Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

BỆNH LÝ HUYẾT áp THẤP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.69 KB, 7 trang )

HUYẾT ÁP THẤP
1. ĐẠI CƯƠNG
1.1. Y học hiện đại
1.1.1. Khái niệm
Bệnh huyết áp thấp biểu hiện lâm sàng chủ yếu là chỉ số huyết áp động mạch cánh
tay thấp hơn 90/60mmHg (12/8kPa) theo phương pháp đo huyết áp thường quy ở
người trưởng thành, người già trên 65 tuổi thấy chỉ số thấp hơn 100/60mmHg
(13,3/8kPa).
1.1.2. Phân loại
Trên lâm sàng, huyết áp thấp phân thành ba loại là huyết áp thấp nguyên phát,
huyết áp thấp tư thế và huyết áp thấp thứ phát.
Huyết áp thấp nguyên phát thường gặp ở lứa tuổi 20 - 40, nữ giới cơ thể hư nhược,
có thể không thấy biểu hiện triệu chứng hoặc thấy đau đầu, chóng mặt, hoa mắt,
hay quên, mệt mỏi, tức ngực; ngoài việc đo thấy huyết áp thấp ra thì không phát
hiện các bệnh khác hoặc do ăn uống kém.
Huyết áp thấp do tư thế liên quan đến thay đổi tư thế đang nằm, ngồi đột ngột
đứng lên hoặc do tư thế đứng kéo dài làm cho huyết áp tâm thu hạ hơn 20mmHg
(2,67kPa), huyết áp tâm trương hạ hơn 10mmHg (1,33kPa).
Huyết áp thấp triệu chứng là triệu chứng giảm huyết áp của một số bệnh gây nên,
thường gặp như bệnh tim mạch, bệnh nội tiết, bệnh mạn tính gây mất máu, mất
nước và điện giải...
1.1.3. Chẩn đoán
Huyết áp thấp khi đo bằng phương pháp thông thường thấy áp lực ở động mạch
cánh tay người trưởng thành có chỉ số dưới 90/60mmHg (12/8kPa), người già trên
65 tuổi có chỉ số huyết áp dưới 100/60mmHg (13,5/8kPa).
1.1.3.1. Huyết áp thấp nguyên phát
- Có thể một số trường hợp không có biểu hiện triệu chứng.
- Một số trường hợp thấy: đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, hay quên, mệt mỏi, tức
ngực.
- Các xét nghiệm cận lâm sàng loại trừ bệnh lý thực thể, tác dụng của thuốc...
1.1.3.2. Huyết áp thấp tư thế


- Do bệnh nhân nằm, ngồi và đứng lên đột ngột hoặc do bệnh nhân phải đứng lâu
thì đo chỉ số huyết áp tâm thu giảm dưới 20mmHg (2,67kPa), huyết áp tâm trương
giảm dưới 10mmHg (1,33kPa).
- Huyết áp thấp tư thế có thể liên quan đến rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn
chức năng co giãn mạch, bệnh nội tiết, dùng thuốc giãn mạch…


