Tải bản đầy đủ (.ppt) (55 trang)

bài 36 tình hình văn hóa thế kỉ 16 - 18

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.99 MB, 55 trang )


TÌNH HÌNH VĂN HÓA, TƯ TƯỞNG
TÌNH HÌNH VĂN HÓA, TƯ TƯỞNG
THẾ KỈ XVI- ĐẦU THẾ KỈ XVIII
THẾ KỈ XVI- ĐẦU THẾ KỈ XVIII
Ş 36
Ş 36
Tổ 4 10AV

GIỚI THIỆU

Ở các thế kỉ XVI – XVIII, đời sống
văn hoá, tư tưởng ở nước ta có nhiều
chuyển biến. Nho giáo tuy vẫn giữ vị
trí thống trị trong xã hội nhưng không
còn giữ vai trò độc tôn, Phật giáo và
Đạo giáo có phần được phục hồi.
Thiên chúa giáo được du nhập và
truyền bá, chữ Quốc ngữ xuất hiện,
các tín ngưỡng dân gian, văn hoá,
văn học, nghệ thuật dân gian phát
triển mạnh.

BÀI HỌC GỒM:
1. Tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng
2. Giáo dục và thi cử
3. Văn học và nghệ thuật
4. Khoa học- kỹ thuật

1. Tư tưởng, tôn giáo,
tín ngưỡng


- Nho giáo: nhìn
chung vẫn còn giữ
được địa vị thống
trị trong xã hội.


-
Phật giáo, đạo giáo và
tín ngưỡng dân gian: có
điều kiện phục hồi và
phát triển. Nhiều chùa
chiền, đền miếu, am,
quán được khôi phục và
xây mới.

Chùa Bút Tháp

Chùa Thiên Mụ

Chùa
chuông

Thiên chúa giáo:
-
Từ năm 1533, một giáo sĩ đạo
Thiên Chúa vào truyền đạo ở
khu vực duyên hải tỉnh Nam
Định.

-

Thế kỉ XVII, đẩy mạnh truyền
bá đạo Thiên chúa.

-
Chúa Nguyễn và chúa Trịnh ban
đầu tỏ ra thân thiện với các
nhà truyền giáo nhưng sau thì
thi hành những chính sách cấm
đạo.

Chữ Quốc ngữ:
- Các giáo sĩ phương Tây vào nước
ta truyền đạo đã học tiếng Việt
để giảng đạo và dùng chữ cái La-
tinh ghi âm tiếng Việt.
-
Cho đến giữa thế kỉ XVII, với sự
xuất hiện của cuốn từ điển Việt -
Bồ - La-tinh và cuốn Giáo lí
cương yếu bằng tiếng Việt, có thể
coi chữ Quốc ngữ đã ra đời.
-
Mãi đến đầu thế kỉ XX, chữ Quốc
ngữ mới chính thức trở thành chữ
viết của dân tộc Việt Nam.

Alexandre de Rhodes


Từ điển Việt - Bồ - La-tinh


Câu hỏi củng cố
1.Những biểu hiện nào chứng tỏ trong
các thế kỉ XVI – XVIII, Phật giáo, Đạo
giáo và các tín ngưỡng dân gian khác
được phục hồi và phát triển?
2.Thiên Chúa giáo bắt đầu được du nhập
vào nước ta khi nào và ở đâu?
3.Cùng với sự du nhập của Thiên Chúa
giáo là sự ra đời của chữ Quốc ngữ, vì
sao?

2.Giáo dục và thi cử

Từ thế kỉ XVI trở đi, mặc dù
tình hình chính trị không ổn
định, nhưng việc giáo dục và
khoa cử theo hệ thống Nho
giáo vẫn được duy trì tương
đối liên tục.


1529, Mạc Đăng Dung đã mở
ngay khoa thi Hội lấy đỗ 27
tiến sĩ.


Từ đó về sau, cứ ba năm, nhà
Mạc mở một khoa thi lấy đỗ tổng
cộng 385 tiến sĩ, trong đó có

Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1491 – 1585, tức Trạng Trình) và
bà Nguyễn Thị Duệ - nữ tiến sĩ đầu
tiên và duy nhất trong lịch sử
khoa cử Nho học Việt Nam.



Triều Lê trung hưng tiếp nối
truyền thống của nhà Lê sơ
trước đây, bên cạnh hình thức
thi cử chính quy, còn tổ chức
các kì thi chế khoa, khoa sĩ
vọng lấy đỗ 851 tiến sĩ. Trong
số những người đỗ đạt cao, có
nhiều người tài giỏi và có cống
hiến lớn cho đất nước. Tuy vậy,
nội dung giáo dục ngày càng
khuôn sáo, việc tổ chức thi cử
nặng về hình thức và gian lận
công khai nên chất lượng giáo
dục ngày một suy giảm.


Ở Đàng Trong, hình thức
khoa cử xuất hiện muộn và
không được chú trọng như
Đàng Ngoài.

Họ Nguyễn quan tâm hơn

đến kiến thức thực tế và
tuyển dụng quan lại chủ
yếu thông qua hình thức
tiến cử.

Quan lại xưa

×