SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ GIANG
TRƯỜNG THPT CHUYÊN
\
BÀI TIỂU LUẬN
GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG
TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU
Năm học 2014 – 2015
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ GIANG
1
TRƯỜNG THPT CHUYÊN
BÀI TIỂU LUẬN
GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG
TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU
Nhóm thực hiện :
Giáo viên hướng dẫn :
1, Nông Thúy Hằng
Vũ Thị Thu
2, Nguyễn Minh Trang
3, Phạm Quang Bảo
4, Phạm Thùy Dung
5, Bùi Trung Đức
6, Hoàng Minh Hằng
Năm học 2014 – 2015
2
MỤC LỤC
Lời tựa ..............................................................................................................5
A, Đặt vấn đề ...................................................................................................6
I, Lí do chọn đề tài .........................................................................................6
II, Đối tượng nghiên cứu.................................................................................7
III, Mục đích và yêu cầu.................................................................................7
1, Mục đích...................................................................................................7
2, Yêu cầu.....................................................................................................7
IV, Phương pháp nghiên cứu.........................................................................7.
V, Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................7.
B, Giải quyết vấn đề ........................................................................................8
I, Tác giả Nguyễn Du.......................................................................................8
1, Cuộc đời......................................................................................................9
2, Văn nghiệp của Nguyễn Du ....................................................................12
a, Các tác phẩm văn học của Nguyễn Du......................................................12
b, Khuynh hướng hiện thực trong các tác phẩm của NguyễnDu................13
c, Tính nhân đạo trong các sáng tác của Nguyễn Du...................................15
II, Tác phẩm truyện Kiều...............................................................................16
1, Nội dung....................................................................................................17
2, Nghệ thuật.................................................................................................18
3
III, Giá trị nhân đạo trong truyện Kiều............................................................20
1, Khái niệm giá trị nhân đạo.............................................................................20
2, Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm Truyện Kiều......................20
a, Truyện Kiều là bài ca về tình yêu tự do, ước mơ công lí.............................21
b, Truyện Kiều tiếng nói ca ngợi vẻ đẹp con người..........................................33
c, Truyện Kiều là tiếng khóc cho số phận con người........................................52
d, Truyện Kiều bản án đanh thép tố cáo các thế lực đen tối trong xã hội....65
e, Truyện Kiều tiếng nói hiểu đời.......................................................................73
3, Những điểm mói trong giá trị nhân đạo của Truyện Kiều..........................77
VI, So sánh giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều với giá trị nhân đạo trong
một số tác phẩm khác ........................................................................................81
1, Đặt trong tương quan với một số tác phẩm văn học khác của Nguyễn Du
a, Thơ chữ Hán......................................................................................................
b, Thơ chữ Nôm.....................................................................................................
2, Đặt trong tương quan với một số tác phẩm văn học trước, sau và cùng
thời với Truyện Kiều
a, Trước Truyện Kiều: ( Văn học dân gian).....................................................84
b, Cùng thời với Truyện Kiều: ( Văn học trung đại)......................................89
c, Sau Truyện Kiều: ( Văn học hiện đại ).........................................................92
C, Kết thúc vấn đề................................................................................................98
Thư mục tham khảo.........................................................................................99
4
Lời tựa
Thưa bạn đọc ! Đầu tiên cho chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất
tới Ban giám hiệu trường THPT Chuyên Hà Giang đã đem đến cho chúng tôi một
môi trường học tập tốt đẹp và thuận lợi, có đầy đủ cơ sở vật chất, hạ tầng. Đồng
thời tạo điều kiện để chúng tôi có cơ hội tìm tòi, nghiên cứu, bồi đắp thêm nhiều
kiến thức sâu rộng và được thể hiện sự hiểu biết của mình thông qua bài nghiên
cứu với vấn đề: “Giá trị nhân đạo trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du”.
Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới cô Vũ Thị Thu – giáo viên trực tiếp giảng
dạy bộ môn Ngữ Văn chuyên đã hướng dẫn và góp ý để bài tiểu luận này được
hoàn thành.
Như các bạn đã biết, Nguyễn Du là cây đại thụ lớn trong vườn văn học
trung đại Việt Nam. Với “con mắt nhìn xuyên sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt ngàn
đời”, ông dường như thấu hiểu hết những nỗi đau oan nghiệt, nỗi thống khổ của
mọi kiếp người trong xã hội, đặc biệt là những người tài hoa nhưng bạc mệnh,
những người phụ nữ với thân phận mỏng manh, yếu đuối. Do vậy, các tác phẩm
của Nguyễn Du đã toát lên tấm lòng nhân ái bao la và tinh thần nhân đạo sâu sắc,
nhất là Truyện Kiều – một áng văn chương bất hủ, một viên ngọc sáng lấp lánh
của nền văn học Việt Nam. Chúng tôi nghiên cứu và hoàn thành bài tiểu luận về
“Giá trị nhân đạo trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du” với mong muốn
có thể cung cấp những tri thức bổ ích phục vụ việc học tập và giới thiệu đến các
bạn phương pháp nghiên cứu khoa học để tìm hiểu một vấn đề. Hi vọng thông qua
những nỗ lực tìm hiểu của tất cả các thành viên trong nhóm, bạn đọc sẽ phần nào
hiểu rõ hơn về tác giả Nguyễn Du và kiệt tác văn học Truyện Kiều.