1.1.3.3. Huyết áp thấp triệu chứng
Huyết áp thấp triệu chứng là hậu quả của một số bệnh tật gây nên như bệnh tim
mạch, nội tiết, bệnh gây mất máu, mất nước điện giải…
1.2. Quan điểm của y học cổ truyền
1.2.1. Khái niệm
Y học cổ truyền xếp các triệu chứng của bệnh huyết áp thấp thuộc phạm trù huyễn
vựng, quyết chứng, hư lao.
1.2.2. Nguyên nhân bệnh sinh
- Học thuyết khí huyết:
Chứng bệnh này thường xuất hiện khi rối loạn sau mắc bệnh làm tạng phủ hao tổn
hoặc do bẩm tố bất túc. Trên cơ sở đó lại lao động quá sức gây nội thương, hay do
hư lâu ngày không hồi phục làm cho nguyên khí hư nhược gây nên bệnh.
+ Bẩm tố hư nhược, hình khí bất túc, hậu thiên không được nuôi dưỡng đầy đủ làm
cho khí huyết suy yếu. Khí hư thì dương nhược, khi hư thì âm hao, khí cơ thăng
giáng thất thường làm cho thanh dương không thăng. Âm huyết bất túc làm huyết
không tràn đầy lòng mạch, khí hao tinh thiếu làm huyết mạch không đi nuôi dưỡng
được toàn thân, tâm não không được dinh dưỡng đầy đủ gây nên các chứng trên.
+ Ẩm thực không điều độ, lao động quá sức, thích ăn uống thiên lệch, uống rượu
vô độ đều gây tổn thương tâm tỳ. Tỳ vị rối loạn chức năng làm mất nguồn hóa sinh
huyết dịch, tâm huyết hao tổn làm huyết không đi nuôi dưỡng được toàn thân, khí
huyết hao tổn làm tâm não không được nuôi dưỡng gây nên chứng bệnh này.
+ Mắc bệnh nặng, bệnh lâu ngày làm tích lao thành tật hoặc do tuổi già sức yếu,
tinh khí đều hư hoặc do tác dụng phụ của thuốc hoặc do khí huyết âm dương của

tạng phủ rối loạn gây nên chứng bệnh trên.
- Học thuyết tạng phủ:
+ Tâm chủ huyết mạch, phế chủ khí. Huyết muốn vận hành trong lòng mạch phải
dựa vào sự thúc đẩy của tâm khí. Tâm phế khí hư hoặc tâm dương bất túc làm
dương khí không đầy đủ, không đưa lên trên để ôn dưỡng vùng đầu mặt, không
nuôi dưỡng được tứ chi nên xuất hiện chứng đau đầu, chóng mặt, mệt mỏi, chân
tay lạnh.
+ Tỳ chủ vận hóa và là nguồn hóa sinh khí huyết, chủ thăng thanh dương và giáng
trọc âm. Tỳ vị hư tổn, trung khí bất túc làm ảnh hưởng đến nguồn hóa sinh gây tổn
thương doanh vệ khí huyết. Tỳ chủ thăng thanh làm khí huyết thanh dương không
đưa được lên trên làm rối loạn nuôi dưỡng của não gây chóng mặt. Doanh huyết
bất túc làm vệ khí bất cố nên dễ gây ra mồ hôi.
+ Thận là tiên thiên chi bản, chủ tàng tinh sinh tủy, là gốc của nguyên âm nguyên
dương. Thận âm bất túc hoặc tuổi cao sức yếu đều có thể gây nên thận tinh hao hư,


tủy hải bất túc, não không được nuôi dưỡng đầy đủ gây nên các chứng chóng mặt,
đau đầu.
Tóm lại, chứng bệnh này là do khí huyết âm dương hư tổn, trong đó dương khí hao
hư là chính. Chứng bệnh này thuộc hư chứng, cũng có khi hư trung hiệp thực,
kiêm thêm đàm ứ; bệnh phát nặng thêm khi đói, lao động quá sức, thay đổi tư thế
đột ngột. Vị trí bệnh tại tâm, tỳ, thận.
2. BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ
2.1. Biện chứng
Biện chứng về huyết áp thấp chủ yếu liên quan đến rối loạn chức năng của các
tạng tâm, tỳ, thận, khí và huyết, âm và dương với các biểu hiện lâm sàng khác
nhau. Tùy theo việc coi trọng nguyên nhân bệnh sinh mà có các nguyên tắc điều trị
tương ứng.
Vì vậy, khi điều trị người thầy thuốc nên căn cứ vào tình trạng hư tổn của tạng
phủ, rối loạn của khí huyết và âm dương để linh hoạt áp dụng các pháp điều trị,

