000

Dịch vụ

0
1990 1991 1992 1993 1994 1995

Kế hoạch 5 năm 1996-2000 được tiến hành trong lúc công cuộc đổi mới
đang được tiến hành toàn diện và dần dần đi vào chiều sâu, là thời kỳ bắt đầu
đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá với yêu cầu hoàn thành vượt mức chỉ
tiêu kinh tế xã hội 10 năm 1991-2000, tạo tiền đề vững chắc bước vào thế kỷ 21.
Trong thời kỳ này, Hà Nội đã đạt được những kết quả khá nổi bật, đặc biệt là
trên các mặt phát triển kinh tế, huy động vốn đầu tư và hiện đại hoá hạ tầng đô
thị, cơ sở vật chất y tế, văn hoá, giáo dục. GRDP năm 2000 bằng 1,66 lần so với
năm 1995 và bằng 3,8 lần năm 1985; bình quân giai đoạn 1996-2000 tăng
10,7%, vốn đầu xây dựng cơ bản tăng 17,3% năm. Sự phát triển của kinh tế đã

góp phần đáng kể cho việc động viên ngân sách nhà nước: Thu ngân sách trên
7


địa bàn từ chỗ chiếm 9,2% trong tổng thu ngân sách của cả nước (năm 1990) lên
tới 16,3% (năm 2000). Thành phố đã bắt đầu phát triển mạng lưới giao thông
công cộng, quy hoạch đường vành đai, cầu vượt và hệ thống xe buýt. Công tác
phát triển nhà ở, đặc biệt là nhà ở trong quy hoạch, nhà chung cư cao tầng có
tiến bộ vượt bậc. Đời sống nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Sự nghiệp
giáo dục và y tế đã được đầu tư đáng kể về cơ sở vật chất. Bộ mặt của Thủ đô có
nhiều thay đổi, vị thế của Thủ đô được nâng lên.
Bảng 1. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu giai đoạn 1996-2000
Tên chỉ tiêu
1/ Tổng sản phẩm trên địa
bàn (giá so sánh 1994)
Chia ra:
- Nông, lâm, thủy sản
- Công nghiệp - Xây dựng
- Dịch vụ
2/ Giá trị sản xuất công
nghiệp (giá so sánh 1994)
3/ Giá trị sản xuất nông
nghiệp (giá so sánh 1994)
4/ Kim ngạch xuất khẩu
5/ Dân số
Chia ra:
- Nam
- Nữ
- Thành thị
- Nông thôn

6/ Giáo dục phổ thông
- Trường
+ Tiểu học
+ Trung học cơ sở
+ Trung học phổ thông
- Giáo viên
+ Tiểu học
+ Trung học cơ sở
+ Trung học phổ thông
- Học sinh
+ Tiểu học
+ Trung học cơ sở
+ Trung học phổ thông

Đơn vị
tính

1996

1997

1998

1999

2000

Tỷ đồng

13582


15613

17128

18288

19999





696
4361
8525

725
5162
9726

732
5794
10602

728
6437
11123

776

7178
12045

Tỷ đồng

10351

12172

13865

14919

17298

Tỷ đồng
Triệu USD
Người

1084
1038
2395,9

1155
1201
2467,2

1196
1235
2553,7


1252
1375
2688,0

1320
1402
2737,3






1176,6
1219,3
1291,6
1104,3

1211,6
1255,6
1384,2
1083,0

1253,4
1300,3
1455,3
1098,4

1344,8

1343,2
1548,0
1140,0

1369,6
1367,7
1582,5
1154,8

253
212
51

262
221
62

265
222
72

267
223
82

267
226
103

7115

7814
2647

7366
8371
3455

7530
8936
4083

7626
8940
4576

8229
9319
5147

226269
189884
54442

233193
186759
82413

231130
182819
91939


231075
171693
94855

228275
169105
103743

Trường



Giáo viên



Học sinh




8


Bước vào những năm đầu của thời kì thực hiện chiến lược phát triển kinh
tế xã hội 2001-2005, kinh tế Thủ đô tiếp tục phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc độ tăng
bình quân năm tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân thời kỳ 20012005 đạt 11,3%. Cơ cấu kinh tế mới hình thành từ sau đổi mới chuyển biến tích
cực theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Tỷ trọng trong cơ cấu của

ngành nông, lâm, thuỷ sản giảm từ 3,0% (năm 2000) xuống còn 1,6% (năm
2005); ngành công nghiệp- xây dựng từ 37% (năm 2000) tăng lên 40,8% (năm
2005). Cơ cấu kinh tế nội ngành, cơ cấu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cũng
chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành, sản phẩm có chất lượng cao và
xuất khẩu.

Đồ thị 2. Tốc độ tăng Tổng sản phẩm trên địa bàn giai đoạn 2001-2005
40000
35000

Tổng số

30000
25000

Nông, lâm
nghiệp, thủy sản

20000
15000

Công nghiệp-Xây
dựng

10000

Dịch vụ

5000
0

2000 2001 2002 2003 2004 2005

Giá trị sản xuất công nghiệp 5 năm 2001- 2005 bình quân tăng
18,6%/năm. Hoạt động thương mại, dịch vụ cũng khá phát triển. Hà Nội đã phát
huy thế mạnh của một trung tâm thương mại, dịch vụ, du lịch của Vùng đồng
bằng sông Hồng và của cả nước với hơn 60 siêu thị và trung tâm thương mại, gần
300 cửa hàng tự chọn và 600 văn phòng đại diện thương nhân của nước ngoài.
Các ngành dịch vụ trình độ cao như tư vấn tài chính, ngân hàng, sản xuất phần
mềm máy tính, thiết kế, tạo mẫu, giáo dục và đào tạo, y tế đã bước đầu phát
triển... Hoạt động thương mại quốc tế đã mở rộng đáng kể với khoảng 2000
doanh nghiệp có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Hà Nội trở thành trung
tâm du lịch của cả nước, là đầu mối phân phối khách cho các địa phương phía
Bắc. Với 104 công ty du lịch, 663 khách sạn, nhà nghỉ, 13,3 nghìn buồng và
9