Trong quá trình làm bài tiểu luận, do giới hạn về thời gian và kiến thức,
chúng tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi mong cô và các bạn có
những đóng góp để bài tiểu luận của chúng tôi được trau chuốt và hoàn chỉnh
hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
5
A, Đặt vấn đề :
I, Lí do chọn đề tài :
1, Nguyễn Du – Nhà thơ hiện thực sâu sắc, nhà nhân đạo lỗi lạc với tấm lòng
yêu thương con người bao la, rộng lớn, sự am hiểu bao mối bận tâm của cuộc nhân
sinh cùng ngòi bút tinh tế, sắc sảo, linh hoạt. Ông viết về hầu hết số phận của nhiều
loại người trong xã hội, đồng cảm sâu sắc với mọi nông nỗi của số phận con người, từ
bậc thượng lưu cho đến những kẻ dưới đáy xã hội. Đọc những tác phẩm của Nguyễn
Du, ta đâu chỉ thán phục trước tài năng tuyệt vời của ông ? Thậm chí, ta còn cảm thấy
như có gì đó còn ám ảnh, đau đáu trong tâm chí, như có gì đó đau nhói ở trong lòng.
Nguyễn Du được người Việt kính trọng gọi là “Đại thi hào dân tộc”. Không chỉ
vậy, ông còn được UNESCO công nhận là “Danh nhân văn hóa thế giới”. Nguyễn Du
là nhà thơ có học vấn uyên bác, đạt nhiều thành tựu kiệt xuất về văn chương, ở thể
loại nào ông cũng đạt được sự hoàn thiện ở trình độ cổ điển. Đặc biệt hơn cả là tài
làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều với giá trị nhân văn sâu
sắc.
2, Thực hiện bài tiểu luận này cũng giúp chúng tôi có thể tiếp cận với phương
thức nghiên cứu khoa học để phục vụ cho quá trình học tập, tiếp thu kiến thức sâu sắc
và toàn diện hơn. Chúng tôi mong muốn bài tiểu luận sẽ đạt được hiệu quả cao trong
quá trình nghiên cứu và học tập môn Ngữ Văn. Đồng thời, bài tiểu luận đã được
chỉnh sửa nên cũng có thể là nguồn tư liệu để các bạn tham khảo.
Chính trên cơ sở này mà chúng tôi chọn đề tài về “Giá trị nhân đạo trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du”.
II, Đối tượng nghiên cứu :
6
Nguyễn Du là một nhà thơ chủ nghĩa nhân đạo với hệ tư tưởng mới mẻ, ông
đặc biệt quan tâm tới thân phận và nỗi bất hạnh của con người. Đối tượng nghiên cứu
trong bài tiểu luận này là tìm hiểu về giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều – Nguyễn
Du. Qua đó, chúng ta có thể thấy được tấm lòng nhân đạo vĩ đại của đại thi hào
Nguyễn Du.
III, Mục đích và yêu cầu :
1,Mục đích :
- Giúp các bạn học sinh có thêm nhiều hiểu biết về Nguyễn Du cũng như sáng
tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều) của ông. Thông qua bài tiểu luận này, các
bạn sẽ biết và nắm bắt được phần nào về “Giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du”.
2, Yêu cầu :
- Nắm bắt và hiểu được một số biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm
Truyện Kiều.
IV, Phương pháp nghiên cứu
- Kết hợp linh hoạt và nhuần nhuyễn các phép tư duy logic, tổng hợp, phân
tích, chứng minh, bình luận...
V, Phạm vi nghiên cứu :
- Tác phẩm Truyện Kiều và một số tác phẩm văn học khác của Nguyễn Du, một
số tác phẩm trong văn học dân gian, văn học trung đại, văn học hiện đại.
- Tác giả Nguyễn Du và văn nghiệp của ông
B, Giải quyết vấn đề
7
I, Tác giả Nguyễn Du
Nguyễn Du ( 1765 – 1820 )
1, Cuộc đời
8
* Thời đại : Yếu tố thời đại là một cơ sở sâu xa tạo nên sự xuất hiện gương mặt
thiên tài văn học Nguyễn Du.
- Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh ngày 23 tháng 11 năm
Ất Dậu (tính ra dương lịch là ngày 3 tháng 1 năm 1766) tại kinh đô Thăng Long và
lớn lên ở đấy. Ông mất ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch (16 tháng 9 năm 1820) tại Huế.
Nhà thơ sống vào giai đoạn lịch sử xã hội Việt Nam có nhiều biến động dữ dội, nhất
là
khoảng 30 năm đầu của cuộc đời nhà thơ. Nguyễn Du đã có dịp chứng kiến những
biến cố lịch sử trọng đại nhất : Sự sụp đổ thảm hại của tập đoàn phong kiến thống trị
Lê -Trịnh, vận mệnh ngắn ngủi nhưng rạng rỡ của phong trào Tây Sơn và triều đại
Quang Trung, công cuộc trung hưng của nhà Nguyễn.
- Ông đã sống trong một thời đại mà truyền thống nhân văn và tinh thần dân
tộc được kết tinh một cách rực rỡ.
- Những biến cố xã hội, truyền thống nhân văn và tinh thần dân tộc của thời đại
đã để lại những âm hưởng, những màu sắc trong nhân cách cũng như sáng tác của
nhà thơ.
*Gia đình:
- Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc, trí thức, tài
hoa và có danh vọng vào bậc nhất đương thời, nhiều đời làm quan to dưới thời vua
Lê, chúa Trịnh. Không những thế, gia đình ông còn có truyền thống yêu chuộng văn
học, rất sành văn thơ Nôm, thích hát xướng. Hoàn cảnh gia đình đã có những tác
động rõ rệt đối với sự hình thành thiên tài văn học ở Nguyễn Du.
- Gia đình Nguyễn Du có nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to trong triều đình
9
Thân sinh của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm từng làm tể tướng mười lăm
năm.