không nên cố định vào một pháp nào.
2.2. Nguyên tắc điều trị
- Nếu quá trình phát bệnh huyết áp thấp liên quan đến tạng tâm là chính thì pháp
điều trị thường là kiện tỳ ích khí, ôn thông tâm dương, giao thông tâm thận, tư âm
phục mạch, ích thận trấn tinh, bổ dưỡng chân âm, ôn bổ tâm thận, hóa đàm thông
mạch.
- Nếu nhấn mạnh mối quan hệ của khí với bệnh huyết áp thấp thì thường áp dụng
pháp cố khí, bổ khí, hành khí, sơ khí hóa thấp.
- Có trường phái phân huyết áp thấp thành thời kỳ cấp tính và thời kỳ hoãn giải.
Đối với thời kỳ cấp tính thì dùng các pháp điều trị là bổ khí hồi dương cố thoát,
thanh nhiệt giải độc sinh mạch; thời kỳ hoãn giải thì dùng các pháp điều trị là kiện
tỳ ích khí thăng đề, dưỡng tâm sinh huyết vinh não, tư thận trấn tinh sinh mạch, bổ
thận tráng dương ích não.
3. PHÂN THỂ ĐIỀU TRỊ
3.1. Thời kỳ cấp tính
Nguyên nhân bệnh sinh của thời kỳ này là do dương khí hư, kết hợp với lao lực
quá độ, ăn kém, thay đổi tư thế đột ngột mà phát thành bệnh. Lúc này, khí cơ nhất
thời nghịch loạn gây đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, có thể ngã, hôn mê, sắc mặt
trắng bệch, hơi thở yếu, ra mồ hôi nhiều, chân tay lạnh, chất lưỡi nhợt, mạch trầm
vi. Sau thời gian ngắn thì bệnh nhân lại tỉnh dần, sau khi tỉnh không để lại di
chứng.
- Pháp điều trị: bổ khí hồi dương.
- Bài thuốc: do bệnh cấp tính nên cần nhanh chóng điều trị.


Uống bài Độc sâm thang, ngày 01 thang.
Tham khảo thêm về điều trị: Hiện nay, Trung Quốc dùng thuốc tiêm tĩnh mạch
chậm như dịch tiêm Sinh mạch (nhân sâm, mạch môn, ngũ vị tử) 10 - 20ml, dịch
tiêm Sâm mạch (nhân sâm, mạch môn) 20 - 30ml.
Nhĩ châm: điểm dưới vỏ, điểm thượng thận, điểm nội tiết, giao cảm, tâm, phế,

điểm thăng áp.
Cứu: cứu cách tỏi ở rốn hoặc cho bột hồ tiêu vào rốn rồi dùng cao thuốc bít lại và
cứu.
3.2. Thời kỳ ổn định
3.2.1. Thể tâm tỳ lưỡng hư
- Lâm sàng: sắc mặt trắng, chóng mặt, đau đầu, hoa mắt, hụt hơi, ngại nói, mệt
mỏi, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế nhược.
- Pháp điều trị: bổ ích tâm tỳ.
- Bài thuốc: Quy tỳ thang hoặc Bổ trung ích khí thang.
Bài Quy tỳ thang:
Bạch truật
15g
Đương quy 12g Phục thần
10g
Hoàng kỳ
20g
Long nhãn 12g Viễn chí
06g
Táo nhân
10g
Mộc hương 06g Cam thảo
06g
Nhân sâm
03g
Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.
Trong bài thuốc này, nhân sâm có tác dụng “bổ ngũ tạng, an tinh thần, định hồn
phách” để bổ khí sinh huyết, dưỡng tâm ích tỳ. Long nhãn có tác dụng bổ ích tâm
tỳ, dưỡng huyết an thần. Hoàng kỳ, bạch truật giúp nhân sâm ích khí kiện tỳ.
Đương quy giúp long nhãn dưỡng huyết bổ tâm. Phục thần, viễn chí, táo nhân có
tác dụng ninh tâm an thần. Mộc hương có tác dụng lý khí tỉnh tỳ, phối hợp với