20,4 nghìn giường, hàng năm Hà Nội đã thu hút được từ 3 đến 5 triệu khách du
lịch, trong đó từ 0,5 đến 1,1 khách quốc tế. Trong điều kiện diện tích canh tác
đang dần bị thu hẹp, các cây, con, và phương pháp canh tác truyền thống không
còn có ảnh hưởng nhiều đến tăng năng suất, nông nghiệp Thủ đô đã có bước
chuyển biến lớn về cơ cấu sản phẩm. Kinh tế trang trại phát triển khá, góp phần
chuyển hướng nông nghiệp Thủ đô theo hướng sản xuất hàng hoá có chất lượng.
Bảng 2. Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu giai đoạn 2001-2005
Tên chỉ tiêu
1/ Tổng sản phẩm trên địa
bàn (giá so sánh 1994)
Chia ra:
- Nông, lâm, thủy sản
- Công nghiệp - Xây dựng
- Dịch vụ

2/ Giá trị sản xuất công
nghiệp (giá so sánh 1994)
3/ Giá trị sản xuất nông
nghiệp (giá so sánh 1994)
4/ Kim ngạch xuất khẩu

Đơn vị
tính

2001

2002

2003

2004

2005

Tỷ đồng

22004

24654

27472

30653

34150






785
7841
13379

843
8894
14917

860
10423
16189

845
11867
17941

860
13124
20166

Tỷ đồng

19662

25230


30474

36598

Tỷ đồng

1334

1392

1433

1443

1479

Triệu USD

1502

1641

1819

2311

2861

41643


Cùng với phát triển kinh tế, Hà Nội tiếp tục đạt được thành tựu nổi bật
trong sự nghiệp phát triển văn hoá xã hội và con người, dần dần tạo nên sức
mạnh và độ bền vững của quá trình phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô. Quy mô,
chất lượng giáo dục tiếp tục được giữ vững và mở rộng ở một số bậc học, ngành
học; tỷ lệ trẻ trong độ tuổi vào mẫu giáo đạt 77%; tỷ lệ học sinh vào lớp 6 đạt
100%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS đạt 98,4%; 100% số giáo viên phổ thông
(trên 23 nghìn người) đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn. Đến năm 2005, Hà Nội
đã có 32 bệnh viện tuyến Thành phố và trung ương được đầu tư lớn gắn liền tiến
bộ khoa học kỹ thuật. Chất lượng dân số được cải thiện; tỷ lệ suy dinh dưỡng
của trẻ em dưới 5 tưổi giảm xuống chỉ còn dưới 15%. Chương trình dân số kế
hoạch hoá gia đình được quan tâm thực hiện, tiếp tục đem lại kết quả tốt: tỷ suất
sinh còn 16,04%o, tỷ lệ sinh con thứ ba của người mẹ còn 5,3%. Công tác lao
động và việc làm đã có những tiến bộ nhất định với kết quả trong 5 năm 20012005 đã giải quyết việc làm cho trên 21,6 vạn lao động. Tỷ lệ thất nghiệp khu
vực thành thị năm 2005 còn 6,2%.

10


Bảng 3. Một số chỉ tiêu xã hội chủ yếu giai đoạn 2001-2005
Tên chỉ tiêu
1/ Dân số
Chia ra:
- Nam
- Nữ
- Thành thị
- Nông thôn
2/ Giáo dục phổ thông
- Trường
+ Tiểu học

+ Trung học cơ sở
+ Trung học phổ thông
- Giáo viên
+ Tiểu học
+ Trung học cơ sở
+ Trung học phổ thông
- Học sinh
+ Tiểu học
+ Trung học cơ sở
+ Trung học phổ thông

Đơn vị
tính
Người

2001

2002

2003

2004

2005

2790,8

2926,6

3007,5


3088,7

3182,7






1396,9
1393,9
1614,0
1176,8

1463,2
1463,4
1699,1
1227,5

1505,3
1502,2
1731,6
1275,9

1545,7
1543,0
2019,9
1068,8


1592,8
1589,9
2078,8
1103,9

270
223
103

272
213
100

273
212
98

274
213
96

274
218
98

8365
9355
5084

8382

9520
4931

8611
9620
4940

8819
9713
4986

8811
9788
5098

224932
173651
100536

218568
179604
100221

214823
182477
100606

207224
185484
103300


203475
180278
108532

Trường



Giáo viên



Học sinh




Năm 2006 và 2007, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) trên địa bàn Hà
Nội có tốc độ tăng khá (so với năm trước, năm 2006 tăng 11,5%, năm 2007 tăng
12,07%). Trong sản xuất nông nghiệp, nhờ có đầu tư mấy năm qua cho các loại
sản phẩm, cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao nên mặc dù diện tích canh tác
liên tục giảm nhưng tốc độ tăng giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm vẫn tăng so
với năm trước. Đồng thời, do giá gia súc gia cầm tăng, chăn nuôi có lãi nên nông
dân không ngừng mở rộng sản xuất. Sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng cao
ở tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và
khu vực kinh tế ngoài nhà nước do một số doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng
sản xuất, đồng thời nhiều doanh nghiệp mới thành lập bắt đầu đi vào sản xuất.
Nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã mạnh dạn đầu tư chiều sâu, đổi mới qui trình
công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, phấn đấu giảm chi phí đầu vào

để tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong năm
11


2007, có 54 doanh nghiệp Nhà nước Trung ương và 38 doanh nghiệp nhà nước
địa phương đã đầu tư gần 1200 tỷ đồng, trong đó đầu tư cho nhà xưởng gần 700
tỷ đồng, đầu tư cho máy móc thiết bị 500 tỷ đồng. Một số sản phẩm chủ lực do
có thị trường tiêu thụ nên sản xuất tăng khá cao: bia tăng 13,8%, thuốc lá tăng
21,4%, quần áo may sắn tăng 13,8%, máy biến thế điện tăng 30,7%, quạt điện
tăng 51,3%...
Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng nhanh ngoài nguyên nhân có
nhiều công ty Nhà nước cổ phần hoá chuyển sang còn có nguyên nhân một số
doanh nghiệp có qui mô lớn chú trọng đầu tư mở rộng sản xuất, sản xuất ra sản
phẩm có chất lượng cao hợp nhu cầu người tiêu dùng, nên tiêu thụ tốt (Công ty
sản xuất thức ăn chăn nuôi Tân Minh Hà, Công ty dây cáp điện Yên Viên, Xí
nghiệp tư doanh Xuân Kiên, Công ty Nhật Linh, HTX Song Long, Công ty Sơn
Kova, Công ty Hiệp Hưng...). Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của doanh
nghiệp ngoài nhà nước do có thị trường tiêu thụ tăng khá cao so với thời kỳ
trước. Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của Thủ đô theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đến nay đã có mặt ở hầu hết các ngành, nhưng
tập trung phát triển cao ở một số ngành như: sản xuất sản phẩm bằng kim loại,
chế tạo thiết bị máy móc, sản xuất thiết bị điện, sản xuất xe có động cơ, sản xuất
cao su, plastic và sản xuất giường tủ đồ khác. Tuy sản xuất công nghiệp trên địa
bàn Thành phố hiện vẫn duy trì mức tăng cao nhưng còn thiếu tính ổn định, tỷ
trọng công nghiệp gia công còn lớn, một số doanh nghiệp chưa chú trọng đầu tư
đổi mới trang thiết bị, đồng thời lệ thuộc quá nhiều vào nguyên vật liệu nhập
ngoại. Trong nhóm các ngành dịch vụ, một số ngành duy trì được mức tăng
trưởng khá, có tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng chung của khu vực dịch vụ như:
thương nghiệp, tài chính tín dụng. Ngành tài chính tín dụng có tốc độ tăng

trưởng khá cao do những năm của thời kỳ này, các ngân hàng nhà nước và ngân
hàng thương mại cổ phần phát triển nhanh về số lượng mạng lưới và nâng cao
chất lượng hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, hoạt động của thị trường chứng
khoán cũng diễn ra khá sôi động.
2.1.2. Giai đoạn sau khi mở rộng địa giới hành chính đến nay (20092015)
Năm 2008, thực hiê ̣n Nghi ̣quyế t số 15/2008/QH12 ngày 29/5/2008 có
hiệu lực từ 1/8/2008 về việc mở rô ̣ng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội đã
chính thức mở ra trang mới trong lịch sử phát triển ngàn năm của Thăng Long Hà Nội. Với việc hơ ̣p nhấ t toà n bô ̣ tỉnh Hà Tây , huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh
Phúc và 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình và Yên Trung của huyện Lương
12


Sơn, tỉnh Hòa Bình, Hà Nội được mở rộng hơn 3 lần về diện tích, hơn 2 lần về
dân số và là Thủ đô lớn thứ 17 trên thế giới.
Thành phố Hà Nội ngày nay là một đô thị lớn với 30 đơn vi ̣hành chiń h ,
gồ m 12 Quâ ̣n, 1 thị xã và 17 Huyê ̣n với diê ̣n tić h là 3.324,5 km2, dân số khoảng
7,1 triệu người. Sau 8 năm thực hiện việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đô,
trên từng lĩnh vực, Hà Nội đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Kinh tế tiếp
tục tăng trưởng với tốc độ khá. Năm 2009, tổng sản phẩm trên địa bàn tăng 7,5%
so năm trước, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,1%, vốn đầu tư xã hội tăng
18,8%... Bình quân 5 năm giai đoạn 2011-2015 đạt tổng sản phẩm trên địa bàn
tăng 9,2%/năm. Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người đạt 77 triệu
đồng/người. Kim ngạch xuất khẩu bình quân tăng 8,2%/năm. Vốn đầu tư xã hội
bình quân tăng 15,2%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực,
tăng dần tỷ trọng ngành dịch vụ, công nghiệp và xây dựng, giảm dần tỷ trọng
ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Các mặt văn hoá xã hội, giáo dục, y tế và
con người đạt được nhiều thành tựu. Tỷ lệ sinh bình quân giảm 0,2%/năm. Năm
2015, số xã phường đạt chuẩn quốc gia về y tế đạt 99,7%. Tỷ lệ lao động qua
đào tạo tăng từ 38,7% (năm 2011) lên 55% (năm 2015). An ninh, trật tự an toàn
xã hội được đảm bảo. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Thủ đô dần