Mẹ ông là Trần Thị Tần, vợ thứ, người Bắc Ninh, có tài hát xướng.
Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du đậu tiến sĩ giữ chức lớn
dưới cả hai thời Trịnh Sâm và Trịnh Tông .
Nguyễn Huệ, bác ruột Nguyễn Du, đậu tiến sĩ.
Theo Phạm Ðình Hổ thì dòng họ này có 12 tiến sĩ và 5 quận công.
- Năm Nguyễn Du 10 tuổi mất cha,
13 tuổi mất mẹ. Có thể nói cuộc đời mồ
côi từ bé, lớn lên trong cảnh nhà Lê suy
sụp và hoàn cảnh gia đình đã có ảnh
hưởng hết sức sâu sắc đến tư tưởng, tình
cảm của nhà thơ. Ông đã sống một cuộc
đời bi kịch, xuất thân trong một gia đình
quý tộc giàu sang nhưng cơn lốc lịch sử đã
hất đổ hết lầu son gác tía, đẩy ông vào
cuộc đời sống lay lắt, lưu lạc, tha hương.
Khi Nhà Nguyễn thống nhất đất nước, Nguyễn Du được trọng dụng và giữ nhiều
chức quan quan trọng như Cần Chánh điện học sĩ, rồi Hữu Tham tri bộ Lễ, làm
Chánh sứ đi sứ Trung Quốc… Nhưng vị đại quan luôn cảm thấy đau lòng vì nhân tình
thế thái, tâm hồn nghệ sĩ của ông quá nhạy cảm trước nỗi đau khổ lớn lao của con
người trong xã hội chuyên chế. Ông luôn cảm thấy cô đơn, không có nhiệt tâm với
triều đại mới, luôn hoài vọng về những ngày tốt đẹp đã qua. Ông mất trong một trận
10
dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ, trong điều kiện không chịu
cho người nhà chạy chữa.
- Bi kịch lớn nhất đời ông là từng khao khát một sự nghiệp vẫy vùng cho phỉ chí,
mà rút cuộc phải cấp nhận cuộc đời triền miên buồn chán, không có một hoạt động
say sưa và nhất quán vì lý tưởng nào cả. Nguyễn Du đã sống như một người dân
thường giữa thế gian và nhờ thế ông thông cảm sâu sắc cho mọi kiếp người bị đầy
đọa. Nguyễn Du nhìn đời với con mắt của một người đứng giữa dông tố cuộc đời và
điều đó khiến tác phẩm của ông chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn học trung
đại Việt Nam.
*Bản thân Nguyễn Du :
- Nguyễn Du là một con người đầy tài hoa, ông có vốn học thức rất uyên thâm.
Thêm vào đó, ông hiểu biết rất tường tận về con người, về lẽ nhân sinh bởi ông đã tự
mình nếm trải và cảm thấy “những điều trông thấy thật đau đớn lòng”. Đồng thời,
Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng sâu đậm truyền thống văn hóa, tri thức của gia đình
mình và của ba vùng đất lớn : Thăng Long, Kinh Bắc, đặc biệt là quê hương Hà Tĩnh
sông Lam - núi Hồng. Ngay từ bé, ông đã được học tập và được tắm mình trong
những lời ru ngọt ngào, những làn điệu dân ca mượt mà từ người mẹ có tài hát
xướng.
- Xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc có danh vọng vào loại
bậc nhất đương thời nhưng Nguyễn Du sống trong cuộc sống nhung lụa không được
bao lâu. Bởi vì nhà thơ lớn lên giữa lúc gia đình đang sụp đổ nhanh chóng theo đà
sụp đổ của tập đoàn phong kiến thống trị Lê - Trịnh. Nguyễn Du phải sớm đương đầu
với những biến cố lớn lao của gia đình và xã hội. Có lúc nhà thơ cũng bị hất ra giữa
cuộc đời, đã từng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông có một thời gian dài khoảng 16 năm
11
sống lưu lạc ở quê vợ ở Thái Bình, quê cha Hà Tĩnh. Những năm tháng bất hạnh này
có ảnh hưởng trực tiếp quyết định đến sự hình thành con người nghệ sĩ vĩ đại ở ông.
- Nguyễn Du là một nhà thơ có tấm lòng nhân đạo sâu xa. Qua thơ Nguyễn Du
ta thấy ông luôn day dứt về số phận con người.
Trong tác phẩm của mình đã hơn một lần nhà thơ thốt lên :
“Ðau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
Tóm lại : Nguyễn Du đã có những yếu tố cơ bản để trở thành một nghệ sĩ
thiên tài có: tài năng, tri thức, vốn sống, tâm hồn và tư tưởng tình cảm.
2, Văn nghiệp của Nguyễn Du
a, Các tác phẩm văn học của Nguyễn Du
- Nguyễn Du là một tác giả có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học của nước
nhà. Dù sự nghiệp văn chương của ông không quá đồ sộ, nhưng mỗi tác phẩm của đại
thi hào này lại là một kiệt tác, một áng văn có giá trị riêng biệt và còn sống mãi với
thời gian. Thơ của ông dù là ở mảng chữ Hán hay chữ Nôm đều đạt tới trình độ mẫu
mực cổ điển.
- Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị, mộc mạc nhưng không kém phần tài
hoa, điêu luyện. Thơ chữ Hán của ông có các kiệt tác như Đọc Tiểu Thanh kí, Điếu la
thành ca giả, Long Thành cầm giả ca, Thái Bình mại giả ca, Phản chiêu hồn,... Ông
có ba tập thơ chữ Hán dài tổng cộng 250 bài :
Thanh Hiên thi tập ( tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài được sáng tác khi
ông đang sống lẩn tránh ở quê vợ.