thuốc bổ khí dưỡng huyết làm cho bổ mà không nê trệ ở vị. Cam thảo có tác dụng
ích khí bổ trung và điều hòa các vị thuốc. Khi sắc thuốc cho thêm sinh khương, đại
táo để điều hòa tỳ vị và giúp cho tăng cường công năng tiêu hóa, hấp thu.
Bài Bổ trung ích khí thang:
Hoàng kỳ
20g
Cam thảo
06g
Nhân sâm
06g
Thăng ma
06g
Sài hồ
12g
Trần bì
06g
Đương quy
12g
Bạch truật
15g
Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.
Trong bài thuốc này thì hoàng kỳ nhập kinh tỳ, phế; có tác dụng bổ trung ích khí
để thăng đề dương khí, bổ phế vệ để cố biểu nên có tác dụng cầm mồ hôi (chỉ hãn).
Nhân sâm, bạch truật và cam thảo đều có tính vị ngọt ấm và có tác dụng bổ trung
khí, phối hợp với hoàng kỳ để tăng cường tác dụng bổ khí kiện tỳ. Khí hư lâu ngày


thường gây tổn thương đến huyết cho nên phối hợp với đương quy để dưỡng huyết
hòa doanh. Thanh dương không được thăng làm trọc âm không giáng nên phối hợp
với trần bì để hành khí, giúp cho khôi phục thăng giáng làm cho chất thanh trọc

được vận hành đúng đường, đồng thời còn có tác dụng lý khí hòa vị làm cho thuốc
bổ mà không trệ. Sài hồ, thăng ma là vị thuốc có tính nhẹ, có tác dụng thăng tán
nên khi phối hợp các vị thuốc ích khí sẽ có tác dụng thăng đề trung khí hạ hãm.
Cam thảo còn có tác dụng để điều hòa vị thuốc.
Nếu hồi hộp, trống ngực, ngủ kém thì gia toan táo nhân 10g, bá tử nhân 12g.
Nếu chóng mặt nhiều thì gia bạch thược 20g, thiên ma 12g.
3.2.2. Thể khí âm lưỡng hư
- Lâm sàng: đau đầu, chóng mặt, mệt mỏi, khó thở nhẹ, hồi hộp trống ngực, miệng
khô, chất lưỡi nhợt hoặc hồng, rêu lưỡi ít, mạch trầm tế.
- Pháp điều trị: ích khí dưỡng âm.
- Bài thuốc: Sinh mạch tán.
Nhân sâm 09g
Mạch môn 12g
Ngũ vị tử 06g
Bài thuốc trên vận dụng liều thích hợp để sắc uống, ngày 01 thang.
Trong bài thuốc này thì nhân sâm có tác dụng đại bổ nguyên khí, ích phế sinh tân,
cố thoát chỉ hãn; mạch môn có tác dụng tư âm nhuận táo, hiệp trợ cho nhân sâm,
khí âm cùng bổ; ngũ vị tử có tác dụng ích khí sinh tân, liễm âm chỉ hãn. Khi dùng
ngũ vị tử phối hợp nhân sâm và mạch môn là để ngăn ngừa khí tân ngoại tiết và để
khôi phục thương tổn của khí âm.
Nếu bệnh nhân thiên về khí hư thì gia hoàng kỳ 20 - 30g, bạch truật 15 - 20g.
Nếu thiên về âm hư thì phối hợp với bài Nhị chí hoàn (Phù thọ tinh phương):
Đông thanh tử
Hạn liên thảo
Các vị thuốc trên liều bằng nhau, tán nhỏ rồi hoàn mật ong, mỗi lần uống 09g.
Trong bài thuốc này thì đông thanh tử là quả cây đông thanh (ilex chinensis sims)
có tác dụng trừ phong, bổ hư.
Bài thuốc này có tác dụng bổ can ích thận, tư âm chỉ huyết.
3.2.3. Thể thận dương hao hư
- Lâm sàng: đau đầu, chóng mặt, ù tai, hay quên, đau lưng, mỏi gối, sợ lạnh, chân

và tay lạnh, tiểu đêm nhiều lần, chất lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng, mạch trầm tế.
- Pháp điều trị: ôn thận trấn tinh.
- Bài thuốc: Hữu quy hoàn gia vị.
Thục địa
240g
Hoài sơn
120g
Sơn thù
90g
Kỷ tử
120g
Lộc giác
120g
Thỏ ty tử
120g
Đỗ trọng
120g
Đương quy
90g
Nhục quế
60g
Phụ tử chế
60g