được cải thiện. Cụ thể, thể hiện ở các mặt sau:
Kinh tế Thủ đô tiếp tục tăng trưởng với tốc độ khá, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng tích cực: Giai đoạn 2008 - 2015, kinh tế Viê ̣t Nam nói chung và
Hà Nội nói riêng chịu ảnh hưởng khá nặng nề của suy thoái kinh tế thế giới , tình
hình sản xuất kinh doanh và đời sống có nhiều biến động bất thường (dịch bệnh,
suy giảm nhâ ̣p khẩ u toàn cầ u , tiêu thu ̣ và đầ u tư giảm sút ...). Tuy nhiên , do
Chính phủ và Thành phố đã có những chủ trương , chính sách kịp thờ i nên kinh
tế Hà Nội duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. Bình quân giai đoạn 2011-2015,
tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9,2%/năm. Trong đó: ngành nông, lâm nghiệp,
thuỷ sản tăng 2,2%/năm, ngành công nghiệp - xây dựng tăng 8,8%/năm, các
ngành dịch vụ tăng 10,1%/năm.
Tốc độ tăng trưởng của các năm không đồng đều. Năm 2009 và 2013, tốc
độ tăng trưởng thấp hơn nhiều tốc độ tăng trưởng bình quân của cả thời kỳ, chỉ
đạt dưới 9%. Đây là hai năm kinh tế Hà Nội nói riêng, kinh tế cả nước nói chung
bị ảnh hưởng nặng nề của của suy thoái kinh tế. Hai năm 2009 và 2013, lần lượt
tốc độ tăng trưởng là 7,4% và 8,5%).
Tăng trưởng kinh tế của Hà Nội phụ thuộc nhiều vào tăng trưởng của khu
vực II gồm ngành công nghiệp - xây dựng. Hầu hết các năm trong giai đoạn
13


2009-2013, ngành công nghiệp - xây dựng có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ
tăng trưởng chung của cả nền kinh tế.
Khu vực III (khu vực dịch vụ) cũng có những thành tựu đáng kể với tốc
độ tăng trưởng liên tục tăng lên qua các năm. Trong khu vực này, các ngành
thương nghiệp, khách sạn nhà hàng, vận tải bưu chính viễn thông, tài chính tín
dụng, kinh doanh bất động sản luôn có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng
trưởng của ngành.
Ngược lại, khu vực I (gồm các ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản) tốc
độ tăng trưởng rất chậm, thấp hơn nhiều tốc độ tăng trưởng chung. Đặc biệt là

ngành nông nghiệp, giá trị tăng thêm của ngành này liên tục giảm đã làm cho tốc
độ tăng trưởng của cả khu vực này giảm xuống. Nguyên nhân do diện tích đất
canh tác liên tục bị thu hẹp, năm 2008 Thành phố có 192,7 nghìn ha diện tích
đất nông nghiệp, đến năm 2014 còn 187,2 nghìn ha, giảm 5,5 nghìn ha (giảm
2,9% so với trước).
Sự tăng trưởng không đồng đều dẫn đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Khu
vực kinh tế nào, thành phần kinh tế nào có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ
tăng chung thì sẽ kéo cơ cấu kinh tế lệch về hướng đó. Vì vậy, trong giai đoạn
2008 - 2015, khu vực II và III, do có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng
trưởng chung, nên cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch theo hướng đó.
Giai đoạn 2009 - 2015, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của Thủ đô nhìn
chung khá tích cực, theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ (từ 52,2% năm 2008
lên 54% năm 2015) và ngành công nghiệp - xây dựng (từ 41,2% năm 2008 lên
41,5% năm 2015); giảm tỷ trọng nông nghiệp (từ 6,6% năm 2008 xuống 4,5%
năm 2015).
Chia theo thành phần kinh tế: Kinh tế Nhà nước, do tiến trình cổ phần hoá
và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, nên có xu hướng giảm dần. Năm 2008, tỷ
trọng kinh tế nhà nước chiếm 44,1% trong GRDP, năm 2010 giảm xuống còn
43,6% và đến năm 2015 chỉ còn 43,3%. Tuy tỷ trọng giảm dần, nhưng kinh tế
nhà nước vẫn chiếm giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế, có những đóng
góp đáng kể trong tăng trưởng và phát triển kinh tế Thành phố.

14


Bảng 4. Cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn giai đoạn 2009-2013
Đơn vị tính: %

Tổng số
Chia theo khu vực kinh tế

- Nông, lâm nghiệp và
thủy sản
- Công nghiệp và xây
dựng
- Dịch vụ
Chia theo thành phần kinh
tế
- Kinh tế Nhà nước
- Kinh tế ngoài Nhà nước
- Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài
- Thuế nhập khẩu

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

100,0

100,0


100,0

100,0 100,00 100,0 100,0

6,2

5,8

5,9

5,5

4,9

4,7

4,5

41,5

41,8

41,7

41,5

41,7

41,6


41,5

52,3

52,4

52,4

53,0

53,4

53,7

54,0

44,3

43,5

43,4

43,5

43,6

43,5

43,3


37,7

38,2

38,5

38,7

38,9

39,0

39,1

16,4

16,7

16,6

16,6

16,5

16,5

16,6

1,6


1,6

1,5

1,2

1,0

1,0

1,0

Thời điểm mới sáp nhập, năm 2008, cơ cấu kinh tế của Hà Nội (cũ), Hà
Tây (cũ) và Mê Linh có sự khác biệt. Hà Nội (cũ) tỷ trọng ngành dịch vụ và
công nghiệp - xây dựng cao, ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản thấp. Hà Tây
(cũ) thì tỷ trọng 3 ngành gần tương đương nhau, trong đó ngành công nghiệp xây dựng nhỉnh hơn một chút. Mê Linh thì ngược lại, tỷ trọng ngành công
nghiêp - xây dựng cao, dịch vụ không đáng kể, và nông lâm nghiệp thuỷ sản
tương đối cao. Cơ cấu của lần lượt các ngành nông, lâm thuỷ sản, công nghiệp xây dựng và dịch vụ của Hà Nội (cũ) là 1,8% ; 41,2% và 57%; của Hà Tây (cũ)
là 30% ; 39,3% và 30,7% ; của Mê Linh là 23,8% ; 69,5% và 6,7%. Tính chung
của Hà Nội mới là 6,5%; 41,4% và 52,1%.
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đầu người tăng nhanh.
Thời điểm mới sáp nhập, năm 2008, tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu
người của Hà Nội (cũ) là 42,2 triệu đồng/người, của Hà Tây (cũ) và Mê Linh là
10,8 triệu đồng/người. Tính chung của Hà Nội mới là 28,1 triệu đồng/người.
Năm 2010 tăng lên 37,1 triệu đồng; năm 2013 tăng lên đến 63,3 triệu đồng. Sau
5 năm, từ năm 2009 đến năm 2013, chỉ tiêu này tăng 125,3%, cao hơn tốc độ
15