Nam trung tạp ngâm (ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài chiếu
được làm trong khoảng thời gian ông miễn cưỡng làm quan dưới triều Nguyễn.
12
Bắc hành tạp lục ( ghi chép trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 132 bài
làm lúc ông phụng mệnh vua dẫn đầu đoàn đi sứ Trung Quốc.
- Về mặt thơ Nôm, Nguyễn Du đã sử dụng tài tình hai thể thơ của dân tộc là lục
bát và song thất lục bát. Việc kết hợp hai thể thơ ấy đã giúp làm mới ngôn ngữ văn
học tiếng Việt, đưa ngôn ngữ ấy đạt đến đỉnh cao, chạm đến trình độ mẫu mực. Các
kiệt tác tiêu biểu của ông ở mảng này gồm Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng
sinh. Ngoài ra còn có một số tác phẩm khác mang đậm tính dân gian như bài vè Thác
lời trai phường nón, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu.
b, Khuynh hướng hiện thực trong các tác phẩm văn học của Nguyễn Du.
- Từ những biến cố trong cuộc đời và những điều góp nhặt được trong cuộc
sống đầy khổ cực của mình thì hiện thực đã dần trở thành nhận thức trong tâm hồn
của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Chính vì thế các sáng tác của ông dù đa dạng đến
đâu nhưng bên trong đó vẫn có sự bao trùm của khuynh hướng hiện thực sâu sắc.
Ông lúc nào cũng hướng về cuộc sống thực tại với những vấn đề nhức nhối của nó.
Qua các tác phẩm chữ Hán, ông đã tái hiện lại một cách trung thành khoảng thời gian
lay lắt khi ông sống trong cảnh đói khổ, bệnh tật,… Đồng thời ông cũng thể hiện
những suy tư, tình cảm của mình trước bối cảnh của thời đại. Sống giữa thời buổi
loạn lạc, Nguyễn Du cảm nhận về hoàn cảnh đói khổ của mình, về nỗi cửa nhà tan
tác, ý thức về sự vô vị của cuộc sống một cách sâu sắc nhất.
13
Có bài thơ ghi lại cảnh sống của ông ở nơi đất khách quê người :
“Tơi bời, đào rụng, lá theo hoa
Cửa vẹo, then nghiêng một nếp nhà
Trọ mãi quên hoài thân ấy khách
Năm trôi biết rõ tuổi thêm già.”
(Ở nơi u tịch - Ngô Linh Ngọc dịch)
Nhiều khi khác là tâm trạng vô vọng, muốn thoát ra khỏi cuộc sống tù túng,
chật hẹp để tìm về nơi thanh tĩnh, làm bạn với cỏ cây hoa lá. Thế nhưng ông không
nhắm mắt, buông xuôi mà bày tỏ thái độ mỉa mai, lên án sự bất công trong xã hội đầy
đen tối lúc bấy giờ. Ông vạch ra sự đối lập gay gắt giữa người giàu và kẻ nghèo.
Trong Thái Bình mại ca giả, ông miêu tả cảnh đám người trên thuyền cơm canh, thịt
cá ê chề ăn không hết và thức ăn dư thừa thì đem đổ đầy xuống sông, trong khi đó
một ông lão hát rong già cả, ốm yếu hát đến nỗi sùi bọt mép thì lại chỉ nhận được
năm, sáu đồng tiền. Trong mảng thơ đề vịnh lịch sử, Nguyễn Du thường bày tỏ tinh
thần dân tộc và thái độ phản đối, mỉa mai viên tướng Mã Viện đời Hán. Tiêu biểu
nhất cho tinh thần phản kháng hiện thực của Nguyễn Du là bài Phản chiêu hồn. Đây
là tác phẩm mang đầy tính nghị luận. Khuynh hướng hiện thực sâu sắc của Nguyễn
Du còn thể hiện qua các tác phẩm thơ Nôm.
Truyện Kiều đã phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và các thế lực
hắc ám chà đạp quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc của con người. Không chỉ dừng
lại ở đó, tác phẩm còn bộc lộ một cách chân thực những bi kịch mà con người trong
xã hội cũ phải gánh chịu, đặc biệt là người phụ nữ.