Nấu thục địa thành cao lỏng, sau đó tán nhỏ các vị thuốc còn lại, trộn cùng với mật
ong làm viên hoàn, mỗi lần uống 06 - 09g, ngày 02 lần.
Trong bài thuốc này, phụ tử và nhục quế nhập kinh thận, có tác dụng ôn tráng
nguyên dương, bổ mệnh môn hỏa. Lộc giác có vị ngọt mặn hơi ấm, bổ thận ôn
dương, ích tinh dưỡng huyết. Ba vị thuốc này phối hợp với nhau để bồi bổ nguyên

dương của thận. Thục địa, sơn thù, kỷ tử, hoài sơn đều là các vị thuốc có tính vị
ngọt nhuận; tác dụng tư âm bổ thận, dưỡng can bổ tỳ, trấn tinh bổ tủy. Thỏ ty tử và
đỗ trọng có tác dụng bổ can thận, cường cân cốt. Đương quy có tác dụng dưỡng
huyết hòa huyết và giúp lộc giác bổ dưỡng tinh huyết. Bài thuốc này được cấu tạo
từ bài Thận khí hoàn nhưng bỏ đi ba vị thuốc có tác dụng tả (trạch tả, đan bì, bạch
linh), đồng thời gia các vị thuốc ôn thận ích tinh để tạo nên bài thuốc chỉ có bổ mà
không có tả và lấy ích thận tráng dương để mà trấn tinh ôn dương. Bài thuốc này
dùng pháp điều trị là bổ ích nguồn của hỏa để bồi nguyên dương của thận hỏa (hữu
thận) nên gọi là Hữu quy hoàn.
Nếu bệnh nhân thấy sợ lạnh, chân và tay lạnh thì gia ba kích 12g, lộc giác 12g, tử
hà xa 12g.
Nếu thấy mạch trì thì gia can khương 08g, tế tân 06g, ma hoàng 08g.
Nếu chất lưỡi tím hoặc có ban ứ huyết thì gia xuyên khung 12g, đương quy 12g,
hồng hoa 10g để tăng cường hoạt huyết khứ ứ.
4. KẾT LUẬN
- Y học cổ truyền xếp các triệu chứng của bệnh huyết áp thấp thuộc phạm trù
huyễn vựng, quyết chứng, hư lao.
- Nguyên nhân gây chứng huyết áp thấp chủ yếu liên quan đến cơ thể vốn dĩ hư
yếu hay do ăn uống không điều độ, mắc bệnh mãn tính lâu ngày, tác dụng phụ của
thuốc... gây nên.
- Cơ chế bệnh sinh của chứng huyết áp thấp liên quan mật thiết đến rối loạn công
năng của các tạng tâm, tỳ, thận. Bản chất bệnh thuộc hư chứng, kết hợp với các
nhân tố đàm trệ và huyết ứ.
- Trong điều trị, người thầy thuốc phải căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng để tiến
hành biện chứng luận trị, lựa chọn pháp điều trị và bài thuốc cho phù hợp; phối
hợp với các biện pháp không dùng thuốc như châm, cứu hoặc điều chỉnh chế độ ăn
uống, chế độ luyện tập khí công dưỡng sinh.
Chú ý: phối hợp y học hiện đại, tìm rõ nguyên nhân gây huyết áp thấp để kết hợp
dùng thuốc và xử lý cấp cứu khi cần thiết.





Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×