tăng giá tiêu dùng cùng thời kỳ (tốc độ tăng giá tiêu dùng thời kỳ này là 61,7%)
và năm 2015 là 77 triệu đồng/người.
Các ngành công nghiệp xây dựng, dịch vụ, nông-lâm-thủy sản phát triển
toàn diện
Trong lĩnh vực công nghiệp, từ khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính,
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn có nhiều cơ hội tiếp cận đất
đai, phát triển mặt bằng sản xuất hơn, đồng thời có thêm cơ hội tiếp cận nguồn
nhân công giá rẻ, giải quyết được bài toán lao động phổ thông... Vì vậy, mặc dù
gặp nhiều khó khăn chung do bối cảnh kinh tế thế giới và khó khăn trong nước,
nhưng ngành sản xuất công nghiệp vẫn có những thành tựu đáng khích lệ.
Số lượng cơ sở sản xuất công nghiệp của Hà Nội (cũ) năm 2007 chỉ là
17,6 nghìn cơ sở. Năm 2008, sau khi sáp nhập tăng thêm hơn 80 ngàn cơ sở sản
xuất công nghiệp từ Hà Tây (cũ) và huyện Mê Linh, tăng gấp 5,6 lần so với
trước đây. Đây chủ yếu là các hộ sản xuất cá thể tại hàng trăm làng nghề truyền
thống với lịch sử „„đất bách nghệ‟‟ nổi tiếng của tỉnh Hà Tây (cũ). Tính đến năm
2014, Hà Nội có 125 doanh nghiệp nhà nước, 98 nghìn cơ sở sản xuất ngoài nhà
nước và 440 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia sản xuất công
nghiệp. Thêm vào đó là 23 khu công nghiệp và 83 cụm công nghiệp vừa và nhỏ
đã tạo nên một nền tảng vững chắc cho việc phát triển ngành công nghiệp của
Thành phố.
Ngành xây dựng tăng trưởng liên tục, giá trị tăng thêm giai đoạn 20112015 tăng bình quân 10,6%/năm. Trong thời gian này, nhiều công trình hạ tầng
kinh tế xã hội, công trình giao thông, khu đô thị …được đầu tư xây dựng góp
phần từng bước hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng, đẩy mạnh thu hút đầu tư, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Do đó, bộ mặt Thủ đô đã thay đổi nhanh chóng. Trong giai
đoạn này, Thành phố đã xây dựng mới 11,8 triệu m2 nhà ở, bình quân mỗi tăng
tăng 2,36 triệu m2. Diện tích nhà ở cao cấp, quĩ nhà ở di dân, quĩ nhà ở xã hội
ngày càng tăng. Các dịch vụ công cộng thiết yếu như điện, nước, được tăng
cường, cung cấp dịch vụ với chất lượng tốt tới người dân.
Công tác huy động vốn đầu tư trên địa bàn được đẩy mạnh: Năm 2015
tổng vốn đầu tư xã hội đạt 353 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành) (gấp 2,8 lần so

năm 2008). Đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2009-2015 thu hút được hơn
1,3 nghìn dự án với số vốn đăng ký 3,4 tỷ triệu USD.
Các ngành dịch vụ tăng trưởng cao, giá trị tăng thêm giai đoạn 2011-2015
tăng bình quân 10,1%/năm. Đây là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản

16


phẩm trên địa bàn (GRDP), có tác dụng làm hạt nhaâ đóng góp vào mức tăng
chung của kinh tế Thủ đô.
Hà Nội đã phát huy thế mạnh của một trung tâm thương mại, dịch vụ lớn
của vùng đồng bằng sông Hồng và của cả nước. Lĩnh vực thương mại tiếp tục
được chú trọng phát triển. Hạ tầng thương mại được đầu tư. Trong 8 năm đã
hoàn thành đưa vào sử dụng 16 trung tâm thương mại, 81 siêu thị và 33 chợ các
loại (đến nay, trên địa bàn có 25 trung tâm thương mại, 121 siêu thị và 414 chợ).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ duy trì tăng trưởng khá, trung
bình hàng năm tăng 23%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 15,2%/năm,
trong đó, xuất khẩu địa phương tăng 13,3%/năm. Hoạt động thương mại quốc tế
ngày càng được mở rộng với khoảng trên 2 doanh nghiệp có quan hệ buôn bán
với trên 100 nước trên thế giới. Mặt hàng xuất khẩu của Hà Nội tăng mạnh trong
giai đoạn này là: xăng dầu (tăng 25,9%/năm), hàng điện tử (tăng 15,6%/năm),
linh kiện máy tính (tăng 15,5%/năm), hàng may dệt (tăng 9,3%/năm), hàng thủ
công mỹ nghệ (tăng 7,3%/năm), giày dép da (tăng 6,5%/năm), hàng nông sản
(tăng 3,4%/năm)… Kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân 5,4%/năm. Kim ngạch
nhập khẩu tăng thấp hơn xuất khẩu, nhập siêu được kiểm soát.
Hà Nội tiếp tục phát huy thế mạnh là một trung tâm du lịch của cả nước,
là nơi trung chuyển khách du lịch đi các tỉnh phía Bắc. Sau khi sáp nhập, Hà Nội
có thêm nhiều điểm du lịch nổi danh như: chùa Hương, chùa Thầy, đền Thượng,
đền Và, làng cổ Đường Lâm, Ao Vua, đầm Long… Đây là những yếu tố quan
trọng để Hà Nội phát triển ngành du lịch. Hạ tầng du lịch được đầu tư phát triển.