c, Tính nhân đạo trong các sáng tác của Nguyễn Du
14
Ngoài tính hiện thực thì sự quan tâm sâu sắc tới số phận con người cũng là một
đặc điểm nổi bật trong các sáng tác của Nguyễn Du. Ông được đánh giá là nhà văn
viết về hầu hết số phận của nhiều loại người trong xã hội từ người ca nữ đến người kĩ
nữ. Truyện Kiều là khúc ca về tình yêu trong sáng, là giấc mơ tự do làm chủ cuộc đời,
nhưng chủ yếu là tiếng khóc xé lòng xé ruột cho thân phận và nhân phẩm của con
người bị chà đạp.Trong tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí, nhân vật Tiểu Thanh cũng phải
chịu những bi kịch do xã hội phong kiến gây ra. Dường như những người phụ nữ tài
hoa nhưng có số mệnh bạc bẽo đã trở thành hình ảnh tiêu biểu cho những giá trị đẹp
đẽ của con người bị hủy hoại trong các sáng tác của Nguyễn Du. Đến Văn tế thập loại
chúng sinh, tình thương người của ông đã xóa nhòa ranh giới của các giai cấp trong
xã hội. Dưới con mắt của ông, cái chết đã biến tất cả mọi người trở thành nạn nhân,
thế nhưng ông vẫn thương yêu những nạn nhân ấy :
“Còn chi ai quý ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền, ai ngu”
Trong văn học thời kì phong kiến, các nhà thơ, nhà văn thường viết về cuộc đời
của những con người thuộc tầng lớp trên và ít khi chú ý đến những con người thuộc
tầng lớp thấp kém trong xã hội. Thế nhưng Nguyễn Du lại khác, ông viết về những
người con gái “liều tuổi xuân buôn nguyệt bán hoa”. Nguyễn Du còn mong muốn
được giải thoát cho các cô hồn, ông đã lấy hạnh phúc của con người làm nền tảng cho
các sáng tác của mình.Thơ của ông tuy giản dị nhưng lại tinh luyện, tài hoa. Nếu
Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho thơ Nôm thì Nguyễn Du là người đưa nó đến
đỉnh cao. Các tác phẩm thơ Nôm đã cho thấy tài năng sáng tạo bậc thầy của ông trong
việc sử dụng tài tình hai thể thơ của dân tộc là lục bát và song thất lục bát. Ông đã
đưa ngôn ngữ văn học tiếng Việt đến trình độ điêu luyện, cổ điển. Georges Boudared
đã nhận xét: “Ít nhà thơ trên thế giới có khả năng đạt được tiếng vang sâu đậm trong
dân chúng của mình như Nguyễn Du ở Việt Nam. Truyện Kiều của ông là cuốn sách
15
kinh điển của văn chương Việt Nam nhưng là một thứ kinh điển mọi người đều biết
không một ngoại lệ nào”.
II, Tác phẩm Truyện Kiều
Bản "Đoạn trường tân thanh" (斷斷斷斷)
in năm 1902 và "Kim Vân Kiều tân tập" (斷斷斷斷
khắc in năm 1906.
1, Nội dung
16
斷)
Truyện Kiều – Nguyễn Du viết về cuộc đời bi thảm, chịu nhiều bất công, uất
ức của Thúy Kiều. Từ một nàng tiểu thư khuê các quen sống trong nhung lụa lại trở
thành kĩ nữ lầu xanh mua vui cho thiên hạ, sống một cuộc đời đen tối đầy tủi nhục.
Thúy Kiều (Họ tên đầy đủ là Vương Thúy Kiều) là một thiếu nữ tài sắc vẹn
toàn được sinh ra từ một gia đình trung lưu, nề nếp, gia phong. Dưới Kiều còn hai em
là Thúy Vân và Vương Quan. Trong buổi du xuân tiết thanh minh, Kiều cùng hai em
đi tảo mộ. Trong dịp này nàng, gặp Kim Trọng - một chàng trai “Phong tư tài mạo tót
vời, vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”. Hai người vừa gặp nhau “Tình trong như
đã mặt ngoài còn e” hai người chớm nở tình yêu. Cũng trong dịp này, Kiều gặp nấm
mồ vô cùng quạnh hiu của Đạm Tiên, nàng khóc than cho số phận bạc mệnh của
người kĩ nữ bạc phận ấy. Trở về nhà, nàng được linh hồn của Đạm Tiên báo trước cho
những dông bão đời mình.
Sau khi gặp Thúy Kiều ở buổi thanh minh, Kim Trọng dò la tin tức của nàng
rồi dọn đến trọ học gần nhà Thúy Kiều tìm cách làm quen. Nhân một ngày gia đình
Thúy Kiều sang chơi bên ngoại, Thúy Kiểu đã cùng chàng Kim gảy đàn tâm tình.
Mối tình giữa hai người nảy nở tốt đẹp, họ vừa yêu nhau vừa trọng nhau hết mực. Hai
người đã thề nguyền và trao vật đính ước cho nhau.
Gia đình Kim Trọng có tang, chàng phải về quê chịu tang. Trong khi đó cha
Kiều bị thằng bán tơ vu oan. Gia đình Kiều tan nát, Vương Ông và Vương Quan bị
tra khảo. Kiều phải bán mình chuộc cha và nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng để
không phụ tình chàng. Từ đây, cuộc đời Thúy Kiều bị dơi vào bước trầm luân lưu lạc
“Thanh lâu hai lượt, thanh ly hai lần” (hai lần bị bọn buôn thịt bán người Mã Giám
Sinh, Tú bà, Sở Khanh, Bạc bà, Bạc Hạnh đẩy vào lầu xanh; hai lần Thúy Kiều phải
làm hầu gái).
Vào lầu xanh lần một, Thuý Kiều gặp Thúc sinh, một khách làng chơi cứu vớt
Kiều ra khỏi cuộc đời nhơ nhớp. Nhưng nàng lại bị vợ của Thúc Sinh là Hoạn Thư
17
ghen tuông, đày đoạ bắt về làm con ở, hầu hạ hai vợ chồng Thúc Sinh trong tiệc rượu
hàn huyên. Bị đánh ghen một cách tàn nhẫn, Kiều bỏ trốn đến nương nhờ ở Phật.
Chẳng may sư trụ trì vô tình gửi nàng cho Bạc Hạnh – một kẻ cùng nghề với Tú Bà,
thế là nàng Kiều lại bị rơi vào lầu xanh một lần nữa. Vào lầu xanh lần hai, Thúy Kiều
gặp Từ Hải – một đấng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất. Người anh hùng chuộc
Thúy Kiều ra làm vợ, giúp nàng báo ân báo oán. Tưởng rằng “phú quý phụ vinh”,
nhưng hạnh phúc không được bao lâu thì Từ Hải ra đi làm nghiệp lớn. Kiều bị mắc
mưu Hồ Tôn Hiến – một mệnh quan triều đình lừa nên đã hại Từ Hải uất ức mà chết
đứng giữa trận tiền. Thúy Kiều bị Hồ Tôn Hiến ép hầu rượu suốt đêm rồi lợi dụng ép
gả cho một viên thổ quan. Nàng nhảy xuống sông tự vẫn và được sư Giác Duyên cứu.