Hiện nay, Hà Nội có khoảng 750 khách sạn, nhà nghỉ với 24,4 nghìn phòng,
trong đó có khoảng 200 khách sạn được xếp hạng, công suất buồng phòng luôn
đạt 80%. Hà Nội tiếp tục là nơi thu hút khách du lịch quốc tế lớn của cả nước.
Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng lớn, trình độ cao, chất lượng
cao tiếp tục được phát triển: Ngân hàng, thông tin, bưu chính viễn thông... Ngân
hàng và các tổ chức tín dụng được củng cố, hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý
và mở rộng mạng lưới hoạt động. Đã từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ tài
chính - ngân hàng, chọn lọc và tập trung phát triển một số loại hình, sản phẩm
dịch vụ tài chính - ngân hàng trình độ cao, đặc biệt là dịch vụ chứng khoán. Phát
triển qui mô của thị trường giao dịch cổ phiếu, trái phiếu và kết nối thị trường
trái phiếu với thị trường tiền tệ. Hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng được
hiện đại hoá, ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến, địa bàn, qui mô các hình tức thanh
toán tự động được mở rộng, tăng cường kết nối, liên kết và rút ngắn thời gian
thực hiện các giao dịch liên thông giữa các tổ chức tài chính, tín dụng. Từng
bước xây dựng xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính - ngân hàng hàng đầu
ở khu vực phía Bắc và có vai trò quan trọng trong cả nước. Hệ thống bưu chính,
17


viễn thông được nâng cấp, đạt tiêu chuẩn tiên tiến. Hà Nội là địa phương đứng
đầu cả nước về tỷ lệ số thuê bao điện thoại (79,4 máy/100 dân) và số người sử
dụng internet. Năm 2015, Hà Nội có hơn 83 triệu thuê bao điện thoại, trong đó
có 3 triệu thuê bao điện thoại di động.
Dịch vụ vận tải được quan tâm phát triển, nhất là vận tải công cộng. Mạng
lưới xe buýt công cộng được bố trí ở khắp các tuyến đường quan trọng, các khu
dân cư. Đến nay, hệ thống dịch vụ vận tải công cộng đáp ứng khoảng 20% tổng
nhu cầu đi lại trên toàn thành phố, đã góp phần đáng kể vào việc tiết kiệm tiêu
dùng xã hội về giao thông và hạn chế gia tăng các phương tiện cá nhân.
Sự nghiệp phát triển văn hoá xã hội, giáo dục, y tế và con người đạt được
nhiều thành tựu

Cùng với phát triển kinh tế, Hà Nội tiếp tục đạt được nhiều thành tựu
trong sự nghiệp phát triển văn hoá xã hội và con người. Môi trường văn hoá Thủ
đô chuyển biến tích cực, văn hoá ở nơi công cộng được cải thiện, văn minh xã
hội được nâng lên một bước. Hà Nội là địa phương đảm bảo tốt các điều kiện
phúc lợi xã hội cho sự phát triển con người. Công tác quản lý văn hoá, bảo tồn,
tôn tạo các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể được tăng cường có hiệu quả.
Cuộc vận động toàn dân xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng người Hà Nội
văn minh, thanh lịchcó kết quả khả quan. Cùng với đó là phong trào xây dựng
Thủ đô văn minh - xanh - sạch - đẹp được tuyên truyền rộng rãi.
Thành phố đã ngày càng làm tốt công tác giữ gìn, bảo tồn, phát huy giá trị
các di sản lịch sử, văn hoá. Kể từ khi sáp nhập, đã xây dựng mới và nâng cấp
nhiều cơ sở vật chất về văn hoá, thông tin ở cấp xã, phường như nhà văn hoá
xã/phường, điểm sinh hoạt văn hoá ở các khu dân cư… phù hợp với quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Hoàn thành xây dựng Bảo tàng Hà
Nội, công viên, tượng đài Thành phố vì Hoà bình, Khải hoàn môn… Nâng cấp
các di tích lịch sử, công trình văn hoá : bảo tồn, tôn tạo khu Hoàng thành Thăng
Long, khu di tích thành cổ Hà Nội, khu di tích thành Cổ Loa; bảo tồn, cải tạo
khu phố cổ, khu di tích đền Sóc, Thành cổ Sơn Tây…
Qui mô, chất lượng giáo dục tiếp tục được giữ vững và mở rộng ở một số
bậc học, ngành học. Năm 2015, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi vào mẫu giáo đạt 80%,
tỷ lệ học sinh vào lớp 6 đạt 100%,
Hoạt động y tế được quan tâm phát triển mở rộng cả về chiều rộng và
chiều sâu. Hà Nội là một trong hai Thành phố có mạng lưới y tế qui mô lớn nhất
cả nước, tập trung nhiều bệnh viện đa khoa và chuyên khoa, là nơi có mật độ các
cơ sở y tế công lập dày đặc nhất trong cả nước. Ở đây tập trung số lượng lớn các
18


bệnh viện đầu ngành trong cả nước, như: bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Việt
Đức, bệnh viện Phụ sản trung ương, bệnh viện K, bệnh viện Nhi trung ương….

Năm 2012, trên địa bàn Thành phố Hà Nội có 737 cơ sở y tế. Chia ra: 70 bệnh
viện, 60 phòng khám đa khoa, 8 phòng khám chuyên khoa, 4 nhà hộ sinh, 577
trạm y tế xã phường và một số cơ sở khám chữa bệnh khác. Số lượng trạm y tế
cấp xã và tương đương là 577 trạm. Tại Hà Nội, 100% số xã/phường có trạm y
tế. Hệ thống y tế xã/phường góp phần tích cực vào việc chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho nhân dân Thủ đô. Số cán bộ y tế làm việc tại các cơ sở y tế là 36,1
nghìn người, trong đó: 377 người có trình độ tiến sỹ y khoa và dược khoa, 1828
người có trình độ chuyên khoa I, II y khoa và dược, 1616 người có trình độ thạc
sỹ, 7660 người có trình độ bác sỹ, dược sỹ đại học và cử nhân y tế công cộng.
Tỷ lệ y, bác sỹ có trình độ chuyên môn cao tập trung nhiều ở các bệnh viện
trung ương, chiếm 46,1% số y bác sỹ có trình độ từ đại học trở lên của toàn
ngành y Hà Nội. Đây là một ưu thế của Hà Nội trong việc chăm sóc sức khỏe
người dân Thủ đô, tuy nhiên cũng là nguyên nhân gây nên sự quá tải tại một số
bệnh viện do lượng bệnh nhân từ các quận, huyện trong Thành phố và từ các địa
phương trong cả nước đồ dồn về khám chữa bệnh tại các bệnh viện này.
Chất lượng lao động ngày càng được cải thiện: Lực lượng lao động của
Thành phố Hà Nội thuộc loại trẻ và liên tục được bổ sung bởi số người đến tuổi
lao động nhập cư từ các tỉnh lân cận, số lao động có độ tuổi từ 15 đến 34 tuổi
chiếm tỷ lệ cao nhất, chiếm 57,7%; tiếp theo là nhóm có độ tuổi từ 35 đến 55
tuổi, chiếm 37,8%; từ 56 đến 60 tuổi chiếm 3,2%; số còn lại là lao động dưới 15
tuổi và từ 60 tuổi trở lên.
Với lực lượng lao động trẻ, Hà Nội có lợi thế trong việc thu hút vốn đầu
tư, phát triển kinh tế, đặc biệt là những ngành và khu vực kinh tế mới hình
thành. Năm 2009, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 31,1%; năm 2011 tăng lên
38,7% và năm 2013 là 46,2%. Đây là một lợi thế của Hà Nội trong việc phát
triển những ngành và lĩnh vực cần phải sử dụng lao động có chất lượng cao.
Như vậy, trong thời kì đổi mới từ năm 1985 trở lại đây, Hà nội đã đạt
được những thành tích nổi bật: so với năm 1985, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế xã
hội năm 2015 đều tăng: Năm 2015 so với năm 1985, tổng sản phẩm trên địa bàn
(GRDP) gấp 12,2 lần; GRDP bình quân đầu người năm 2015 đạt 77 triệu đồng/

năm; Giá trị sản xuất công nghiệp gấ p 28,7 lầ n; Sản lượng điện thương phẩm
gấ p hơn 10 lầ n; Sản lượng lương thực có hạt gấp 8,3 lầ n; Kim ngạch xuấ t khẩ u
điạ phương gấ p 79,9 lầ n...
Sau hơn 30 năm đổi mới, đặc biệt sau 8 năm mở rộng địa giới hành chính,
tình hình kinh tế - xã hội Thủ đô đã có những bước phát triển rất phấn khởi và tự
19


hào. Những thành tựu đạt được trong giai đoạn này, sẽ là tiền đề để Hà Nội vững
bước trên những chặng đường tiếp theo.
2.2. Những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Trong 30 năm đổi mới, tuy đạt được những thành tựu khả quan, song kinh
tế - xã hội Hà Nội vẫn còn có một số hạn chế, đó là:
- Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; tăng trưởng
kinh tế chưa thực sự ổn định, bền vững; chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh
tranh chưa cao; chuyển dịch cơ cấu còn chậm so với yêu cầu. Trong 10 năm gần
đây, kinh tế vĩ mô thiế u ổn định , tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi
chậm.
- Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế còn thấp.
- Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường.
Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa
được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và
nguy cơ mất ổn định xã hội.
- Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ
hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực và hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
- Quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị, bảo vệ môi trường, trên một số
lĩnh vực chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn. Phát triển văn hóa - xã hội chưa
xứng tầm với vai trò, vị thế của Thủ đô. Việc xây dựng người Hà Nội thanh lịch,

văn minh chưa đạt kết quả mong muốn.
.

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế -

xã hội
Những hạn chế, yếu kém trên đây có cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan:
- Nền kinh tế thế giới khủng hoảng đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh
tế cả nước nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng. Giá nguyên, nhiên vật liệu
đầu vào liên tục tăng, lãi suất ngân hàng tăng… đã khiến cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Thị trường tiêu thụ trong
nước và thế giới đình trệ, khiến cho lượng hàng tồn kho của nhiều doanh nghiệp
tăng.
- Lực lượng lao động tuy dồi dào, nhưng thiếu lao động có tay nghề cao,
chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp hiện đại, chưa đáp ứng được
20


nhu cầu của chủ doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
- Sản phẩm của doanh nghiệp Hà Nội chưa đáp ứng được yêu cầu của
cạnh tranh, nhiều sản phẩm mới chỉ là gia công, chế tác; những sản phẩm có tỷ
lệ giá trị gia tăng cao chưa nhiều. Sản xuất công nghiệp có xu hướng phụ thuộc
ngày càng lớn vào đầu tư nước ngoài và nhập khẩu các yếu tố đầu vào.
- Ý thức của một bộ phận người dân, đặc biệt là lớp trẻ chưa cao, bên
cạnh đó việc giáo dục ý thức trách nhiệm với người dân của các tổ chức, đoàn
thể chưa tốt, việc tuyên truyền về truyền thống của người Hà Nội chưa sâu rộng
đến mọi tầng lớp nhân dân.