Suốt mười lăm năm, mặc dù đã kết duyên với Thúy Vân nhưng Kim Trọng vẫn
chẳng hề nguôi ngoai mối tình đầu say đắm. Chàng “Rắp tăm treo ấn từ quan”, lặn lội
tìm Kiều, gặp được sư Giác Duyên, Kim Trọng đón Kiều về đoàn tụ với gia đình.
Chiều ý mọi người, Thúy Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai cùng
nguyện ước “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì”.
2. Nghệ thuật
Truyện Kiều không những có nội dung sâu sắc, mà nghệ thuật của nó cũng đạt
đến một thành tựu rực rỡ. Nói đến thành công trong nghệ thuật Truyện Kiều trước hết
người ta thường nói đến thành công của nhà thơ trong việc vận dụng tiếng Việt và thể
thơ lục bát của dân tộc. Trong Truyện Kiều có sự kết hợp sức nhuần nhuyễn giữa
ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân. Truyện Kiều có không ít từ Hán Việt và điển
cố lấy trong sách vở với lối diễn đạt đài các, quý phái, nhưng tất cả đều được sử dụng
có liều lượng, đúng nơi, đúng lúc, nên đều hợp lý. Chẳng hạn, tác giả đã dùng bút
pháp cực tả tuyệt đối hoá , lý tưởng hoá nhan sắc, cốt cách chị em Kiều. Nhiều thi
liệu cổ đã được huy động để khắc hoạ bức chân dung tuyệt mỹ của giai nhân như :
Làn thu thuỷ , nét xuân sơn , hoa ghen , liễu hờn … Với bút pháp lý tưởng hoá , Kiều
18
hiện ra trước mắt người đọc bằng hình ảnh một thiếu nữ xin đẹp tuyệt trần, sắc sảo
mặn mà, vừa có duyên, vừa có hồn . Nhưng đẹp đến độ sắc nước hương trời, chim sa
cá lặn, nước thành nghiêng đổ , hoa phải ghen , liễu phải hờn tất cuộc đời sẽ gặp
nhiều sóng gió, đau khổ … Là một nghệ sĩ về ngôn từ , Nguyễn Du không sử dụng
những thi liệu cổ một cách máy móc rập khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn .
Nói tới nỗi buồn của người đẹp , nhà thơ gắn với những thềm hoa ,lệ hoa , rồi nét
buồn như cúc , điệu gầy như mai … Nói chung, qua việc sử dụng những thi liệu cổ
nhà thơ đã tạo ra những từ ngữ rất riêng , rất Nguyễn Du , nhưng vẫn là ngôn ngữ dân
tộc. Nguyễn Du đã tạo ra hàng loạt ngôn từ không có trong thực tế , cũng không có
trong từ điển thông thường ; mà theo ông Trần Đình Sử đó là những ngôn từ ý tượng
(là hình ảnh chỉ nảy sinh trong tâm tưởng , không phải là hình ảnh sao chép thực tại )
có cấu tạo riêng , nói lên sự cảm thụ chủ quan của tác giả. Nói tới nước mắt thì nói
giọt ngọc , giọt châu , giọt tương , giọt hồng , giọt tủi, giọt riêng ... Mặt khác trong
Truyện Kiều lại có nhiều lời ăn tiếng nói hằng ngày, ca dao tục ngữ nhưng tất cả cũng
được sử dụng có chọn lọc tinh vi, khéo léo, kết hợp hài hòa với ngôn ngữ bác
học. Thể thơ lục bát trong Truyện Kiều được nhà thơ khai thác triệt để khả năng biểu
hiện của nó, tinh tế, giản dị mà có âm vang, có thể diễn đạt được nhiều sắc thái của
cuộc sống và những nét tinh vi, tế nhị trong tình cảm của con người. Một thành công
nữa cũng hết sức quan trọng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là nghệ thuật dẫn
truyện và nghệ thuật miêu tả, bao gồm miêu tả con người lẫn miêu tả thiên nhiên,
cảnh vật. Nhà thơ thường miêu tả rất tiết kiệm. Chỉ cần một vài câu thơ ông đã có thể
khắc họa rõ nét được ngoại hình của một nhân vật hay dựng lên được một bức tranh
phong cảnh. Nhưng tuyệt diệu nhất của nghệ thuật miêu tả trong Truyện Kiều là miêu
tả nội tâm nhân vật. Có thể nói trong văn học cổ không có một nhà thơ thứ hai nào
thành công trong việc miêu tả nội tâm của nhân vật như Nguyễn Du, nhất là nội tâm
của nhân vật Thúy Kiều. Chính nhờ chiều sâu nhân bản ở nội dung của tác phẩm lại
19
được thể hiện với nghệ thuật tuyệt vời nên Truyện Kiều của Nguyễn Du sống mãi với
thời gian.
III, Giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều
1, Khái niệm giá trị nhân đạo
Nhân đạo là những nguyên tắc đạo lí đối xử giữa con người với con người, là
lòng nhân ái, là ngợi ca những vẻ đẹp của con người. Nhân đạo là cảm thông với
những nỗi khổ đau, bất hạnh và lên tiếng bênh vực, đấu tranh đòi quyền sống, quyền
hạnh phúc con người. Nhân đạo còn là tiếng nói trân trọng, đề cao những ước mơ,
khát vọng của con người. Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của các tác phẩm chân
chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với những nỗi đau
của con người và cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống, đồng thời thể hiện sự nâng niu
trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn và niềm tin vào khả năng vươn dậy
của con người dù trong bất kì hoàn cảnh nào.
2, Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm Truyện Kiều
Mộng Liên Đường Chủ Nhân (1820) bình luận : “Lời văn tả ra hình như máu
chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai ngọn bút, nước mắt thấm
ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột. Tố
Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không
khéo, nếu không phải có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời,
thì tài nào có cái bút lực ấy”. Nếu là một tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái
tim không thổn thức trước những nỗi đắng cay của bức tranh thế sự, một lương tâm
không phẫn nộ trước những thói đời vô nhân bạc nghĩa, thì Nguyễn Du, dẫu có tài ba
lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra được nhưng âm điệu, những vần thơ khiến cho
người đọc trong cuộc nghe như khóc, như than, như uất ức, như oán hờn.Quả đúng
như vậy, Truyện Kiều không chỉ là Truyện Kiều không chỉ là vấn đề số phận con
người bị áp bức trong xã hội, mà còn là tiếng nói nhân đạo chủ nghĩa cất lên tha thiết
20
từ xã hội đó. Đó là tiếng nói của tầng lớp người đau nói của tầng lớp người đau khổ,
đòi tự do yêu đương, đòi công lý. Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du có
2 giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Truyện Kiều là bức tranh hiện
thực về một xã hội bất công, tàn bạo (nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX - cuối Lê
đầu Nguyễn), là tiếng nói của thương cảm trước số phận (thời đại) bi kịch của con
người, tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao tài
năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người như khát vọng về
quyền sống, khát vọng tự do, công lý, khát vọng tình yêu hạnh phúc... Tinh thần nhân
đạo bao la trong Truyện Kiều là sự kết tinh truyền thống kết tinh truyền thống nhân
đạo cao đẹp của dân tộc hằng bao thế kỷ. Truyện Kiều là tiếng nói thiết tha bảo vệ
quyền sống con người.
a, Truyện Kiều Là bài ca về tình yêu tự do, ước mơ công lí
* Truyện Kiều là bài ca ca ngợi tình yêu tự do :
Truyện Kiều là một pho sách của tình yêu, yêu tự nhiên, yêu nhân loại, yêu lý
tưởng. Qua Truyện Kiều, chủ nghĩa nhân đạo đặc sắc rõ rệt nhất trong văn học cổ
điển Việt Nam. Truyện Kiều có những trang trữ tình ưu tú nhất trong văn học nước ta,
là tập thơ ái tình. Trong một xã hội phong kiến, khi quả tim của đôi lứa thanh niên
luôn bị đè nén trong lễ giáo, nỗi ẩn ức của con người đã tìm được trong tập thơ
Nguyễn Du đôi lời an ủi, một tia hy vọng cho luyến ái được tự do, được giải phóng
và một dịp để nhận thức bao nhiêu nét tế nhị của quả tim con người qua các cuộc thử
thách của tình yêu.
Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải là ba nhân vật đã gắn bó với số phận và đời
sống tình cảm của Thúy Kiều. Mối tình Kim – Kiều là mối tình đầu tuyệt đẹp giữa
“Người quốc sắc, kể thiên tài” đã nặng tình thề nguyền “Trăm năm tạc một chữ đồng
đến xương”. Mối tình giữa Thức Sinh và Thúy Kiều là quan hệ “Trước còn trăng gió
sau ra đá vùng”. Từ Hải với Thúy Kiều đã gắn bó với nhau bằng mối tình tri kỷ giữa
21
“trai anh hùng, gái thuyền quyên”. Những nhân vật ấy đã được thi hào Nguyễn Du
thể hiện một cách tuyệt đẹp, làm cho cảm hứng nhân văn lung linh tỏa sáng trên
những trang thơ “Truyện Kiều”. Do đó, “Truyện Kiều” thấm đẫm tinh thần ngợi ca,
trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu đôi lứa.
- Mối tình đầu tuyệt đẹp giữa Thúy Kiều và Kim Trọng :
+ Dự lễ hội tảo mộ – đạp thanh vào một ngày mùa xuân, Thúy Kiều cùng hai
em ra về khi chiều đã tàn. Trên đường về, gặp mộ Đạm Tiên, nghe Vương Quan "dẫn
gần xa" về cuộc đời của Đạm Tiên - người ca nhi sắc tài mà mệnh bạc, Thúy Kiều đã
khóc than, đồng thời thắp hương khấn vái và làm một bài thơ tứ tuyệt để bày tỏ mối
cảm thông với số kiếp bi thương của người kỹ nữ. Đúng vào lúc ấy, Kim Trọng – bạn
học của Vương Quan xuất hiện :
“Tuyết in sắc ngựa câu dòn,
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.”
Ngay từ lần gặp đầu tiên, Kim Trọng đã
chiếm được cảm tình của Thúy Kiều :
“Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.”
Hai trái tim đa tình, đa cảm đã có một tiếng nối chung. Thế nhưng vẫn dịu dàng, e ấp
và kín đáo: “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e”. Người đẹp đã làm cho chàng Kim
choáng váng: “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê”. Trước tiếng sét ái tình, Kim Trọng vốn
hào hoa, phong nhã đã làm chủ được tâm hồn trong một cuộc tình trường: “Rốn ngồi
chẳng tiện dứt về chỉn khôn”. Cuộc chia li không thể không diễn ra. Khoảnh khắc
22
chia li của lứa đôi trong buổi đầu gặp gỡ mang theo bao tình lưu luyến. Hai vế tiểu
đối mở ra hai phía chân trời, tình lưu luyến mến thương kéo dài vô tận: “Khách đà lên
ngựa, người còn ghé theo”. “Kẻ thiên tài” đã mang theo hình bóng “người quốc sắc”
trở về nhà. Chiếc cầu và dòng nước trong veo, cành tơ liễu và bóng chiều thướt tha
như những chứng nhân cho một thiên diễm tình giữa giai nhân và tài tử. Khách văn
nhân đa tinh nào có quên được “nơi kỳ ngộ”.