III. Đề xuất một số giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô
trong thời gian tới
- Phát huy tiềm năng và thế mạnh của Thủ đô, đẩy mạnh phát triển
kinh tế tri thức, đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu kinh tế, nâng cao
chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, bảo đảm kinh tế Thủ đô phát triển
nhanh, bền vững, gắn với bảo đảm an sinh xã hội, tiếp tục nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân.
- Đổi mới và sáng tạo với những trụ cột là khoa học công nghệ, nguồn
nhân lực chất lượng cao và hệ thống thể chế hiện đại. Nhà nước cần những
chính sách cụ thể để giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh bằng
việc ứng dụng khoa học công nghệ và giảm các chi phí giao dịch trung gian.
Việc thu hút đầu tư nước ngoài cần theo hướng chọn lọc, ưu tiên các tập đoàn đa
quốc gia dẫn dắt các chuỗi giá trị toàn cầu trong các lĩnh vực công nghệ, có thể
tạo ra sự lan tỏa về công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý
tiên tiến.
- Cần tăng cường công tác tuyên truyền để các ngành, các địa phương,
cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân có sự chuẩn bị tốt, hội nhập thành công.
Cần có chiến lược cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia, chiến lược cạnh tranh
của từng ngành, lĩnh vực, của các sản phẩm, nhất là những sản phẩm quan trọng,
của mọi doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp lớn của nền kinh tế.
- Nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng trực tiếp tạo ra tri thức và
sáng tạo trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở đổi mới mạnh
mẽ và đồng bộ giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục đại học và đào tạo nghề;
cần quan tâm khuyến khích đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tận
dụng có hiệu quả lợi thế cơ cấu “dân số vàng” để bứt phá phát triển, tránh nguy
21


cơ “chưa giàu đã già”; gắn đào tạo với nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công
nghệ, đồng thời gắn với nhu cầu của thị trường và doanh nghiệp.

- Chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, quản trị doanh nghiệp giỏi,
chuyên gia khoa học, công nghệ đầu đàn và lao động có tay nghề cao. Chú trọng
phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng và phát huy nhân tài. Phát huy tư duy sáng tạo,
năng lực tự nghiên cứu ở bậc đại học và sau đại học. Khuyến khích và thu hút
các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham
gia hoạt động khoa học, công nghệ ở Việt Nam.
Tăng cường đầu tư cho đội ngũ chuyên gia thiết kế sản phẩm, nghiên cứu,
phát triển các lĩnh vực công nghệ cao, các ngành nghề mới, có khả năng tạo ra
sự lan tỏa và tác động lớn đến phát triển kinh tế-xã hội. Thực hiện các chương
trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực công nghiệp mũi nhọn.
Xây dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng lực thể chất, nhân cách, đạo
đức, lối sống, tinh thần thượng tôn pháp luật và trách nhiệm công dân, tác phong
công nghiệp của người lao động.
- Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện
đại, chú trọng hệ thống công trình cấp, thoát nước, các công trình xử lý chất thải.
Nâng cao chất lượng và quản lý tốt quy hoạch đô thị. Hoàn thiện hạ tầng khu
công nghiệp đáp ứng yêu cầu sản xuất và bảo vệ môi trường. Làm tốt công tác
quy hoạch và quản lý quy hoạch, xây dựng, quản lý, phát triển đô thị và xây
dựng nông thôn mới, gắn với quản lý tốt tài nguyên, cải thiện chất lượng môi
trường.
- Tích cực phát triển sự nghiệp văn hóa, xây dựng người Hà Nội thanh
lịch, văn minh; bảo đảm an sinh, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ, văn
hóa - xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa Thủ đô.
- Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt
động hợp tác, đối ngoại, hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế, uy tín của Thủ đô.

22



KẾT LUẬN

Ba mươi năm qua (1986 - 2016), trải qua nhiều biến động phức tạp về tình
hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực, đấu tranh làm thất bại những âm
mưu, thủ đoạn chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, vượt qua những
khó khăn, thử thách và yếu kém nội tại của nền kinh tế đất nước trong quá trình
xây dựng, phát triển, Đảng bộ Thủ đô đã vận dụng sáng tạo, thực hiện đồng bộ
sự nghiệp đổi mới của Đảng và đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, tạo sự
chuyển biến toàn diện, rõ rệt trên các lĩnh vực của đời sống - xã hội Thủ đô.
Những thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt trong 30 năm đổi mới làm
nên một cuộc chuyển biến sâu sắc, đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc của Thủ
đô trong quá trình xây dựng và phát triển, tạo ra thế và lực mới vững bước trên
chặng đường tiếp theo. Với những thành tựu rất đáng tự hào, Thủ đô Hà Nội tiếp
tục khẳng định vị trí của Hà Nội là một trung tâm lớn nhất cả nước về chính trị,
kinh tế, văn hoá xã hội của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước. Cùng với bề
dày lịch sử của Thủ đô nghìn năm văn hiến, những thành quả mà Hà Nội đã tạo
dựng được trong ba mươi năm qua sẽ là hành trang quí giá và là nguồn lực để
các thế hệ sau tiếp nối truyền thống, góp phần bảo tồn và tôn tạo Thăng Long Hà Nội.

23



×