+ Trở về nhà vào tối hôm ấy, với mối tình đầu ấp ủ ở trong tim, Thúy Kiều
ngắm cảnh đêm xuân trăng sáng : “Gương nga chênh chếch dòm song - Vàng gieo
ngấn nước, cây lồng bóng sân.” Trước đây, khi chưa gặp chàng Kim, nàng Kiều đã
sống yên ổn, hồn nhiên và vô tư. Bây giờ, khi đã có ý trung nhân, Kiều bắt đầu cảm
thấy cô đơn, nàng muốn vượt ra ngoài sự vây phủ hai lần của "trướng rủ" và "màn
che" để được sống chung đôi cùng Kim Trọng Sau này, khi đã "vâng tạc đá vàng thủy
chung", khi "kim thoa với khăn hồng" đã "trao tay", Thúy Kiều "lả ngọn đông lân" và
Nguyễn Du đã ghi lại cái giây phút tuyệt vời, thiêng liêng đó như sau :
“Xắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai."
+ Trong tác phẩm, đoạn trích “Thề nguyền” là đoạn trích mà tác giả dành để
nói về đêm thề nguyền của Kim Trọng và Thúy Kiều trong khung cảnh một đêm
trăng lãng mạn, đây là một chuyện tình yêu đẹp nhưng gặp nhiều trắc trở của “người
quốc sắc, kẻ thiên tài”. Kim Trọng và Thúy Kiều gặp gỡ nhau như một định mệnh se
duyên của ông trời trong buổi du xuân tảo mộ đầu xuân. Hai người một “người quốc
sắc”, một “kẻ thiên tài” đã nhanh chóng nhận ra giá trị của nhau và kết thành mối tình
tuyệt đẹp bằng những lời hứa hẹn, thề nguyền dưới đêm trăng :
“Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.”
23
Kiều yêu bằng tình cảm đầu đời mãnh liệt, trong sáng nhất của người con gái.
Tình yêu đẹp đẽ đã cho nàng sức mạnh vượt qua bóng đêm của khu vườn, bóng đêm
của định kiến đế đến với chàng Kim. Điều đáng trân trọng, ca ngợi nữa là Kiều đã
không để sự mãnh liệt trong tình yêu dẫn nàng đi quá xa, quá giới hạn cho phép. Và
cũng chính Kiều đã biện minh cho hành động của mình.
“Nàng rằng : Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Vì hoa – vì chàng Kim – vì con người văn chương nết đất, thông minh tính
trời, vào trong phong nhã, ra người hào hoa ấy đã khiến Kiều phải trổ đường tìm hoa
giữa khoảng vầng đêm trường. Có trách là trách ai kia chứ sao lại trách nàng?
Yêu tha thiết là thế nhưng Kiều vẫn rất tỉnh táo. Cuộc đời nàng bắt đầu từ
những khúc. Bạc mệnh đến lời báo mộng của Đạm Tiên rằng nàng có tên trong sổ
Đoạn trường đã khiến cho người con gái trong sáng ấy luôn thường trực nỗi ưu tư, lo
lắng. Giữa lúc tình yêu ở độ nồng thắm nhất mà nàng vẫn lo rằng: Biết đâu rồi nữa
chẳng là chiêm bao? Mọi thứ sẽ tan biến như giấc chiêm bao không thể nếu giữ lại
bởi hạnh phúc nàng có mong manh. Điều đó dường như không còn là nỗi lo lắng đơn
thuần nữa. Nó là điềm báo chăng? Cũng giống như lời tâm sự của Juliét dưới đêm
trăng đã khiến chàng Romeo hạnh phúc đến ngây ngất, hành động của Kiều khiến
Kim Trọng ngạc nhiên và mừng rỡ không kém:
“Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê
Tiếng sen, khẽ động giấc hoè
24
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.”
Bước chân người đẹp đã đánh thức giấc mộng cửa chàng Kim. Nàng như hoa
lê ngậm trăng với vẻ thanh khiết, sáng láng tuyệt vời khiến chàng Kim ngỡ thần nữ
núi Vu Giáp. Chàng không khỏi ngạc nhiên: Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Lại là giấc mộng. Dường như khi yêu, người ta nhìn thế giới bằng con mắt
mơ mộng. Kiều xuất hiện trước mặt chàng đầy bất ngờ, với vẻ xỉnh đẹp yêu kiều là
thế khiến chàng ngỡ mình đang đắm chìm trong giấc mộng đêm xuân mơ màng cũng
là điều dễ hiểu. Hết ngạc nhiên, chàng vui mừng hạnh phúc:
“Vội vàng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vừng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.”
Không khí đêm thề nguyền được gợi lên đầy ấn tượng, với ánh sáng, màu sắc,
hương thơm; với cảnh đẹp, người đẹp… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời không bao
giờ phai mờ trong tâm hồn Kiều. Biểu hiện của buổi thề nguyền là tiên thề, tóc mây,
dao vàng, vầng trăng và lời thề. Kiều trao chàng kim món tóc mây biểu hiện sự hẹn
ước. Đêm thề nguyền của hai người yêu nhau được vây gọn trong thiên nhiên đẹp đẽ,
êm đềm với sự minh chứng của vừng trăng vàng vặng giữa trời.
25